Đức Phật, theo quan điểm của Thượng Tọa Bộ  (Sthavira) 
 		PHẦN 2
 			Đức Phật, theo quan điểm của  			Thượng Tọa Bộ
 			(Sthavira) 
 			 Nếu  			đứng 
từ góc độ sử học nhìn về Phật giáo Ấn Độ chúng ta sẽ thấy sự  			diễn 
biến tư tưởng của Phật giáo Ấn Độ khá phức tạp. Phật giáo đã  			trải 
qua ba thời kỳ khác nhau, mỗi thời kỳ có hệ thống tư tưởng  			riêng, 
không giống nhau. Đầu tiên là Phật giáo Nguyên thủy, ở giai  			đoạn 
này, Phật giáo chỉ là một tập thể tăng đoàn sống trong tinh  			thần hòa
hợp, lấy sự giác ngộ và giải thoát làm mục đích. Tăng già  			sống bằng đời sống xuất gia, tha phương cầu thực, lấy độc cư thiền định làm
phương  			tiện tu tập, gạt bỏ tất cả những việc liên hệ đến gia đình 
và thế  			sự, không bàn cãi về những vấn đề triết học siêu hình, có thể
nói  			đây là nét đặc trưng của thời kỳ Phật giáo Nguyên thủy. Kế đến 
là  			thời kỳ Phật giáo Bộ phái, đây là thời kỳ trăm hoa đua nở của các
hệ  			tư tưởng Phật học, những vấn đề triết học mang tính siêu hình mà
trước đây đức Phật giữ thái độ im lặng, giờ đây đã được các bộ phái
đem ra mổ xẻ phân tích và thảo luận. Tư tưởng cho rằng 'các pháp là
thật có' của phái Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ (Sarvàstivadin) trở 
thành  			hệ tư tưởng chính của thời kỳ này. Nó cũng là yếu tố để hình 
thành  			tư tưởng 'các pháp là không' của Phật giáo Đại thừa. Có thể 
nói, đây  			là quá trình phát triển tư tưởng của Phật giáo Ấn Độ.
 			 Trong quá 
trình phát triển này, một  			dấu mốc lịch sử tư tưởng của Phật giáo Ấn 
Độ mà chúng ta cần được  			chú ý là tư tưởng về Năm việc của Đại 
Thiên (Mahàdeva)[1]  
đã làm cho nội bộ tăng đoàn phân chia thành hai trường phái lớn là  	
Thượng Tọa Bộ (Sthavira) và Đại Chúng Bộ (Mahsaºghika).  		
Từ hai hệ thống tư tưởng này về sau phát triển thành các hệ tư tưởng  	
của Phật giáo.
 			Theo "Dị
Bộ Tông Luân luận"  			ghi rằng, sau khi đức Phật nhập diệt 
vào khoảng 100 năm, nội bộ tăng  			đoàn có sự bất đồng chánh kiến về Năm
việc của Đại Thiên  			(Mahàdeva). Kết quả của sự tranh cãi đã dẫn
đến sự rạn nứt tăng  			đoàn, phân chia Phật giáo thành hai phái: 
Thượng Tọa bộ (Shàvira) và  			Đại chúng bộ (Mahàsanghika). Nội dung ý 
nghĩa và quá trình diễn biến  			của năm việc khá phức tạp, từ sự tranh 
luận giữa Đại Thiên và các vị  			trưởng lão đến sự tranh cãi giữa hai 
phái Thượng Tọa Bộ và Đại Chúng  			Bộ là hai sự kiện khác nhau về thời 
gian và cũng khác nhau về tư  			tưởng, nhưng chúng ta nhầm lẫn cho là 
một sự kiện, điều đó dẫn đến  			sự nhầm lẫn rằng tư tưởng của Đại Chúng
Bộ là tư tưởng của Đại  			Thiên, nhưng kết quả sự nghiên cứu của tác 
giả thì không là như vậy.  			Nội dung và ý nghĩa của năm việc mà Đại 
Thiên đã đưa ra mang ý nghĩa  			phản bác sự thần thánh hóa đức Phật của
Phật giáo đương thời[2]. 
Nhưng về sau Đại chúng bộ lại là phái thần thoại hóa đức Phật, có  	
nghĩa là quan điểm về năm việc của Đại Thiên với quan điểm về đức  			
Phật của Đại Chúng Bộ hoàn toàn trái ngược nhau. Vậy tại sao trong  			
sử liệu Phật giáo lại ghi rằng, Đại Thiên là người lãnh đạo phái Đại  		
Chúng Bộ? Như vậy, các nhà Đại Chúng Bộ tôn sùng Đại thiên về lãnh  			
vực nào? Tôi cho rằng, Đại Chúng Bộ không phải kế thừa và phát huy  			
tư tưởng năm việc của Đại Thiên mà chỉ kế thừa tinh thần cải cách  			
của ông. Thật đúng như thế, Đại Chúng Bộ vận dụng tinh thần cải cách  		
của ông để cải cách Phật giáo, chuyển đổi mục đích ‘tự độ’ của Phật  		
giáo Nguyên thủy thành mục đích ‘độ tha’ của Phật giáo Đại chúng hay  	
Đại thừa, nhằm mục đích xã hội hóa Phật giáo, thực thi tinh thần cứu  
nhân độ thế, là cơ sở hình thành tư tưởng 'Bồ Tát hạnh' của Phật  			
giáo Đại Thừa về sau[3]. 
Nếu như không có tinh thần phê phán cải cách của Đại Thiên vào buổi 
đầu, thì cuộc canh tân tư tưởng, xã hội hóa Phật giáo của Đại Chúng 
Bộ khó thành công. Sự kiện canh tân Phật giáo cũng phù hợp với thời 
điểm và chính sách lấy Phật giáo làm quốc giáo của nhà vua A Dục  		
(Asoka). Như vậy, Đại Chúng Bộ lấy tinh thần cải cách của Đại Thiên  		
làm nền tảng cho lập trường canh tân của mình, điều đó không có  			
nghĩa Đại Chúng Bộ lấy tư tưởng về năm việc của Đại Thiên làm tư  			
tưởng cho mình.
 			Do vậy, nội 
dung thảo luận của bài  			viết này, nhằm làm sáng tỏ chủ đề: ‘Đức Phật 
theo quan điểm của  			Thượng Tọa Bộ’. 			 			Một vấn đề cần được làm sáng tỏ trước 
khi bước vào nội dung thảo  			luận là khái niệm ‘Thượng Tọa Bộ’ 
(Sthavira), được sử dụng ở đây chỉ  			cho những người có cái nhìn về 
đức Phật không bị thần thánh hóa, dù  			đó là Đại Thiên hay các nhà 
Thượng Tọa Bộ về sau.
 			Bài viết này
không phải là chủ đề  			thảo luận năm việc của Đại Thiên, nhưng tư 
tưởng về năm việc của ông  			có giá trị đề cao vai trò con người. Nghĩa
là lấy con người làm  			trung tâm thảo luận các vấn đề, bác bỏ những 
quan niệm mang tính  			siêu hình và thần thoại, thiếu thực tế, không 
liên hệ đến con người.  			Đây chính là lý do tại sao tôi xem ông như là
một nhân vật của  			Thượng Tọa Bộ. 
 			Trong quá 
trình nghiên cứu về lịch sử  			tư tưởng của Phật giáo Ấn Độ, phát hiện 
trong kinh điển A Hàm hay  			Nikàya có khá nhiều kinh với nội dung có 
liên hệ đến những vấn đề  			tranh cãi giữa các Bộ phái. Ví dụ 'Tiểu
Kinh Khổ Uẩn'  			(Cùladukkhandhasutta) trong "Kinh Trung 
Bộ"  			(Majjhima-Nikàya), đức Phật phủ nhận Ngài là bậc nhất 
thiết trí,  			nhất thiết kiến. Phải chăng, đây chính là điểm căn cứ để 
Đại Thiên  			về sau đưa ra tư tưởng về năm việc, phản bác cách mô tả 
thần thoại  			về đức Phật. Tôi cho rằng, giữa hai tư tưởng này có sự 
liên hệ mật  			thiết. Có thể nói đây cũng chính là cái nhìn về đức Phật
của phái  			Thượng Tọa Bộ hay nói chính xác hơn là quan điểm về đức 
Phật theo "Kinh  			Trung Bộ".
 			Theo tác 
phẩm “Dị Bộ Tông Luân  			Luận”, Phật giáo Thượng Tọa 
Bộ và Đại Chúng Bộ có cái nhìn khác  			nhau về đức Phật. Các nhà Thượng
Tọa Bộ cho rằng, đức Phật là một  			nhân vật lịch sử có thật, với vị 
trí con người Ngài đã nỗ lực tu  			tập, đoạn trừ lòng tham lam sân hận 
và si mê, cuối cùng đã trở thành  			một vị Phật (Buddha), là người đã 
được giác ngộ và giải thoát. Ngược  			lại, các nhà Đại Chúng Bộ thì 
không nhìn đức Phật như vậy mà cho  			rằng đức Phật là người xuất thế 
gian, không phải là người bình  			thường, sự xuất hiện của Ngài chỉ là 
sự 'thị hiện', vì hóa độ chúng  			sanh mà hóa hiện. Lý do là vì muốn 
truyền bá Phật giáo đến xã hội  			cần phải vay mượn, những văn hóa tư 
tưởng, ngay cả cách thần thoại  			về bậc đạo sư của mình, để tạo sự hấp
dẫn quần chúng, làm phương  			tiện giáo hóa chúng sanh. Đây chính là 
sự dị biệt giữa tư tưởng Phật  			giáo Thượng Tọa Bộ và Đại Chúng Bộ.
 			Mục tiêu 
nghiên cứu của bài viết này,  			chủ yếu tìm hiểu quan điểm của các nhà 
Thượng Tọa Bộ về đức Phật. Từ  			đó, gợi ý cho chúng ta có một cái nhìn
mới về năm việc của Đại  			Thiên, có nghĩa là nội dung năm việc của 
Đại Thiên có liên quan mật  			thiết với tư tưởng đức Phật phủ nhận Ngài
là bậc nhất thiết trí,  			nhất thiết kiến trong "Kinh Trung Bộ"
(Majjhima-Nikàya).
 			Nguồn tư 
liệu chính sử dụng trong bài  			viết này là Nikāya,  A Hàm, “Dị
Bộ Tông  			Luân Luận”, "Luận Sự” 			(Kathāvatthu)
và một số kinh điển Đại thừa.v.v... Phương pháp  			nghiên cứu chính là
sử học triết học, tiến hành phân tích các tư  			liệu Phật giáo có liên
quan đến chủ đề nghiên cứu. Hy vọng với  			phương pháp này làm sáng tỏ
một số vấn đề như đã được trình bày  			trên. 
 			 
 			1.  			Đức Phật là nhân vật  			lịch sử 
 			Trong kinh 
điển Phật giáo có hai khái  			niệm khác nhau nhưng cùng mô tả cho đức 
Phật là 'thế gian'  			hay 'xuất thế gian'. Ở đây, 
khái niệm 'thế gian' được  			ám chỉ đức Phật lịch sử và khái 
niệm 'xuất thế gian' chỉ cho  			đức Phật được thần thánh hóa.  
 			Theo các 
nguồn sử liệu ghi lại trong  			kinh điển có liên quan đến lịch sử đức 
Phật, mặc dù không hoàn  			chỉnh, nhưng xác định rằng đức Phật Thích Ca
Mâu Ni (Sàkyas-muni)  			được sinh ra vào khoảng thế kỷ thứ VI trước 
Công nguyên, là người  			miền Trung của nước Ấn Độ, thuộc giai cấp Sát 
đế lợi, dòng tộc Thích  			Ca (Sàkyas), phụ vương là Tịnh Phạn 
(Suddhodana) là vị vua của nước  			Ca Tỳ La Vệ (Kapilavastu), mẹ là 
hoàng hậu Ma Ya (Màya). Theo tục lệ  			đương thời, thái tử Tất Đạt Đa 
(Siddhattha) kết hôn rất sớm với công  			chúa Da Du Đà La (Yasodharà) 
và sanh một người con trai tên là La  			Hầu La (Rahula). Năm 29 tuổi, 
Ngài cảm thấy cuộc sống nhân sanh là  			bất toàn, không như ý muốn, 
phiền não và sầu bi đang phủ vây chính  			Ngài và mọi chúng sanh, vì 
vậy, Ngài đã quyết định rời bỏ hoàng  			cung, vợ đẹp con thơ, xuất gia 
học đạo. Từ đó Ngài trở thành một vị  			đạo sĩ, sống đời sống vô gia cư
lang thang trong rừng núi. Trải qua  			sáu năm tu tập khổ hạnh, thân 
thể chỉ còn da bọc xương, nhưng không  			thành đạt mục đích mà Ngài 
xuất gia học đạo, nên Ngài đã từ bỏ đời  			sống tu tập khổ hạnh. Với 
kinh nghiệm bản thân, Ngài trải qua 49  			ngày đêm tu tập thiền định và
cuối cùng đã giác ngộ và giải thoát,  			được mọi người tôn xưng là 
Phật (Budhha), năm ấy vừa tròn 36 tuổi.  			Sau khi thành đạo, Ngài đem 
cả cuộc đời còn lại của mình hoằng hóa  			chúng sanh, đến năm 80 tuổi 
Ngài nhập diệt. Như vậy Ngài có 45 năm  			thuyết pháp độ sanh, những 
lời dạy của Ngài về sau được các đệ tử  			kết tập lại gọi là ba tạng 
kinh điển bao gồm: Kinh, Luật và Luận.  			Đây là khái quát về lịch sử 
của đức Phật. 
 			Nếu chúng ta
căn cứ nguồn tư liệu A  			Hàm hay Nikàya, có khá nhiều kinh ghi lại 
cuộc đời và sự sinh hoạt  			của đức Phật thật đơn giản và rất là con 
người. Ngài cũng đi đứng  			nằm ngồi, ăn ngủ và thân thể cũng đau bịnh 
giống như con người chúng  			ta, không giống như sự mô tả trong “Thích
Ca Phổ”[4]  
hay trong kinh điển của Phật giáo Đại thừa, đức Phật là một vị 'Siêu 
nhân' không điều gì không biết (vô sở bất tri), không điều gì không 
làm được (vô sở bất năng) và có khả năng thiên biến vạn hóa (vô sở  
bất tại) của đức Phật. 
 			Theo truyền 
thuyết cho rằng, nguyên  			nhân mà Ngài xuất gia là cảm nhận cuộc đời 
là vô thường, cuộc sống  			nhân sanh là đau khổ. Loại khổ đau này, 
ngoài yếu tố khách quan, nó  			còn bao hàm yếu tố chủ quan, như là nỗi 
lo âu khổ đau về sự bất công  			của chế độ đẳng cấp của giai cấp Bà La 
Môn. Họ đã áp đặt lên con  			người của xã hội đương thời, và ngay cả 
nỗi khổ đau lo âu về sự tồn  			vong của nước Ca Tỳ La Vệ mà Ngài sẽ 
phải gánh vác, trước sự đe dọa  			xâm lăng của nước láng giềng Cô Tát 
La (Kosala).vv..Tất cả những ưu  			tư khổ đau này, đã trở thành yếu tố 
để cho Thái tử Tất Đạt đa chọn  			lựa giữa hai con đường, một là làm 
một vị Chuyển Luân Thánh Vương,  			kế nghiệp vua cha, lấy chính trị làm
sự nghiệp, bảo vệ lãnh thổ và  			thực thi chính sách bình đẳng của 
mình; hai là chọn con đường xuất  			gia học đạo, làm bậc Đạo sư (Chuyển
Pháp vương) để giải quyết những  			nỗi lo âu khổ não của chính Ngài 
cũng như của con người, trong đó có  			cả nỗi khổ về sự tồn vong đối 
với tổ quốc của Ngài. Đó là những nhân  			tố chính đáng để cho thái tử 
Tất Đạt Đa chọn lựa con đường xuất gia  			học đạo.[5]
 			Nội dung mà 
đức Phật giác ngộ dưới  			cội cây Bồ đề là lý duyên khởi 
(pratìtya-samutpàda), căn cứ  			vào quy luật này đức Phật phát hiện bốn
chân lý của cuộc đời là:  			Cuộc đời là khổ (Khổ đế); nguyên nhân sinh
ra khổ (Tập đế); sự chấm  			dứt khổ đau (Diệt đế); và con đường chấm 
dứt khổ đau (Đạo đế). Lý  			duyên khởi là quy luật vận hành cả hai mặt 
tâm lý và vật lý, cho nên  			giáo pháp của Ngài được gọi là chân lý[6]. 
Nhờ nó mà đức Phật chỉ ra bản chất của con người vốn là vô thường  	
(anitya), không có tự ngã (anàtman), không có tính chất tự sanh tự  		
tồn mà phải nương tựa vào nhau để được tồn tại. Từ những học thuyết  		
này, gợi ý cho chúng ta nhận thấy, học thuyết duyên khởi và vô ngã  			
của Phật giáo vô hình chung trở thành học thuyết đả phá hệ thống tư  			
tưởng triết học 'Phạm ngã đồng nhất thể' trong "Áo 
Nghĩa  			Thư" (Upanisad) của giai cấp thống trị đầy quyền lực 
của Bà la  			môn. Đây chính là lý do tại sao sau khi đức Phật thành đạo
Ngài phải  			đắn đo suy nghĩ có nên hay không nên tuyên bố những gì mà
Ngài chứng  			ngộ.
 			Từ những ý 
nghĩa này, chúng ta thấy  			nội dung đức Phật trầm tư dưới cội cây bồ 
đề trong suốt 49 ngày đêm  			gắn liền với những vấn đề cụ thể bức xúc 
của xã hội đương thời,  			trong đó bao gồm những vấn đề triết học, 
chính trị, tôn giáo, xã  			hội...và ngay cả những vấn đề khổ đau của 
con người, ví dụ như thể  			chế phân chia xã hội Ấn Độ thành 4 giai cấp
của Bà la môn, và ngay  			cả vấn đề tồn vong của đất nước Ca Tỳ La Vệ 
đã trở thành tiền đề suy  			tư của Ngài. Những loại khổ đau này được 
biểu hiện dưới nhiều hình  			thức khác nhau, nhưng căn cứ vào tính chất
của nó, được Ngài Xá Lợi  			Phất phân tích thành 8 loại khổ như 'Kinh
Phân biệt về sự thật'  			(Saccavibhangacittasutta) trong "Kinh
Trung Bộ" tập 3 			 			 			[7]. 
Trong đó, sanh khổ, già khổ, bịnh khổ, tử khổ, ngũ ấm xí thạnh khổ  
thuộc về những loại khổ tự nhiên của cơ thể. Oán tắng hội khổ, ái  		
biệt ly khổ và cầu bất đắc khổ là những nỗi khổ thuộc tâm lý, do con  	
người gây ra. Tại sao sinh ra đều là con người nhưng có người thuộc  	
về giai cấp thống trị giàu sang, có quyền thế, sung sướng, còn có  			
người thuộc về giai cấp bị trị suốt đời làm kẻ nô lệ, sống trong đau  		
khổ bất hạnh? Đây chính là câu hỏi mà thanh niên Bubha Todeyyaputta  		
đưa ra vấn nạn và xin đức Phật giải thích[8]  
nói lên nỗi thống khổ của con người sống dưới chế độ đẳng cấp ấy.
 			Vì để tìm 
hiểu lý do tại sao con  			người có những nỗi khổ này, đức Phật đã khám 
phá lý duyên khởi  			(pratìtya-samutpàda) là nguyên tắc hình thành thế 
giới vật chất và  			những nỗi khổ đau của con người. “Cái này có cho 
nên cái kia có” là  			nguyên lý hình thành vạn sự vạn vật. Từ nguyên lý
duyên khởi này đã  			giải thích lý do tại sao con người hình thành nỗi
khổ đau bằng 12  			điều kiện. Khởi đầu là 'vô minh' và cuối cùng là 
'lão tử', sầu bi  			khổ ưu não là trạng thái khổ đau của con người. Như
vậy, nguyên nhân  			tạo thành sự khổ đau là vô minh, không phải do 
đấng Phạm thiên,  			Thượng đế hay bất cứ thần linh nào có quyền năng 
ban phước hay giáng  			họa cho con người mà do chính con người tạo ra, 
con người là chủ  			nhân của tất cả nghiệp lực. Đức Phật giải thích lý 
do con người có  			cuộc sống khác biệt nhau là do nghiệp lực không đồng[9]. 
Nghiệp lực chính là ý thức. Ý thức được dắt dẫn bởi trí tuệ sẽ mang 
lại đời sống hạnh phúc và an lạc. Ý thức được dắt dẫn bởi vô minh là
nguyên nhân dẫn đến đời sống khổ đau mất hạnh phúc. Như vậy, nội  	
dung mà đức Phật trầm tư mặc tưởng giác ngộ dưới cội cây Bồ đề có  			
liên quan mật thiết với đời sống thực tế của con người, không phải  			
là những gì ngoài thế giới con người.
 			Thế nhưng, 
sau khi đức Phật nhập  			diệt, các đệ tử vì quá sùng kính Ngài, hơn nữa
thần thoại là văn hóa  			truyền thống Ấn Độ nên sự phát triển của Phật
giáo không làm sao  			tránh khỏi chịu ảnh hưởng các tập tục tín ngưỡng
của những tôn giáo  			khác. Phật giáo lưu truyền ở nhân gian, vì muốn 
độ kẻ khác, hòa nhập  			vào xã hội, nên dần dần cũng hình thành quan 
điểm này. Từ đó đức  			Phật bỗng nhiên trở thành một vị siêu nhiên thần
thánh. Có lẽ đó là  			lý do tại sao trong tăng đoàn có sự tranh cãi về
năm việc của Đại  			Thiên (Mahàdeva)[10],
kết quả của sự tranh cãi này đã dẫn đến sự phân chia Phật giáo 
thành  			hai hệ phái: Thượng Tọa Bộ (Sthàvira) và Đại Chúng Bộ 
(Mahàsamgika)  			mà theo truyền thuyết Đại Thiên là người thuộc về phái
Đại Chúng Bộ.  			Khái niệm Đại chúng lúc bấy giờ chỉ cho số đông, 
không phải chỉ cho  			hệ tư tưởng, đây là điểm chúng ta cần chú ý.
 			Qua nội dung
năm việc này biểu thị sự  			bất đồng quan điểm về đức Phật giữa hai bộ
phái. Đại Thiên[11] 
đã mạnh dạn phê phán Phật giáo đương thời đã thần thánh hóa đức Phật[12],
làm mất đi tính trong sáng, biểu hiện quan điểm ngược lại những gì 
mà đức Phật đã từng giảng dạy tuyên thuyết, phản bác các tập tục mê 
tín của xã hội Ấn Độ. 
 			Có lẽ đây là
câu trả lời chính xác  			nhất cho việc lý giải tại sao các vị tỷ kheo 
trẻ tuổi ủng hộ tư  			tưởng Đại Thiên. Ông chính là người mở đường cho 
việc canh tân, phá  			vỡ tư tưởng bảo thủ của các vị Thượng tọa, làm 
tiền đề cho việc phát  			triển tư tưởng Phật giáo Đại thừa về sau. 
Nhưng tư tưởng của ông  			khác với tư tưởng về sau của các phái của Đại
Chúng Bộ, vì ông là  			người phản bác vấn đề thần thánh hóa đức Phật, 
nhưng tư tưởng của  			các bộ phái của Đại Chúng Bộ về sau thì ngược 
lại, chỉ kế thừa tiếp  			thu tư tưởng phóng khoáng của Đại thiên mà 
thôi, do đó chúng ta  			không nên cho rằng tư tưởng của Đại Thiên là tư
tưởng của Đại Chúng  			Bộ hay Đại thừa Phật giáo.
 			Sự khác biệt
giữa tư tưởng của Thượng  			Tọa Bộ và Đại Chúng Bộ chính là sự khác 
biệt giữa đời sống sinh hoạt  			của hai tăng đoàn. Mục đích xuất gia 
của Thượng Tọa Bộ là tìm cầu sự  			giác ngộ giải thoát. Bất cứ ai muốn 
thành đạt được mục đích này cần  			phải từ bỏ đời sống gia đình, xuất 
gia sống đời sống vô gia đình,  			độc cư trong rừng núi và thực hành 
thiền định. Do đó, giáo lý đã  			được đức Phật giảng dạy trong A Hàm 
hay Nikàya và những giới điều  			trong luật đều có liên hệ mật thiết 
với đời sống này.
 			Thế nhưng, 
mục đích xuất gia của Đại  			Chúng Bộ thì khác hẳn, ngoài mục đích giác
ngộ và giải thoát còn có  			trách nhiệm phải làm là ‘Hoằng dương Phật 
pháp’, lấy việc cứu độ  			chúng sanh làm sự nghiệp. Chính vì thực thi 
tinh thần ‘Hoằng pháp độ  			sinh’ này nên phương thức sinh hoạt trong 
rừng núi của tăng già  			không còn phù hợp, thay vào đó bằng đời sống 
định cư, phải sống  			trong lòng xã hội, thuận tiện thực thi tinh thần 
cứu nhân độ thế. Sự  			đổi thay về đời sống sinh hoạt của tăng già đã 
dẫn đến sự thay đổi  			về giới luật, là những qui định cụ thể về phạm 
vi sinh hoạt của  			người xuất gia trong một hoàn cảnh xã hội nhất 
định. Đời sống sinh  			hoạt thay đổi, giới luật thay đổi, chắc chắn sẽ 
dẫn đến sự lý giải  			khác nhau về giáo lý của Ngài, tư tưởng cải cách 
canh tân cũng theo  			đó xuất hiện. Đây chính là nguyên nhân tại sao 
Phật giáo phân chia  			thành hai phái: Thượng Tọa Bộ và Đại Chúng Bộ. 
Tư tưởng Đại Thừa  			Phật giáo là đỉnh cao cho phong trào canh tân cải 
cách, tư tưởng Bồ  			Tát của Phật giáo Đại thừa đã phá vỡ nguyên tắc 
sống của người xuất  			gia của đạo Phật nguyên thủy. 
 			Vì để thực 
thi tinh thần hóa độ chúng  			sanh, Phật giáo Đại chúng bộ hay Đại thừa
không thể sử dụng một hình  			thức cứng nhắc, mà phải khai phương tiện
để tùy duyên hóa độ chúng  			sanh. Mặt trái của tinh thần phương tiện 
này là sự dễ dãi cho việc  			du nhập những hình thức tín ngưỡng mang 
tính dân gian, thần thoại  			hóa đức Phật, tạo sự hấp dẫn cho giới tín 
ngưỡng thuần túy. Liên  			quan đến sự mô tả mang tính thần thoại này 
trong "Dị Bộ Tông  			Luân Luận" ghi rằng:
 			Chư Phật
Thế Tôn đều là bậc xuất  			thế gian, tất cả các đức Như Lai đều không 
có lậu hoặc, lời nói của  			Như Lai đều có mục đích chuyển pháp luân, 
chư Phật đều lấy một âm  			thinh[13]
để nói pháp, lời nói của Như Lai đều mang ý nghĩa như thật, sắc 
thân  			của Như Lai không có bờ mé, oai lực của Phật cũng không có giới
hạn,  			tuổi thọ của chư Phật cũng vô hạn...Phật không có nằm mộng. 
Như trả  			lời những vấn nạn không cần tư duy...Tất cả các vị Bồ tát 
nhập thai  			không phải trải qua các giai đoạn thụ tinh cho đến tượng 
hình, khi  			Bồ Tát nhập thai đều dùng hình thức voi trắng chun vào 
bụng mẹ, cũng  			vậy khi Bồ Tát đản sanh cũng từ nách bên phải của 
người mẹ....[14]
 			Qua nội dung
và ý nghĩa của đoạn văn  			vừa dẫn cho chúng ta thấy, Đại Chúng Bộ cho
rằng đức Phật là bậc  			‘xuất thế gian’, không phải là con người bình 
thường bằng xương bằng  			thịt như con người chúng ta. Sự xuất hiện của
Ngài chỉ là sự ‘thị  			hiện’, không phải thật, cho nên sự thọ thai, 
sinh đẻ cũng như trong  			quá trình mang thai, Bồ Tát không tuân theo 
những yếu tố của con  			người trong xã hội, sự thọ thai không phải là 
kết quả của sự giao  			hợp, do tinh cha huyết mẹ tạo thành, mà bằng 
cách qua một giấc mộng,  			thấy voi trắng chun vào bụng rồi mang thai. 
Cũng vậy, sự đản sanh  			(sinh nở) của Bồ Tát cũng không giống mọi 
người, Ngài được sinh ra  			từ nách hay bên hông phải của người mẹ. 
 			Sự mô tả 
này, mang ý nghĩa cường điệu  			hóa, thần thánh hóa đức Phật. muốn cho 
một vị Bồ tát hay một vị Phật  			hoàn toàn trong sạch, từ thân đến tâm,
ngay cả nhân tố để hình thành  			con người cũng được thần thánh hóa, 
mặc dù Ngài sinh ra với hình  			tướng con người, nhưng không bị sự ô 
nhiễm chi phối. Phải chăng Phật  			giáo Đại thừa đã vận dụng niềm tin 
và văn hóa trọng nam khinh nữ của  			Ấn Độ để miêu tả đức Phật? Đây là 
điểm cần được chú ý và nghiên cứu.  			Tuổi thọ của Ngài thì vô lượng, 
không bị luật vô thường duyên khởi  			chi phối, oai lực thần thông của 
Ngài cũng vô cùng tận, bất khả tư  			nghì, lời của Ngài nói ra đều mang
ý nghĩa Phật pháp, không có lời  			nói đùa giỡn như chúng ta.v.v...Dù 
gì đi nữa, đây là cái nhìn đức  			Phật theo quan điểm của Đại Chúng Bộ 
cũng như Phật giáo Đại thừa.  			Dưới cái nhìn này đức Phật không phải 
là con người mà là người  			‘ngoài thế gian’, Ngài đến cuộc đời chỉ là 
sự ‘thị hiện’.
 			 Ngược lại, 
các nhà Thượng Tọa Bộ  			không chấp nhận cách mô tả đức Phật như là 
người ‘xuất thế gian’ như  			thế mà xác định Ngài vốn là một nhân vật 
lịch sử có thật, Ngài là  			con người bằng xương bằng thịt, vẫn phải 
chịu những hiện tượng vô  			thường biến đổi của thế gian, như đã được 
mô tả trong “Dị Bộ tông  			
Luân Luận” như sau:
 			Các vị A
La Hán vẫn còn có pháp  			hữu lậu và vô lậu…sự giải thoát của Phật 
cùng hàng nhị thừa không  			khác nhau…Nên hiểu rằng Bồ tát chỉ là một 
chúng sanh….không phải  			những gì do đức Như Lai nói ra đều có mục 
đích chuyển pháp, đức Phật  			chẳng phải dùng một loại âm thanh nói tất
cả pháp, lời nói của Thế  			Tôn không phải lúc nào cũng là chân lý.[15]
 			Nội dung và ý
nghĩa của đoạn văn này  			minh chứng cho chúng ta thấy rằng, các nhà 
Thượng Tọa Bộ không đồng  			ý thần thánh hóa đức Phật, cho nên đã mạnh 
dạn cho rằng, thân thể tứ  			đại của đức Phật là phần hữu lậu, đức Phật
hay Bồ tát khi còn mang  			thân thể con người, chắc chắn phải chịu 
luật vô thường chuyển biến,  			đau bịnh, ngay cả việc chấm dứt của đời 
sống này, không ai tránh  			khỏi, dù cho đó là vị đã giác ngộ. Thế thì 
chúng ta gọi đức Phật là  			bậc giác ngộ và giải thoát mang ý nghĩa gì?
Ở đây chúng ta nên hiểu  			khái niệm ‘giác ngộ’ là sự hiểu đúng, nhận 
thức đúng về vấn đề nào  			đó. Do giác ngộ hiểu đúng bản chất của sự 
vật, cho nên không bị  			chúng khuấy nhiễu tạo thành phiền não; sống mà
không bị khuấy nhiễu  			cho nên gọi là ‘giải thoát’. Như vậy, khái 
niệm ‘giác ngộ’ và ‘giải  			thoát’ thuộc về tâm lý không phải là vật 
lý, do đó chúng ta không  			nên nhầm lẫn cho rằng người đã ‘giác ngộ’ 
và ‘giải thoát’ là người  			hoàn toàn trong sạch cả thân và tâm, không 
bị chi phối về luật vô  			thường. Đây là ý nghĩa của câu: ‘Các vị A La 
Hán vẫn còn hữu lậu và  			vô lậu’. ‘Hữu lậu’ là khái niệm chỉ cho vị A 
La Hán vẫn còn sự nhiễm  			ô của thân, tức là sự cấu thành thân thể của
A La Hán là do tinh cha  			huyết mẹ. A La Hán với thân thể còn là con 
người cho nên vẫn phải  			chịu luật vô thường biến đổi, bịnh 
đau.v.v…‘Vô lậu’ là khái niệm chỉ  			cho tâm của vị A La Hán đã hoàn 
toàn trong sạch, không còn tham sân  			và si. Do vì không còn tham sân 
si, cho nên dù Ngài có sống trong  			thế giới vô thường đầy khổ đau 
này, nhưng không vì sự biến đổi này  			làm cho Ngài đau khổ. Đây chính 
là ý nghĩa của câu “Bồ tát chỉ là  			một chúng sanh”, có nghĩa là đức 
Phật vốn là một con người, từ vị  			trí của con người Ngài đã trở thành
một vị Phật, không phải là một  			vị thần từ thế giới xa lạ nào đến. 
Đức Phật đứng từ góc độ là một  			con người, cho nên tất cả những gì 
Ngài nói ra không phải đều là  			thánh ngôn, đôi lúc Ngài
cũng nói  			những lời nói hòa vui với mọi người, những lời nói này 
không mang ý  			nghĩa là ‘chuyển pháp luân’.
 			Tóm lại, hai
bộ phái có cái nhìn khác  			nhau về đức Phật. Đại Chúng Bộ cho rằng, 
đức Phật không phải là con  			người, Ngài vốn là bậc xuất thế gian. Sự 
xuất hiện của Ngài ở trần  			gian chỉ là sự ‘thị hiện’. Vì mục đích 
giáo hóa tạo niềm tin cho  			chúng sanh, cho nên đức Phật đã thị hiện 
các tướng trạng như con  			người, nhưng trên thực tế Ngài đã thành Phật
từ vô lượng kiếp. Sự  			mang thai, sinh nở không bị sự ô uế của người 
mẹ, điều đó biểu thị  			sự thanh khiết của đức Phật, mang ý nghĩa đáp 
ứng những nhu cầu tín  			ngưỡng của con người lúc bấy giờ, nhất là Ấn 
Độ là nước có truyền  			thống văn hóa trọng nam khinh nữ, cho rằng thân
thể của người nữ là  			sự nhơ uế thấp hèn. Bản thân Phật giáo không 
chấp nhận quan điểm  			này, nhưng Phật giáo Đại Chúng Bộ và Phật giáo 
Đại thừa vì mục đích  			hoằng dương Phật pháp, hóa độ chúng sanh, là 
những người mê tín, đặt  			nặng niềm tin, thích thú những việc thần kỳ,
cho nên Phật giáo Đại  			thừa đã thần thánh hóa đức Phật, với mục đích
làm phương tiện dắt  			dẫn kẻ mê vào đạo.
 			Ngược lại, 
Thượng Tọa Bộ cho rằng,  			đức Phật vốn là một con người, từ góc độ con
người mà thành Phật. Sự  			khác biệt giữa con người và đức Phật chỉ là
sự khác biệt giữa người  			có trí tuệ và không có trí tuệ. Người có 
trí tuệ được gọi là Phật  			(Buddha), từ này có ý 
nghĩa là người đã giác ngộ, hay nói  			cách khác là người đã đoạn trừ 
lòng tham lam sân hận và ngu si.  			Chúng ta là những kẻ phàm phu chưa 
giác ngộ, chưa đoạn trừ lòng tham  			sân và si, cho nên gọi là chúng 
sanh.
 			Qua định 
nghĩa này ta thấy sự khác  			biệt giữa Phật và chúng sanh chỉ là sự 
khác biệt về tinh thần hay  			nói đúng hơn là sự hiểu biết, không khác 
biệt về mặt vật thể, tức là  			thân thể. Nghĩa là, dù cho đã thành Phật
hay chưa thành Phật, còn  			mang thân thể con người thì vẫn phải chịu 
luật vô thường và chuyển  			biến, phải chịu qui luật sanh lão bịnh tử, 
khi còn sống vẫn cảm nhận  			đói no, cảm xúc nóng lạnh... và cũng không
phải khi thành Phật không  			còn những hiện tượng này. Một đức Phật 
như vậy được gọi là đức Phật  			lịch sử[16].
 			 
 			2.  			Đức Phật là vị Đạo sư
 			Cho đến nay 
mọi người đều biết Phật  			giáo là một tôn giáo, nhưng đứng trên ý 
nghĩa của từ tôn giáo mà  			hiểu thì Phật giáo không phải là tôn giáo, 
vì Phật giáo không có  			thần quyền, bản thân đức Phật cũng không tự 
cho mình là một vị giáo  			chủ, Ngài tự xác nhận mình chỉ là người chỉ 
ra sự thật của cuộc sống  			là khổ đau và làm thế nào để đoạn trừ những
khổ đau, để được hạnh  			phúc và an lạc. Những ai muốn thành đạt được 
mục đích này, phải tự  			mình tu tập, sửa đổi tâm tánh, chuyển mê thành
ngộ, lựa chọn cuộc  			sống khổ đau hay hạnh phúc đều do chính con 
người chúng ta chọn lựa,  			không phải  do đức Phật hay Chúa quyết 
định, đức Phật chỉ là vị Đạo  			sư chỉ đường mà thôi. Giáo lý duyên 
khởi và nhân quả của Ngài đã  			khẳng định điều đó. 'Kinh Đa Giới'
trong "Kinh Trung A hàm"  			đức Phật đã trình bày rất
rõ về quan điểm của Ngài như sau:
 			Phàm có 
những sợ hãi gì sanh khởi,  			này các tỷ kheo, tất cả những sợ hãi ấy 
sanh khởi cho người ngu,  			không phải cho người hiền trí; Phàm có 
những thất vọng gì sanh khởi,  			này các tỷ kheo, tất cả thất vọng ấy 
sanh khởi cho người ngu, không  			phải cho người hiền trí; Phàm có 
những hoạn nạn gì sanh khởi, này  			các tỷ kheo, tất cả hoạn nạn ấy 
sanh khởi cho người ngu, không phải  			cho người hiền trí.[17]
 			Lời dạy này 
tuy rất đơn giản nhưng  			nội dung hàm chứa ý nghĩa thật sâu sắc, không
những nói lên sự công  			bằng của luật nhân quả mà còn nói lên quan 
điểm của đức Phật về  			phương pháp giáo dục con người.
 			Đức Phật cho
rằng, tâm lý sợ hãi, lo  			âu, phiền muộn... là kết quả của lòng ngu 
si, trong Phật giáo gọi là  			‘vô minh’. Vô minh là nguyên nhân sâu xa 
của mọi sự khổ đau. Ví dụ,  			trạng thái khổ đau của một người đánh bạc
là kết quả của việc đam mê  			cờ bạc, việc đam mê cờ bạc xuất hiện từ 
lòng tham lam, tham lam là  			sự biểu hiện của tâm ngu si, như vậy ngu 
si là nguồn gốc của khổ  			đau.
 			Thế thì bằng
cách nào chúng ta đoạn  			trừ đau khổ? Phải chăng chúng ta cầu Chúa 
xin Phật để Ngài giảm tội  			ban vui? Theo đạo Phật không ai có quyền 
cho ta niềm vui hay đọa đày  			chúng ta đau khổ, vì nguồn gốc của sự 
đau khổ xuất hiện từ lòng ngu  			si, mà lòng ngu si ở ngay trong lòng 
của chúng sanh, không phải là ở  			Phật hay Chúa, đồng thời sự ngu si 
ấy là một trạng thái tâm lý chứ  			không phải là một vật để có thể dùng
hình thức 'xin' và 'cho'. Như  			vây, con người muốn đoạn trừ nỗi đau 
khổ chỉ có biện pháp duy nhất  			là lấy sự hiểu biết, lấy trí tuệ làm 
phương tiện để đoạn trừ tính  			ngu si ấy. Ví như, bóng tối và ánh sáng
không phải là cái xin và  			cho. Nơi nào có ánh sáng thì nơi ấy không 
ai có thể mang bóng tối  			vào được, dù người đó là Phật hay Chúa, 
ngược lại nơi nào không có  			ánh sáng thì nơi ấy phải chịu cảnh tối 
tăm, dù có Chúa hay Phật cũng  			không thể biến nơi đó có ánh sáng. 
Cũng vậy, chúng ta không thể xin  			Phật cho chúng ta trí tuệ mà bản 
thân chúng ta không tu tập, không  			thắp lên ngọn đuốc của chính mình.
 			Như vậy, 
Phật có giá trị gì đối với  			đời sống con người? Xin thưa rằng, đức 
Phật là người giúp ích cho  			con người cho xã hội rất nhiều, vì Ngài 
là người đã khám phá tính  			hai mặt của cuộc sống là khổ đau và hạnh 
phúc. Ngài chỉ ra rằng, khổ  			đau luôn luôn gắn liền với vô minh; và 
hạnh phúc luôn luôn gắn liền  			với trí tuệ. Ngài định nghĩa vô minh là
cái thấy cái biết của ảo  			tưởng, không đúng với sự thật, từ chuyên 
môn trong kinh tạng Pàli  			gọi là 'không như lý tác ý' hay
trong kinh điển Đại thừa gọi  			là 'điên đảo mộng tưởng'. Do vì điên 
đảo không thấy đúng sự thật,  			cho nên dẫn đến hành vi sai lầm, từ 
hành vi sai lầm đưa đến kết quả  			không như ý muốn; cái gì xuất hiện 
mà không như ý thì cái ấy là khổ  			sanh. Đó là lý do tại sao đức Phật 
cho rằng, nguồn gốc của khổ đau  			là vô minh. Cũng vậy, hạnh phúc luôn
luôn gắn liền trí tuệ, tiếng  			Pàli gọi là pañña tiếng Phạn gọi là 
pra-jñāparamit.  			Hai từ này 
hàm chứa ý nghĩa khác nhau, nhưng đều có nghĩa là trí  			tuệ, tức là sự
hiểu biết đúng, kinh tạng Pàli gọi là 'như lý tác ý'  			trong "kinh
Pháp Hoa" gọi là 'thập như thị'. Vì sự hiểu biết  			đúng như 
sự thật, cho nên dẫn đến hành động đúng, do vì hành động  			đúng cho 
nên đưa đến kết quả là hạnh phúc. Đó là lý do tại sao đức  			Phật cho 
rằng trí tuệ là nguyên nhân đưa đến đời sống an lạc và hạnh  			phúc.
 			Nếu như 
chúng ta chấp nhận cách lý  			giải này, thì chúng ta không nên xem đức 
Phật như là một vị thần  			linh, có quyền ban phước giáng họa cho mọi 
người, vì Ngài cho rằng,  			ngu si là nguồn gốc của phiền não, trí tuệ 
là cội nguồn của hạnh  			phúc. Trí tuệ chỉ xuất hiện qua sự nỗ lực tu 
tập, hành trì giới định  			và tuệ, không phải là cái từ trên trời rơi 
xuống, hay do ai cho. 			
 			Do vậy, 
chúng ta không nên có suy  			nghĩ sai lầm xem đức Phật như là vị Thượng
đế, có quyền năng ban  			phước hay giáng hoạ, Ngài chỉ là bậc Đạo sư, 
chỉ dẫn con đường đưa  			đến Niết bàn. Nội dung và ý nghĩa  			của từ 'Đạo sư' trong đạo Phật, 
không đồng nghĩa với khái niệm  			Thượng đế của đạo Thiên Chúa, vì ý 
nghĩa của từ 'Đạo sư' không mang  			khái niệm 'Sáng tạo' và 'quyền 
năng', ngược lại ý nghĩa của từ  			'Thượng đế' thì bao hàm hai ý nghĩa 
này. Đây là điều chúng ta  			cần chú ý. Do vậy, trong tiến trình
tu tập của một vị xuất gia hay  			tại gia trong Phật giáo, đức Phật 
chỉ giữ vai trò là một vị đạo sư,  			tường tận chỉ dẫn cho đệ tử con 
đường đoạn trừ phiền não, để hướng  			đến cuộc sống an lạc và hạnh 
phúc. Con đường đó chính chúng ta phải  			tự thực hành, không phải đức 
Phật là người làm thay; không phải  			chúng ta cứ tin đức Phật, tự mình
không cần thấy sai và sửa sai, rồi  			đến một ngày nào đó, Ngài sẽ cho
ta sự giác ngộ giải thoát. Liên  			quan đến ý tưởng này, trong "Kinh
Tương Ưng Bộ"  			(samyutta-Nikàya) tập 3, ‘Phẩm Trưởng Lão’ 
đức Phật dạy rằng:
 			Người 
không giỏi về đường sá, này  			Tissa, là ví cho kẻ phàm phu. Người giỏi
về đường sá, này Tissa, là  			ví cho Như Lai, bậc A La Hán, chánh đẳng
giác.[18]
 			Ở đây đức 
Phật chỉ rõ, phàm phu chúng  			sanh là những người không biết rõ con 
đường đi đến Niết bàn, còn đức  			Như Lai (Tathàgata), bậc A La Hán 
(Arahato) là người đã biết rõ và  			đã thực hành con đường đó. Do vì 
không biết 'con đường giác ngộ' cho  			nên chúng sanh trôi lăn trong 
sanh tử luân hồi, còn Như Lai vì biết  			rõ và đã thực hành con đường 
đó, cho nên Ngài được giải thoát giác  			ngộ. Từ ý nghĩa này, cũng gợi ý
cho chúng ta hiểu đến một ý nghĩa  			khác, sự khác biệt giữa đức Phật 
với chúng sanh là 'biết' và 'không  			biết', Phật là người biết, chúng 
sanh là những người không biết. Thế  			thì chúng ta muốn thành đạt sự 
giác ngộ và giải thoát không thể dừng  			lại ở niềm tin mà phải nỗ lực 
thực hiện 'tinh tấn', 'niệm', 'định'  			và 'tuệ'. Trí tuệ là nhân của 
giải thoát. Ngoài ra, 'Kinh  			Ganakamoggallàna Sutta' trong "Kinh
Trung Bộ" (Majjhima  			Nikàya" ghi lại cuộc đàm thoại giữa 
đức Phật và Moggallàna, với nội  			dung nói rõ quan điểm vai trò của 
đức Phật trong sự nghiệp độ sanh  			của Ngài.
 			Moggallàna 
hỏi Thế tôn:
 			- Các đệ
tử của Sa môn Gotama, khi  			được Sa môn Gotama khuyến giáo như vậy, 
giảng dạy như vậy, có phải  			tất cả đều chứng được cứu cánh Niết bàn 
hay chỉ có một số chứng  			được?[19]
 			Thế tôn trả 
lời:
 			- Này Bà
la môn, một số đệ tử của  			ta, khi được thuyết giáo như vậy, giảng 
dạy như vậy, một số chứng  			được cứu cánh Niết bàn, một số không chứng
được.[20]
 			Moggallàna 
lại hỏi:
 			- Thưa 
Tôn giả Gotama, do nhân gì,  			do duyên gì trong khi có mặt Niết bàn, 
trong khi có mặt con đường  			đưa đến Niết bàn, trong khi có mặt Tôn 
giả Gotama là bậc chỉ đường,  			tuy vậy các đệ tử Tôn giả Gotama, được 
tôn giả Gotama khuyến giáo  			như vậy, giảng dạy như vậy, một số chứng 
được cứu cánh Niết bàn, một  			số không chứng được?[21]
 			Thế tôn 
không trực tiếp trả lời câu  			hỏi của đối phương, gián tiếp trả lời 
bằng cách đặt vấn đề ngược  			lại. Cách trả lời này nhằm mục đích lấy 
câu trả lời của đối phương  			làm câu trả lời cho chính mình. Cho nên 
đức Phật đã đặt vấn đề: nếu  			như có người hỏi ông về con đường đi đến
thành Vương Xá, ông cặn kẽ  			trả lời cho họ nên đi theo con đường này
sẽ đến thành, nhưng họ  			không làm theo sự chỉ dẫn của ông, thế thì 
người đó có thể đến được  			thành Vương Xá không? được Bà la môn Ganaka
Moggallàna trả lời  			'không', cho nên Thế tôn trả lời:
 			Cũng 
vậy, này Bà la môn, trong khi  			có mặt Niết bàn, trong khi có mặt con 
đường đưa đến Niết bàn, và  			trong khi có mặt ta là bậc chỉ đường. 
Nhưng các đệ tử của ta, được  			ta khuyến giáo như vậy, giảng dạy như 
vậy, một số chứng được cứu  			cánh Niết bàn, một số không chứng được. Ở
đây này Bà la môn, ta làm  			gì được? Như lai chỉ là người chỉ đường.  			 			[22]
 			Qua mẫu đối 
thoại này, đức Phật và Bà  			la môn Ganaka Moggallàna đều xác nhận: Sự 
thật có Niết bàn  			(titthat'eva nibbànam), có con đường đưa đến Niết 
bàn (titthati  			nibbànagàmi-maggo). Điều này gợi ý cho chúng ta hiểu, 
đạo Phật không  			phải là một tôn giáo bi quan, nhìn cuộc đời chỉ có 
khổ đau và sầu  			muộn, mà đạo Phật chỉ ra rằng, ngoài cuộc sống khổ 
đau, con người  			còn có cuộc sống an lạc hạnh phúc và có con đường đưa
đến cuộc sống  			hạnh phúc đó. Đây là quan điểm rất tích cực của đạo 
Phật, một quan  			điểm giáo dục rất trong sáng thực tế và khả thi.
 			Nhưng ở đây 
có một vấn đề được đặt  			ra, bằng cách nào chúng ta đạt được cuộc sống
hạnh phúc đó? Chúng ta  			hoàn toàn dựa vào 'niềm tin' để một ngày nào
đó được đức Phật đưa ta  			đến cõi Niết bàn, hay là chúng ta phải tự 
mình nỗ lực thực hành lời  			dạy của Ngài để được giải thoát giác ngộ? 
Đoạn kinh văn vừa dẫn đã  			cho chúng ta câu trả lời rất rõ ràng: 'Như
Lai chỉ là người dẫn  			đường' mà thôi. Điều đó có nghĩa là dẫu 
rằng có Niết bàn, có con  			đường đi đến Niết bàn, và có cả Như Lai là 
người chỉ đường, nhưng  			nếu chúng ta không thực hành theo những gì 
đức Như Lai đã chỉ dẫn,  			hoặc thực hành không đúng theo sự chỉ dẫn, 
hành giả cũng không thể  			đến được cõi Niết bàn. Lý do tại sao? Câu 
trả lời đơn giản là chúng  			ta không thực hành hoặc không thực hành 
đúng lời Phật dạy, cho nên  			trong hàng đệ tử của Ngài, mặc dù tất cả 
đều được hướng dẫn tu tập  			dưới sự chỉ dạy của Thế Tôn, nhưng có 
người chứng quả, nhưng cũng có  			người không chứng quả, giống như 
Ganaka Moggallàna đã chỉ đường cho  			khách bộ hành, nhưng khách bộ 
hành không đi theo sự chỉ dẫn, kết quả  			không đến được mục đích. Đó 
không phải là lỗi của người chỉ đường mà  			lỗi của người bộ hành không
làm theo. Đó là lý do tại sao đức Phật  			nói: Như Lai chỉ là 
người dẫn đường (Maggakkhayi, bràhmana,  			Tathàgato—The Tathàgata
is one who shows the way).
 			 Ý nghĩa câu
nói này, đức Phật xác  			minh rõ Ngài không phải là vị ‘Thượng đế’ hay
‘Thần linh’ có quyền  			ban thưởng cho những ai cảm thấy vừa lòng, 
hoặc trừng phạt cho những  			ai không phục tùng theo ý Ngài. Theo đạo 
Phật, luật nhân quả rất  			công minh, nhân nào thì quả nấy, không ai có
quyền làm cho người  			khác đau khổ hay hạnh phúc, sự đau khổ hay hạnh
phúc của mỗi người  			đều do bản thân người ấy tạo nên. Đây chính là 
lý do tại sao đức  			Phật dạy:
 			Hãy sống
tự mình làm hòn đảo cho  			chính mình, này các Tỷ kheo, hãy nương tựa 
nơi chính mình, không  			nương tựa một ai khác. Hãy lấy pháp làm hòn 
đảo, hãy lấy pháp làm  			chỗ nương tựa, không nương tựa một ai khác.  			 			[23]
 			Có thể nói, 
đây là khuynh hướng giáo  			dục của Phật giáo, luôn đề cao tinh thần 
biết ‘bổn phận’ và ‘trách  			nhiệm’. Người biết bổn phận và trách nhiệm
không những là người Phật  			tử tốt mà còn là một công dân tốt trong 
xã hội. Theo tôi, khuynh  			hướng giáo dục này cần được thực thi ở xã 
hội ngày nay - một xã hội  			đang có chiều hướng mâu thuẫn giữa thành 
quả của khoa học và hệ  			thống giáo dục thuần túy tôn giáo. Quá đề cao
thành quả của khoa học  			kỹ thuật là nguyên nhân đưa đến xã hội hỗn 
loạn, xem nhẹ vai trò đạo  			đức, đánh mất tình cảm giữa người với 
người, giữa mẹ và con, giữa  			bạn bè… Mặt khác, quá cường điệu những 
hình thức sinh hoạt tín  			ngưỡng thần quyền sẽ là yếu tố chận đứng sự 
phát triển của xã hội,  			xa rời tinh thần biết bổn phận và trách nhiệm
của con người, là  			nguyên nhân cản trở cho thế hệ trẻ đến với tôn 
giáo. Tuổi trẻ chỉ  			biết sự thành tựu của khoa học về vật chất, không
biết giá trị giáo  			dục của tôn giáo sẽ có nguy cơ xem thường đạo 
đức, dẫn đến xem  			thường bổn phận trách nhiệm với chính mình, với gia
đình và cuối  			cùng là bổn phận trách nhiệm đối với xã hội. Đây là 
hai cực đoan  			đang hình thành và xảy ra trong xã hội chúng ta. Theo 
tôi, hệ thống  			giáo dục Phật giáo sẽ giúp cho con người không rơi vào
hai cực đoan  			này, có nghĩa là không quá đề cao tự mãn với thành quả
của khoa học  			vật chất, cũng không quá cường điệu sinh hoạt tín 
ngưỡng thuần túy,  			mang tính thần quyền. Tính giáo dục của đạo Phật 
đề cao vai trò trí  			tuệ, biết bổn phận và trách nhiệm, đồng thời lấy 
trí tuệ làm kim chỉ  			nam xây dựng nếp sống đạo đức, không ngăn cản sự
tiến bộ của con  			người và luôn phù hợp với nhu cầu tiến bộ của xã 
hội. 
 			Ngoài ý 
nghĩa đức Phật là một vị Đạo  			Sư, trong "Kinh Tạp A hàm",
kinh số 389 đức Phật còn tự ví  			mình như là vị 'Lương y', được ghi 
lại như sau:
 			Có bốn 
pháp thành tựu gọi là bậc  			Đại y vương, xứng đáng ngôi vị vua. Những 
gì là bốn? Thứ nhất là  			khéo biết bệnh, thứ hai là khéo biết nguyên 
nhân của bệnh, thứ ba là  			khéo biết cách đối trị bệnh, để về sau bệnh
không còn tái phát  			nữa…Như Lai Ứng Cúng, Chánh Đẳng Giác là bậc Đại
Y vương thành tựu  			bốn đức, chữa lành bệnh chúng sanh cũng như thế. 
Những gì là bốn? Đó  			là Như Lai biết đây là khổ thánh đế đã biết như 
thật; Đây là khổ tập  			thánh đế đã biết như thật; Đây là khổ diệt 
thánh đế đã biết như  			thật; \đây là khổ diệt đạo đế đã biết như 
thật….[24]
 			Trước nhất 
đức Phật nói rõ về đặc  			tính của một vị 'lương y' ở thế gian, có 4 
đặc tính: thứ nhất, có  			khả năng chẩn đoán căn bịnh; thứ hai, biết rõ
căn nguyên của chứng  			bịnh; thứ ba, biết rõ phương pháp trị bịnh; 
thứ tư, sau khi trị xong  			bịnh không tái phát. Đây là 4 đặc tính mà 
một vị 'lương y' ở thế  			gian cần phải có.
 			Cũng vậy, 
đức Phật cũng là một vị  			'lương y', nhưng Ngài không phải là lương y 
của thế gian mà là vị  			lương y ‘xuất thế gian’. Thế thì như thế nào 
được gọi là một vị  			lương y của xuất thế gian? Căn cứ nội dung và ý 
nghĩa bản kinh vừa  			dẫn trên, chúng ta thấy rằng, sở dĩ Ngài được gọi
là vị lương y xuất  			thế gian, vì Ngài là người đã chứng tri pháp Tứ 
đế  			(Catvàri-àryasatỳani): Điều thứ nhất là Khổ đế (Duhkha-satya), là
hiện trạng thực tế của đời sống con người, bao gồm hai loại khổ 
đau,  			loại khổ đau thuộc về tự nhiên và loại khổ đau thuộc về tinh 
thần.  			Những loại khổ đau thuộc về tự nhiên như là sự đói khát, nóng 
lạnh,  			bịnh tật.v.v...bất cứ ai cũng có, dù đó là Phật hay thánh. 
Loại khổ  			thuộc về tâm lý, chỉ cho những trạng thái khổ đau xuất phát
từ tâm  			lý, như thương yêu nhau mà phải sống chia lìa (ái biệt ly 
khổ), cầu  			mong mà không được (cầu bất đắc khổ), ghét mà phải sống 
gần nhau  			(oán tắng hội khổ). Thứ hai là Tập đế (Samudaya-satya)  			là những nguyên nhân làm phát sinh những
khổ đau cho con người, nó  			chính là vô minh, được biểu hiện bằng 
lòng khát ái. Thứ ba là Diệt  			đế (Nirodha-satya), là trạng thái an 
lạc và hạnh phúc, khi con người  			chấm dứt lòng tham lam sân hận và 
ngu si, hay còn gọi là trạng thái  			Niết bàn. Thứ tư là Đạo đế 
(Màrga-satya), là con đường hay phương  			pháp đoạn trừ phiền não, tức 
là con đường bát chánh đạo, bắt đầu là  			chánh kiến... Nói tóm lại, 
nội dung ý nghĩa của giáo lý Tứ Đế nhằm  			thuyết minh về hai phương 
diện về cuộc sống của con người, một là  			mặt nhiễm ô bao gồm Khổ đế 
và Tập đế, nói lên cuộc sống của con  			người vốn là khổ đau và nguyên 
nhân sinh ra khổ đau; hai là mặt bất  			nhiễm ô hay thanh tịnh, bao gồm
Diệt đế và Đạo đế, phản ánh nếu như  			con người biết sống, chính cuộc
sống này cũng cho ta cuộc sống hạnh  			phúc và an lạc, ở ngay cuộc đời
này.
 			Từ ý nghĩa 
này ta thấy Phật giáo  			không phải là một tôn giáo có thái độ bi quan,
nhìn cuộc đời với cặp  			mắt chỉ có khổ đau và sầu muộn, mưu cầu một 
kiếp sống an lạc ở bên  			kia thế giới, như một số người đã nghĩ. Theo 
tôi, Phật giáo là một  			tôn giáo dám nhìn thẳng vào sự thật, đức Phật 
đã thẳng thắn chỉ ra  			cuộc đời vốn có sự đau khổ và nguyên nhân gây 
ra sự đau khổ đó.  			Không những chỉ có thế mà đạo Phật còn chỉ ra, 
ngoài cuộc sống khổ  			đau, con người còn có cuộc sống an lạc và hạnh 
phúc và con đường đi  			đến cuộc sống đó. Cuộc sống an lạc và hạnh phúc
không phải là cuộc  			sống sau khi từ giã cuộc đời, đi qua bên kia thế
giới mới có, mà nó  			ở ngay trong đời sống này, khi chấm dứt lòng 
tham lam, nóng giận và  			ngu si thì khi ấy hạnh phúc liền xuất hiện. 
Như vậy, chúng ta không  			thể cho rằng Phật giáo là một tôn giáo tiêu 
cực mà là một tôn giáo  			tích cực, không phải là tôn giáo bi quan mà 
là một tôn giáo lạc  			quan, không phải là một tôn giáo chỉ đề cập đến 
xuất thế mà còn đề  			cập đến tinh thần nhập thế.
 			Thế thì vị 
lương y của thế gian là  			người giúp cho con người làm giảm thiểu 
những nỗi khổ về thân. Đức  			Phật cũng là vị lương y, nhưng chủ trị 
của Ngài không chuyên trị  			'thân bịnh' mà chuyên trị 'tâm bịnh' của 
chúng sanh. Thân tuy không  			bịnh nhưng với tâm đầy lòng tham lam hận 
thù và ngu si thì nỗi khổ  			đau phiền muộn chất chồng như núi, thân 
tuy bịnh nhưng lòng tràn đầy  			bao dung từ mẫn và sáng suốt, cuộc sống
vẫn cảm thấy an lạc và hạnh  			phúc.
 			Tóm lại, đức
Phật chỉ là một vị 'Đạo  			sư' hay là một vị 'Lương y', ý nghĩa này vô
cùng sâu sắc. Có người  			không hiểu lại cho rằng ý nghĩa này làm giảm
đi giá trị của đức  			Phật. Theo tôi, nó không những không làm giảm đi
uy tín của Ngài mà  			ngược lại còn làm tăng thêm uy tín của Ngài, 
nhất là ở xã hội ngày  			nay.
 			Với đời sống
lạc lậu của con người  			trong quá khứ khi chưa có ánh sáng của khoa 
học kỹ thuật, tôn giáo  			nói chung và Phật giáo nói riêng đã vay mượn 
sự bỡ ngỡ trước những  			hiện tượng xảy ra bất thường của thiên nhiên 
làm phương tiện giáo  			dục con người. Thần thánh hóa đức Phật, với mục
đích giúp cho con  			người tránh xa điều ác, làm những điều lành, để 
cuộc sống con người  			được hạnh phúc và an lạc. Ở xã hội ngày nay, 
nhất là ở xã hội Tây  			phương với hệ thống giáo dục tốt, cộng thêm nền
khoa học kỹ thuật  			tiên tiến, những hiện tượng tự nhiên dần dần đã 
được khám phá, không  			còn là sự nghi ngờ của con người, phương tiện 
giáo dục mang tính  			thần thoại ấy, không còn thích nghi nữa, thế thì 
tại sao chúng ta  			không vận dụng tinh thần trong sáng vốn có của đức 
Phật để giới  			thiệu cho con người và xã hội ngày nay? Tại sao chúng 
ta không giới  			thiệu đức Phật bằng xương bằng thịt, bằng trí tuệ siêu
việt trong  			sáng của Ngài cho mọi người, nhất là cho thế hệ trẻ - 
thế hệ đã  			trang bị cho mình một vốn kiến thức cơ bản trước khi vào 
cuộc sống?  			Như vậy, đức Phật lịch sử có vai trò hết sức quan trọng ở
xã hội  			chúng ta.
 			 
 			3.  			Điểm dị đồng giữa đức  			Phật và A La Hán
 			Nếu chúng ta
căn cứ nguồn tư liệu của  			Kinh A hàm hoặc Nikàya thì chúng ta thấy 
đức Phật chỉ đề cập đến bốn  			thánh quả là: 1. Tu đà hoàn (Srotàpana 
-phala), 2. Tư đà hàm  			(Sakrdàgàmi-phala), 3. A na hàm 
(Angàmi-phala), 4. A La Hán  			(Arahat). Trong bốn quả này, quả vị A La
Hán là quả vị cao nhất,  			ngoài ra không còn quả vị nào khác, đức 
Phật Thích Ca Mâu Ni cũng  			chỉ chứng tới quả vị A La Hán. Nhưng sau 
khi đức Phật nhập diệt vào  			khoảng hơn 100 năm, Đại Thiên (Mahàdeva) 
đưa ra 5 việc[25],
đã dẫn đến sự tranh cãi, kết quả phân chia Phật giáo thành hai 
phái:  			Đại Chúng Bộ (Mahàsamghikà) và Thượng Tọa Bộ (Sthàvira). Đại 
Chúng  			Bộ cho rằng: 1. A La Hán vẫn còn có hiện tượng xuất tinh 
trong  			lúc ngủ. 2. Vẫn còn có bất nhiễm ô vô tri, 3. Vẫn
còn  			có trạng thái do dự. 4. Vẫn còn có những vấn đề do 
người khác  			chỉ điểm. 5. Đạo từ do âm thanh mà có[26];
nhưng ngược lại Thượng Tọa Bộ lại không đồng ý. Từ sự kiện này, về 
sau Đại thừa Phật giáo xem bốn đạo quả này là bốn quả vị của Tiểu  	
thừa Thanh văn, không bằng Bồ tát và Phật quả. Nhưng trên thực tế,  		
các vị Thượng tọa có cái nhìn về đức Phật như thế nào, chúng ta cần  		
phải nắm rõ trước khi chúng ta thảo luận đến quan điểm của Đại Chúng  	
Bộ. Liên quan đến quan điểm mà chúng ta đang thảo luận, nguồn tư  			
liệu xuất hiện sớm nhất của kinh tạng Nikàya ghi chép như sau:
 			Như lai 
(Tathàgato), này các Tỷ  			kheo, là bậc A La Hán, Chánh đẳng giác...[27]
 			Ở đây đức 
Phật xác nhận, đức Như lai  			(Tathàgato) là bậc A La Hán (Arahat), 
cũng là Chánh đẳng giác  			(sammà-sambuddho); A La Hán cũng chính là 
Như lai, là Phật, là chánh  			đẳng chánh giác, ba danh xưng này đều chỉ
cho một vị đã giác ngộ  			giải thoát, không có danh xưng nào cao hay 
thấp. Đây là điểm chúng  			ta cần để ý, chính là quan điểm của thời kỳ 
Phật giáo Nguyên thủy,  			hay nói đúng hơn là thời kỳ của Kinh A hàm 
hay Nikàya, là thời kỳ  			chưa phát sinh sự phân biệt giữa A La Hán và 
Phật.
 			Đồng thời 
cũng qua đoạn văn vừa nêu  			trên cho thấy, yếu tố mà đức Như lai 
(Tathàgato), A La Hán (Arahat),  			Chánh đẳng giác (sammà-sambuddho) và
các vị Tỷ kheo giác ngộ chứng  			quả A La Hán có nội dung giống nhau, 
đều có một nguyên tắc chung là  			không chấp trước vào sắc, thọ, tưởng,
hành và thức, cho nên vị ấy  			nhàm chán và xa lìa các sắc..., do nhàm
chán và xa lìa sắc...cho nên  			không có tham lam luyến ái đối với 
sắc…, do không tham lam đối với  			sắc... cho nên đoạn trừ các nỗi khổ 
do sắc, thọ, tưởng, hành, thức  			gây ra. Chẳng qua ở đây gọi ‘Tỷ kheo 
nhờ tuệ được giải thoát’ là đức  			Phật muốn nhấn mạnh, chỉ có trí tuệ 
mới có thể giác ngộ và giải  			thoát, không phải biểu thị ý nghĩa nội 
dung giác ngộ giữa đức Phật  			và vị tỷ kheo đã giải thoát không giống 
nhau. Nếu thế thì đức Phật  			và các vị tỷ kheo thành quả A La Hán đều 
giống nhau chăng? Để giải  			đáp vấn đề này, trong "Kinh Tương 
Ưng Bộ" tập 3, đức Phật  			giải thích như sau:
 			 
 			Chư tỷ 
kheo! Ở đây đức Như Lai,  			bậc Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác và các 
Tỷ kheo do tuệ mà được  			giải thoát có sự sai khác gì? Có sự đặc thù 
gì? 			 			 			[28]
 			Chư tỷ 
kheo! Ở đây đức Như Lai,  			bậc Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác là 
người làm khởi dậy đạo lộ,  			làm khơi dậy con đường chưa được khơi 
dậy, tuyên thuyết con đường  			chưa được tuyên thuyết, là người hiểu 
biết, nhận rõ và giác ngộ con  			đường đó. Chư tỷ kheo! Còn các thiện 
nam tử y cứ vào con đường đó  			thực hành cũng chứng được thánh quả A 
La Hán.[29]
 			Qua đoạn kinh  			vừa dẫn 
trên cho chúng ta thấy rõ tính chất dị đồng giữa đức Phật và  			các vị 
đệ tử đã chứng quả vị A La Hán.  	
Nếu như đoạn kinh trên đức Phật xác định sự chứng quả giữa Ngài với  	
các vị A La Hán là giống nhau, thì  			đoạn kinh này đức Phật trình bày sự khác biệt giữa 
Ngài và các vị đệ  			tử là bậc đã chứng A La Hán không giống nhau.
Sự khác biệt  			giữa Ngài và các vị A La Hán chỉ là sự khác biệt, Ngài
là người đã  			khám phá ra con đường đưa đến giác ngộ và giải thoát, 
còn các vị đệ  			tử A La Hán là những người y cứ vào con đường đó tu 
tập và cũng được  			giác ngộ giải thoát như Ngài. Tóm lại, sự giống 
nhau giữa đức Phật  			và vị A La Hán là sự chứng đắc, sự khác nhau giữa
đức Phật và các vị  			tỷ kheo chứng quả A La Hán, là sự khác biệt giữa
người khám phá con  			đường và người y theo con đường đó.
 			Từ nội dung 
và ý nghĩa của đoạn kinh  			này, minh chứng cho chúng ta thấy rằng, ở 
thời kỳ Nguyên thủy Phật  			giáo hay nói đúng hơn là hệ phái của Thượng
Tọa Bộ đều cho rằng quả  			vị A La Hán là quả vị cao nhất, đức Thích 
Ca mâu Ni cũng chỉ chứng  			quả vị A La Hán, ngoài ra không có quả vị 
nào khác.
 			Thế thì quả 
vị Bồ tát (Boddhi-sattva)  			và Phật khác nhau như thế nào?
 			Căn cứ từ 
các nguồn tư liệu của A Hàm  			hay Nikàya mô tả, khái niệm Bồ tát không
phải là quả vị tu chứng, mô  			tả khi đức Phật Ngài xuất gia, chưa 
chứng đắc bất cứ quả vị nào, cho  			nên được gọi là Bồ tát. Như vậy, 
nếu chúng ta đứng từ góc độ của  			phái Thượng Tọa Bộ, khái niệm Bồ tát
không phải là một quả vị chỉ  			cho một người tại gia. Thế nhưng đến 
thời kỳ “Bổn  			sanh”, “Bổn
Sự” hoặc theo Nam truyền vào thời kỳ văn học  			“Jàtaka”
xuất hiện thì khái niệm này lại mang một ý nghĩa  			khác, Bồ tát được 
xem như là một quả vị, không phải là phàm phu.  			Trên thực tế, nếu 
chúng ta căn cứ từ Boddhi-sattva phân tích thì nó  			cũng hàm chứa hai ý
nghĩa khác nhau. Từ ‘Boddhi-sattva’ do hai từ  			‘boddhi’ (giác ngộ) 
và ‘sattva’ (hữu tình) ghép lại mà thành. Ở đây,  			nếu như chúng ta 
xem chữ boddhi như là một tĩnh từ, bổ nghĩa cho  			sattva, thì khái 
niệm Boddhi-sattva phải được hiểu là: Loài hữu tình  			có đặc tính giác
ngộ. Cách phân tích này, mang ý nghĩa đức Phật hay  			A La Hán vốn là 
loài hữu tình chúng sanh, từ vị trí của con người mà  			thành Phật, phủ
nhận đức Phật hay Bồ tát là người xuất thế gian. Đây  			là cách hiểu 
của phái Thượng Tọa Bộ, xem đức Phật như là một nhân  			vật lịch sử.
 			Ngược lại, 
cách giải thích thứ hai,  			xem chữ ‘Boddhi’ như là động từ và ‘sattva’
là một danh từ làm túc  			từ, và chủ ngữ của câu này được hiểu ngầm, 
như vậy từ  			‘boddhi-sattva’ mang ý nghĩa Bồ tát là người đã giác ngộ,
Bồ tát đến  			cuộc đời này với mục đích làm nhiệm vụ hóa độ chúng 
sanh. Cách giải  			thích này phù hợp với quan niệm về đức Phật theo 
Phật giáo Đại Chúng  			Bộ hay Đại thừa Phật giáo, cho rằng Bồ tát là 
người xuất thế gian,  			đã được giác ngộ và giải thoát, như được thảo 
luận ở mục 2 ‘Đức Phật  			là nhân vật lịch sử có thật’. Đây là cách lý 
giải khác nhau về khái  			niệm Bồ tát của hai trường phái lớn trong 
Phật giáo.
 			Tiếp đến, từ
ngữ Phật (Buddha) có  			phải là một quả vị không? Đứng từ góc độ văn 
bản học mà nhìn, theo  			truyền thống của kinh điển A Hàm hay Nikàya 
chỉ đề cập đến bốn quả.  			Khái niệm Phật (Buddha) chỉ cho sự giác ngộ,
không mang ý nghĩa là  			quả vị, vì người nào thấu rõ thực tướng của 
các pháp, liền đoạn trừ  			phiền não, chứng A La Hán. Chính sự kiện 
thấu rõ đó được mô tả bằng  			khái niệm giác ngộ, tức là Buddha, có 
nghĩa là đã giác ngộ, vì  			bud là động từ có nghĩa là giác 
ngộ, và dha là quá khứ  			phân từ của động từ bud, 
cũng giống như tiếng Anh thêm ed  			vào sau động từ, để mô tả 
về một hành động đã hoàn tất, thuộc về quá  			khứ. Như vậy khái niệm Buddha
có nghĩa là đã giác ngộ, khái  			niệm này chỉ cho một vị A La Hán, là 
người đã giải thoát, chúng ta  			cũng có thể xem nó như một quả vị - 
Phật quả, nhưng trong kinh điển  			Nam truyền không thấy đề cập Phật 
quả, mà chỉ có quả vị A La Hán quả  			là cao nhất. Khái niệm Phật quả 
đến thời kỳ Đại Chúng Bộ hay nói  			đúng hơn là thời kỳ Phật giáo Đại 
thừa, cụ thể là “Kinh Diệu Pháp  			Liên Hoa” xem ‘quả 
vị Phật’ là quả vị cao nhất, hơn quả vị A La  			Hán. Theo tinh thần của
kinh này, xem bốn quả là quả vị Tiểu thừa  			Thinh Văn, không bằng quả
vị Phật, vị trí quả vị Bồ Tát còn cao hơn  			quả vị A La Hán. Từ điểm 
này, gợi ý cho chúng ta thấy rằng, trong  			kinh điển Phật giáo có khá 
nhiều từ ngữ, cùng có chung một danh  			xưng, nhưng khác nhau về ý 
nghĩa. Đây là điểm mà chúng ta cần chú ý,  			nếu không sẽ rơi vào sự 
hiểu lầm, thậm chí phát sinh tranh luận vô  			ích.
 			 
 			4.  			Đức Phật không phải  			là bậc nhất thiết trí
 			Chúng ta đã 
thảo luận qua đức Phật là  			một nhân vật lịch sử, trong công tác độ 
sanh Ngài là một vị 'Đạo  			sư'. Giờ đây chúng ta tiếp tục tìm hiểu đức
Phật phải chăng là bậc  			nhất thiết trí, nhất thiết kiến, có nghĩa là
bất cứ điều gì Ngài  			cũng biết và bất cứ cái gì Ngài cũng thấy. Thảo
luận vấn đề này, nếu  			chúng ta căn cứ vào nguồn tư liệu khác nhau, 
thì đức Phật cũng theo  			đó mang ý nghĩa khác nhau. Theo nguồn tư liệu
của Thượng Tọa Bộ, cụ  			thể là “Kinh Trung Bộ” 
(Majjhima-Nikàya), trong đó có một số  			kinh với nội dung phủ nhận đức
Phật là bậc nhất thiết trí, nhứt  			thiết kiến; có nghĩa là phản bác 
quan điểm cho rằng, đức Phật là  			người có khả năng cái gì cũng biết 
và cái gì cũng hiểu. Nhưng theo  			các nguồn tư liệu của Phật giáo Đại 
thừa thì khẳng định, đức Phật là  			bậc toàn tri toàn kiến, có khả năng
vô hạn. Xuất phát từ đâu mà hai  			trường phái có quan điểm bất đồng 
này? Theo tôi, điều này có liên hệ  			mật thiết đến vấn đề truyền giáo 
của Phật giáo Đại Chúng Bộ, nhất là  			Phật giáo Đại thừa, vì Phật giáo
Đại chúng muốn phổ biến Phật pháp  			đến mọi thành phần trong xã hội. 
Vì để thành đạt mục đích này, Phật  			giáo Đại Chúng Bộ phải vay mượn 
những hình thức tín ngưỡng dân gian,  			phong tục tập quán của người 
dân Ấn làm phương tiện dẫn dắt mọi  			người đến với đạo Phật, nếu Phật 
giáo không làm như vậy, khó gần gũi  			giáo hóa chúng sanh, khó hoàn 
thành nhiệm vụ hoằng dương Phật pháp.  			Cũng giống như Phật giáo khi 
truyền bá đến Trung Quốc, bị các nhà  			nho phản đối, Phật giáo phải 
vay mượn tư tưởng văn hóa của Trung  			Quốc giải thích Phật học, để cho
người bản xứ chấp nhận Phật giáo,  			Phật giáo mới có cơ hội tồn tại 
và phát triển ở xứ sở này. Phật giáo  			ở Ấn Độ cũng thế, vì Phật giáo 
lúc đầu chỉ là một đoàn thể tăng già  			tu tập, với đời sống độc cư 
thiền định, lấy việc tự thân giác ngộ  			giải thoát làm mục đích. Điều 
đó khác với tăng già sống và làm việc  			trong xã hội, lấy việc độ sanh
làm mục đích. Do vậy, Phật giáo cần  			phải đề cao vai trò ‘phương 
tiện’ để dễ hòa nhập vào xã hội, thực  			thi mục đích của mình. Phật 
giáo Đại Chúng Bộ hay Đại thừa cũng theo  			đó chịu ảnh hưởng những tín
ngưỡng của các tôn giáo khác, đức Phật  			cũng từ đó bị thần thánh 
hóa. 
 			Nếu căn cứ 
vào văn hóa tôn giáo  			truyền thống của Ấn Độ thì chúng ta thấy quan 
niệm nhất thiết trí và  			nhất thiết kiến vốn là cách mô tả về vị tổ sư
của Kỳ Na giáo, không  			phải của Phật giáo. Như 'Tiểu Kinh Khổ 
Uẩn'  			(Cùla-dukkhakkhandha-sutta) trong ‘Kinh Trung Bộ’
đức Phật  			nói như sau:
 			… Này 
Mahànàma, được nói vậy các  			Nigantha ấy trả lời Ta như sau: "Này Hiền
giả, Nigantha Nataputta -  			là bậc toàn tri, toàn kiến, tự xưng là có
tri kiến toàn diện như  			sau: 'Dầu ta có đi, có đứng, có ngủ và có 
thức, tri kiến luôn luôn  			được tồn tại liên tục ở nơi ta'…[30]
 			Ở đây phái 
Ni Kiền tử  			(Nigantha-Nataputta) cho rằng, Nigantha-Nataputta[31] 
là bậc 'toàn tri', 'toàn kiến', tự cho mình là người có tri kiến  		
toàn diện, khi vị ấy đi đứng nằm ngồi, lúc tỉnh thức và ngay cả  			
trong lúc ngủ, tri thức của vị ấy luôn luôn tồn tại và tỉnh táo,  			
liên tục không bị gián đoạn.
 			Ở đây, khái 
niệm toàn tri, toàn kiến  			mang ý nghĩa bất cứ cái gì cũng biết và bất
cứ điều gì cũng thấy,  			không luận là việc trên trời hay dưới đất, 
việc của mình hay của  			người, việc của quá khứ, hiện tại hay vị lai, 
lúc thức hay trong khi  			ngủ đều thấy và biết cả. Đây là cách mô tả về
bậc tổ sư của phái Kỳ  			Na giáo. Bản thân đức Phật nghĩ như thế nào 
về chuyện này? 'Kinh  			Ba Minh Vacchagota’ (Tevijja 
-vacchagotta sutta) trong ‘Kinh  			Trung Bộ’ đã ghi 
lại lời vấn đáp giữa Vaccha và đức Thế Tôn như  			sau:
 			Bạch Thế
Tôn, con nghe như sau:  			'Sa-môn Gotama là bậc nhứt thiết trí, là bậc
nhứt thiết kiến. Ngài  			tự cho là có tri kiến hoàn toàn: "Khi Ta đi, 
khi Ta đứng, khi Ta ngủ  			và khi Ta thức, tri kiến luôn luôn tồn tại, 
liên tục”.... Bạch Thế  			Tôn, những vị ấy nói về Thế Tôn có đúng với 
điều đã được nói, những  			vị ấy không vu khống Thế Tôn với điều không 
thực.... không?[32]
 			Thế Tôn trả 
lời:
 			Này 
Vaccha, những ai nói như sau:  			'Sa-môn Gotama là bậc nhứt thiết trí, 
là bậc nhứt thiết kiến. Ngài  			tự cho là có tri kiến hoàn toàn: "Khi 
Ta đi, khi Ta đứng, khi Ta ngủ  			và khi Ta thức, tri kiến luôn luôn 
tồn tại, liên tục"'. Thì đấy là  			họ nói về Ta không đúng với điều đã 
được nói, họ đã vu khống Ta với  			điều không thực....[33]
 			Ở đây, câu 
hỏi của Vaccha, “con nghe  			người ta đồn và cho rằng: Sa môn Gotama là
bậc nhất thiết trí, nhứt  			thiết kiến” có nghĩa là khi Thế Tôn đi 
đứng nằm ngồi thậm chí khi  			ngủ cũng như lúc thức, tri kiến của Thế 
Tôn luôn luôn tỉnh thức,  			không biết họ đồn như vậy có đúng sự thật 
không? Câu hỏi này được  			Thế Tôn xác nhận: Những lời đồn đãi này, là 
những lời không thật, đã  			vu khống Thế Tôn.
 			Chúng ta 
thường được nghe Thế Tôn là  			bậc nhất thiết trí, nhưng tại sao trong 
kinh này Thế Tôn lại phủ  			nhận điều này? Như trong phần một của bài 
viết này, chúng ta đã khái  			quát giới thiệu Thượng Tọa Bộ và Đại 
Chúng Bộ có cái nhìn khác nhau  			về đức Phật. Đại Chúng Bộ và Đại thừa
Phật giáo cho rằng, đức Phật  			là bậc nhất thiết trí, nhưng phái 
Thượng Tọa Bộ thì không chấp nhận.  			Nguyên nhân tại sao? Vì Thượng 
Tọa Bộ cho rằng, đức Phật là một nhân  			vật lịch sử có thật, không 
phải là người ngoài thế gian. Từ góc độ  			con người mà nhìn, đức Phật 
vốn là một con người, nhưng con người ấy  			đã đoạn trừ lòng tham lam 
sân hận và si mê, nên được gọi là Phật,  			tuy sự hiểu biết của Ngài 
vượt lên những người thế gian, không những  			thế mà sự hiểu biết của 
Ngài rất trong sạch, nhưng không phải vì thế  			mà xem Ngài là bậc toàn
tri toàn kiến, vì khái niệm toàn tri  			toàn kiến này, được 
giải thích là không những trong lúc đi đứng nằm  			ngồi mà ngay trong 
khi ngủ cũng đều được tỉnh thức, sự hiểu biết  			hiện tiền. Đây chính 
là điều đức Phật không chấp nhận Ngài là bậc  			toàn tri toàn kiến, là 
con người không có ai có thể hiểu biết tất cả  			mọi lãnh vực trong 
cuộc sống, nhất là không thể có sự tỉnh táo hiểu  			biết trong khi ngủ,
vì giấc ngủ là thời gian để cho hệ thần kinh  			nghỉ ngơi, không thể 
có người sống mà không cần ngủ, khi ngủ không  			thể nói là tỉnh thức. 
Trong kinh A Hàm hay Nikàya mô tả thời gian  			nghỉ ngơi của đức Thế 
Tôn rất ngắn, đầu đêm giữa đêm tọa thiền, khi  			Ngài nằm ngủ tâm luôn 
luôn hướng đến sự tỉnh thức, có nghĩa là giấc  			ngủ của Thế Tôn không 
mê say như chúng ta, khi có tiếng động sẽ tỉnh  			ngay, nhưng không có 
nghĩa là 'tỉnh thức' hay không ngủ. Có lẽ đây  			là lý do thứ nhất tại 
sao đức Phật không đồng ý Ngài là bậc nhất  			thiết trí, nhứt thiết 
kiến, đây cũng chính là điểm để cho Đại Thiên  			(Mahàdeva) lấy đó làm 
cơ sở để đưa đến quan điểm cho rằng, A La Hán  			vẫn còn xuất tinh 
trong khi ngủ nằm mộng. Một lý do nữa mà trong  			kinh này đức Phật phủ
nhận Ngài không phải là bậc nhứt thiết trí,  			nhứt thiết kiến, vì 
Ngài là người rất tôn trọng sự thật của cuộc  			sống. Sự thật của cuộc 
sống như thế nào thì nói như thế nấy, không  			nói thêm cũng không nói 
bớt đi, vì lời nói thêm hay nói bớt thường  			làm tổn thương cho cuộc 
sống, hơn là làm cho cuộc sống có hạnh phúc.  			Câu 'như lý tác ý'[34] 
trong kinh A Hàm hay Nikàya đã chứng minh điều đó. Có lẽ đây chính  
là lý do tại sao đức Phật luôn bài bác những hình thức tế tự của đạo 
Bà-la-môn và các tập tục mê tín của người dân Ấn Độ. Nói chung, Ngài
không chấp nhận sự hư cấu và thần thánh hóa, vì nó không giúp ích 
gì  			cho đoạn trừ khổ đau, giác ngộ và giải thoát, ngược lại nó làm  	
chướng ngại cho việc truy tìm chân lý, cho nên đức Phật đã phủ nhận  	
lời đồn này.
 			Từ quan điểm
của bản kinh này, cho  			phép chúng ta liên tưởng đến tác phẩm “Đại
Trí Độ Luận” Bồ  			tát Long Thọ phê phán rằng:
 			Lại nữa,
có người cho rằng Phật  			không phải là bậc Nhứt thiết trí. Tại sao 
vậy? Vì các pháp trong thế  			gian vô lượng vô biên, làm sao sức của 
một người có thể biết được?  			Phật trụ trong Bát nhã ba la mật, thật 
tướng thanh tịnh như hư  			không, trong vô lượng vô số pháp, tự nhiên 
nói rằng: Ta là bậc Nhất  			thiết trí, vì để đoạn trừ sự nghi hoặc của 
chúng sanh, do đó cho nên  			nói "Kinh Ma Ma Bát Nhã Ba La Mật Đa[35].
 			Nội dung và ý
nghĩa của đoạn văn vừa  			nêu trên, gợi ý cho chúng ta hiểu rằng, Bồ 
tát Long Thọ giải thích  			lý do tại sao đức Phật nói “Kinh
Bát Nhã Ba La Mật Đa”,  			vì để đoạn trừ lòng nghi 
hoặc của những người Thượng Tọa Bộ (Tiểu  			thừa), cho rằng Đức Phật 
không phải là bậc nhất thiết trí, cho nên  			nói kinh này. Từ điểm này,
cũng gợi ý cho chúng ta hiểu, Đại Chúng  			Bộ và Đại thừa Phật giáo 
không chấp nhận quan điểm của Thượng Tọa  			Bộ. Quan điểm của Phật giáo
Đại chúng và Đại thừa cho rằng đức Phật  			là người xuất thế gian, đã 
thành Phật từ vô lượng kiếp; sự kiện làm  			con của vua Tịnh Phạn, đản 
sinh tại vườn Lâm-tỳ-ni, tu khổ hạnh,  			thành đạo dưới cội cây bồ đề, 
tất cả đều là việc 'thị hiện'[36] 
của Phật, cho nên không thể vin vào đó cho rằng, đức Phật là con  		
người, có sanh có diệt...; quan điểm này biểu thị sự khác biệt giữa  		
hai trường phái Thượng tọa bộ và Đại chúng bộ. Do vậy, khi chúng ta  		
bàn về đức Phật chúng ta nên làm rõ vấn đề này để khỏi tranh cãi vô  		
ích.
 			 
 			5.  			Kết luận
 			Phật giáo 
cũng giống như cây đại thọ  			trong rừng sâu trải qua bốn mùa xuân hạ 
thu đông, thời tiết lạnh  			nóng bất thường, thân cây cũng tùy theo đó 
mà thay đổi. Sự thay đổi  			màu sắc của thân cây không đồng nghĩa bản 
chất của cây thay đổi.
 			Cũng thế, 
nhìn lại chiều dài của lịch  			sử Phật giáo đã có tuổi thọ hơn 2500 
năm, Phật giáo không những chỉ  			phát triển ở Ấn Độ mà cho đến ngày 
nay Phật giáo gần như có mặt khắp  			cả địa cầu. Sự khác nhau về không 
gian và thời gian, xã hội và sự  			suy nghĩ của con người là yếu tố dẫn
đến sự biến hóa của Phật giáo.
 			Từ Phật giáo
Nguyên thủy đến Phật  			giáo Bộ phái, rồi từ Phật giáo Bộ phái đến 
Phật giáo Đại thừa, điều  			đó nói lên tiến trình diễn biến của Phật 
giáo ở Ấn Độ, và cũng nói  			lên tính thích nghi cao độ của đạo Phật. 
Tính đặc thù của mỗi giai  			đoạn Phật giáo là sự phản ánh trực tiếp 
hoặc gián tiếp của xã hội  			đó, hay nói đúng hơn nó là nhu cầu của con
người trong xã hội đó.
 			Vào khoảng 
hơn 100 năm, sau khi đức  			Phật nhập diệt, Phật giáo chia thành hai hệ
phái Thượng Tọa Bộ và  			Đại Chúng Bộ. Thượng Tọa Bộ là những bậc kỳ 
cựu trưởng lão có quan  			điểm bảo thủ, muốn bảo vệ nguyên vẹn hình 
thức sinh hoạt của thời kỳ  			đức Phật còn tại thế. Ngược lại, Đại 
Chúng Bộ hầu hết là những thanh  			niên tăng trẻ, có khuynh hướng khai 
phóng canh tân Phật giáo, cho  			nên được gọi là Đại Chúng Bộ, từ đó 
dần dần phát triển thành Đại  			thừa Phật giáo. 
 			Hai bộ phái 
này có cái nhìn về đức  			Phật không giống nhau. Thượng tọa bộ cho rằng
đức Phật vốn là một  			con người, là một nhân vật lịch sử có thật, sau
khi Ngài trải qua 49  			ngày đêm tu tập dưới cội cây bồ đề, thành bậc 
chánh đẳng chánh giác,  			cho đến lúc đó mới được gọi là Phật.
 			Thế nhưng 
Đại Chúng Bộ và Đại thừa  			Phật giáo cho rằng, đức Phật là người xuất 
thế gian, Ngài đến thế  			gian chỉ là việc ‘thị hiện’, làm 
phương tiện để giáo hóa  			chúng sanh, trên thực tế 
Ngài đã thành Phật từ vô lượng kiếp.  			Do đó Đại Chúng Bộ và Đại thừa 
Phật giáo mô tả đức Phật mang tính  			tôn giáo, mang sắc thái thần 
thánh hóa đức Phật.
 			Từ đó vấn đề
độ sanh giữa hai trường  			phái này cũng có cái nhìn khác nhau, Thượng
Tọa Bộ cho rằng, đức  			Phật chỉ là bậc Đạo sư hay chỉ là vị Lương y 
tài giỏi, hướng dẫn cho  			chúng sanh, khiến những kẻ mê muội thoát ly 
cảnh khổ ở thế gian,  			nhưng chúng sanh muốn được giải thoát giác ngộ 
phải tự mình tu tập,  			đoạn trừ phiền não, thắp lên ánh sáng trí tuệ 
ngay ở trong tâm của  			mỗi người, không phải là việc cầu xin. 
 			Đại Chúng Bộ
và Đại thừa vì đề cao  			vai trò tha lực, cho nên đức Phật trở thành 
vị có khả năng vô tận,  			oai lực cũng vô cùng, mới có thể cứu độ chúng
sanh. 
 			Một điểm 
khác nữa, Thượng Tọa bộ cho  			rằng, quả vị A La Hán và Phật giống 
nhau, không có quả vị nào cao  			hơn quả vị nào, chẳng qua sự khác biệt
giữa đức Phật và A La Hán là  			đức Phật là người tìm ra con đường 
giác ngộ còn các vị A La Hán là  			những người chỉ y theo con đường đó 
tu tập. Nhưng Đại Chúng Bộ và  			Đại thừa Phật giáo lại cho rằng quả vị
A La Hán không bằng quả vị  			Phật. Và cuối cùng Thượng Tọa Bộ cho 
rằng, đức Phật không phải là  			người nhất thiết trí, nhất thiết kiến, 
nhưng Đại Chúng Bộ và Đại  			thừa Phật giáo không đồng quan điểm mà lại
cho rằng đức Phật là bậc  			nhất thiết trí, nhất thiết kiến, cái gì 
cũng biết cũng thấy cả.
 			Đây là những
điểm khác biệt căn bản  			về đức Phật giữa hai bộ phái lớn của Phật 
giáo. Điều đó gợi ý cho  			chúng ta hiểu rằng, khi chúng ta giới thiệu 
về đức Phật cần phải  			phân biệt rõ, chúng ta đứng trên lập trường nào
để giới thiệu về đức  			Phật, và khi chúng ta đứng trên lập trường nào
thì cần tuân theo  			quan điểm của học phái đó, nếu không chúng ta vấp
phải sự mâu thuẫn.
 			 
 			KINH
SÁCH THAM KHẢO
 			 
 			1. HT. Minh Châu dịch, “Kinh Tương  			
Ưng Bộ” tập 3, Viện NCPHVN ấn hành 1993. 			
 			2. 
“Samyutta-Nikàya”  			III, The Pàli Text Society, London 1975.
 			3. HT. Minh Châu dịch, “Kinh Trung Bộ”
tập 3, Viện NCPHVN ấn hành 2001. 			
 			4. Viện Hải Đức dịch, “Kinh Trung 
A Hàm” tập 1, 2, 3, Viện NCPHVN ấn hành.           
 			 			
 			5. “Thích Ca Phổ”, Đại Chánh  		
Tạng, Q. 50, số. 2040. 			
 			6. “Đại Trí Độ Luận” Đại Chánh  
Tạng Q.25, số. 1509. 			
 			7. “Dị Bộ Tông Luân Luận” Đại  	
Chánh Tạng Q. 49, Số 2031. 			
 			8. Lữ Trưng, “Ấn Độ Phật học tư tưởng  		
khái luận”, NXB Thiên Hoa, Taipei. 			
 			9. Walpola Rahula, “What the Buddha  			
taught” Taiwan 2002, The Corporation Body of the Buddha  			
Educational Foundation. 			
 				
 
 					 					 					 					[1]
Tham khảo Thích Hạnh Bình, “Nghiên cứu  					về 5 việc của Đại Thiên”, 
Hà Nội, NXB Tôn giáo, 2005.
 
 					 					 					 					[2]
Nếu chúng ta nghiên cứu kỹ trong kinh  					tạng Nikaya hay A hàm, có 
khá nhiều kinh mô tả về đức Phật  					mang ý nghĩa thần thoại, cụ thể 
là 'Kinh Vị Tằng Hữu' trong  					"Kinh Trung Bộ" hay "Trung A hàm".
 
 					 					 					 					[3]
Hạnh Bình, "Nghiên cứu về 5 việc của  					Đại Thiên", Chương V, Hà 
Nội, NXB Tôn Giáo 2005, trang  					143~151.
 
 					 					 					 					[4]
“Thích Ca Phổ” Đại Chánh Tạng quyển  					50, số 2040, trang 1b~c.
 
 					 					 					 					[5]
Tham khảo Lữ Trưng, "Ấn độ Phật học Tư  					tưởng Khái Luận", Taipei, 
NXB Thiên Hoa, trang 13.
 
 					 					 					 					[6]
HT. Minh Châu dịch, “Kinh Trường Bộ”  					tập 1, ‘Kinh Đại Bát Niết 
Bàn’ trang 574 ghi: ‘Chánh pháp  					được Thế Tôn khéo thuyết giảng, 
thiết thực, vượt ngoài thời  					gian chi phối, có khả năng giải thoát,
được kẻ trí chứng  					hiểu”
 
 					 					 					 					[7]
Tương đương Hán Tạng ‘Kinh Phân  					Biệt Thánh Đế’ trong 
“Kinh Trung A hàm”.
 
 					 					 					 					[8]
HT. Minh Châu dịch, “Kinh Trung Bộ”  					tập 3, ‘Kinh
Tiểu Nghiệp Phận Biệt’ trang 472~473 ghi: ‘Thưa  					Tôn giả Gotama, 
do nhân gì, duyên gì giữa loài người với  					nhau, khi họ là loài 
người, lại thấy có người liệt, có người  					ưu?…có người quyền thế 
nhỏ, có người quyền thế lớn; Có người  					tài sản nhỏ có người tài sản
lớn; Có người thuộc gia đình hạ  					liệt, có người thuộc gia đình cao
quí…?
 
 					 					 					 					[9]
Cũng trong ‘Kinh Tiểu Nghiệp Phân  					Biệt’ này đức Phật trả lời 
rằng: ‘Này Thanh niên, các loài  					hữu tình là chủ nhân của nghiệp, 
là thừa tự của nghiệp.  					Nghiệp là thai tạng, nghiệp là quyến thuộc,
nghiệp là điểm  					tựa, nghiệp phân chia các loài hữu tình có liệt có
ưu.’
 
 					 					 					 					[10]
"Đại tỳ Bà Sa Luận" Q.99, Đạ Chánh  					Tạng. 23, Số 1435, trang 
450a~453b ghi: 1. A La Hán vẫn còn  					xuất tinh trong khi ngủ say, 2.
A La Hán vẫn còn có những  					việc vô tri, 3. A La Hán vẫn còn do dự,
4. A La Hán vẫn còn  					sự chỉ điểm của người khác, 5. Đạo từ âm 
thanh mà có.
 
 					 					 					 					[11]
Căn cứ nội dung tư tưởng 5 việc của  					Đại thiên và kinh điển A Hàm 
hay Nikàya cho thấy, quan điểm  					của Đại Thiên không phải là quan 
điểm về sau của Đại Chúng  					Bộ. Cũng vậy, quan điểm của các bậc 
Thượng Tọa Bộ đương thời  					cũng khác với tư tưởng của Thượng Tọa Bộ.
Đây là điểm mà  					chúng ta cần chú ý.
 
 					 					 					 					[12]
Xin tham khảo 'Kinh Hy Hữu Vị Tằng  					Hữu Pháp’ 
(Acchariyabbhùtadhammasutta) số 123, trong  					"Kinh Trung Bộ" tập 3, 
tương đương Hán tạng ‘Kinh Vị Tằng  					Hữu Pháp’ trong “Kinh Trung A 
hàm”. Hai kinh này đã mô tả  					đức Phật như là bậc siêu nhân, mang 
tính thần thoại.
 
 					 					 					 					[13]
‘Nhứt âm’ là chỉ cho Phật thừa, không  					phải là một âm thanh, một 
loại ngôn ngữ. Cũng vậy, khi các  					nhà Thượng tọa cho rằng, Phật lấy
5 âm để nói pháp. Đó là vô  					thường, khổ, không, vô ngã và Niết bàn
tịch tịnh.
 
 					 					 					 					[14]
"Dị Bộ Tông Luân Luận" Đại Chánh Tạng  					49, số 2031, trang 15b~c
 
 					 					 					 					[15]
"Dị Bộ Tông Luân Luận" Đại Chánh Tạng  					49, số 2031, trang 16b~c.
 
 					 					 					 					[16]“Among  					the founders of 
religions the Buddha (if we are permitted to  					call him the founder 
of a religion in the popular sense of  					the term) was the only 
teacher who did not claim to be other  					than a human being, pure and
simple. Other teachers were  					either God, or his incarnations in 
different forms, or  					inspired by him. The Buddha was only a human 
being; he  					attributed all his realization, attainments and 
achievements  					to human endeavour and human intelligence. A man and 
only a  					man can become a Buddha. Every man has within himself the  
potentiality of becoming a Buddha, if he so wills it and  					
endeavours. We can call the Buddha a man par excellence. He  					was so
perfect in popular religion almost as ‘super-human’。”(Walpola  					Rahula. What the 
Buddha taught. Taiwan 2002, The Corporation  					Body of the Buddha 
Educationl Foundation, p.1)
 
 					 					 					 					[17]
HT Minh Châu dịch, "Kinh Trung Bộ"  					tập 3, Viện NCPHVN ấn hành, 
2001, trang 217~218. Tương đương  					‘Kinh Đa Giới’ trong 
“Kinh Trung A hàm”.
 
 					 					 					 					[18]
HT. Minh Châu dịch, "Kinh Tương Ưng  					Bộ" tập 3, Viện NCPHVN ấn 
hành, trang 198. Sau đó kinh này  					phát triển thành ‘Kinh Ganaka 
Moggalana’ số 107 trong “Kinh  					Trung Bộ” tập 3.
 
 					 					 					 					[19]
HT. Minh Châu dịch, "Kinh Trung Bộ",  					tập 3, Viện NCPHVN Ấn hành, 
2001, trang 113.
 
 					 					 					 					[20]
HT. Minh Châu dịch, "Kinh Trung Bộ",  					tập 3, Viện NCPHVN Ấn hành, 
2001 trang 113
 
 					 					 					 					[21]
HT. Minh Châu dịch, "Kinh Trung Bộ",  					tập 3, Viện NCPHVN Ấn hành, 
2001 trang 113.
 
 					 					 					 					[22]
HT. Minh Châu dịch, "Trung Bộ Kinh",  					tập 3, Viện NCPHVN Ấn hành, 
2001 trang 115~116.
 
 					 					 					 					[23]
HT. Minh Châu dịch, “Kinh Tương Ưng  					Bộ” tập 3, ‘Phẩm Tự Mình Làm 
Hòn Đảo’, Viện NCPHVN ấn hành  					1993, trang 83. Tương đương Hán tạng
“Kinh Tạp A hàm” kinh  					số: 638~639.
 
 					 					 					 					[24]
HT Thiện Siêu và Thanh Từ dịch, “Kinh  					Tạp A hàm” tập 2, Viện 
NCPHVN ấn hành 1994, trang 94~96.
 
 					 					 					 					[25]
Theo "Dị Bộ Tông Luân Luận" ghi: 1.  					Do sở dự (rena upasàdha), 2. 
Vô tri (ajnna), 3. Do dự  					(kanksà), 4. Tha linh nhập (parasya 
vicàrana), 5. Đạo nhân  					thinh cố khởi (Sasabdodhàrana màrga). (ĐT. 
49, No.2031,  					p.15a).
 
 					 					 					 					[26]
Hạnh Bình, “Nghiên cứu về 5 việc của  					Đại Thiên” NXB Tôn Giáo, Hà 
Hội 2005, trang 123~133.
 
 					 					 					 					[27]
HT Minh Châu dịch, "Kinh Tương Ưng Bộ 					" tập 3, Viện 
NCPHVN ấn hành 1993, trang 123.
 
 					 					 					 					[28]
"Samyutta-Nikàya" III, The Pàli Text  					Society, London 1975, p.66 
(Nguyên văn: Tatra kho bhikkhave  					ko viseso ko adhippàyoso kim 
nànà-karanam Tathàgatassa  					arahato sammà-sambuddhassa 
pannà-vimuttena bhikkhunà ti.)
 
 					 					 					 					[29]
"Samyutta-Nikàya" III, The Pàli Text  					Society, London 1975, p.65 
(Nguyên văn: Tathàgato bhikkhave  					Araham sammà-sambuddho 
anuppannassa maggassa, uppàdetà  					asanjànetà anakkhàtassa maggassa, 
akkhàtà maggannù magga,  					vidù magga-kovido. Maggànugà ca bhikkhave 
etarahi sàvakà  					viharanti pacchàsamannàgatà.)
 
 					 					 					 					[30]
HT Minh Châu dịch "Kinh Trung Bộ" tập  					1, viện NCPHVN ấn hành 
1993, trang 213.
 
 					 					 					 					[31]
Là bậc Tổ sư của phái Kỳ Na giáo.
 
 					 					 					 					[32]
HT Minh Châu dịch, “Kinh Trung Bộ”  					tập 2, Viện NCPHVN ấn hành 
2000, trang 308~309.
 
 					 					 					 					[33]
HT Minh Châu dịch, “Kinh Trung Bộ”  					tập 2, Viện NCPHVN ấn hành 
2000, trang 309. 
 
 					 					 					 					[34]
'Như lý tác ý' là đạo lý của sự vật  					như thế nào thì chúng ta nghĩ
nhu thế ấy, không nên nghĩ  					khác đi.
 
 					 					 					 					[35]
"Đại Trí Độ Luận" Đại Chánh Tạng Q.  					25, số. 1509, trang 58b.
 
 					 					 					 					[36]
"Đại Trí Độ Luận" Đại ChánhTạng Q.  					25, số. 1509, trang 59a.