Niềm
tin trong đạo Phật
 		PHẦN 3
 			NIỀM TIN TRONG ĐẠO PHẬT 
 			 
 			 			Niềm  			tin hay đức tin là 
trạng thái tâm lý, nó thường xuyên xuất  			hiện trong cuộc 
sống của mọi người, không phải chỉ giới  			hạn ở những người
có niềm tin đối với tôn giáo. Như chúng ta  			nói, tôi tin tưởng
sẽ đậu vào kỳ thi tới, tôi tin tưởng vào  			khả năng của 
bạn, tôi tin tưởng công việc làm ăn này, tôi tin  			tưởng đất 
nước sẽ phát triển.v.v… đây là những câu nói rất  			bình 
thường và thường xuất hiện trong đời sống hằng ngày  			của 
mọi người chúng ta, nó hoàn toàn không mang ý nghĩa  			xấu, và
nó luôn luôn gắn chặt với đời sống con người, khi  			nào con 
người chưa đủ yếu tố để xác định kết quả của sự  			việc ở 
tương lai thì niềm tin xuất hiện, nó làm cơ sở để  			thúc đẩy 
thực thi công việc. Như vậy, niềm tin luôn luôn có  			mặt ở trong 
mọi người, không chỉ giới hạn trong tôn giáo.
 			 			Thế nhưng, có một số 
người hiểu nhầm cho rằng, lòng tin chỉ  			có ở trong tôn giáo, 
và được hiểu nó như là sự trở ngại  			cho sự tiến bộ xã 
hội,để rồi có cái nhìn không mấy thiện  			cảm với tôn giáo, 
điều đó có thể tạo thành sự xung đột giữa  			gia đình và xã 
hội. Trên thực tế, bất cứ ai cũng có niềm tin, dù  			bạn là ai trong 
xã hội, nếu con người không có đức tin với cuộc sống  			và tôn giáo thì
đó là căn nguyên của mọi tệ nạn xã hội. Chúng ta  			cũng thừa nhận 
rằng, trong hoạt động của tôn giáo có những  			hiện tượng mê 
tín dị đoan, nhưng không phải vì thấy một vài  			hiện tượng mê tín 
mang lại hậu quả xấu, từ đó vội vã đi đến kết luận  			cho rằng tôn 
giáo là mê tín, là xấu xa. Tôi cho rằng, đây là  			cách suy nghĩ 
một chiều và duy ý chí, thiếu thiện cảm.  			
 			 			Dù trong sinh hoạt của Phật 
giáo có những hiện tượng này, nhưng bản  			thân của nền giáo lý Phật 
giáo không như vậy, luôn luôn đề cao  			vai trò chánh tri chánh 
kiến, nhất là Phật giáo Nguyên  			thủy. 
 			 			Mặt khác, niềm tin hay đức
tin vốn là đặc tính tốt của con  			người, là biểu hiện niềm 
hy vọng và ước mơ của con người,  			là động lực thúc đẩy con 
người vươn tới một cuộc sống tốt  			đẹp, muốn thay đổi cuộc sống
không như ý của mình. Nếu con người  			đánh mất niềm tin, điều 
đó đồng nghĩa đánh mất sự nỗ lực  			ý chí và hy vọng, khi niềm 
tin và hy vọng không còn nữa, tâm lý bi  			quan chán đời xuất hiện. 
Có thể nói đó là sự nguy hiểm, nó  			có thể dẫn đến sự tự 
sát, hoặc là nguyên nhân gây bất an  			cho gia đình và những hiện
tượng xấu cho xã hội.
 			 			Tôi cũng xin xác nhận rằng, 
không một vấn đề gì không có mặt  			trái của nó. Ở đây, mặt 
trái của niềm tin là sự ‘mê mờ’,  			trong trường hợp này chúng
ta gọi là ‘mê tín’, tức là niềm  			tin không có cơ sở. 
 			 			Như vậy, nguồn gốc của 
niềm tin xuất hiện từ đâu? Để vấn  			đề được dễ hiểu, ở đây 
chúng ta lấy một trường hợp cụ thể  			thường xảy ra trong cuộc
sống làm đối tượng để tìm hiểu.  			Như có người đến rủ bạn
hùn vốn làm một công việc gì đó,  			người đó trình bày kế 
hoạch làm ăn theo một phương thức nào  			đó. Căn cứ những dữ liệu
được trình bày, cộng thêm sự đánh  			giá riêng của mình, bạn 
chính là người quyết định nên hay không  			nên hợp tác. Sự quyết 
định đó hoàn toàn dựa vào suy luận  			phán đoán của cá nhân, 
đơn thuần chỉ là sự suy diễn của lý  			trí, chưa chắc gì 
đúng với thực tế. Sự không chắc chắn  			này, chúng ta chỉ có
thể nói: tôi quyết định hợp tác với  			bạn, vì tôi tin rằng 
kế hoạch làm ăn của chúng ta tốt. Thật  			ra, trong lúc nói 
những lời này, công việc làm vẫn chưa có  			kết quả thực tế, 
do vậy niềm tin xuất hiện và làm động  			lực thúc đẩy công 
việc. Qua câu chuyện này, gợi ý cho chúng  			ta thấy rõ nguyên 
nhân và sự hình thành của niềm tin chính  			là trạng thái tâm
lý được hình thành xuất phát từ những  			dữ kiện mà nó 
nắm bắt được trong hiện tại, để quyết đoán  			một vấn đề 
thuộc về tương lai, như vậy là sự quyết đoán  			không mấy chắc
chắn, vì nhân ở hiện tại mà quả của nó  			lại ở tương lai, 
cho nên niềm tin xuất hiện chỉ có nhiệm vụ  			thúc đẩy công 
việc. 
 			 			Như vậy, mặt phải của 
niềm tin là sự cổ vũ tinh thần, là  			sự trợ lực hữu ích cho
cuộc sống, nó là chất liệu tạo sự  			ổn định tâm lý, khi 
con người phải đối đầu với những công  			việc vượt ngoài tầm 
kiểm soát của chính mình. Ví dụ, một  			em bé muốn qua chiếc
cầu tre, nếu như bên cạnh em có mẹ hay  			người thân, em cảm 
thấy rất an toàn, không sợ hãi khi qua  			cầu. Nhưng nếu như 
không có mẹ bên cạnh, em sẽ cảm thấy sợ  			hãi khi qua cầu. 
Tại sao thế? Trên thực tế, người mẹ không  			giúp gì cho em, em
vẫn tự đi một mình, nhưng tại sao lòng em  			lại xuất hiện 
hai sự kiện trái ngược nhau? Ở đây, câu trả lời  			đơn giản là có
niềm tin hay không có niềm tin. Sự hiện diện  			của mẹ tạo 
cho em có niềm tin hơn, do vậy cảm thấy không có  			cảm giác 
sợ hãi, và ngược lại, vì không có mẹ do vậy em  			cảm thấy 
mất niềm tin chính mình, tâm lý sợ hãi xuất phát từ  			thiếu niềm 
tin. Một ví dụ khác, khi cầu thủ trên sân cỏ nghe  			trên cầu 
trường vang dậy tiếng vỗ tay cỗ vũ, tự nhiên các  			cầu thủ trở
nên thi đấu hào hứng và hay hơn, và ngược lại  			cũng thế. 
Trên thực tế, khán giả không giúp ích gì cho cầu  			thủ, chỉ 
là những tiếng vỗ tay cổ vũ tinh thần từ trên khán  			đài, nhưng
tại sao cách thi đấu lại bình tĩnh hơn và tốt hơn?  			Đó 
chính là cầu thủ đã lấy lại niềm tin chính mình. Sự cổ  			vũ 
xuất hiện dẫn đến niềm tin xuất hiện, niềm tin xuất  			hiện 
là điều kiện tốt nhất cho mọi sự thành công. Tất  			nhiên sự 
thành công bắt nguồn từ niềm tin có cơ sở, không  			phải là 
sự mê tín. Ở đây tôi gọi niềm tin có cơ sở là  			niềm tin 
được xuất phát từ những sự kiện có thật, không  			phải là 
sự mơ hồ hay ảo tưởng, không thể tin vào bình vôi  			ông táo 
có thể cho ta tiền bạc hay hạnh phúc, hoặc chúng ta  			sống 
với cuộc sống lười biếng buông thả thiếu hiểu biết,  			nhưng 
lại tin tưởng vào đấng thần linh, Thượng đế (God) hay  			Phật 
(Buddha), từ đó mong muốn có được hạnh phúc và giàu  			có. 
Điều đó thật khó xảy ra, hay nói đúng hơn là không thể  			có 
được, vì hạnh phúc chỉ đến khi nào chúng ta có hiểu  			biết,
giàu sang chỉ đến khi nào hội đủ điều kiện của nó.  			Niềm 
tin như vậy, được gọi là niềm tin xuất phát từ sự mơ  			hồ 
ảo tưởng hay còn gọi là mê tín. Bất cứ niềm tin nào  			xuất 
phát từ sự tối tăm, thiếu hiểu biết, niềm tin đó đạo  			Phật
không khích lệ, ngược lại thường bị đức Phật quở  			trách. 
 			 			Đề cập niềm tin trong đạo 
Phật là đề cập đến một niềm tin  			trong sáng, có xu thế 
hướng về đời sống giác ngộ và an  			lạc, đây là mục đích 
đức Phật xây dựng niềm tin. Chúng ta  			không nên tùy tiện giải
thích niềm tin trong đạo Phật theo  			cảm tính, không căn cứ vào 
Phật pháp, chúng ta cũng không nên vì  			mục đích riêng tư hay sự
giới hạn về sự hiểu biết của  			mình, bóp méo niềm tin 
trong sáng đã được đức Phật trình  			bày trong các kinh điển, 
điều đó́ không những có sự nguy  			hại đến bản thân mình mà 
còn nguy hại cho người khác. Để  			tránh trường hợp này, ở đây
theo tôi cách làm hay nhất,  			trước hết chúng ta nên căn cứ 
vào lời Phật dạy từ trong  			các kinh điển, sau đó chúng ta 
tiến hành giải thích và phân  			tích để tìm hiểu ý nghĩa 
niềm tin trong đạo Phật đã được  			đức Phật giải thích như 
thế nào. 
 			 			Như chúng ta được biết 
trong Kinh điển A hàm (àgama) hay  			Niàya, đức Phật thường đề 
cập và nhắc nhở các vị Tỷ kheo  			cần phải tu tập 37 phẩm 
trợ đạo, và nó được xem như là  			phương pháp tu tập cơ bản 
của đạo Phật Nguyên thủy hoặc  			khuyên các vị cư sĩ tại gia 
tin Tam bảo: Phật Pháp và Tăng.  			37 phẩm trợ đạo, bao gồm: 4 
niệm xứ, 4 chánh cần, 4 như ý  			túc, 5 căn, 5 lực, 7 giác chi 
(Bồ đề phần) và 8 thánh đạo.  			Trong đó, 5 căn là tiến trình
tu tập có liên quan đến lòng  			tin. Tiến trình đó bao gồm: 
tín căn, tấn căn, niệm căn, định  			căn và tuệ căn. Tiến trình 
tu tập này gồm 5 giai đoạn, tín  			căn là giai đoạn đầu tiên. 
Như vậy tín căn có ý nghĩa gì  			trong quá trình tu tập này?
 			 			Trước khi tìm hiểu chữ 
‘tín’ hay ‘tín căn’ trong Phật giáo,  			chúng ta cần xác định 
một vấn đề cơ bản là niềm tin được  			đức Phật đặt nó trong 
quá trình tu tập bao gồm 5 căn, không  			phải nói trong trường 
hợp đơn lẻ, chỉ có tin. Nói một cách  			dễ hiểu hơn, đức 
Phật khuyên mọi người nên xây dựng niềm tin  			là muốn nói đến
sự giác ngộ và giải thoát, vì sự giác  			ngộ và giải thoát 
này không phải là cái tự nhiên có, hay  			một đấng thần linh 
nào ban bố cho, cũng không thể nói mình  			là đệ tử xuất gia 
hay tại gia của Ngài, do vậy ngài sẽ cho  			sự giải thoát giác
ngộ đó. Nói một cách chính xác, sự  			giải thoát giác ngộ 
có được bắt nguồn từ vai trò của ‘trí  			tuệ’; Trí tuệ có 
được nhờ sự tu tập Thiền định. Thiền  			định phát sinh nhờ 
cuộc sống có chánh niệm. Niệm có được  			nhờ sự nỗ lực (tinh 
tấn). Thành tựu sự nỗ lực nhờ vào cuộc  			sống có niềm tin. 
Như vậy, ‘tín’ là cơ sở để hình thành  			tinh tấn, chánh 
niệm, thiền định và trí tuệ, nếu không có  			tín thì tinh 
tấn cũng không có, niệm, định và tuệ cũng  			không có. Tiến 
trình này gợi ý cho chúng ta khẳng định ý  			nghĩa chữ tín 
trong Phật giáo, chỉ có giá trị làm nền  			tảng cho sự giải 
thoát giác ngộ, luôn mang ý nghĩa hướng  			hành động đến trí 
tuệ, do vậy, chúng ta không nên tách chữ  			tín ra khỏi quá 
trình tu tập này giải thích. Ngược lại,  			nếu ta hiểu chữ 
tín một cách đơn lẻ, chữ tín mang ý nghĩa  			như là sự phó 
thác. Khái niệm đó không đồng nghĩa niềm tin  			mà đã được 
đức Phật đề cập trong kinh điển, ngược lại nó  			trở thành 
một khái niệm mang ý nghĩa ‘mê tín’. Để xác minh  			về ý 
nghĩa này, chúng ta cần nắm rõ câu kinh được đức  			Phật 
giảng trong “Kinh Tăng Chi Bộ” như sau:
 			Này  			các Tỷ kheo, có hai hạng người xuyên 
tạc Như lai. Thế nào  			là hai? Người độc ác với tâm đầy sân 
hận hay người có  			lòng tin với tà kiến. Đây là hai 
hạng người xuyên tạc  			Như lai.[1]
 			 			Qua nội dung và ý nghĩa của 
đoạn kinh vừa dẫn trên, thật rõ  			ràng cho chúng ta thấy, đức
Phật xác định: Niềm tin được xây  			dựng với tâm tà kiến là sự 
nhận thức không đúng, đó là sự xuyên  			tạc, không phải là tán thán 
Như Lai. Đây chính là ý nghĩa câu:  			‘Tin ta mà không hiểu ta 
là hủy báng ta’. Tại sao tin tưởng  			đức Phật lại trở thành 
người hủy báng đức Phật? Chính là  			niềm tin được xây dựng trên
tà kiến, là sự hiểu biết không đúng về  			Ngài. Như đức Phật khuyên
chúng ta nên dùng tâm của chính mình  			‘niệm Phật’ để dứt trừ các 
phiền não, không phải chỉ dừng lại ở  			miệng niệm danh hiệu Phật mà 
tâm thì xấu xa độc ác. ‘Niệm Phật’ là  			nghĩ nhớ đến tính giác ngộ của
Phật, muốn trở lại sống với sự giác  			ngộ đó. Niệm Phật còn có ý 
nghĩa, xem Ngài như là tấm gương sáng để  			nhắc nhở chúng ta sống 
trong sự giác ngộ, tránh xa những hành vi sai  			lầm tội ác, niệm Phật 
không phải chỉ có ý nghĩa tay lần tràng hạt,  			miệng niệm danh hiệu 
Phật là đủ. Như vậy, ý nghĩa pháp môn niệm Phật  			là sống trong sự 
giác ngộ, có ý nghĩa rất trong sáng, giúp cho con  			người sống có hạnh
phúc và an lạc. Từ ý nghĩa này, pháp môn niệm  			Phật không làm cản 
trở cho công việc làm hằng ngày của chúng ta mà  			nó còn giúp cho kết 
quả công việc có hiệu quả hơn.
 			 			Không hiểu ý nghĩa lời 
Phật dạy, nhưng chúng ta lại làm công  			tác gọi là ‘hoằng dương 
Phật pháp’, vô tình chúng ta giới thiệu  			sai về ngài, như vậy 
chúng ta là người hủy báng xuyên tạc  			đức Phật. Ngược lại, 
nếu chúng ta tin đức Phật ngang qua sự  			hiểu biết và thấy rõ
giá trị lời giảng dạy có lợi ích  			của Ngài, sau khi thấy 
rõ, chúng ta tin và thực tập theo,  			niềm tin này được xuất 
phát từ sự hiểu biết không phải là  			không biết, từ chuyên môn 
trong nhà Phật thường dùng là 'tịnh tín'  			là niềm tin trong sạch. Như
vậy, ý nghĩa chữ ‘tín’ trong đạo  			Phật không mang ý nghĩa mê
tín. 
 			 			Liên quan đến ý nghĩa chữ 
tín, trong “Kinh Trung Bộ” bài  			‘Kinh Sư Tử Hống’[2]
đức Phật đã phân tích sự khác biệt giữa niềm tin giữa đạo
Phật và ngoại đạo rất rõ ràng.
 			 			Này các Tỷ kheo, nếu dị đạo cũng lại 
hỏi: 'Này chư hiền, chúng tôi  			cũng tin đấng Tôn sư, tức Tôn sư của 
chúng tôi; tin pháp tức pháp  			chúng tôi...Này chư Hiền, giữa hai lời 
nói này của Sa môn Cù đàm và  			chúng tôi có hơn gì? Có ý gì? Có sai 
khác gì chăng?
 			 			Này các Tỷ kheo, các thầy nên hỏi dị 
đạo như thế vầy: 'Này chư Hiền,  			cứu cánh chỉ có một hay cứu cánh có 
nhiều?
 			 			Này các Tỷ kheo, nếu dị đạo trả lời 
như vầy: 'Này chư Hiền, cứu cánh  			chỉ có một, cứu cánh không có 
nhiều'.
 			 			Này các Tỷ kheo, các thầy hỏi tiếp dị 
đạo: 'Này chư Hiền, người có  			dục (có sân, có si) mà được cứu cánh, 
hay người không có dục (không  			có sân, không có si) mới được cứu 
cánh?'
 			 			Này các Tỷ kheo, nếu dị đạo trả lời 
như vầy: 'Này chư Hiền, người  			không có dục (không có sân, không có 
si) mới được cứu cánh, không  			phải người có dục (có sân, có si) mà 
được cứu cánh"[3].
 			 			Qua đoạn kinh vừa dẫn trên,
chúng ta thấy điểm trọng tâm mà  			đức Phật đề cập là lòng 
tin có mục đích, hướng đến sự  			giác ngộ và giải thoát, tức 
là niềm tin có mối quan hệ thân thiết  			đến sự đoạn trừ tham sân 
và si, không phải là niềm tin làm tăng  			trưởng lòng ngu si. Nếu như
chúng ta cho rằng mục đích của  			mọi tôn giáo là mang lại 
sự bình an và giải thoát cho con  			người, thì như vậy các tôn 
giáo cùng có chung một mục  			đích. Nhưng ở đây chúng ta cần 
chú ý điểm quan trọng, đức  			Phật cho rằng, sự bình an và 
giải thoát chỉ xuất hiện từ  			lòng không tham 			 			không sân và không si, không phải là lòng có tham, có
sân và  			có si. Nếu như chúng ta chấp nhận quan điểm này là 
đúng thì  			đạo Phật là tôn giáo mang lại bình an và giải 
thoát, vì  			quan điểm của đức Phật chủ trương diệt trừ tham 
sân và si.  			Còn các tôn giáo khác có chủ trương như thế nào?
Câu trả lời  			xin nhường lại cho giới chuyên môn của các tôn giáo ấy.
Nếu như các  			tôn giáo có quan niệm đức tin không giống với đạo Phật
thì đây  			chính là sự khác biệt giữa đạo Phật và các tôn 
giáo khác  			về ‘niềm tin’. Đây chính là quan điểm cơ bản về 
niềm tin  			trong đạo Phật. 			 			
 			 			Từ ý nghĩa này, gợi ý 
cho chúng ta thấy rằng trước khi  			chúng ta làm việc gì, hay 
tin vào việc gì, điều quan trọng  			nên tìm hiểu vấn đề đó có 
giúp ích gì cho cuộc sống của  			chính bản thân mình và xã 
hội không, nếu như có ích lợi  			thì đó là việc cần phải 
làm[4]
và cần được tin tưởng. Ngược lại, nếu nó không giúp ích 
gì  			cho bản thân, còn cản trở cho công ăn việc làm hằng ngày, gây 
phiền não cho gia đình và xã hội, thì đó là việc mà đức 
Phật khuyên chúng ta không nên làm[5],
không nên tin tưởng vào việc ấy. Có lẽ đây chính là lý do 
đức Phật mạnh dạn phê phán những niềm tin không hợp lý của
người dân Ấn độ lúc bấy giờ. Như trong “Kinh Tăng Chi 
Bộ”  			đức Phật cặn kẽ giải thích như sau:
 			Này  			các Kàlàmà, chớ có tin vì nghe truyền thuyết;
chớ có tin vì nghe  			theo truyền thống; chớ có tin vì nghe theo 
người ta nói; chớ có tin  			vì được Kinh Tạng truyền tụng; chớ có tin 
vì đúng theo lập luận  			siêu hình; chớ có tin vì đúng theo một lập 
trường; chớ có tin vì  			đánh giá hời hợt những dữ kiện; chớ có tin 
vì phù hợp với định  			kiến; chớ có tin vì vị Sa-môn là bậc đạo sư 
của mình. Nhưng này  			Kàlàmà khi nào tự mình biết rõ như sau: Các 
pháp này là bất thiện,  			các pháp này là có tội; các pháp này bị các 
người có trí chỉ  			trích; các pháp này nếu thực hiện và chấp nhận 
đưa đến bất hạnh và  			khổ đau, thời này Kàlàmà hãy từ bỏ chúng.[6]
 			Ở  			đây, chúng ta thử đặt vấn đề, tại sao đức Phật nêu 
ra những  			trường hợp này? Để cho vấn đề được rõ ràng, chúng
ta cần  			phải lội ngược dòng lịch sử, đến thời kỳ của đức
Phật,  			cách đây hơn 2.500 năm về trước để tìm hiểu về nền 
văn hóa  			Ấn Độ, tôn giáo như thế nào, từ đó chúng ta mới có cơ 
sở để  			tìm hiểu phân tích vấn đề mà chúng ta đang thảo luận. 
 			 			Ấn Độ là một đất nước 
huyền bí, đa thần giáo, là nơi sản  			sinh nhiều tôn giáo lớn.
Phật giáo cũng được xuất hiện từ  			đất nước này. Nhưng quan
điểm tư tưởng cũng như phương pháp tu  			tập của Phật giáo nhất là
Phật giáo Nguyên thủy không giống  			như những tôn giáo khác. 
Phật giáo không đặt nặng về niềm  			tin, với chủ trương lấy 
trí tuệ (pañña) làm ngọn đuốc soi  			đường, lấy từ bi làm 
phương tiện độ sinh. Nếu Phật giáo có  			đề cập đến niềm tin 
đi chăng nữa, Phật giáo xem niềm tin như  			là cửa ngõ vào đạo, là
phương tiện giúp cho con người thành đạt  			sự giác ngộ và 
giải thoát, không xem niềm tin như là sự cứu  			cánh. Một điển 
hình cụ thể là trong kinh tạng Pàli hay A  			Hàm, trong đó có 
rất nhiều kinh đức Phật bác bỏ những tập  			tục tế tự, tín 
ngưỡng vô ích[7],
nêu cao tinh thần chánh tri chánh kiến. Phải chăng đó là lý
do Phật giáo không được đại đa số người dân Ấn Độ mến  			
chuộng? Phải chăng đây chính là lý do Phật giáo Tiểu thừa  			
dần dần chuyển thành Phật giáo Đại thừa, vì nếu chúng ta  			
nghiên cứu hệ thống kinh điển Phật giáo Đại thừa, thì  			
chúng ta thấy ở trong đó Phật giáo Đại thừa đã vay mượn  			
khá nhiều những hình thức tín ngưỡng văn hóa truyền thống của  		
Ấn độ, với mục đích để truyền tải tư tưởng của đức Phật đến  		
với xã hội[8]?
Theo tôi, đây là điểm đáng chú ý và nghiên cứu.
 			 			Trở lại vấn đề mà chúng 
ta đang thảo luận trong bối cảnh  			của một xã hội đa thần 
giáo, nặng nề về nghi thức và tín  			ngưỡng của người dân 
Ấn, những người Bà la môn đã lý giải  			những vấn đề con 
người và thế giới mà con người đang sống,  			bằng những câu 
chuyện thần thoại, vượt qua sự hiểu biết  			của con người. 
Cách giải thích này, vô tình đã tạo thành  			thói quen, có 
ảnh hưởng đến đời sống xã hội, nó là yếu  			tố cơ bản để 
hình thành bản sắc của người dân, làm mất đi  			đặc tính suy 
tư đắn đo suy nghĩ vốn có của con người. Thế  			thì, khi con 
người đứng trước một xã hội phức tạp, trong  			thiên nhiên có 
nhiều hiện tượng bí ẩn, ngược lại lúc bấy  			giờ ánh sáng 
văn minh của khoa học kỹ thuật lại chưa phát  			triển, con người 
tự mình đánh mất khả năng suy tư phán  			đoán, bên cạnh đó 
truyền thống tôn giáo của Ấn Độ lại đề  			cao thần thánh, khi 
đó con người chỉ biết tin theo và làm  			theo tiếng nói của tôn
giáo, đó là những niềm tin xuất  			phát từ ‘truyền thuyết’, 
‘truyền thống’, ‘lời đồn’,̀ ‘kinh  			điển truyền tụng’ hay là 
những loại ‘lý luận siêu  			hình’.v.v…như đã được đề cập, họ không 
cần suy nghĩ những gì  			mà họ tin tưởng và làm theo đó sự 
lợi ích gì cho bản thân  			họ, cứ ngoan ngoãn tin theo và làm 
theo, bất chấp tất cả.  			Thật ra thái độ ‘bất chấp’ là một 
thái độ sai lầm, vì  			đặc tính chung của con người là tham 
sống sợ chết, ham vui  			tránh khổ. Thế thì ở đây có vấn đề 
mâu thuẫn, luật nhân quả  			cho chúng ta thấy, nhân như thế nào 
thì quả như thế ấy. Có  			nghĩa là cái nhân mà chúng ta tạo 
ra là vô minh, tức là tin  			theo những điều mà chúng ta hoàn 
toàn không biết gì về kết  			quả của nó, thì cái quả của 
nó không thể mang lại cho ta  			niềm vui và hạnh phúc mà phải 
là sự khổ đau. Nếu như  			quan điểm này là đúng, thái độ ‘bất chấp’ không 
cần biết  			về điều mà mình tin tưởng đó, nếu chúng ta kiểm 
tra và xem  			xét lại động cơ chúng ta đến với tôn giáo, phải 
chăng là sự  			mâu thuẫn. Đây chính là lý do tại sao đức Phật 
khuyên, trước  			khi chúng ta tin theo và làm theo điều gì, điều
trước tiên  			và quan trọng hơn cả là chúng ta cần xem xét 
điều mà mình  			tin mình sắp làm đó có mang lại sự bình an 
và hạnh phúc  			cho chúng ta ở hiện tại và tương lai hay không.
Nếu như điều  			mà ta tin đó có gì đó còn mù mờ thì chúng 
ta cần tìm  			hiểu, không nên vội vàng tin theo hay chê bai một 
cách vô lý. 			
 			 			Tại sao đạo Phật là một 
tôn giáo nhưng đạo Phật lại không  			đề cao vai trò của niềm tin?
Trước nhất, ở đây chúng ta nên  			hiểu rằng, đạo Phật không 
khích lệ người Phật tử có niềm  			tin mù quáng, không phải 
đạo Phật bài xích niềm tin, vì  			đạo Phật xem niềm tin như 
là sự trợ lực, là phương tiện để  			thành đạt sự cứu cánh -
giải thoát. Nhưng ở đây, chúng ta  			cần hiểu  rằng mục đích 
của phương tiện là để đưa đến cứu  			cánh, không phải lấy 
phương tiện để đạt đến phương tiện, hay  			lấy niềm tin làm 
phương tiện để bào chữa hay ngụy biện  			những suy tư bất hợp lý 
 			lẩn 
quẩn của mình. 
 			 			Đạo Phật đề cao vai trò 
chánh tri chánh kiến, vì đạo Phật  			cho rằng, nguồn gốc khổ 
đau của con người là do vô tri hay  			còn gọi là vô minh. Như 
vậy, con người muốn có đời sống  			giác ngộ và giải thoát 
(bình an và hạnh phúc), chỉ có con  			đường duy nhất, tự con 
người phải làm sống dậy đời sống  			hiểu biết, tôn trọng vai 
trò suy tư và nhận thức của con người,  			đỉnh cao của sự hiểu biết, 
suy tư là trí tuệ, chính nó mới có  			thể chặt đứt tất cả 
phiền não. Đó là lý tại sao đạo Phật  			đề cao vai trò trí 
tuệ, xem niềm tin như là phương tiện đưa  			chúng sanh đến giác 
ngộ và giải thoát. 
 			 			Taipei, ngày 
20/11/2004
 				
 
 					 					 					 					[1]
HT. Minh Châu dịch, “Kinh Tăng Chi  					Bộ” tập 1, VNCPHVN ấn 
hành, 1996, trang 114.
 
 					 					 					 					[2]
Kinh này tương đồng với “Kinh Trung  					Bộ” ‘Tiểu Kinh Sư 
Tử Hống’.
 
 					 					 					 					[3]
Viện Cao Đẳng Phật học Hải Đức Nha  					Trang dịch “Kinh Trung A 
Hàm”, VNCPHVN ấn hành 1992,  					trang 621~623.
 
 					 					 					 					[4]
HT. Minh Châu dịch “Kinh Trung Bộ”  					tập 2, ‘Kinh Giáo 
Giới Rahula ở Rừng Am-ba-la’  					đức Phật dạy: ‘Này Rahula
nếu sau khi phản tỉnh, ông  					biết: Thân nghiệp (khẩu nghiệp,
ý nghiệp) này ta  					muốn làm, không đưa đến tự hại, không 
đưa đến hại  					người, không đưa đến hại cả hai, thời thân 
nghiệp  					(khẩu nghiệp, ý nghiệp) này là thiện, đưa đến an  
lạc, đưa đến quả báo an lạc. Một thân nghiệp (khẩu  					
nghiệp, ý nghiệp) như vậy, ông nên làm. (trang 175).
 
 					 					 					 					[5]
‘Kinh Giáo Giới Rahula ở Rừng  					Am-ba-la’ đức Phật dạy: 
‘Này Rahula nếu sau khi phản  					tỉnh, ông biết: Thân nghiệp 
(khẩu nghiệp, ý nghiệp)  					này ta muốn làm, đưa đến tự hại,
đưa đến hại người,  					đưa đến hại cả hai, thời thân nghiệp 
(khẩu nghiệp, ý  					nghiệp) này là bất thiện, đưa đến đau 
khổ, đưa đến  					quả báo đau khổ….. Một thân nghiệp (khẩu 
nghiệp, ý  					nghiệp) như vậy, ông nhất định chớ có làm. 
(trang  					174~175)
 
 					 					 					 					[6]
HT. Minh Châu dịch, “Kinh Tăng Chi  					Bộ” tập 1, VNCPHVN ấn 
hành, 1996, trang 338.
 
 					 					 					 					[7]
Xin tham khảo, HT. Minh Châu dịch, “Kinh  					Tương Ưng Bộ”
tập I, ‘Tương ưng Bà-la-môn. Phẩm Cư  					sĩ’, trang 401~403. Hay 
xem “Kinh Tạp A hàm” kinh  					số 54, 89, 90, 93, 837, 
1039~1040, 1123~1125, 1135, 1241.
 
 					 					 					 					[8]
Xin tham khảo, Thích Hạnh Bình  					“Đạo Phật xưa và nay”, 
được đăng tải trên trang  					Website: 
www.chuaquocteonline.net/thuvien