CHƯƠNG X
- 1. Những nhận thức sai lầm thuộc phạm vi Hành ấm
2. Những nhận thức sai lầm thuộc phạm vi Thức ấm
3. Phần lưu thông
A Nan! Thiền giả tu tập tam ma đề khi
tưởng ấm đã hết thì những tư tưởng bình nhật của người đó đã diệt hết;
lúc ngủ, khi thức luôn luôn được giác chiếu rỗng lặng như hư không trong
sạch. Những mộng tưởng thô trọng không còn; Nhìn xem cảnh vật, núi,
sông, đất liền như một tấm gương trong sáng, đến đi không vướng mắc, qua
lại bặt dấu chân, chỉ còn một tánh tinh chân tịch tĩnh. Căn nguyên của
mọi hiện tượng sanh diệt từ đây phô bày trước mắt. Bấy giờ thiền giả
thấy rõ 12 loại chúng sanh trong thế giới mười phương; dù chưa thấu suốt
manh mối của mỗi chúng sanh, nhưng đã thấy được cơ sở sanh diệt của các
chủng loại như bóng dã mã nhấp nhóng hiện ra như mờ như tỏ, chưa xác
định rõ ràng. Đó là phạm vi hành ấm.
Chừng nào những hình bóng lăng xăng như bóng dã mã kia được đứng lặng
hoàn toàn như mặt nước ao thì đó là biểu hiện hành ấm đã vượt qua rồi,
thiền giả lúc bấy giờ từ bỏ hết chúng sanh được.
A Nan! Ông nên biết, thiền giả có được sự hiểu biết đúng đắn, chánh
tâm tỉnh trụ trong xa ma tha tam ma bát đề thì mười loại thiên ma thuộc
thức ấm kia không còn có cơ hội khuấy phá được nữa. Nhưng trong lúc tư
duy nghiên cứu nguồn gốc sinh loại, nghiên cứu đến tột cùng, bấy giờ đầu
mối sanh diệt chuyển động lăng xăng u ẩn của sự vật hiện tượng kia, rồi
móng tâm cân nhắc so đo và cuối cùng chấp cho đó tánh bản nguyên của
vạn pháp. Do đó, họ sa vào chỗ nhận thức sai lầm, chủ trương: "Vô nhân
luận" với hai luận cứ sau.
Một là, theo sự thấy biết của họ thì tất cả chúng sanh không có
nguyên nhân, tự nó sanh ra kể từ tám muôn kiếp trở lại đây mà thôi. Tùy
theo dòng nghiệp báo, có thể chết đây sanh kia xoay dần trong đó, ngoài
tám muôn kiếp thì vạn vật "vô nhân".
Hai là, họ cho rằng tất cả chúng sanh không có nguyên nhân cuối cùng.
Theo chỗ thấy biết của họ thì người sanh người, chim sanh chim, quạ thì
đen, hạc thì trắng, loài người đứng thẳng sống, loài thú lưng nằm
ngang, màu trắng của hạc không do tẩy, màu đen của quạ không do nhuộm;
suốt tám muôn kiếp vẫn không hề dời đổi; đời nầy đời khác vẫn như vậy,
xưa nay cứ theo qui luật cũ mà lập đi lập lại. Do đó, họ cho rằng họ
không hề thấy có gì là Bồ đề, thì làm sao có vấn đề thành đạo Bồ đề, có
chứng có ngộ. Quả là mọi sự vật "Vô nhân".
Do những kiến chấp như thế bỏ mất tánh chánh biến tri, lạc vào tà
giáo ngoại đạo, đốt cháy hạt giống Bồ đề. Đó là bọn ngoại đạo thứ nhất,
chủ trương "VÔ NHÂN LUẬN".
A Nan! Lại có hạng thiền giả trụ trong tam ma đề, tâm đứng lặng rỗng
rang, chuyên chú tìm xét nguồn gốc các loại chúng sanh, họ thấy cái tánh
chuyển động luôn luôn không ngừng, bèn khởi sanh ý niệm chấp "thường",
họ chủ trương cái thuyết vạn vật "vĩnh viễn thường" của bốn luận cứ:
Một là: Tâm và cảnh vốn không có nguồn gốc. Tuy nhiên tất cả thập
phương chúng sanh, sanh ra và diệt đi, sanh diệt diệt sanh trong vòng
hai muôn kiếp thì không hề tan mất. Do đó họ cho sinh loại là "thường".
Hai là: Họ thấy tứ đại là thường còn, thập phương chúng sanh dù có
sinh có diệt, tuy nhiên trong phạm vi thời gian bốn muôn kiếp xoay dần
sanh diệt nhưng bản thể không hề tan mất. Vì vậy, họ chủ trương trong
sinh loại là "thường".
Ba là: Họ cho tứ đại thường còn, trong phạm vi bốn muôn kiếp, thập
phương chúng sanh dù có sinh diệt, nhưng bản thể thường còn không hề tan
mất. Do vậy, họ chủ trương vạn vật là "thường".
Bốn là: Họ xét tội bản lai của sáu căn, của sự chấp thọ, của ý thức
của mạt na thức, A lại da thức tánh vẫn thường. Vì vậy, trong phạm vi
tám muôn kiếp, tất cả chúng sanh trong thập phương dù có sanh có diệt,
nhưng bản thể vẫn thường. Vì vậy, họ chủ trương vạn vật là "thường".
Do những chấp mắc sai lầm hạn hẹp trong phạm vi thấy biết của họ, mà
bỏ chánh biến tri, lạc vào ngoại đạo, mai một tánh Bồ đề. Đó là loại
ngoại đạo thứ hai chủ trương "Viên thường luận".
Lại có thiền giả trụ trong tam ma đề, chánh tâm đứng lặng, tìm xét
nguồn cội các loại chúng sanh và cái tánh chuyển động kín nhiệm liên tục
của sự vật, họ cân nhắc so đo và sanh kiến chấp giữa mình và cái khác.
Do kiến chấp sai lầm điên đảo, họ chủ trương: "một phần thường, một phần
vô thường" qua bốn luận cứ!
Một là: Họ quán cái tâm của họ là tâm nhiệm mầu sáng suốt đứng lặng
cùng khắp mười phương thế giới; họ cho đó là cái thần ngã là cái "ta"
cứu kính. Do đó họ chấp có cái ta nhiệm mầu sáng suốt đứng lặng cùng
khắp mười phương không lay động. Còn tất cả chúng sanh thì ở trong tâm
ta tự sanh tự chết. Vậy tâm tánh của "ta" là thường còn những bọn chúng
sanh kia thì là vô thường.
Hai là: Hạng thiền giả không quán xét cái tâm mà chỉ quán xét cõi
nước trong hằng sa quốc độ. Họ thấy có chỗ bị thiên tai địa chấn hủy
hoại, họ kết luận đó là tánh rốt ráo vô thường; còn những chỗ không bị
kiếp tai phá hoại thì họ bảo đó rốt ráo thường.
Ba là: Hạng quán xét cái tâm, cho rằng tâm mình tinh vi nhỏ nhiệm
giống như vi trần lưu chuyển trong mười phương mà không bị biến chất,
lại có thể gá hợp với thân, sanh rồi diệt, diệt lại sanh mà vẫn thường
còn. Đó là tánh thường; còn sự sống chết diệt sanh từ cái tánh ấy sanh
ra thì gọi là vô thường.
Bốn là: Hạng thiền giả họ biết được cái lúc tưởng ấm của họ hết và
đồng thời họ cũng biết họ còn đang ở trong phạm vi của hành ấm. Do đó họ
chấp cho hành ấm là tánh thường, còn sắc, thọ, tưởng ấm đã hết, họ cho
đó vô thường.
Chủ trương "một phần thường, một phần vô thường: như thế phát xuất từ
hiểu biết hạn hẹp đối với chân lý, cho nên sai lầm, vì cái nhận thức
chân lý của họ chỉ ngang tầm cỡ đó chưa vượt lên được nữa, họ lầm mất
tánh Bồ đề. Đó là hạng người đạo thứ ba, lập luận: "một phần thường, một
phần vô thường".
Lại có hạng thiền giả trong tam ma đề nghiền ngẫm cội nguồn hiện
tượng vạn hữu, bỗng sanh tâm chấp mắc về phạm vi. Bằng vào sự hiểu biết
của mình họ dựng lên thuyết: Hữu biên vô biên luận, qua bốn luận cứ như
sau:
Một là, Họ cho là cội gốc sanh tử thì lưu chuyển tương tục không
ngừng, rồi chấp quá khứ và vị lai là hữu biên. Còn cái tâm chịu sự sanh
tử tương tục là vô biên.
Hai là: Theo họ, trong tám muôn kiếp trở lại, thấy có chúng sanh, còn
trước tám muôn kiếp thì bằng bặc không nghe thấy gì. Họ cho rằng chỗ
không nghe thấy là vô biên; còn chỗ có chúng sanh là hữu biên.
Ba là: Họ cho rằng họ có cái biết cùng khắp, họ được tánh vô biên;
các người khác sanh ra trong cái biết của họ nên chỉ có tánh hữu biên.
Bốn là: Hạng thiền giả đã diệt hết hành ấm, theo tri kiến của họ, thì
thân của chúng sanh có một nửa sanh, một nửa diệt, còn các hiện tượng
sự vật của thế gian có một nửa hữu biên, một nửa vô biên.
Do sự chấp, mắc sai lầm như thế rơi vào ngoại đạo, lầm mất tánh Bồ
đề. Đó là loại ngoại đạo thứ tư chủ trương: Hữu biên vô biên luận.
Lại có thiền giả trụ tam ma đề trong lúc nghiền ngẫm cội gốc sanh
diệt của hiện tượng vạn hữu, bỗng sanh kiến giải sai lầm chấp mắc điên
đảo. Họ dựng luận thuyết "Bất tử càn loạn" với bốn luận cứ:
Một là: Hạng thiền giả trong lúc quan sát về cội nguồn biến hóa, họ
thấy: cái có dời đổi thì gọi là biến; cái gì tương tục thì gọi là
thường; chỗ thấy được thì gọi là sanh; chỗ không thấy được gọi là diệt;
chỗ tương tục gọi là thêm; chỗ có tiếp giáp của sự tương tục gọi là bớt;
chỉ sự vật sanh ra gọi là có; chỗ tương đối không có gọi là không. Do
kiến chấp như vậy, cho nên có ai cầu pháp hỏi nghĩa lý về đạo, họ đáp:
Ta nay cũng sanh, cũng diệt; cũng có mà cũng không; cũng thêm và cũng
bớt. Lúc nào cũng nói lộn quanh khiến cho người nghe không sao hiểu
được. Rồi lầm tưởng là mình thấp thỏi còn vị ấy thuyết pháp quá "cao
siêu"!
Hai là: Hạng thiền giả chuyên chú xa ma tha tam ma bát đề, nhưng chưa
rõ thấu chân lý "không"; Họ cho rằng nhân cái không mà được chứng đạo,
họ chỉ đáp bằng một chữ "không". Ngoài tiếng không, họ chẳng biết gì
nữa.
Ba là: Hạng thiền giả sai lầm về chân lý "có". Họ cho tất cả đều có
và do nhận biết vạn pháp là có mà được chứng đạo. Vì vậy, nếu có ai hỏi
đến đạo, họ chỉ đáp một chữ "có". Ngoài chữ có, không còn nói được gì
nữa.
Bốn là: Hạng thiền giả chấp ngoại cảnh vừa có vừa không. Vì hoang
mang trước cảnh, nên tâm cũng rối loạn. Nếu có ai đến hỏi về đạo lý, họ
đáp rằng: vạn vật "cũng có tức là cũng không; trong cái cũng không,
không phải là cũng có". Chúng nói một cách rối loạn càn bậy không sao
đúc kết được vấn đề. Do những thứ chấp mắc rối loạn càn bậy như thế mà
lạc vào ngoại đạo, lầm mất tánh Bồ đề. Đó là loại ngoại đạo thứ năm, chủ
trương lập ra bốn thứ lý luận "Xà quần" gọi là: "Càn loạn bất tử luận"
Lại có hạng thiền giả chuyên chú Xa ma tha tam ma bát đề, chánh tâm
đứng lặng trong lúc tư duy tìm xét nguồn gốc các sinh loại, bỗng tâm
chấp mắc khởi lên, chủ trương cho rằng có dòng sanh diệt vô tận cho nên
sau khi con người chết còn có cái tướng diệt sanh vô tận. Họ mê chấp
kiến giải sai lầm của mình: Sắc là ta; ta là sắc; Sắc thuộc về ta; ta ở
trong sắc. Đối với thọ, tưởng, hành cũng theo lối lý luận như vậy thành
ra 16 tướng. Dó chấp mắc như vậy, lạc vào ngoại đạo, lầm mất tánh Bồ đề.
Đó là loại ngoại đạo thứ sáu chủ trương "Ngũ ấm sau khi chết còn có
tướng".
Lại có hạng thiền giả an trú trong tam ma đề, đứng lặng vọng tưởng,
tìm xét nguồn gốc sinh loại, bỗng sa vào điên đảo khởi chấp: Sau khi
chết không có tướng. Họ cho rằng sau khi chết sắc chẳng còn tồn tại,
thọ, tưởng không còn chỗ để tác động gá nương. Vì vậy, sau khi chết
không còn có tướng cho đến nhân quả cũng không, Niết bàn cũng không, chỉ
có danh tự, kiến chấp như vậy, lạc vào ngoại đạo, lầm mất tánh Bồ đề.
Đó là loại ngoại đạo thứ bảy lập luận: Sau khi chết không còn tướng.
Lại có hạng thiền giả sai lạc vào tà chấp: cho rằng cái có và cái
không tự nó đánh đổ nhau. Do vậy, họ lập luận: Sau khi chết không phải
có, không phải không. Kiến chấp sai lầm đó khiến cho người tu thiền mờ
tịt đường, sau rơi vào ngoại đạo, lầm mất tánh Bồ đề. Ấy gọi là loại
ngoại đạo thứ tám lập luận: Sau khi chết không phải có, không phải
không.
Lại có hạng thiền giả tu tập tam ma đề bỗng khởi sanh kiến chấp đoạn
diệt. Họ cho rằng: hết thân nầy là diệt; ngũ dục là diệt, hết khổ là
diệt; tột vui là diệt, xả hết là diệt; chấp xoay dần bảy cách đoạn diệt.
Do kiến chấp sai lầm, lạc vào ngoại đạo, lầm mất tánh Bồ đề. Đó là loại
ngoại đạo thứ chín, lập luận: Sau khi chết là dứt hẳn.
Lại có hạng thiền giả trong tam ma đề chánh tâm đứng lặng, trong lúc
tìm xét nguồn gốc sinh loại đến chỗ u ẩn, bỗng sanh tâm chấp: "Sau nầy
còn có". Dựa vào kiến giải đó, họ chủ trương: Niết bàn luận có năm thứ:
Một, Dục giới là Niết bàn, vì qua sự thấy biết của họ Dục giới vẫn có
những sự trong sáng đáng yêu và Dục giới là cơ sở chuyển sanh tử ra
Niết bàn.
Hai, Sơ thiền là Niết bàn, vì cõi Sơ thiền không còn ưu thọ.
Ba, Nhị thiền là Niết bàn, vì cõi Nhị thiền không còn khổ thọ.
Bốn, Tam thiền là Niết bàn, vì cõi Tam thiền rất vui đẹp.
Năm, Tứ thiền là Niết bàn, vì Tứ thiền đã dứt hết khổ và vui. Họ cho rằng đạt đến cõi Tứ thiền không còn sinh tử luân hồi.
Những cõi trời đó được quả báo an lạc có mức độ, là phước báo hữu
lậu, chưa phải là cảnh giới thù thắng thanh tịnh của bậc Thánh hiền. Vì
lầm chấp năm thứ Niết bàn phi chân lý nên sa vào ngoại đạo, sai mất tánh
Bồ đề. Đó là loại ngoại đạo thứ mười, lập luận điên đảo, chấp trong ngũ
ấm có năm thứ Niết bàn.
A Nan! Mười thứ hiểu biết điên rồ trong Thiền na như vậy là do hành
ấm và dụng công chuyển hóa giữa vọng và chân giao tranh nhau mà sanh ra;
chúng sanh mê muội không biết, gặp những cảnh như vậy cho rằng mình
được chứng đắc Thánh quả sanh tâm ngạo mạn, khoác lác, khoe khoan với ý
đồ mê hoặc, bịp bợm người mộ đạo để hổng tom góp lợi dưỡng thỏa mãn hư
danh. Hạng ngu si như thế chỉ gạt được những người có tâm mộ đạo mà
thiếu học đạo thôi. Với nhãn quang của người trí tuệ tham cứu tinh
thường tam tạng giáo điển, nghe qua đã biết cửa địa ngục mở rộng để chờ
đón bọn vô minh hắc ám chỉ biết có lợi dưỡng nầy.
Sau Như Lai diệt độ, A Nan! các ông là những trưởng tử Như Lai phải
truyền bá chánh pháp, khiến cho những người ham mộ Bồ đề, Niết bàn hiểu
rõ những sai trái nói trên. Có như vậy mới thẳng tiến trên đường Vô
thượng Chánh đẳng Chánh giác mà không sợ lạc lầm.
Phật bảo! Nầy A Nan! Người chuyên tu xa ma tha tam ma bát đề, đến khi
Hành ấm hết rồi thì những nguyên nhân luân hồi từ nghiệp thô đến tế gần
như bặc hẳn; với quả giải thoát giác ngộ người nầy bước đến chẳng còn
xa, ví như gà gáy canh năm, nhìn về phương đông đã có hừng sáng ở chân
trời. Ở giai đoạn nầy, thiền giả sáu căn rỗng lặng không còn rong ruỗi
trần cảnh, nội tâm ngoại thân đều trong sáng, thể nhập tánh vô sở nhập.
Thấu suốt nguồn gốc của sinh loại. Thấy biết được tánh tổng quát của thế
giới, chỉ còn phần tinh vi u uẩn chưa tận tường. Đó là trạng thái của
thiền giả đang còn ở trong phạm vi của thức ấm.
Cho đến khi sáu căn viên dung, hổ dụng, bấy giờ thân tâm và mười
phương thế giới trong sáng như ngọc lưu ly. Đó là hiện tượng biểu hiện
của thiền giả đã hết thức ấm và vượt qua mạng trược. Bấy giờ tìm xét lại
nguồn gốc của mọi mê lầm thì tất cả chỉ là vọng tưởng điên đảo như
huyễn hóa chẳng có gì.
A Nan! Thiền giả hết thức ấm vượt qua mạng trược, đã diệt được cái
quan niệm sanh diệt nhưng chưa đạt đến cái vui tịch diệt, lục căn của
người nầy thông suốt, cái hiểu biết của họ dung lặng rỗng thông cùng 10
loài chúng sanh trong mười phương. Dựa trên sự hiểu biết rộng rãi bao
quát đó, họ lập ra cái luận thuyết gọi là "nhân chân thường" và chấp mắc
nơi đó nên trở thành bè bạn của Sa tỳ Ca la chấp có Minh đế, mê muội Bồ
đề Phật, bỏ mất chánh tri kiến. Đó là bọn ngoại đạo thứ nhất chủ
trương: có tâm năng đắc và có cái sở qui.
Lại có thiền giả ở trong tam ma đề, tâm tánh sáng suốt rỗng rang gần
đến chỗ viên mãn, bỗng cảm thấy cảnh đối tượng sở qui mà mình cần phải
nương tựa. Rồi tự nghĩ rằng: thân tâm mình từ chỗ kia sanh ra, thập
phương hư không và thế giới đều từ nơi thân của mình mà sanh ra, do vậy
sa vào cái chấp "năng phi năng", thành bạn bè với bọn Ma hê thủ la, hiện
ra thân vô biên, mê muội Bồ đề Phật, bỏ mất chánh tri kiến, đó là loại
ngoại đạo thứ hai, lập cái "tâm năng vi" thành cái quả "năng sự" trái
ngược Bồ đề Niết bàn, sanh ra giống Đại mạn thiên, chấp có "cái ta" khắp
cùng pháp giới.
Lại có thiền giả, trong tam ma bát đề chuyên chú bỗng thấy có chỗ "sở
qui", rồi nghĩ thân tâm mình từ chỗ kia sanh ra và cả thập phương hư
không cũng từ chỗ kia sanh ra; rồi nhận "cái chỗ kia" ấy là cái thể chân
thường không sanh diệt lại chấp cho là thường trú, chẳng những lầm tánh
bất sanh mà cũng lầm cả tánh sanh diệt; cho nên bị rơi vào cái chấp
"thường phi thường", thành bè bạn những kẻ chấp có Tự tại thiên, mê muội
Bồ đề Phật, bỏ mất chánh tri kiến. Đó là loại ngoại đạo thứ ba, lập cái
tâm nhân y thành cái quả vọng kế, trái với cái nhân Bồ đề Niết bàn sanh
ra giống điên đảo.
Lại có thiền giả, định tâm trong sáng, an trú tam ma đề bỗng nảy sinh
sự hiểu biết khắp cùng và cho rằng: cỏ cây trong vũ trụ cũng vẫn là hữu
tình, giống như con người không khác. Rằng cỏ cây làm người, người làm
cỏ cây; thế là bị rơi vào cái chấp "tri vô tri" thành bè bạn với bọn Ba
tra tiển ni chấp tất cả đều có hay biết, mê muội Bồ đề Phật. Đó là bọn
ngoại đạo thứ tư, chấp cái tâm "viên tri", thành cái quả thố mậu, trái
tánh Niết bàn sanh ra giống Đảo tri.
Lại có thiền giả chuyên chú tam ma đề, thân tâm thanh tịnh các căn có
thể dùng thay thế cho nhau (lục căn hỗ dụng) bỗng dưng phát sanh cái
ánh sáng của hỏa đại, ưa thích cái tánh thanh tịnh cái tánh sáng của hỏa
đại, ưa thích cái tánh thanh tịnh của thủy đại, yêu quí cái chu lưu của
phong đại, nghiền ngẫm cái thành tựu của địa đại rồi sùng phụng mỗi
thứ, nhận tứ đại kia là bản thân và cho đó là tánh thường trụ, rơi vào
cái chấp "sinh vô sinh", thành bè bạn của bọn Ca diếp ba và bọn Bà la
môn đem hết thân tâm thờ lửa, thờ nước để cầu ra khỏi sanh tử. Đó là
hàng thiền giả mê muội chánh tri kiến, lầm lạc đường Bồ đề, thuộc hàng
ngoại đạo thứ năm, lập cái nhân hư vọng cầu cái quả giả huyễn, đi ngược
dòng Niết bàn sanh ra giống điên hóa (điên đảo cái lý sinh hóa của hiện
tượng vạn pháp).
Lại có thiền giả tự trụ tam ma đề tâm thanh tịnh rỗng thông bỗng khởi
cái tâm chấp "trống rỗng" phủ nhận sự biến hóa của vạn vật, lấy cái
tánh đoạn diệt làm chỗ nương tựa của mình; thế là sa vào cái chấp "Quy
vô quy", thành bè bạn với bọn chấp không trong vô tưởng thiên, mê muội
Bồ đề Phật, bỏ mất chánh tri kiến. Đó gọi là bọn ngoại đạo thứ sáu, chìm
đắm trong tâm hư vô, lập ra cái quả trống rỗng đi ngược dòng Niết bàn,
sinh giống đoạn diệt.
Lại có thiền giả trụ trong tam ma đề tâm được đứng lặng sáng suốt,
bỗng khởi lên ý niệm muốn củng cố cái thân, làm cho cái thân trở thành
chân tường bất hoại, ý niệm phi chơn lý, khiến cho thiền giả rơi vào cái
chấp "tham phi tham", thành bè bạn của A tư đà, một vị Tiên tham vọng
trường sanh, mê muội Bồ đề Phật, bỏ mất chánh tri kiến. Đó là loại ngoại
đạo thứ bảy tham chấp cái mạng căn, lập cái nhân củng cố vọng thân để
cầu cái quả kéo dài lao khổ, trái tánh viên thông đi ngược đường Niết
bàn, sinh ra giống vọng điên.
Lại có hàng thiền giả trong tam ma đề nghiền ngẫm tánh không của các
hành pháp, bỗng khởi tâm muốn giữ trần lao vì sợ trần lao tiêu hết. Bấy
giờ thiền giả vận dụng đạo lực hóa hiện tự thân ở Liên hoa cung, thất
bảo huy hoàng, cực kỳ tráng lệ; tai hóa hiện ra nhiều gái đẹp xinh để
cùng vui hưởng thụ thỏa mãn tâm buông lung. Sự đam mê đó khiến cho hành
giả sa vào cái chấp "chân vô chân", thành bè bạn của bọn Tra chỉ la mê
muội Bồ đề Phật, mất hết chánh tri kiến. Đó là loại ngoại đạo thứ tám,
lập cái nhân tà tu thành cái quả xí trần (sợ trần lao bị tiêu hết).
Lại có thiền giả an trú trong xa ma tha tam ma thiền na tham cứu xét
tột tánh không của các hành pháp nhưng chưa đạt đến chỗ tịch diệt viên
mãn, ở nơi thể viên minh nguồn gốc của sinh mạng sanh ra ý niệm phân
biệt cái thô, cái phần chân, phần ngụy nghĩa là nhận rõ về khổ đế, đoạn
trừ tập đế, cầu chứng diệt đế, thực hành đạo đế. Khi chứng diệt đế rồi,
không cầu tiến thêm và bằng lòng cho đó là cái đích cứu cánh sở đắc của
mình. Người khởi chấp như vậy gọi là định tánh Thanh Văn, thành bè bạn
của Vô văn tăng, vướng phải bệnh tăng thượng mạn, mê muội Bồ đề Phật,
mất hết chánh tri kiến; đó là bọn thứ chín mong cầu cái tâm ứng nghiệm
viên mãn thành cái quả thú tịch diệt, trái với tánh viên thông, ngược
lại đường Niết bàn sinh ra hạng người triền không.
Lại có thiền giả ở trong xa ma tha tam ma bát đề, rõ suốt được tánh
không của các hành pháp, bấy giờ ở trong tánh giác minh thanh tịnh, phát
minh tánh thâm diệu rồi nhận đó là Niết bàn, không có tâm cầu tiến, thế
là sa vào hàng định tánh Bích chi, thành bè bạn của hàng Duyên giác,
Độc giác. Nếu trụ ở đây, không phát tâm hướng thượng đại thừa thì mất đi
chánh tri kiến, mê muội Bồ đề Phật, trở thành bọn thứ mười họ thành tựu
được giác tâm vắng lặng lập ra cái quả trạm nhiên, trái với tánh viên
thông, đi ngược đường Niết bàn vô thượng sinh ra một hạng giác ngộ viên
minh nhưng không tiêu hóa được cái tánh viên minh sở qui.
A Nan! Mười thứ thiền na như vậy, người tu hành giữa lúc đang tinh
tấn say mê bỗng có thể hóa điên cuồng đãng trí, vì đam mê theo cái vọng
kiến trong lúc dụng công. Những cảnh giới, những cái thấy biết trong
thiền na chưa phải là cảnh giới tối hậu cần đạt đến. Thiền giả nhận thức
sai lầm chỗ chưa đủ cho là đủ, khởi tâm năng đắc, được cảnh sở chứng,
tưởng đó là cảnh giới Vô thượng Bồ đề, tự cao tự mãn cho rằng mình đã
chứng Thánh quả, mắc tội đại vọng ngữ. Khi nghiệp báo hết rồi phải sa
vào địa ngục; còn hàng Thanh văn, Duyên giác thì không tiến lên được
nữa.
A Nan! Sau Như Lai diệt độ, các ông hãy trân trọng ghi nhớ lời dạy
của Phật, đem những pháp môn Như Lai dạy truyền bá, khiến cho chúng sanh
đời sau những người phát tâm tu Thiền na biết rõ những cảnh giới hư
vọng hiện ra trong lúc tu thiền và những tư duy lệch lạc, những chấp mắc
sai lầm cho ngũ ấm ma vọng khởi. Người tu tập thiền na phải luôn luôn
đề cao cảnh giác mới tránh khỏi các thứ ma tà kiến ấy nhiễu hại mà hoang
phí một đời tu. Các ông phải sáng suốt giữ gìn thân tâm, nắm giữ chánh
tri kiến của Phật, từ lúc ban đầu cho đến khi thành tựu, không dễ đi lạc
vào các con đường tẻ của ngoại đạo, do lầm chấp và đam mê theo vọng
cảnh tà kiến bởi sự "che phủ" của các ma ngũ ấm.
Các Như Lai trong mười phương đã vận dụng trí tuệ ba la mật, khéo léo
vượt qua mà thẳng tiến đến Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Chừng nào
thức ấm hết rồi thì hiện tiền sáu căn sẽ trở thành hỗ dụng, có thể thay
thế cho nhau, bấy giờ hành giả sẽ lên bậc kim cang. Càn tuệ Bồ tát. Cái
tâm trong sáng tròn đầy được tỏ rõ như mặt trăng dằn dặc ảnh hiện trong
viên ngọc lưu ly toàn bích. Rồi cứ thế mà vượt lên thứ bậc: thập tín,
thập trụ, thập hạnh, thập hồi hướng, tứ gia hạnh và thập địa kim cang
đạo. Bấy giờ tánh đẳng giác được tròn đầy vào bể Diệu Trang Nghiêm của
Như Lai, viên mãn đạo Bồ đề, về đến chỗ "VÔ SỞ ĐẮC".
Phật bảo! Nầy A Nan! Người chuyên tu xa ma tha tam ma bát đề, đến khi
Hành ấm hết rồi thì những nguyên nhân luân hồi từ nghiệp thô đến tế gần
như bặc hẳn; với quả giải thoát giác ngộ người nầy bước đến chẳng còn
xa, ví như gà gáy canh năm, nhìn về phương đông đã có hừng sáng ở chân
trời. Ở giai đoạn nầy, thiền giả sáu căn rỗng lặng không còn rong ruỗi
trần cảnh, nội tâm ngoại thân đều trong sáng, thể nhập tánh vô sở nhập.
Thấu suốt nguồn gốc của sinh loại. Thấy biết được tánh tổng quát của thế
giới, chỉ còn phần tinh vi u uẩn chưa tận tường. Đó là trạng thái của
thiền giả đang còn ở trong phạm vi của thức ấm.
Cho đến khi sáu căn viên dung, hổ dụng, bấy giờ thân tâm và mười
phương thế giới trong sáng như ngọc lưu ly. Đó là hiện tượng biểu hiện
của thiền giả đã hết thức ấm và vượt qua mạng trược. Bấy giờ tìm xét lại
nguồn gốc của mọi mê lầm thì tất cả chỉ là vọng tưởng điên đảo như
huyễn hóa chẳng có gì.
A Nan! Thiền giả hết thức ấm vượt qua mạng trược, đã diệt được cái
quan niệm sanh diệt nhưng chưa đạt đến cái vui tịch diệt, lục căn của
người nầy thông suốt, cái hiểu biết của họ dung lặng rỗng thông cùng 10
loài chúng sanh trong mười phương. Dựa trên sự hiểu biết rộng rãi bao
quát đó, họ lập ra cái luận thuyết gọi là "nhân chân thường" và chấp mắc
nơi đó nên trở thành bè bạn của Sa tỳ Ca la chấp có Minh đế, mê muội Bồ
đề Phật, bỏ mất chánh tri kiến. Đó là bọn ngoại đạo thứ nhất chủ
trương: có tâm năng đắc và có cái sở qui.
Lại có thiền giả ở trong tam ma đề, tâm tánh sáng suốt rỗng rang gần
đến chỗ viên mãn, bỗng cảm thấy cảnh đối tượng sở qui mà mình cần phải
nương tựa. Rồi tự nghĩ rằng: thân tâm mình từ chỗ kia sanh ra, thập
phương hư không và thế giới đều từ nơi thân của mình mà sanh ra, do vậy
sa vào cái chấp "năng phi năng", thành bạn bè với bọn Ma hê thủ la, hiện
ra thân vô biên, mê muội Bồ đề Phật, bỏ mất chánh tri kiến, đó là loại
ngoại đạo thứ hai, lập cái "tâm năng vi" thành cái quả "năng sự" trái
ngược Bồ đề Niết bàn, sanh ra giống Đại mạn thiên, chấp có "cái ta" khắp
cùng pháp giới.
Lại có thiền giả, trong tam ma bát đề chuyên chú bỗng thấy có chỗ "sở
qui", rồi nghĩ thân tâm mình từ chỗ kia sanh ra và cả thập phương hư
không cũng từ chỗ kia sanh ra; rồi nhận "cái chỗ kia" ấy là cái thể chân
thường không sanh diệt lại chấp cho là thường trú, chẳng những lầm tánh
bất sanh mà cũng lầm cả tánh sanh diệt; cho nên bị rơi vào cái chấp
"thường phi thường", thành bè bạn những kẻ chấp có Tự tại thiên, mê muội
Bồ đề Phật, bỏ mất chánh tri kiến. Đó là loại ngoại đạo thứ ba, lập cái
tâm nhân y thành cái quả vọng kế, trái với cái nhân Bồ đề Niết bàn sanh
ra giống điên đảo.
Lại có thiền giả, định tâm trong sáng, an trú tam ma đề bỗng nảy sinh
sự hiểu biết khắp cùng và cho rằng: cỏ cây trong vũ trụ cũng vẫn là hữu
tình, giống như con người không khác. Rằng cỏ cây làm người, người làm
cỏ cây; thế là bị rơi vào cái chấp "tri vô tri" thành bè bạn với bọn Ba
tra tiển ni chấp tất cả đều có hay biết, mê muội Bồ đề Phật. Đó là bọn
ngoại đạo thứ tư, chấp cái tâm "viên tri", thành cái quả thố mậu, trái
tánh Niết bàn sanh ra giống Đảo tri.
Lại có thiền giả chuyên chú tam ma đề, thân tâm thanh tịnh các căn có
thể dùng thay thế cho nhau (lục căn hỗ dụng) bỗng dưng phát sanh cái
ánh sáng của hỏa đại, ưa thích cái tánh thanh tịnh cái tánh sáng của hỏa
đại, ưa thích cái tánh thanh tịnh của thủy đại, yêu quí cái chu lưu của
phong đại, nghiền ngẫm cái thành tựu của địa đại rồi sùng phụng mỗi
thứ, nhận tứ đại kia là bản thân và cho đó là tánh thường trụ, rơi vào
cái chấp "sinh vô sinh", thành bè bạn của bọn Ca diếp ba và bọn Bà la
môn đem hết thân tâm thờ lửa, thờ nước để cầu ra khỏi sanh tử. Đó là
hàng thiền giả mê muội chánh tri kiến, lầm lạc đường Bồ đề, thuộc hàng
ngoại đạo thứ năm, lập cái nhân hư vọng cầu cái quả giả huyễn, đi ngược
dòng Niết bàn sanh ra giống điên hóa (điên đảo cái lý sinh hóa của hiện
tượng vạn pháp).
Lại có thiền giả tự trụ tam ma đề tâm thanh tịnh rỗng thông bỗng khởi
cái tâm chấp "trống rỗng" phủ nhận sự biến hóa của vạn vật, lấy cái
tánh đoạn diệt làm chỗ nương tựa của mình; thế là sa vào cái chấp "Quy
vô quy", thành bè bạn với bọn chấp không trong vô tưởng thiên, mê muội
Bồ đề Phật, bỏ mất chánh tri kiến. Đó gọi là bọn ngoại đạo thứ sáu, chìm
đắm trong tâm hư vô, lập ra cái quả trống rỗng đi ngược dòng Niết bàn,
sinh giống đoạn diệt.
Lại có thiền giả trụ trong tam ma đề tâm được đứng lặng sáng suốt,
bỗng khởi lên ý niệm muốn củng cố cái thân, làm cho cái thân trở thành
chân tường bất hoại, ý niệm phi chơn lý, khiến cho thiền giả rơi vào cái
chấp "tham phi tham", thành bè bạn của A tư đà, một vị Tiên tham vọng
trường sanh, mê muội Bồ đề Phật, bỏ mất chánh tri kiến. Đó là loại ngoại
đạo thứ bảy tham chấp cái mạng căn, lập cái nhân củng cố vọng thân để
cầu cái quả kéo dài lao khổ, trái tánh viên thông đi ngược đường Niết
bàn, sinh ra giống vọng điên.
Lại có hàng thiền giả trong tam ma đề nghiền ngẫm tánh không của các
hành pháp, bỗng khởi tâm muốn giữ trần lao vì sợ trần lao tiêu hết. Bấy
giờ thiền giả vận dụng đạo lực hóa hiện tự thân ở Liên hoa cung, thất
bảo huy hoàng, cực kỳ tráng lệ; tai hóa hiện ra nhiều gái đẹp xinh để
cùng vui hưởng thụ thỏa mãn tâm buông lung. Sự đam mê đó khiến cho hành
giả sa vào cái chấp "chân vô chân", thành bè bạn của bọn Tra chỉ la mê
muội Bồ đề Phật, mất hết chánh tri kiến. Đó là loại ngoại đạo thứ tám,
lập cái nhân tà tu thành cái quả xí trần (sợ trần lao bị tiêu hết).
Lại có thiền giả an trú trong xa ma tha tam ma thiền na tham cứu xét
tột tánh không của các hành pháp nhưng chưa đạt đến chỗ tịch diệt viên
mãn, ở nơi thể viên minh nguồn gốc của sinh mạng sanh ra ý niệm phân
biệt cái thô, cái phần chân, phần ngụy nghĩa là nhận rõ về khổ đế, đoạn
trừ tập đế, cầu chứng diệt đế, thực hành đạo đế. Khi chứng diệt đế rồi,
không cầu tiến thêm và bằng lòng cho đó là cái đích cứu cánh sở đắc của
mình. Người khởi chấp như vậy gọi là định tánh Thanh Văn, thành bè bạn
của Vô văn tăng, vướng phải bệnh tăng thượng mạn, mê muội Bồ đề Phật,
mất hết chánh tri kiến; đó là bọn thứ chín mong cầu cái tâm ứng nghiệm
viên mãn thành cái quả thú tịch diệt, trái với tánh viên thông, ngược
lại đường Niết bàn sinh ra hạng người triền không.
Lại có thiền giả ở trong xa ma tha tam ma bát đề, rõ suốt được tánh
không của các hành pháp, bấy giờ ở trong tánh giác minh thanh tịnh, phát
minh tánh thâm diệu rồi nhận đó là Niết bàn, không có tâm cầu tiến, thế
là sa vào hàng định tánh Bích chi, thành bè bạn của hàng Duyên giác,
Độc giác. Nếu trụ ở đây, không phát tâm hướng thượng đại thừa thì mất đi
chánh tri kiến, mê muội Bồ đề Phật, trở thành bọn thứ mười họ thành tựu
được giác tâm vắng lặng lập ra cái quả trạm nhiên, trái với tánh viên
thông, đi ngược đường Niết bàn vô thượng sinh ra một hạng giác ngộ viên
minh nhưng không tiêu hóa được cái tánh viên minh sở qui.
A Nan! Mười thứ thiền na như vậy, người tu hành giữa lúc đang tinh
tấn say mê bỗng có thể hóa điên cuồng đãng trí, vì đam mê theo cái vọng
kiến trong lúc dụng công. Những cảnh giới, những cái thấy biết trong
thiền na chưa phải là cảnh giới tối hậu cần đạt đến. Thiền giả nhận thức
sai lầm chỗ chưa đủ cho là đủ, khởi tâm năng đắc, được cảnh sở chứng,
tưởng đó là cảnh giới Vô thượng Bồ đề, tự cao tự mãn cho rằng mình đã
chứng Thánh quả, mắc tội đại vọng ngữ. Khi nghiệp báo hết rồi phải sa
vào địa ngục; còn hàng Thanh văn, Duyên giác thì không tiến lên được
nữa.
A Nan! Sau Như Lai diệt độ, các ông hãy trân trọng ghi nhớ lời dạy
của Phật, đem những pháp môn Như Lai dạy truyền bá, khiến cho chúng sanh
đời sau những người phát tâm tu Thiền na biết rõ những cảnh giới hư
vọng hiện ra trong lúc tu thiền và những tư duy lệch lạc, những chấp mắc
sai lầm cho ngũ ấm ma vọng khởi. Người tu tập thiền na phải luôn luôn
đề cao cảnh giác mới tránh khỏi các thứ ma tà kiến ấy nhiễu hại mà hoang
phí một đời tu. Các ông phải sáng suốt giữ gìn thân tâm, nắm giữ chánh
tri kiến của Phật, từ lúc ban đầu cho đến khi thành tựu, không dễ đi lạc
vào các con đường tẻ của ngoại đạo, do lầm chấp và đam mê theo vọng
cảnh tà kiến bởi sự "che phủ" của các ma ngũ ấm.
Các Như Lai trong mười phương đã vận dụng trí tuệ ba la mật, khéo léo
vượt qua mà thẳng tiến đến Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Chừng nào
thức ấm hết rồi thì hiện tiền sáu căn sẽ trở thành hỗ dụng, có thể thay
thế cho nhau, bấy giờ hành giả sẽ lên bậc kim cang. Càn tuệ Bồ tát. Cái
tâm trong sáng tròn đầy được tỏ rõ như mặt trăng dằn dặc ảnh hiện trong
viên ngọc lưu ly toàn bích. Rồi cứ thế mà vượt lên thứ bậc: thập tín,
thập trụ, thập hạnh, thập hồi hướng, tứ gia hạnh và thập địa kim cang
đạo. Bấy giờ tánh đẳng giác được tròn đầy vào bể Diệu Trang Nghiêm của
Như Lai, viên mãn đạo Bồ đề, về đến chỗ "VÔ SỞ ĐẮC".
A Nan! Những cảnh tướng hiện ra trong lúc tu thiền na, những ý nghĩ
rồi sanh khởi sự chấp mắc theo kiến giả của mình lập ra những luận cứ
chủ trương: Thần ngã, Minh đế, đoạn, thường, có, không v.v… Tất cả đều
gọi chung là "ma sự", vì có tánh chướng ngại, khuấy phá, cản trở bước
tiến của người tu thiền. Chẳng những vậy, nó còn có thể chận đứng lại để
rồi bằng lòng với cái tri kiến hạn hẹp, phi chân lý, thành người ngoại
đạo hư cháy hạt giống Bồ đề.
Chư Phật Thế Tôn trong quá khứ đã nghiệm xét, phân biệt và đã giác
ngộ, chiến thắng với các ma sự mà thẳng tiến trên đường Bồ đề.
Sau Như Lai diệt độ. A Nan! Các ông phải hướng dẫn cho những người tu
tập thiền na học hỏi Phật pháp, nhận rõ các ma sự trong lúc tu chỉ quán
thì ấm ma tự tiêu, thiên ma tự biến, đại lực quỷ hoảng sợ chạy trốn, ly
mị vọng lượng không sanh ra được.
A Nan! Bản giác vốn tròn sáng không có tướng sanh tử vãng lai. Vọng
thì không có nhân. Khi chưa ra khỏi vọng, nhìn vạn pháp cho đó là nhân
duyên sanh. Mê tánh nhân duyên thì gọi là tự nhiên có. Nhân duyên đều là
những so đo của vọng tưởng. Bản nhân của ngũ ấm cũng là vọng tưởng như
vậy.
A Nan! Thân thể của ông cũng nhân cái tưởng của cha mẹ mà sinh. Tâm
của ông nếu không phải tưởng thì không thể đến gá cái mạng vào trong
tưởng. Như Lai đã từng nói: Tâm tưởng vị chua, trong miệng nước bọt chảy
ra, tâm tưởng leo cao trong lòng bàn chân nghe ghê rợn. Dốc cao không
có, vậy chua chưa đến, thân thể của ông nếu không phải cùng loại với
vọng tưởng thì làm sao nhân nghe nói chua trong miệng nước bọt lại chảy
ra? Vậy nên biết rằng sắc thân hiện tiền của ông gọi là vọng tưởng kiên
cố thứ nhất.
Ngay nơi tâm tưởng tượng leo lên cao, có thể khiến thân ông chịu sự
ghê rợn, đó là nhân "cảm thọ" mà sinh ra, khiến xúc động đến sắc thân -
Nên biết rằng hiện nay hai thứ "thọ", thọ sung sướng hoặc "thọ" ghê sợ,
đang rong ruổi nơi ông, đó là vọng tưởng "hư minh" thứ hai.
Do ý nghĩ sai khiến sắc thân ông, nếu sắc thân không phải cùng loại
thì làm sao sắc thân ông lại theo ý nghĩ sai khiến thọ nhận các thứ hình
tượng rồi sinh tâm chấp nhận những hình tượng phù hợp với ý nghĩ! Cái ý
nghĩ lúc thức gọi là tưởng, ý nghĩ lúc ngủ thì gọi là mộng. Những vọng
tánh lay động mộng tưởng của ông gọi là vọng tưởng hư dung thứ ba.
Sự chuyển hóa không ngừng thầm dời đổi: móng tay ra, tóc dài, khí lực mòn, da mặt nhăn, ngày đêm biến đổi mà không hay biết.
A Nan! Nếu cái đó không phải là ông thì làm sao thân ông lại thay
đổi, nhưng nếu những thứ đó là ông thì sao ông không hay biết? Vậy các
"hành" niệm niệm không dừng của ông, gọi là vọng tưởng u ẩn thứ tư.
Chỗ tinh minh đứng lặng không lay động của ông gọi là thường còn,
trong khi thân ông không ra ngoài những sự thấy, nghe, hay, biết. Nếu
"cái thường còn" đó, thật là tánh tinh chân của ông thì lẽ ra nó sẽ
không huân tập tiếp thu những điều vọng và nếu vậy thì sau những năm về
trước ông đã xem thấy một vật lạ, trải qua nhiều năm không hề nghĩ đến,
về sau tình cờ gặp lại vật là đó thì nhớ lại rõ ràng? Vậy nên biết rằng
cái tánh tinh minh đứng lặng đó, từng niệm, từng niệm chịu huân tập
không thể tính lường hết được. A Nan! Nên biết cái tánh đứng lặng đó
không phải thật, như nước chảy gấp mà trông như đứng lặng vậy thôi, chớ
không phải không chảy. Nếu cái tánh đứng lặng của ông không phải vọng
tưởng thì đâu lại chịu để vọng tưởng huấn tập vào. Chừng nào mà sáu căn
của
ông chưa được tự tại, hợp, ly dùng thay lẫn nhau thì cái vọng tưởng đó
không lúc nào diệt được. Vậy nên biết rằng cái tập khí quán xuyến, điều
khiển những điều thấy, nghe, hay, biết của ông, là cái vọng tưởng điên
đảo vi tế huyễn hóa rỗng trống thứ năm.
A Nan! Năm ấm đó do năm thứ vọng tưởng như thế mà tạo thành. Nay ông
muốn biết giới hạn, sâu cạn thì hãy ghi nhớ các tiêu chuẩn nhận thức như
vầy:
Sắc và không là biên giới của sắc ấm. Xúc và ly là biên giới của Thọ
ấm. Nhớ và quên là biên giới của Tưởng ấm. Diệt và sinh là biên giới của
Hành ấm. Đứng lặng hợp với đứng lặng là biên giới của Thức ấm.
Năm ấm ấy trùng điệp sanh khởi. Sanh nhân thức ấm mà có. Diệt từ sắc
ấm mà trừ. Lý thì ngộ liền, nhân ngộ mà tất cả vọng tưởng đều tiêu. Sự
không thể trừ liền, theo thứ lớp mà diệt.
A Nan! Như Lai đã chỉ cho ông về cái gút của khăn kiếp ba la đã quá
rõ ràng, ông còn hỏi lại chi nữa! Tâm ông cần phải thông suốt cội gốc
vọng tưởng đó. Rồi đem truyền dạy cho người tu hành hậu thế khiến cho họ
biết vọng tưởng là vọng để sanh tâm nhàm chán, và biết có Niết bàn mà
không lưu luyến ba cõi.
Phật bảo: A Nan! Giả sử có người đem thất bảo đầy ngập hư không cùng
khắp mười phương dâng cúng chư Phật nhiều như số vi trần, mà tâm không
lúc nào xao lãng, ý ông nghĩ thế nào? Người đó do nhân duyên cúng dường
Phật như thế, phước đức có nhiều chăng?
Ông A Nan thưa! Bạch Thế Tôn! Hư không vô tận, trân bảo không cùng.
Như lời Phật dạy, ngày xưa có chúng sanh cúng Phật chỉ có bảy đồng tiền,
vậy mà khi xả thân còn được phước báo làm chuyển luân vương, huống nữa
trân bảo vô lượng, cúng dường chư Phật vô lượng khắp mười phương thì
dùng trí mà suy nghĩ cùng tột, ức kiếp không thể thấu được, vì phước đức
ấy không có ngằn mé!
Phật bảo: A Nan! Chư Phật Như Lai lời nói không hư vọng, giả sử có
người gây đủ các tội: Tứ trọng, thập ác, giây lát phải trải qua địa ngục
A tỳ phương nầy sang phương khác cho đến cùng khắp các địa ngục vô gián
trong mười phương, nhưng nếu người đó cùng một niệm đem pháp môn nầy
truyền bá cho người chưa học trong đời sau thì tội chướng người đó liền
được tiêu hết, biến cái nhân phải chịu khổ ở địa ngục thành cái nhân
sanh về cõi an lạc. Niết bàn, được phúc vượt hơn người bố thí cúng dường
trước kia trăm ngàn lần, muôn ức vạn lần cho đến không thể dùng toán số
so sánh, không thể có ngữ ngôn nói hết được.
Ðức Thế Tôn nói kinh nầy rồi, các vị Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, ưu bà tắc,
ưu bà di, tất cả Trời, Người, A tu la, các vị Bồ tát, Nhị thừa, Thánh
Tiên, đồng tử và các đại lực quỷ thần mới phát tâm, đều rất vui mừng lễ
Phật mà lui.
HẾT