CHƯƠNG
V
1. Hiểu biết chồng thêm hiểu biết là gốc rễ của
vô minh. Hiểu biết vạn pháp đúng như thật là nhân tố của Niết bàn hiện tại.
1a. Ông A Nan lại hỏi
vấn đề mở gút
1b. Khai thị chân lý vốn không hai và Phật Phật đạo đồng
1c. Căn trần cùng một gốc. Cột mở không hai nguồn
2. Phật tóm lược ý thú của những đoạn kinh trên qua
bài văn trùng tụng
3. Một cái khăn mà sáu lần cột thì thành sáu gút. Mở
hết sáu gút một cũng không còn.
3a. Nguyên do của một
sáu dị đồng
3b. Cột gút có thứ lớp thì mở phải có trước sau
4. Quả vị có thấp cao, giải thoát giống nhau không
khác mấy. Căn trần thức giới thất đại đều là dữ kiện chứng viên thông.
5. Phật hỏi đại chúng về nhân duyên ngộ đạo, và dữ
kiện chứng đắc viên thông.
5a. Do thanh trần được
viên thông
5b. Do sắc trần được viên thông
5c. Do hương trần được viên thông
5d. Do vị trần được viên thông
5e. Do xúc trần được viên thông
5f. Do pháp trần được viên thông
5g. Do nhãn căn được viên thông
5h. Do tỷ căn được viên thông
5i. Do thiệt căn được viên thông
5j. Do thân căn được viên thông
5k. Do ý căn được viên thông
5l. Do nhãn thức được viên thông
5m. Do nhĩ thức được viên thông
5n. Do tỷ thức được viên thông
5o. Do thiệt thức được viên thông
5p. Do thân thức được viên thông
5q. Do ý thức được viên thông
5r. Do hỏa đại được viên thông
5s. Do địa đại được viên thông
5t. Do thủy đại được viên thông
5u. Do phong đại được viên thông
5v. Do không đại được viên thông
5w. Do thức đại được viên thông
5x. Do kiến đại được viên thông
Ông A Nan thưa: Bạch Thế Tôn! Dù Phật đã dạy nghĩa quyết định thứ hai
về công việc tháo mở gút. Song tôi nghĩ rằng những người mở gút nếu không biết
đầu mối của gút ở đâu thì ắt hẳn không thể nào mở được.
Bạch Thế Tôn! Tôi và hàng Thanh Văn hữu
học trong hội này cũng vậy. Từ vô thỉ đến nay, chúng tôi cùng sanh cùng diệt
với các thứ vô minh, tuy được nghe nhiều Phật, Pháp, mang tiếng xuất gia mà như
người sốt rét cách nhật (ý nói chợt giác chợt mê). Xin đức đại từ thương xót kẻ
đắm chìm, chỉ cho tôi ở nơi thân tâm này cái gì là gút? Và muốn mở phải khởi sự
như thế nào?
Ðức Thế Tôn rũ lòng thương xót lấy tay xoa
đảnh ông A Nan. Đồng thời tất cả thế giới chư Phật trong mười phương cùng phóng
ánh sáng báu đến rừng Kỳ Đà soi lên đảnh đầu của Đức Phật. Tất cả đại chúng ở
đây đều được sự khinh an chưa từng có.
Bấy giờ đại chúng đều nghe chư Phật trong
mười phương khác miệng đồng lời bảo ông A Nan rằng:
Hay thay A Nan! Ông muốn biết cái gì là
gút thắt khiến cho ông luân hồi sanh tử khổ đau!
A Nan!
Cái gút thắt khiến cho ông luân hồi sanh tử, chính là sáu căn của ông, chớ
chẳng phải cái gì khác!
Ông lại cũng muốn biết, phải làm sao mau
đến chỗ an lạc, giải thoát, tịch tĩnh vô thượng Bồ đề!
Này ! A Nan!
Thì cũng chính là sáu căn của ông đó, chớ chẳng phải cái gì khác.
Ông A Nan tâm còn lưỡng lự ôm mối hoài
nghi, cúi đầu thưa Phật: Bạch Thế Tôn! Vì sao cái nguyên nhân khiến cho tôi
luân hồi sanh tử và khiến cho tôi được Bồ đề, Niết bàn lại cũng là do sáu căn
chớ không phải cái gì khác?
Phật dạy: A Nan!
Căn và trần đồng một bản thể; cột hay mở chẳng phải đợi hai. Cái thức phân biệt
của ông chỉ là hư vọng như hoa đốm trong hư không. Nhân nơi trần mà phát ra cái
nhận biết của căn. Nhân nơi căn mà có cái sắc tướng của trần. Chủ thể năng kiến
và đối tượng sở kiến chỉ là sự phản ánh tác dụng qua lại mà có ra. Tự tánh của
chúng thật sự là không có tự tánh gì. Sự hiện khởi duyên sanh của chúng như
những cái hình của những đám lau sậy gác chéo vào nhau…
Vậy nên: Hiểu biết mà chồng lên hiểu
biết là gốc rễ của vô minh. Hiểu biết rồi xóa đi hiểu biết mới tìm thất Niết
bàn ! Cần chi trong đó phải có cái gì khác, A Nan nhỉ !
TRỰC
CHỈ
Tâm lý của ông A Nan cũng chính là tâm
lý chung của những người đệ tử Phật. Có ai biết trong ta cái gì là gút, để phải
vướng mắc mãi trong sanh tử luân hồi? Có mấy ai biết phải làm sao mở gút để
khỏi ràng buộc trói trăn? Người ta thường có quan niệm: Thành Phật phải là cái
gì vĩ đại, xa xăm và ghê gớm lắm. Chính ông A Nan học Pháp đến đây mà vẫn còn tư
tưởng tịt mù xa xăm đó, thì trách chi những hàng bạc địa phàm phu!
Thì ra sự thật lại quá giản đơn. Chẳng
những riêng Phật Thích Ca cho sự mở gút là giản đơn mà mười phương chư Phật
đông như số vi trần cũng đồng tình rằng: Vấn đề tìm gút và mở gút là vấn đề
trước mắt. Nó chẳng ở đâu xa, cũng chẳng phải do ai đem đến. Gút hay mở chính
là sáu căn của ông A Nan đó. Sáu căn của ông A
Nan cũng chính là sáu căn của tất cả mọi người
đệ tử Phật chúng ta ai ai cũng có. Thương, ghét, thân, sơ, hỉ, nộ… là gút là
thắt đó. Từ bi, hỉ xả, thiền định, trí tuệ… là mở, gút sẽ được tháo tung.
Yếu lý ở đoạn kinh này, Đức Phật đúc
kết trong triết lý:
"Tri kiến lập tri tức vô minh bổn
Tri kiến vô kiến tư tức Niết bàn".
Chảo lảy điêu ngoa đồng nghĩa với cột
gút, thắt thêm nhiều lớp. Thực thà, chất phác là công dụng của sự tháo gút mở
dây.
Chơn tánh của pháp hữu vi là không
Vì duyên sanh, sanh như huyễn hóa
Vô vi thì không có khởi diệt
Vì chẳng thật, như hoa đốm trong hư không
Phủ định vọng, nhằm khẳng định có chơn
Nếu chấp chơn, thì vọng chơn đều vọng
Chơn và phi chơn còn không có
Thì năng kiến sở kiến có thực gì !
Thức ở trung gian, không thực tánh
Như lau sậy gác chéo lên nhau
Cột hay mở đồng một bản nhân
Thánh và phàm không hai ngả tẻ
Hãy trông hình những cây lau gác
Pháp không, pháp có, cả hai không
Mê mờ chơn lý đó là vô minh
Phát minh được chơn lý tức là giải thoát
Mở gút phải theo thứ lớp
Sáu gút mở hết, cái một không còn
Dựa nơi căn mà chọn tánh viên thông
Quả nhập lưu được xem là thành Phật
Thức A Đà Na vi tế quá
Tập khí như nước thác tuôn theo
Vì sợ chấp chơn, phi chơn
Như Lai không thường nói đến
Tự tâm chấp tự tâm
Pháp phi huyễn trở thành pháp huyễn
Không chấp, pháp chơn còn không có
Pháp chơn vốn đã chẳng có sanh
Thì pháp huyễn do đâu thành lập?
Như huyễn tam ma đề là vậy
Đó là bảo giác, chắc như kim cương vương
Không nhiễm như Diệu Liên Hoa
Khảy móng tay vượt hàng vô học
Đây là pháp của Phật mười phương
Là đại lộ vào thành đô Niết bàn Phật.
TRỰC
CHỈ
Pháp hữu vi không có tự thể, thực chất
của nó là không. Vì nhân duyên sanh cho nên có. Có mà không thật có nên gọi là
như huyễn.
Nhằm phủ định huyễn hữu mà phải đề cập
cái vô. Kỳ thực, chẳng có cái gọi là "Vô vi"nào
cả. Cái không có sanh khởi, không có diệt tận gọi đó là "Vô vi".
Vậy thì "Vô vi"đồng nghĩa với "Không có gì". Người đệ tử Phật không bao giờ hy vọng ở cái gọi là "Vô
vi", dù được người ta quảng cáo "Vô vi"là
cảnh giới an vui hạnh phúc! Giả vọng biểu chơn là một thuật ngữ thường dùng
trong Phật học. Phủ định vọng nhằm để khẳng định cái chơn.
Nhưng phải hiểu: Hết vọng là chơn mà không cầu chơn trong khi hết
vọng. Hết vọng cầu chơn là tìm thêm một cái đầu để chồng lên cái đầu mình
đã có. Đó chẳng phải là tâm trạng của kẻ điên loạn là gì?
Phân biệt, đánh giá sự vật qua: mừng,
giận, thương, sợ, yêu, ghét… là do thức trung gian đó. Mà thức thì đã phải chủ
đâu! Duyên sanh, duyên diệt, thức thay đổi luôn luôn, như những hình thoi, hình
thang, hình tam giác, hình vuông… trong những đám lau sậy gác lên nhau trong những
cơn gió giật!
Căn trần đồng là vật biểu hiện từ Như
Lai tàng, phát xuất từ Như Lai tàng không tội lỗi. Buộc hay mở do căn; thánh
phàm do tự chủ hay không tự chủ đối với sáu căn của mình.
Pháp không, không đã đành; pháp có,
cũng là không!
"Chúng nhơn duyên sanh pháp
Ngã thuyết tức thị không"…
Mê mờ chơn lý không,
coù là vô minh. Tỏ ngộ chơn lý có và
không thì giải thoát. Mở gút nên theo thứ lớp; một được
mở, sáu gút sẽ giải tỏa theo. Sáu gút mở thì cái một không còn. Hãy lựa căn có
ưu thế để phát huy công dụng; lựa một căn mà chọn tánh viên thông. Được quả nhập lưu, xem như đã thành Phật. Bởi vì Như Lai há chẳng
nói: "Tất cả chúng sanh đã thành Phật" đó sao?
Thức A Đà Na sâu sắc lắm, tập khí chúng
sanh lại quá sâu dày. Như Lai thường không đề cập đến, ngại chúng sanh mê chấp:
Này chơn nọ chẳng phải chơn. Ở Kinh Thủ Lăng Nghiêm này, Như lai chỉ dạy trong
phạm vi: sáu căn, sáu trần và sáu thức. Sáu thức vọng chấp là vọng đã đành,
móng ý chấp chơn, làm cho chơn hóa ra vọng.
Tự tâm chấp tự tâm: Tâm mình Phật, lại van xin mong cầu Phật, há không phải
pháp "phi huyễn" trở thành "huyễn pháp" đó sao?
Không chấp thì vọng chơn đều vắng lặng trạm nhiên: chơn còn không có, vọng
vin vào đâu sanh được?
Nhận thức như vậy thường xuyên. Đó là
cách tu thiền, là tư
duy tu đó. Tu như vậy Phật gọi:
Như huyễn tam ma đề. Đó là phương pháp thiền
nhìn vạn pháp như huyễn. Có
như huyễn tam ma đề là có bảo
giác chắc như kim cương vương. Thanh tịnh như Diệu Liên Hoa, khảy móng tay vượt
hàng vô học (Thanh Văn Duyên Giác nhị thừa). Mười phương chư Phật đồng như số
vi trần, đồng đi con đường đó mà vào thành đô Niết bàn Phật!
Ông A Nan chấp tay đảnh lễ thưa: Bạch Thế
Tôn! Nay tôi nghe Phật dạy ý thú thẩm sâu mầu nhiệm, nhưng tôi còn chưa rõ cách
thức mở gút thế nào và vì sao mở hết gút thì một cũng không còn? Xin Phật rũ
lòng thương đại chúng trong hội này và chúng sanh tương lai bố thí pháp âm để
chúng tôi có thể trừ sạch cấu nhiễm sâu dày trầm trọng!
Bấy giờ Ðức Thế Tôn trên tòa sư tử sửa nội
y vén áo tăng già lê (đại y) đưa nhẹ tay lấy cái khăn hoa trên ghế thất bảo.
Trước đại chúng Đức Phật cột thành một gút, đưa cho ông A Nan xem và hỏi:
Cái này gọi là cái gì?
- Đấy là cái gút, bạch Thế Tôn. Ôn A Nan
và đại chúng thưa.
Đức Phật lại cột khăn hoa thêm một gút nữa
rồi cũng hỏi ông A Nan:
Cái này gọi là cái gì?
- Cũng gọi là cái gút. Bạch Thế Tôn!
Rồi cũng cái khăn lụa hoa ấy tuần tự Đức
Phật cột thành sáu gút và mỗi khi cột xong một gút Phật đều đưa khăn lên và hỏi
như vậy.
Ông A Nan và đại chúng cũng tuần tự đáp
như vậy sáu lần.
Phật bảo ông A Nan: Khi tôi mới cột khăn
thì ông nói là một gút. Thật sự chiếc khăn lụa hoa này trước sau chỉ là một
cái. Cớ sao lần thứ hai, lần thứ ba… các ông cũng gọi là gút ?
Bạch Thế Tôn! A Nan
thưa. Cái khăn lụa hoa quý báu này, vốn là một thể, song Như Lai cột một lần
thì gọi là một gút, nếu cột trăm lần thì cũng phải gọi là một trăm gút, huống
chi ở đây có sáu gút, không đến bảy, cũng chẳng dừng ở năm. Cớ chi Như Lai quở
trách chỉ cho gút thứ nhất là gút, còn cái thứ hai, thứ ba… không cho gọi là
gút?
Phật bảo: Như ông biết cái khăn hoa này nó
vốn là một, vậy mà tôi cột sáu lần thì ông gọi là sáu gút. Này A Nan! Ông chín
chắn xem xét nghĩ suy: Tự thể của cái khăn vốn là đồng chỉ vì gút
mà hóa ra thành dị, ông nghĩ thế nào ? Khi mới cột gút ban đầu
thì gọi là gút thứ nhất. Như vậy cho đến cột lần thứ sáu thì gọi là gút thứ
sáu. Nay tôi muốn gọi gút thứ sáu là gút thứ nhất có được không?
- Bạch Thế Tôn! Không. Nếu còn sáu gút thì
cái gọi là thứ sáu, không sao gọi là cái thứ nhất được. Dù tôi có biện bạch
suốt đời cũng không thể làm cho sáu gút đổi tên !
Phật dạy: Đúng vậy! Đúng vậy! Sáu gút
không đồng nhưng xét tìm bản nhân lại vẫn là do một cái khăn mà có. Thế mà
không ai có thể làm cho nó lộn xộn được với nhau.
A Nan!
Sáu căn của ông cũng như vậy. Từ cái thể hoàn toàn đồng mà sanh
cái dụng hoàn toàn dị. Chẳng khác chút nào cái khăn
lụa hoa kiếp ba la của Như Lai!
A Nan!
Giả sử ông không muốn thành sáu gút trong một cái khăn. Giả sử ông muốn cái
khăn chỉ còn thể duy nhất, thì ông phải làm thế nào ?
- Bạch Thế Tôn! Nếu các gút mà còn thì thị
phi tranh cãi khó mà ngăn. Vì gút này không phải gút kia và gút kia không phải
là gút nọ được! Nếu Như Lai mở tháo tung cả, không còn gút thì không còn có
này, có nọ, có kia, thế là một còn không có, làm chi có sáu !
Phật dạy: Cái ý nghĩa mở sáu, một không
còn cũng như vậy đó. Các ông chỉ vì vọng tâm vô thỉ, khiến cho tri kiến
sanh bệnh làm lòa cái tánh tịnh minh trạm tịch của các ông, cho nên sơn hà đại
địa, sanh tử, niết bàn trở thành cái tướng hoa đốm của đôi mắt mệt hóa lòa của
các ông đó!
Ông A Nan thưa: Bạch Thế Tôn! Cái bệnh mê
lầm giống như gút kia làm sao mà cởi mở được !
Bấy giờ Đức Phật lấy cái khăn đã cột gút,
kéo một mối lệch qua trái rồi hỏi ông A Nan: Tôi làm thế này có mở gút được
chăng?
- Không được, bạch Thế Tôn!
Rồi Đức Phật nắm kéo mối khăn lệch qua bên
phải, cũng hỏi ông A Nan như vậy. Ông A Nan cũng đáp là không thể mở được.
Phật hỏi: Tôi kéo mối khăn qua phải qua
trái đều không mở gút được. Vậy theo ông nghĩ, phải làm thế nào mới mở được gút?
- Bạch Thế Tôn! Phải mở trung tâm cái gút
thì tháo ra ngay.
Phật bảo: Đúng vậy. Muốn mở gút thì phải
mở ngay trung tâm của gút.
A Nan!
Như tôi đã nói: Phật pháp từ nhân duyên sanh. Nhưng các ông không được chấp ở
tướng hòa hợp thô sơ trên hiện tượng của thế gian mà thỏa mãn tri kiến của
mình. Như Lai phát minh tuệ giác vô thượng cho nên biết tất cả bản nhân của
pháp thế và xuất thế gian; đến như một hạt mưa ngoài hằng sa thế giới cũng biết
số mục; cây tùng thẳng, cây gai cong, chim câu trắng, chim quạ đen Như Lai đều
biết nguyên do tất cả.
A Nan!
Tùy tâm ông lựa chọn nơi 6 căn, nếu tháo mở được cái gút căn ấy thì các trần
tương tự tiêu vong, đối với ông, vọng cảnh không còn, bấy giờ ông chẳng phải
sống trong chơn tâm thì còn gọi là gì nữa!
Phật bảo A Nan! Cái khăn hoa này có sáu
gút, ông có thể mở bung cùng một lúc được không?
- Bạch Thế Tôn! Không. Những cái gút khi
cột đã có thứ lớp, nay mở cũng phải theo trước sau. Sáu gút tuy đồng thể, nhưng
lúc cột lại chẳng đồng thời. Thế nên, nếu mở gút phải bắt đầu
từng cái một.
Phật dạy: Trừ khử những gút sáu căn cũng
giống như vậy. Bắt đầu mở, trước hết tháo mở nhân không. Nhân
không hóa giải hoàn toàn sáng suốt thì bước thêm mở lần pháp chấp. Pháp
chấp xả hết bấy giờ gọi là hạng người ngã pháp câu không. Đấy gọi
là Bồ tát từ tam ma địa mà được vô sanh pháp nhẫn.
TRỰC
CHỈ
Đọc đoạn kinh này, người đệ tử Phật
phải chín chắn soát lại vấn đề tri
kiến của mình. Cái trí thể
là một, tự nó chẳng có hỉ, nộ, ai, cụ… chẳng có tham, sân, si, mạn… Do sự tác
động bất giác vô minh khiến cho cái trí dụng trở thành
nhiễm ô. Những cái gút mà Đức Phật cụ thể hóa qua cái khăn kiếp ba la chính là
những gút tham, sân, si, mạn… và hỉ, nộ… ấy. Cái khăn lụa hoa của Phật tự thể
nó chẳng có gút nào. Cột gút là do bàn tay Phật, nghĩa là phải do động tác của
ai đó làm ra. Khi đã cột gút rồi thì gút nào tên nấy. Do vậy, làm mất đi cái tự thể
láng mịn của cái khăn hoa đẹp. Cái tri
kiến vô kiến hay nói cách khác
là "thể tánh tịnh minh" của ta vốn thanh tịnh bản nhiên trong sáng đẹp
đẽ như cái khăn hoa láng mịn ấy. Chấp mắc là do ta, khiến cho tri kiến của ta trở thành tri
kiến lập tri, phân biệt ghét
thương lấy bỏ thân sơ làm cho sáu căn trần vẩn đục bởi sáu trần: Sắc, thanh,
hương, vị, xúc, pháp.
Muốn khăn không còn gút thì phải mở hết
gút bỏ đi. Muốn căn trong sáng an lành thì phải diệt đi tính chấp: phải, quấy,
ghét, thương… tham, sân, si, mạn…
Không mở đúng trung tâm gút thì không
thể tháo gút ra. Không chế phục sáu căn thì đam mê lầm lạc lâu đời không xóa
sạch được.
Cột đã có gút một, gút hai… thì mở cũng
phải theo thứ lớp.
Tai hại của gút là làm cho cái khăn hoa
mịn đẹp của Như Lai thành "một" rồi "hai"…, rồi thành sáu
gút, mà tên gút không thể đổi dời.
Tai họa gây đau khổ cho con người là tri kiến vốn tịnh, vốn thanh, vốn minh, vốn diệu lại trở thành ngã chấp, pháp chấp thị phi hỉ nộ…
Mở gút, mở sáu gút hết thì cái một cũng
không còn, vì sáu căn mà thanh tịnh thì sáu không còn sáu mà chỉ còn: Tri kiến vô kiến, thể tánh tịnh minh. Bấy giờ sáu căn dùng thay lẫn nhau không có gì
trở ngại (lục căn hỗ dụng).
Mở gút phải bắt đầu từ cái gút khởi
đầu. Chế phục vô minh phải triệt tiêu ngã chấp trước. Tiến thêm một bước, diệt
trừ ý thức pháp chấp tiếp theo.
Ngày nào ngã pháp đều không, hỏi ai là người sẽ thành Phật? Nên chỉ những con
người ngã pháp câu không ấy!
Ông A Nan và đại chúng nhờ Phật khai thị
tuệ nhãn được Viên dung Thông đạt; đối với chân lý
xẻ bỏ được màn lưới nghi ngờ đen tối. Tất cả đồng chấp tay cung kính thưa:
- Bạch Thế Tôn! Ngày nay chúng tôi thâm
tâm sáng suốt vén bức rèm vô minh, tuệ giác được phần vô ngại. Đối với diệu
nghĩa "sáu mở một không còn", Như Lai dạy chúng tôi đã lãnh hội.
Nhưng nay còn chưa rõ chúng tôi cần phải làm gì để tâm tánh được viên
thông, khi rời pháp âm hướng dẫn của Phật? Xin Phật rũ lòng thương ban
cho chúng tôi những bí pháp thậm thâm được xem như lời dạy cuối cùng của Phật?
Bấy giờ Ðức Thế Tôn bảo khắp các đại Bồ
Tát và hàng lậu tận A La Hớn rằng: Các ông là Bồ Tát và A La Hớn sanh trong
Phật Pháp đã chứng quả vô học. Nay tôi hỏi các ông: Lúc mới phát tâm, trong
thập bát giới, các ông tâm đắc ở giới nào? Do nhân duyên gì? Từ phương tiện nào
mà các ông được tam ma đề viên thông tâm tánh?
Nhóm ông Kiều Trần Như năm vị tỳ kheo từ
chỗ ngồi đứng dậy cung kính chấp tay thưa:
- Bạch Thế Tôn! Sau khi Như Lai thành đạo
ở Lộc Uyển, chúng tôi gặp Phật trước tiên. Chúng tôi được Phật khai thị cho về
pháp tứ diệu đế. Do nghe tiếng Pháp của Phật mà tôi tỏ ngộ. Lúc đó Phật hỏi các
Tỳ kheo: Có hiểu không, tôi thưa là đã hiểu. Nhơn đó Như Lai đặt
cho tôi cái tên là A Nhã Đa, ấn chứng chúng tôi là những người A La Hớn. Nay
Phật hỏi viên thông, đối với tôi thanh trần là mầu
nhiệm nhất.
Ông Ưu Ba Ni Sa Đà đứng dậy chấp tay cung
kính thưa:
- Bạch Thế Tôn! Tôi cũng được gặp Phật sau
những ngày Như Lai thành đạo không lâu. Trông vào tướng hảo quang minh của Phật
tôi quán sâu vào tướng bất tịnh của sắc thân ô trược. Từ cái tử thi bắt đầu
bành trướng… đến tướng bạch cốt… vi trần… tôi sanh lòng nhàm chán tột bậc, chợt
tỏ ngộ tánh: Sắc, không, không sắc đều chẳng ra gì. Như Lai ấn chứng cho tôi
cái tên là Ni Sa Đà, tôi được A La Hớn quả. Nay Phật hỏi duyên cớ được viên
thông, xin thưa: Đối với tôi sắc trần là ưu việt nhất.
Ông Hương Nghiêm đồng tử đứng dậy cung
kính chấp tay thưa:
- Bạch Thế Tôn! Trước đây Như Lai dạy tôi
quán sát kỹ về các pháp tướng hữu vi. Một hôm tôi tĩnh tọa trong giảng đường
các tỳ kheo đốt hương trầm thủy, mùi hương thoang thoảng trong tĩnh mịch u
nhàn, tác dụng đến mũi tôi. Tôi tư duy quán xét: Hương này không phải do gỗ,
không phải do hư không, không phải do khói, không phải do lửa. Đi ra không dính
vào đâu. Đến đâu không chỗ dùng trụ. Quán chiếu như vậy, ý thức phân biệt của
tôi tự khắc tiêu vong. Trí vô lậu phát sanh, Như Lai ấn chứng cho tôi danh hiệu
là Hương Nghiêm. Vì do tôi thể nghiệm mùi hương mà chứng được A La Hớn quả. Nay
Phật hỏi phương tiện được viên thông, xin thưa: Với tôi, hương
trần là tối thắng nhất.
Hai vị Bồ Tát Dược Vương, Dược Thượng,
cùng năm trăm phạm thiên trong hội đồng đứng dậy cung kính chấp tay bạch Phật:
Bạch Thế Tôn! Từ vô lượng kiếp, chúng tôi là lương y cứu tế thế nhân. Miệng
chúng tôi thường nếm những lá hoa cây cỏ kim thạch trong cõi Ta bà này. Tất cả
những vị: Mặn, lạt, chua, cay, ngọt, đắng… vị biến đổi sanh, vị hòa hợp có; vị nào
lạnh vị nào nóng thứ có độc, thứ không tôi đều biết cả. Được phục vụ chư Phật
và tất cả chúng sanh, rõ biết tánh chất của vị trần: Không phải không, không
phải có, không phải tức thân tâm, không phải ly thân tâm. Nhờ tôi phân biệt Vị
trần mà được khai ngộ. Phật ấn chứng cho chúng tôi danh hiệu là Dược
Vương và Dược Thượng Bồ Tát. Nay Phật hỏi nhân duyên và phương tiện được viên
thông, xin thưa: Đối với chúng tôi vị trần là ưu việt
nhất.
Ông Bạt Đà Bà La cùng với mười sáu vị tăng
sĩ đồng là đạo bạn cùng đứng dậy cung kính chấp tay thưa:
- Bạch Thế Tôn! Bọn tôi trước kia ở thời
Phật Oai Âm Vương, nghe pháp xuất gia. Lúc chư Tăng tắm, tôi theo thứ lớp vào
nhà tắm để tắm. Bỗng nhiên tôi tư duy và nhận thức rằng: Nước vốn không rửa bụi
và cũng chẳng rửa chân, trung gian an nhiên lặng lẽ. Tôi tâm đắc tột độ cái
chân lý: "Chẳng có gì". Tập quán trước không quên, đến nay tôi theo
Phật xuất gia được quả vô học. Đức Phật thuở ấy gọi tôi với cái tên: Bạt Đà La
(thiên thủ). Do tôi phát hiện tánh mầu nhiệm của xúc trần mà thành Phật tử. Nay
Phật hỏi duyên cớ được viên thông, xin thưa: Đối với tôi xúc
trần là hơn tất cả.
Ông Ma Ha Ca Diếp và bà Tử Kim Quang tỳ
khưu ni v. v… đồng đứng dậy cung kính chấp tay thưa:
- Bạch Thế Tôn! Kiếp xa xưa trong cõi này
có Phật ra đời hiệu Nhật Nguyệt Đăng. Sau khi Phật diệt độ chúng tôi thắp sáng
ngọn đèn chánh pháp để cúng dường; đem tâm trong sáng vàng thắm thếp tô Phật
tượng. Do đó đời đời kiếp kiếp thân thường viên mãn, rực rỡ như vàng ròng. Bọn
Tử Kim Quang tỳ khưu ni đây cũng đồng phát tâm như tôi vậy. Chúng tôi quán sát
sáu trần luôn luôn biến hoại. Tôi trụ tâm trong vắng lặng, nhập định diệt tận,
thân tâm rỗng rang, thời gian trăm nghìn kiếp tựa hồ như trong cái khảy móng
tay. Do thành tựu pháp không quán mà tôi được quả A La Hớn. Thế
Tôn ấn chứng tôi là: Đầu đà đệ nhất; pháp trần thâm diệu nhờ tuệ nhãn tôi được
khai minh, lậu hoặc được dứt trừ. Nay Phật hỏi duyên cớ viên thông,
với sở ngộ chứng của tôi thì pháp trần là tối thượng.
TRỰC
CHỈ
Khi con người diệt hết hoặc Kiến tư
ra ngoài ba cõi thì gọi là người được giải thoát, giác ngộ. Giải thoát nói cách
khác là người đó có Niết bàn. Vậy, chữ Niết bàn trong đạo Phật là chỉ sự giải thoát
phiền não buộc ràng. Do vô minh tác động hoành hành trong cuộc sống. Bồ đề Niết
bàn là hai mặt thực thể thanh tịnh của con người: Thấy chân lý trọn vẹn, vô
minh phiền não hoàn toàn. Tuy nhiên, Bồ đề Niết bàn có đẳng cấp, không nhất
thiết cùng lúc ai cũng được y nhau. Gọi là đẳng cấp, nhưng không phải như
"ngạch", "trật" do cấp trên nào phong tặng theo cảm tình
thương ghét hay do đánh giá chủng tộc màu da, sang hèn cao thấp… Đẳng cấp ở đây
dựa trên tiêu chuẩn đoạn vô minh trừ phiền não ở chính con người. Do vậy, Bồ đề
Niết bàn có những đẳng cấp sau đây:
Thanh văn Bồ đề
Duyên giác Bồ đề
Bồ Tát Bồ đề
Phật Bồ đề
Đẳng cấp đó nói lên quả vị có thấp cao.
Dù vậy đã là người có Bồ đề vượt ra ba cõi thì sự giải thoát gần giống nhau
không khác mấy. Không khác mấy vì cả bốn đẳng cấp đều không còn quan niệm khổ
đau vì phần đoạn sanh tử chi phối dầy vò. Không khác mấy, nhưng cũng không phải
hoàn toàn đồng, vì trình độ nhận thức chân lý toàn vẹn và chưa toàn vẹn có chênh
lệch khác nhau.
Viên thông có nghĩa viên mãn thông suốt.
Nói viên thông là nói trình độ đạt đạo, nhận thức chân lý của
những người đệ tử Phật. Người có trình độ nhận thức viên mãn thông suốt vượt qua
tri kiến chấp mắc hẹp hòi u ám của phàm phu gọi đó là chứng được viên thông. Ở đây chủ ý Phật gạn hỏi những người có trình độ viên thông cỡ đó. Ở đây không được hiểu viên thông với nghĩa
hoàn toàn trọn vẹn, như cái từ viên
mãn Vô thượng Bồ đề. Vì ở đây
Phật hỏi duyên cớ được viên
thông của Thanh Văn Duyên Giác
Bồ Tát mà người đọc đã nhận thức rõ ràng.
Một sự kiện đáng vui mừng phấn khởi cho
những người con Phật có ý chí ham học ham tu mong giải thoát: Đọc qua hai mươi
lăm vị Thanh Văn lẫn Bồ Tát, các Ngài nói lên nhân duyên đạt đạo, chứng nhập viên thông của các Ngài mà ta thấy vô cùng sung sướng. Thì ra cái sự kiện làm ra
thành quả viên thông ấy, trong Phật tử chúng ta ai cũng có và ai cũng
có thể biết được rõ ràng. Do đó trong mọi chúng ta ai cũng có khả năng hy vọng
có ngày hiện thực viên thông. Thế mà còn chưa bằng lòng, không cảm thấy sung sướng
thì gọi là tu hành, người ta còn muốn cái gì nữa nhỉ?
Ta đã thấy biết rõ dữ kiện để tạo ra
thành quả viên thông của sáu vị A La Hớn: Kiều Trần Như, Ưu Ba Ly Sa
Đà, chẳng có xa xôi gì làm người ta khó tìm kiếm cả. Các Ngài chỉ dựa trên lục
trần. Dựa trên sáu trần làm đối tượng để tu sửa thân tâm. Vậy mà mỗi Ngài trình
lên với Phật một món "Đệ
nhất" khác nhau. Điều đó
nói với mọi người rằng: Gọi là thuốc hay, không có thuốc nào hay với tất cả mọi
con bệnh. Pháp môn có "vi diệu" cũng không phải "vi diệu" cho
mọi căn cơ. Cái biết của người bệnh là khéo biết chọn thuốc hạp bệnh mà dùng.
Cái trí của người con Phật, phải khéo chọn pháp môn thích ứng căn cơ mà tu tập.
Vềâ sáu trần, trần nào cũng là dữ kiện
cho các thánh chứng "viên
thông". Định nghĩa theo
văn tự: "trần"có nghĩa là nhiễm ô, nhưng nó chỉ nhiễm ô khi
nó tác động vào lục căn của con người chưa tự chủ. Cho nên định nghĩa "trần"
qua nghĩa nhiễm ô là định nghĩa đứng bên "tục đế", duyên sanh hiện tượng.
Với nhãn quan của những bậc giác ngộ có khả năng tự chủ mà nhìn thì trần
vẫn là một hiện tượng biểu hiện phát xuất từ Như Lai tàng thanh tịnh, có tội
lỗi gì đâu!
Bằng nhận thức khách quan, ai cũng có
thể thấy biết: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, đã làm gì nên tội? Nên tội là
do con người. Con người đam mê trần với tâm động hắc ám với khát vọng điên
cuồng đánh mất đi lý trí. Lý trí mà còn đánh mất thì "chân tâm thường trú"đối với hạng người này, có tìm đi nữa cũng là
kẻ: đáy nước mò trăng.
Sự thành công của các A La Hớn là khéo
vận dụng các tri kiến: Như thị tri, như thị kiến, như thị tín giải, bất sanh
pháp tướng để làm cơ sở giác ngộ giải thoát cho mình.
Có câu rằng:
"Trần chẳng tương quan, biển cả
nương dâu mặc thay đổi.
Tâm không sở đắc, thông xanh mây trắng tự vui nhàn".
Ông A Nan Luật Đà đứng dậy cung kính chấp
tay thưa: Bạch Thế Tôn! Lúc tôi mới xuất gia thường ưa thích nằm và ngủ li bì.
Như Lai quở tôi là loại súc sanh. Nghe lời quở của Phật, tôi thầm khóc, tủi hổ
và tự trách mình. Tôi cương quyết thề không ngủ và tôi thức suốt bảy ngày đêm.
Hai con mắt tôi bệnh và hư mất. Thế Tôn thương dạy cho tôi pháp: Lạc kiến
chiếu minh kim cang tam muội. Sau khi được tam muội, tôi thấy suốt hiện
tượng trong mười phương như trái chanh trái quít để trên bàn tay. Như Lai ấn
chứng cho tôi quả A La Hớn. Nay Phật hỏi nguyên nhơn nào được viên thông,
xin thưa: Theo chỗ tâm đắc của tôi là Xoay tánh thấy của nhãn căn trở
về bản thể thanh tịnh bản nhiên là ưu việt nhất.
Ông Châu Lợi Bàn Đặc đứng dậy cung kính
chấp tay bạch Phật: rằng tôi vì thiếu trì tụng kinh điển nên không có tuệ đa
văn. Khi mới gặp Phật, tôi xin xuất gia nghe học pháp Phật tôi cố nhớ một bài
kệ của Như Lai mà không sao nhớ nổi. Tôi gắng học suốt cả một trăm ngày, nhớ
đoạn trước thì quên câu sau; nhớ đoạn sau lại quên câu trước. Phật thương tôi
ngu muội, dạy tôi ở một nơi yên tĩnh tu tập pháp môn điều hòa hơi thở ra vào.
Bấy giờ tôi vận dụng quán trí theo dõi từng hơi thở, từ thô đến vi tế, từng sát
na nhiếp ý, vận dụng tư duy, chia hơi thở thành bốn thời kỳ: Hít vô gọi là sanh.
Đầy hơi gọi là trụ. Thở ra gọi là dị. Mãn hơi gọi
là diệt. Thực hiện một thời gian, tâm tôi bừng sáng rỗng rang
được đại vô ngại, các lậu hoặc dứt hết thành A La Hớn. Trước pháp tòa, Phật ấn
chứng cho tôi thành quả vô học. Nay Phật hỏi viên thông, theo chỗ
sở hành của tôi: Tập trung tư tưởng xoay vào quán hơi thở ra vào minh bạch, là
pháp hành hiệu quả nhất.
Ông Kiều Phạm Ba Đề đứng dậy cung kính chấp
tay bạch Phật: Rằng tôi mắc khẩu nghiệp trong kiếp quá khứ, nhiều đời phải tật
nhơi mãi như trâu. Như Lai thương, dạy cho tôi pháp: Nhất vị thanh tịnh
tâm địa. Nhờ đó tôi diệt phân biệt, được tam ma đề. Tôi quán chiếu
rằng: Tánh biết vị không phải do thân thể, cũng không phải do ở ngoại vật. Do
đó, trong thì thân tâm giải thoát; ngoài thì như rời bỏ thế gian. Viễn ly ba cõi
như chim sổ lồng; cấu nhiễm không còn, tiêu vong hóa trần tướng, pháp nhãn
thanh tịnh, được quả A La Hớn. Như Lai ấn chứng cho tôi lên hàng vô học. Nay
Phật hỏi phương tiện được viên thông, xin thưa: Theo tôi thì: trả
vị về cho phân biệt của thiệt căn là ưu việt nhất.
Ông Tất Lăng Già Bà Ta đứng dậy cung kính
chấp tay bạch Phật rằng: Lúc tôi mới phát tâm xuất gia theo Phật, thường nghe
Phật dạy: "Cuộc đời chẳng có gì vui". Đang khi đi khất thực, vừa đi
vừa tư duy lời Phật, bỗng dưng tôi đạp phải cái gai độc. Cả mình đều đau đớn.
Trong lúc đau đớn, tôi quán chiếu tư duy: Giác tâm thanh tịnh vốn không có cái
đau và cái biết đau! Một thân thể lẽ đâu lại có hai tánh biết! Nhiếp niệm không
bao lâu thân tâm bỗng nhiên rỗng rang thanh tịnh. Hai mươi mốt ngày sau, các
lậu hoặc được tiêu trừ, Phật ấn chứng cho tôi lên hàng vô học chứng A La Hớn
quả. Nay Phật hỏi duyên cớ nào được viên thông, xin thưa, đối với
tôi: Nắm giữ giác tánh xem nhẹ thân căn là thành công dễ nhất.
Ông Tu Bồ Đề đứng dậy cung kính chấp tay
bạch Phật rằng: Từ nhiều kiếp đến nay, tôi vẫn được tâm vô ngại thường trú nơi
không tịch. Sự vật hiện tượng trong mười phương đối với tôi trở thành
"chân không hóa" chẳng chút vương víu buộc ràng. Như Lai phát minh
tánh giác là chân không; tôi tư duy thể nhập: Bảo minh không hải tam
muội, tri kiến đồng như Phật. Tôi được Phật ấn chứng lên hàng vô học A La Hớn.
Nay Phật hỏi nhơn duyên được viên thông, theo chỗ chứng ngộ của
tôi: Quán các tướng đều là phi tướng. Cái phi tướng đối tượng cũng không lưu
lại. Nhìn hiện tượng vạn pháp đúng như thật của nó: "Có mà thật
chẳng có gì", đối với tôi, đó là phương tiện chinh phục ý
căn hữu hiệu nhất.
TRỰC
CHỈ
Căn sở dĩ là căn vì
sáu cơ quan này ví như gốc rễ để rồi từ đó sanh ra nhánh nhóc chồi tược vô minh
lậu hoặc, gây ra khổ đau cho cuộc sống con người. Đó là cách định nghĩa trên
mặt tục đế trên hiện tượng tùy duyên của vạn pháp. Nếu nhìn bên góc cạnh khác,
người ta thấy căn chỉ là một dạng vật chất, phát xuất từ tứ đại duyên
sanh như vô vàn hiện tượng duyên sanh khác. Điều mà ai cũng biết: Vật chất biểu
hiện vô vàn hình thái hiện tượng khác nhau, nhưng không có cái thứ vật chất nào
làm cho con người nên tội. Cũng như thế, trần là hiện tượng thu gọn, tổng kết
vật chất qua sáu dạng: sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp trong cái từ lục trần, thì đã có thứ nào làm nên tội lỗi cho ai? Cho nên ta kết luận rõ
ràng rằng căn cũng như trần đều không phải là
nguyên nhân gây nên tội lỗi. Chẳng những thế mà còn ngược lại: Căn trần đều là những dữ kiện để đạt đạo thành tựu viên thông. Thể nhập sâu sắc tự đáy nguồn chơn lý đó. Lục Tổ Huệ Năng thốt ra
bài kệ bất hủ trong các chốn tòng lâm kim cổ:
"Phật pháp tại thế gian
Bất ly thế gian giác
Ly thế mích Bồ đề
Kháp như cầu thố giác"
Với người giỏi làm kinh tế, họ nhìn ao,
hồ, sông, bãi đất hoang họ cũng thấy tiền là tiền, và trong những chỗ đó họ làm
ra tiền được. Một lương y thượng hạng với đám cỏ dại mà họ dẫm qua, lá hoa lùm
bụi mà họ luồn lách đi vào, trong đó, dưới mắt họ vô vàn diệu dược có thể cải
tử hoàn sanh cho những con bệnh đang nằm bên đó mà khổ, mà đau rên siết.
Người học Phật không được quên vấn đề
đơn giản mà ý nghĩa báu mầu vô giá này: "Hàng độc giác nhị thừa tư duy
quán xét cảnh hoa rơi, trái rụng, lá úa cành khô mà đạt đạo" đấy!
Phản quán sáu căn nội tại, thành A La
Hớn quả, chứng được viên thông rõ ràng không phải là việc khó hiểu xa vời. Người
có tư duy, muốn đi và khởi sự đi trên con đường giải thoát, nhất định sẽ đến
đích Niết bàn Bồ đề vô thượng.
Ông Xá Lợi Phất đứng dậy cung kính chấp
tay thưa: Bạch Thế Tôn! Từ nhiều kiếp đến nay, sự nhận thức của tôi thường
thanh tịnh. Số kiếp thọ sanh lên xuống nhiều như số cát sông Hằng. Do vậy mà
các pháp biến hóa thế gian, xuất thế gian một khi thấy là tôi nhận thức không
xa chân lý, được vô chướng ngại. Trong lần gặp gỡ giữa đường, anh em ông Ca
Diếp dụng ý theo tôi để thuyết pháp. Các ông nói cho tôi nghe về giáo lý nhân duyên
sâu xa của Phật. Nhân buổi đàm đạo đó, tôi được tỏ ngộ; nhận thức được rằng:
"Tâm không ngằn mé". Rồi tôi theo Phật xuất gia. Trí
tuệ sáng suốt ngày càng viên mãn, được đại vô úy, thành A La Hớn quả, trưởng tử
Phật. Nay Phật hỏi nguyên nhân tỏ ngộ viên thông, xin thưa: Theo
chỗ chứng đắc của tôi thì sự nhận thấy rõ ràng, nhận thức đánh giá chính xác
đúng như thực của sự vật hiện tượng là thành công ưu việt nhất.
Bồ tát Phổ Hiền đứng dậy cung kính chấp
tay bạch Phật: Rằng tôi đã từng làm Pháp vương tử cho các Như Lai nhiều như số
cát sông Hằng. Mười phương Như Lai dạy các đệ tử Bồ Tát tu hạnh Phổ Hiền chính
là do dựa theo đức tinh tấn của tôi mà đặt ra cái tên Phổ Hiền Hạnh.
Bạch Thế Tôn! Tôi sử dụng tánh nghe của
tâm mà nhận biết nguyện vọng của chúng sanh, nếu có chúng sanh phát hạnh Phổ
Hiền. Do vậy, giả sử ở một phương khác, cách ngoài hằng sa thế giới, có chúng
sanh phát hạnh Phổ Hiền thì liền trong lúc ấy, tôi cỡi voi sáu ngà, phân thân
trăm nghìn đến chỗ người ấy. Phỏng sử người kia nghiệp chướng sâu dày chưa thấy
được tôi, tôi cũng thầm kín xoa đầu an ủi ủng hộ khiến cho sở nguyện thành tựu.
Nay Phật hỏi nguyên nhân tu chứng viên thông, tôi xin thưa: Sử
dụng tánh nghe của nội tâm mà nhận biết tự tại, đối với tôi là pháp môn ưu việt
nhất.
Ông Tôn Đà La Nan Đà đứng dậy cung kính
chấp tay thưa với Phật: Lúc tôi mới xuất gia theo Phật học đạo, trong khi tu
tam ma đề, tâm thường tán loạn. Ðức Thế Tôn dạy tôi quán điểm trắng ở chót mũi.
Tôi bắt đầu thực hành, trải qua thời gian hai mươi mốt ngày, thấy hơi thở trong
mũi ra vào như khói; thân tâm trong sáng như ngọc lưu ly. Tướng khói lần lần không
còn, tâm tôi được khai ngộ, các lậu tận sạch trong, thành A La Hớn. Thế Tôn thụ
ký cho tôi thành quả Bồ đề. Nay Phật hỏi sở nhân được viên thông,
xin thưa: Đối với tôi tập trung ý niệm, quán hơi thở và điểm trắng ở tỷ
căn là thành tựu hữu hiệu nhất.
Ông Phú Lâu Na Di Đa La Ni Tử đứng dậy
cung kính chấp tay bạch Phật: Tôi từ nhiều kiếp đến nay biện tài vô ngại, tuyên
thuyết các pháp: khổ, không, hiểu sâu thật tướng: cho đến những pháp môn bí mật
như hằng sa của Như Lai, tôi có thể diễn giảng trước đại chúng không hề có sự
sai lầm và sợ sệt. Thế Tôn biết tôi có đại biện tài, dạy tôi tuyên dương chánh
pháp, giúp Phật chuyển pháp luân. Tôi nhờ giảng nói chánh pháp mà được quả A La
Hớn. Thế Tôn ấn chứng cho tôi là: "thuyết pháp đệ nhất". Nay Phật hỏi
nguyên nhân được viên thông, xin thưa: Tôi dùng pháp âm hàng phục
tà ma ngoại, tiêu trừ hoặc lậu là ưu việt nhất.
Ông Ưu Ba Ly đứng dậy cung kính chấp tay
bạch Phật: Rằng chính tôi theo Phật vượt thành xuất gia. Tôi thấy Như Lai sáu
năm cần khổ, cuối cùng hàng phục tà ma, chế ngự ngoại đạo, giải thoát các lậu
thế gian. Phật dạy tôi trì giới, giữ gìn tánh nghiệp, giá nghiệp của thân miệng,
ý, giữ vẹn ba nghìn oai nghi, tám vạn tế hạnh. Nhờ vậy, thân tâm tịch tịnh
thành quả A La Hớn. Nay làm kỷ cương trong đại chúng, Như Lai ấn chứng tôi là
"trì luật đệ nhất". Hôm nay Phật hỏi phương tiện được viên
thông, xin thưa: Đối với tôi do giữ gìn thân được thanh
tịnh. Thân đã thanh tịnh thì tâm sẽ thanh tịnh theo. Đó là phương pháp uốn dẹp
tu sửa thân tâm hữu hiệu nhất.
Ông Đại Mục Kiền Liên đứng dậy cung kính
chấp tay bạch Phật: Rằng lúc nọ tôi đi khất thực giữa đường được ba anh em ông
Ca Diếp: Ưu Lâu Tần Loa, ông Dà Gia và Na Đề giảng nói lý nhân duyên thậm thâm
của Phật, tâm tôi bừng ngộ thông suốt rỗng rang. Như Lai ban cho ca sa mặc vào
thân, râu tóc tự cạo. Tôi có khả năng du hí khắp mười phương không trở ngại. Đại
chúng suy tôn tôi là "thần thông đệ nhất", trong hàng vô học A La Hớn.
Nay Phật hỏi viên thông, xin thưa: Tôi xoay ý thức trở về tánh
sáng suốt trạm nhiên. Giống như lóng nước đục, lóng nước lâu trở về tự thể
trong sạch. Đó là phương tiện tu sửa đối với tôi hữu hiệu nhất.
TRỰC
CHỈ
Thức là dụng của căn,
là chủ thể nhận thức phân biệt trần. Đó là tánh thấy của mắt, tánh nghe của tai, tánh
ngửi của mũi, tánh nếm của lưỡi, tánh xúc của thân, tánh tư duy của ý. Gọi
chung qua cái từ lục thức, tức là sáu công dụng của sáu giác quan.
Năm thức trước tiếp xúc với năm trần sự
lượng định để nhận thức, chúng chỉ có hiện lượng. Cho nên
chúng chẳng lượng định phân biệt gì. Do đó công dụng của năm thức trước không
có ý niệm: mừng, giận, thương, sợ, yêu, ghét… phải, quấy, tốt, xấu, lấy, bỏ,
hơn, thua… cho nên năm thức trước không thể tạo nên nghiệp thiện hay
ác. Chỉ có ý thức ngoài hiện lượng ra, còn có thêm hai lượng: tỷ và phi
lượng.
Năm thức trước, nếu chung khởi với phi lượng của ý thức, sẽ gây ra sự sai quấy hoàn toàn đối với chơn lý.
Năm thức trước nếu chung khởi với tỷ lượng của ý thức thì sự nhận thức của con người có thể đúng mà cũng có thể
sai. Nhận thức đúng chơn lý, trường hợp này được gọi là thiện.
Nhận thức sai chân lý thì gọi là bất
thiện, là ác.
Từ nhận thức đó, ta thấy thức
cũng không phải là nguyên nhân để sanh ra thiện ác tội phước.
Tội là do bất giác vô minh, do mê.
Phước thì chỉ cần cảnh giác, cần sáng suốt không mê là
trở nên người giác. Cho nên gọi là "tu" không cần phải dựa
trên hình thức này, nghi lễ nọ, cúng bái cầu đảo rườm rà. Chỉ cần cảnh giác
phiền não: tham, sân, si, mạn… Chỉ cần tâm trí sáng suốt để nhận biết: ta - bạn
- giặc. Đừng để kẻ giặc cướp vô minh phiền não vào nhà chơn tâm thường trú, thể tánh tịnh minh cướp phá sự nghiệp trí tuệ giác ngộ giải thoát của
ta. Chỉ cần không mê thì ta là giác. Chỉ cần không vọng, ta tự sẵn có chơn.
Tu mà chú trọng nhập thất, đóng cửa tự
giam mình lễ bái "trú dạ lục thời", nguyện tụng bộ kinh này, thệ trì
danh Phật nọ, hy vọng khấn vái chư Phật mười phương: "thùy từ gia
hộ": "gia hộ cho con hiện tiền tội diệt phước sanh, thiện căn tăng
trưởng", và "tha nhật đắc A Di Đà thọ ký"… Đó là lối tu theo cái
đạo cầu bên ngoài. Lục Tổ Huệ Năng gọi hạng người đó là "ngoại đạo". Ngoại đạo có nghĩa là cái đạo hy vọng ở tha nhân, cái đạo
"ngồi chờ sung rụng" vào mồm.
Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật của
chúng ta, từ kim khẩu đã từng thọ
ký rằng:
"Tất cả chúng sanh đã thành
Phật"
(kinh Pháp Hoa)
"Tất cả chúng sanh sẽ thành
Phật"
(kinh Hoa Nghiêm)
Thọ ký như vậy mà chưa vừa lòng, chưa
thỏa mãn hay sao? Mà còn cầu:
"Tha nhật đắc A Di Đà thọ
ký!…" Phật tử chúng ta hãy soát lại lòng mình. Một con người tham lam vô
độ, có xứng đáng là đệ tử Phật chưa? Hàng cư sĩ không có thời giờ học hỏi giáo
lý, tham lam cầu: "Tha nhật đắc A Di Đà thọ ký" còn có lý do để tha
thứ. Chớ Tăng Ni, người trưởng tử Phật Thích Ca mà không tin lời thọ ký
của đức Bổn Sư mình, thì xin ai đó, hãy để lòng tự xét…
Hay là người ta viện lẽ…
"Phật nhà không thiêng…"
Ông Ô Sô Sắc Ma đứng dậy cung kính chấp
tay bạch Phật: Tôi nhớ những kiếp xa xưa, tánh tôi nhiều tham dục. Bấy giờ nhằm
thời Đức Phật Không Vương trụ thế. Đức Không Vương Như Lai bảo rằng:
"Người đa dâm như đống lửa hồng". Rồi Phật dạy tôi quán hơi nóng
trong cơ thể cả khắp tứ chi. Nhờ quán như vậy tinh thần sáng suốt, nội tâm đứng
lặng, tâm háo dâm trở thành lửa trí tuệ. Từ đó, chư Phật gọi tôi với cái tên
Hỏa Đầu. Tôi dùng sức hỏa quang tam muội mà chứng quả A La Hớn. Tôi phát đại
nguyện, nếu có chư Phật thành đạo thì tôi làm lực sĩ hầu cận Phật để đánh dẹp bọn
tà ma khuấy phá. Nay Phật hỏi nhân duyên được viên thông, xin
thưa rằng: Do tôi quán hơi ấm trong thân, lưu thông không ngăn ngại; từ đó các
lậu tiêu trừ, sanh lửa trí tuệ. Đối với tôi, đó là pháp tu hữu hiệu nhất.
Ngài Trì Địa Bồ Tát đứng dậy cung kính
chấp tay bạch Phật: Rằng tôi nhớ lại trong những kiếp xa xưa, tôi từng được gặp
Phật và cúng dường chư Phật như hằng sa, và cũng từng phục vụ vô lượng chúng
sanh đem đến chúng sanh nhiều lợi lạc. Trong một kiếp nọ, ở vào thời Phật Phổ
Quang trụ thế, tôi là một tỳ kheo phát tâm sửa chữa những đoạn đường gồ ghề sụp
lở, những bến xe, bến đò bất tiện cho sự đi lại của nhiều người. Ngoài những công
trình gánh đất, bưng sỏi, đắp bồi sửa chữa như vậy, tôi còn mang gánh giúp đỡ
những người gánh gồng nặng nhọc ở chợ búa mà không lấy tiền công.
Vào thời Phật Tỳ Xá Phù trụ thế, nhân gian
nhiều đói kém, tôi phải cỏng giúp nhiều người không kể gần xa mà chỉ lấy một
đồng tiền… có lúc tôi ra sức kéo phụ xe trâu qua những nơi quá lầy lội. Có lúc
vì Phật tôi sửa đường bằng phẳng đợi Phật đi hóa trai.
Một hôm Đức Tỳ Xá Phù Như Lai đi qua đoạn
đường tôi vừa sửa chữa. Phật xoa đầu tôi mà dạy rằng: "Nên bình cái tâm
địa thì đất đai trên thế giới đều bình". Tôi nghe, tâm liền sáng bừng tỏ
ngộ. Tôi quán thấy vi trần trong cơ thể cùng tất cả vi trần tạo thành thế giới
bên ngoài không sai khác gì nhau. Tự tánh vi trần không chạm sát với nhau, cho
đến đao binh các thứ tự nó cũng không va chạm gì. Nhờ nhận thức như vậy, tôi tỏ
ngộ vô sanh nhẫn, thành A La Hớn hồi tâm. Nay ở trong hàng Bồ Tát nghe Phật
dạy: Tri kiến Phật như diệu liên hoa, tôi lãnh hội trước tiên,
đại chúng suy tôn là thượng thủ. Nay Phật hỏi nguyên do đạt đến viên
thông, xin thưa: Do tôi quán trần ở nội thân và trần cấu của thế giới
bên ngoài bình đẳng không sai khác. Tất cả từ Như Lai tàng tùy duyên biến hiện.
Vọng tâm chấp mắc trần tướng tiêu vong thì trí tuệ viên mãn thành đạo Bồ Đề. Đó
là đối tượng sở quán, đối với tôi đem lại thành công ưu việt nhất.
Ngài Nguyệt Quang đồng tử đứng dậy cung
kính chấp tay bạch Phật: Rằng tôi nhớ hằng sa kiếp trước có Đức Phật ra đời
hiệu Thủy Thiên. Thủy Thiên Như Lai dạy các Bồ Tát nên quán về nước để
nhập tam ma đề. Phật dạy quán tánh nước không gì lấn cướp làm cho mất hẳn được.
Từ nước mắt, nước mũi, nước miếng, nước tiểu, nước tân dịch trong châu thân…
đều quán một tánh nước đồng nhau. Tánh nước trong tự thân cùng tánh nước các bể
hương thủy phù trần vương sát của thế giới bên ngoài, đồng nhau không sai khác.
Lúc tôi thành tựu pháp thủy quán này, tôi chỉ thấy được tánh đồng của nước mà
chưa thấy được "thân không". Hồi bấy giờ, tôi là một tỳ kheo tọa
thiền trong một tịnh thất, có người đệ tử trông cửa sổ nhìn vào, thấy toàn là
nước. Vì nhỏ dại nó liền lấy một miếng ngói ném vào, rồi tự bỏ đi. Khi xuất
định tôi thấy tim đau một cách lạ thường. Truy nguyên ra duyên cớ, tôi bảo
người đệ tử: Khi tôi nhập định, trông thấy nước trong thất thì hãy vào nhặt
miếng ngói mà người đã ném ấy ra. Quả thật, khi xuất định, tôi không còn đau
đớn nữa.
Qua vô lượng kiếp sau tôi được gặp vô
lượng Phật, nhưng chưa chứng ngộ. Mãi đến thời Sơn hải Huệ Tự Tại Thông Vương
Như Lai thì tôi mới chứng được "không thân". Bây giờ tôi thấy rõ nước
trong tự thân cùng với nước bể Hương Thủy trong mười phương thế giới đồng một
tánh chân không, không sai khác. Ở nước Phật Sơn Hải Huệ Tự Tại, tôi được hiện
là Đồng Chân, dự vào hàng Bồ Tát. Nay Phật hỏi nguyên nhân được viên
thông, xin thưa: Do tôi quán tánh nướcdung thông mà được
vô sanh nhẫn. Đối với tôi, pháp Thủy quán là ưu việt nhất.
Ngài Lưu Ly Quang Pháp Vương Tử đứng dậy
cung kính chấp tay bạch Phật: Tôi nhớ lại hằng sa kiếp trước có Phật ra đời
hiệu là Vô Lượng Thanh. Phật khai thị cho các Bồ Tát về: Bản giác diệu
minh. Dạy các Bồ Tát quán: Thế giới và chúng sanh đều do sự vận động
của sức gió vọng duyên chuyển biến mà hình thành. Riêng tôi, lúc
bấy giờ, tôi quán không gian an lập; quán thời gian trôi đi mãi; quán thân, khi
động khi dừng; quán tâm, niệm trước diệt, niệm sau sanh… Tất cả những chuyển
động biến diệt, tôi thấy không hai không khác. Tôi nhận thức rõ rằng tánh của
các thứ động: Đến không chỗ từ, đi không chỗ tới. Tất cả chúng sanh trong tam thiên
đại thiên thế giới có trong pháp giới mười phương do sức gió vọng duyên mà
hình thành, mà sanh hoạt với nhau trong tánh bản giác diệu minh, chân tâm
minh diệu. Giống như hàng vạn muỗi mòng trong một cái đồ đựng, kêu vo
vo rầm rỉ, ào ào rối rít với nhau.
Tôi quán sát tư duy như vậy, không bao
lâu, tôi được vô sanh pháp nhẫn làm vị Pháp Vương tử. Nay Phật hỏi viên
thông, xin thưa: Do tôi quán tánh phong đại "đi
không chỗ từ, đến không chỗ tới" mà tỏ ngộ tâm Bồ Đề. Đối với tôi thì quán
phong đại là đệ nhất.
Ngài Hư Không Tạng Bồ Tát đứng dậy cung
kính chấp tay bạch Phật: Tôi nhớ lại tôi cùng Như Lai đồng chứng được "vô
biên thân" hồi thời Phật Định Quang. Lúc đó tay tôi cầm bốn đại bảo châu
chiếu sáng cõi Phật mười phương như số vi trần đều hóa thành hư không. Bấy giờ
tâm tôi sáng suốt thành trí Đại Viên Cảnh. Tôi quán sát khắp phù trần hương sát
cùng tột hư không, nhập vào thân tôi. Thân tôi và hư không không ngăn ngại gì nhau.
Do vậy, tôi khéo vận dụng hài hòa vào cõi nước như vi trần làm Phật sự được
thuận lợi lớn lao. Sức thần to lớn đó do tôi quán sát tứ đại không có chỗ sở y.
Do vọng tưởng mà thấy có diệt có sanh. Hư không không hai, cõi Phật vốn đồng.
Do tôi phát minh được tánh đồng mà chứng được vô sanh pháp nhẫn. Nay Phật hỏi
duyên nhơn nào được viên thông, xin thưa: Do tôi quán chiếu hư
không vô biên mà thể nhập tam ma đề là phương tiện ưu việt nhất.
Ngài Di Lặc Bồ Tát đứng dậy cung kính chấp
tay bạch Phật: Tôi nhớ lại vi trần kiếp trước có Đức Phật hiệu Nhật Nguyệt Đăng
Minh. Tôi được theo Phật xuất gia, nhưng tâm còn trọng hư danh thế gian, ưa
giao du với các hàng vọng tộc. Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh dạy tôi tu tập định: Duy
tâm thức và tôi được nhập tam ma đề. Trải hằng sa số kiếp đến nay, tôi
sử dụng tam muội ấy, phụng sự hằng sa chư Phật, tâm cầu danh, được diệt hết.
Đến thời Phật Nhiên Đăng ra đời tôi mới chứng được tam muội thức tâm diệu
viên vô thượng. Bấy giờ tôi quán thấy cõi nước của chư Như Lai, tột bờ
mé hư không, tịnh uế, có không đều do thức tâm biến hiện.
Bạch Thế Tôn! Do tôi tỏ ngộ Duy tâm
thức, thức tánh của tôi xuất hiện vô lượng Như Lai, và hiện nay được
Phật thọ ký, tôi sẽ được bổ xứ thành Phật ở cõi Ta Bà sau này. Nay Phật hỏi
nguyên nhân viên thông, xin thưa: Tôi quán mười phương đều Duy
thức. Thức tâm tròn sáng thì xa lìa tánh biến kế, nhận thức đúng thực thể của
tánh y tha khởi thì chứng nhập tánh viên thành thật, được vô sanh nhẫn. Đối với
tôi đó là pháp quán ưu việt nhất.
Ngài Đại Thế Chí Pháp Vương Tử cùng với 52
vị Bồ Tát đồng tu một pháp môn cùng đứng dậy cung kính chấp tay bạch Phật: Tôi
nhớ hằng sa kiếp trước có Đức Phật ra đời hiệu Vô Lượng Quang. Thời đó có 12
Đức Phật ra đời trong một kiếp. Đức Phật sau hết hiệu là Siêu Nhật Nguyệt Quang
dạy cho tôi phép niệm Phật tam muội: Rằng Thập phương Như Lai thương nhớ chúng
sanh như mẹ nhớ con. Nếu con cũng đồng nhớ mẹ như mẹ nhớ con thì đời đời mẹ con
không xa cách. Tâm chúng sanh nhớ tưởng Phật thì tâm ấy là Phật. Nhất định thấy
Phật, không cần phương tiện nào khác. Ví như người ướp hương thì toàn thân thể
sẽ thành thơm, ấy gọi là hương quang trang nghhiêm. Chính tôi nhờ niệm Phật mà
được vô sanh nhẫn. Nay ở cõi Ta Bà, tôi nguyện hướng dẫn người niệm Phật để có
được tịnh độ. Phật hỏi nhân duyên nào được viên thông, xin thưa:
Tôi thu nhiếp tất cả sáu căn không vọng niệm. Do chánh niệm tương tục mà được
tam ma đề đối với tôi đấy là pháp môn thù thắng nhất.
TRỰC
CHỈ
Đại có nghĩa là bao trùm phổ biến khắp
không gian và thời gian. Địa, thủy, hỏa, phong, không, kiến, thức. Phật học gọi
đó là thất đại, vì bảy thứ này phổ biến không chỗ nào không có. Không gian,
thời gian, hàm tàng thất đại không dư không thiếu; nói cách khác tự thể không
gian, thời gian là thất đại ấy. Nếu tách bỏ thất đại ra, không thể có khái niệm
không gian và thời gian. Do thất đại mà khái niệm không gian và thời gian được
cụ thể hóa, được hình thành. Thất đại là nguyên nhân trực tiếp của hiện tượng
vạn hữu, duyên khởi sanh ra hiện tượng vạn hữu. Tuy nhiên nó chưa phải là một
đơn vị thực thể cố định bất di bất dịch, một yếu tố đầu tiên của hiện tượng vạn
hữu nào. Theo Phật học, không có một sự vật nào có một thực thể cố định bất di
bất dịch của tự nó. Không có một sự vật nào sanh ra mà không kết hợp tương quan
với những yếu tố khác. Chỉ len đan thành chiếc áo len, nhưng chỉ len không phải
là yếu tố đầu tiên của chiếc áo len ấy. Địa, thủy, hỏa, phong, không, kiến,
thức là những hình thái của chủng tử được biểu hiện rõ nét hơn trong Như Lai tàng
bản thể mà thôi.
Nếu hòa hợp bởi năm đại: Địa, thủy,
hỏa, phong và không là đủ yếu tố duyên khởi ra núi sông, đất liền, cây cỏ…
trong vũ trụ.
Nếu hòa hợp đủ bảy đại thì sẽ duyên
khởi sanh ra những loại chúng sanh có tri giác trong vũ trụ.
Trong các loại hữu tình có giác tri,
con người là ưu việt nhất.
Núi sông đất liền cỏ cây hoa lá gọi là
khí thế gian hoặc cũng gọi là vô tình chúng sanh.
Những loài có tri giác gọi là chánh báo
thế gian cũng gọi là hữu tình chúng sanh.
Nhìn bên khí thế gian để tìm hiểu
nguyên ủy của hiện tượng vạn hữu, người ta gọi đó là vũ trụ quan.
Nhìn bên hữu tình thế gian để tìm hiểu
nguồn gốc nguyên thỉ của con người, người ta gọi đó là nhân sanh quan.
Qua giáo lý đoạn kinh Thủ Lăng Nghiêm
này, ta thấy vũ trụ nhân sanh đồng một bản thể. Như Lai tàng bản thể duyên sanh
hiện tượng vạn hữu như nước duyên khởi sóng mòi bọt bong bóng vậy. Với cái nhìn
của người đạt đạo, nhận thức rõ chân lý của hiện tượng vạn pháp qua quy luật:
tùy duyên bất biến, bất biến tùy duyên; người ta tự tại an nhiên thoải mái cả
trong vấn đề sống chết:
"Trường không túng sử song phi cốc
Cự hải hà phòng nhất điểm âu".
Tuệ Trung thượng sĩ, một thiền sư Việt
Nam đời Trần, quan niệm sự sống chết dễ dàng, không chút sợ sệt, lo âu như vậy.
Tạm dịch hai câu thơ đó như sau:
"Cổ xe ảo ảnh trong không
Có ai tham đắm nặng lòng ước ao?
Mặt hồ sóng bọt lao xao
Có ai đau khổ bọt tan sóng bình"?
Do con người nhận thức sai lầm vạn hữu,
đánh giá quá thấp hoặc quá cao. Sự sai lầm đó, phủ lên hiện tượng vạn hữu lớp
sương mù "biến kế chấp" làm cho con người không nhận được thực chất
"y tha duyên" của hiện tượng vạn hữu. Do đó càng không thể biết được
nguồn gốc thanh tịnh bản nhiên của "viên thành thật" trong bản thể
Như Lai tàng. Do đó vọng sanh quan niệm: Sanh, diệt, hữu, vô, đoạn, thường, khứ, lai… loạn khởi.
Các Bồ Tát ngược dòng quán chiếu, thấy
rõ sự thật "y tha" dùng đuốc trí tuệ rọi tan sương mù "biến
kế", nhận chân cái thật tánh "viên thành" của thất đại. Thì ra:
địa, thủy, hỏa, phong, không, kiến, thức vốn là chân không thanh tịnh bản
nhiên, châu biến pháp giới. Không có một pháp nào mang theo, đem đến cho ai một
mảy may vương víu một tí tị phiền não khổ đau nào!
Do vậy, 25 vị thánh đệ tử, dựa trên căn trần, thức và thất
đại đều chứng được quả giải
thoát viên thông.