Ý 
nghĩa Pháp sám hối trong đạo Phật
 			Ý NGHĨA PHÁP SÁM HỐI
 			trong đạo Phật
 			 
 			Sám 
hối  			là một trong 
những pháp tu tập trong Phật giáo, nó không  			những là một 
phương pháp tu tập khá phổ biến trong Phật  			giáo Đại thừa, 
mà còn là một phương pháp rất tích cực và  			hữu hiệu trong 
việc ngăn chận sự tái diễn của những hành  			vi bất thiện 
của ba nghiệp trong Phật giáo Nguyên thủy. Nếu  			Phật giáo 
Đại thừa chọn hai ngày: 14 hay ngày rằm, ngày 29  			hay 30 làm 
ngày lễ sám hối chung cho hai giới xuất gia và  			tại gia, thì
Phật giáo nguyên thủy dùng phương pháp quan sát  			ba nghiệp 
của chính mình làm phương pháp tu tập. Nghĩa là  			kiểm tra ba
nghiệp đã qua của mình, nghiệp nào trong ba  			nghiệp ấy phạm
phải sai lầm, vị đó cần tìm vị thầy hay  			tương đương vị 
thầy để bộc bạch trình bày lỗi lầm của  			mình và phát 
nguyện từ đây trở về sau không tái phạm sự  			sai lầm đó nữa.
 			Thật ra, 
sự khác biệt giữa hai  			phương pháp tu tập này chỉ là sự 
khác biệt trên hình thức  			giáo dục, nhưng xét về ý nghĩa 
thì cả hai đều có chung ý  			nghĩa và mục đích. Tại sao Phật
giáo Đại thừa lấy việc  			lạy Phật làm phương pháp sám sối,
có phải mong rằng ngang qua  			hình thức thành khẩn lễ lạy này
sẽ được chư Phật Bồ tát  			chứng minh và thấu rõ hành vi 
sám hối của mình? Nếu chúng  			ta muốn lý giải vấn đề này 
một cách rõ ràng, không mâu  			thuẫn giữa ý nghĩa tu tập và 
hình thức tu tập, chúng ta  			cần liên hệ đến tinh thần giáo 
dục của Phật giáo Đại  			thừa. Đó là một tinh thần giáo dục
mở, dành cho tất cả  			mọi người trong xã hội, từ người nông
phu cho đến tầng lớp  			tri thức, từ tại gia cho đến người 
xuất gia đều có thể thực  			hành được. Một đối tượng giáo dục 
quá rộng lớn như vậy,  			chắc chắn không thể sử dụng hình 
thức giáo dục chuyên môn  			sâu sắc được, mà phải là những 
hình thức giáo dục đơn  			giản dễ hiểu, nhất là đại đa số 
quần chúng là những  			người không có trình độ nhận thức, suy
luận cao, cần phải có  			nền giáo lý đơn giản không cần đến suy luận,
chỉ biết làm như vậy,  			cầu Phật gia hộ là đủ rồi. Vì đáp ứng nhu 
cầu thực tế này,  			Phật giáo Đại thừa không thể không sử 
dụng hay vay mượn  			những hình thức tín ngưỡng quen thuộc, 
không cần suy luận  			nhiều của người dân làm phương tiện giáo 
dục, khuyên con  			người bỏ điều ác làm việc lành, mang tính 
hướng thiện.  			Nói một cách chính xác hơn, Phật giáo Đại 
thừa không ngần  			ngại sử dụng những văn hóa, lễ nghi tôn giáo
để gởi gắm  			một đạo lý sâu xa trong đó, nếu là người trí 
thức ngang qua  			những hình thức này, vượt qua những hình thức 
ngôn ngữ đón  			nhận một chân lý tuyệt vời của đạo Phật, ngược 
lại giới bình  			dân căn cứ vào những hình thức như lễ lạy, cúng bái… 
giữ giới cấm  			cũng đủ để thành một người tốt rồi. Đó chính là lý 
do tại sao  			Phật giáo Đại thừa chọn những hình thức tu tập 
xem trọng  			về hình thức như vậy. 
 			Ngược lại,
Phật giáo Nguyên thủy  			thì đơn giản hơn, đối tượng mà Ngài 
giảng dạy trong kinh A  			Hàm hay trong Nikàya hầu như là những 
người xuất gia, là  			những người chỉ có một mục đích duy 
nhất là thành đạt sự  			giác ngộ và giải thoát. Một đối 
tượng giáo dục rất là  			chuyên môn, hẳn nhiên những người này
dù ít hay nhiều phải  			nắm rõ đường lối tu tập trong chánh 
pháp, do đó Ngài không  			cần phải trình bày lòng vòng hay vay
mượn những hình thức  			văn hóa của thế gian mà trực tiếp đề
cập đến phương pháp  			giải quyết vấn đề. Đây chính là lý do 
tại sao hai nền giáo  			dục khác nhau giữa hai hệ thống giáo 
dục Đại thừa và Tiểu  			thừa.
 			Cho dù như 
thế nào đi nữa, bạn  			hiểu tính giáo dục của Phật giáo Đại
thừa là mê tín hay  			chánh tín, điều đó không quan trọng, 
điều quan trọng là chúng  			ta học được gì ở trong đó. Nhưng chúng ta 
phải thừa nhận một  			điều rằng, người biết lạy Phật biết 
tụng kinh là người  			biết phục thiện, tôn trọng đạo đức, sợ 
nhân quả xấu, biết  			hổ thẹn, biết giúp đỡ người khác…Đây là 
những đức tính cơ  			bản, để xây dựng một đời sống tốt đẹp 
và lành mạnh trong  			xã hội. Nếu chúng ta đứng về mặt giáo 
dục mà quan sát,  			nó có ý nghĩa tích cực trực tiếp hoặc 
gián tiếp đóng  			góp về mặt xây dựng đạo đức cho xã hội, 
giảm thiểu những  			tệ nạn xã hội. Nhưng đứng về mặt ý 
nghĩa, nếu chúng ta  			không nắm rõ tinh thần giáo dục và mục
đích giáo dục của  			Phật giáo Đại thừa, chỉ dựa vào hình 
thức giáo dục, ngang  			qua sự phân tích mang tính suy diễn của
cá nhân, thì dễ  			dàng phát sinh sự ngộ nhận đáng tiếc. 
 			Bài viết 
này với mục đích đáp  			ứng nhu cầu hiểu biết Phật pháp cho 
người Phật tử. Người  			Phật tử lấy đó làm cơ sở để từng 
bước tiến sâu vào vườn  			hoa của Phật pháp, lấy đó làm cơ 
sở để vun bồi niềm tin  			trong sáng của mình đối với Phật 
pháp và an tâm tu học.  			Nội dung bài viết này, tôi sẽ căn cứ
hai nguồn tư liệu của  			Phật giáo Nguyên thủy và Đại thừa, 
cụ thể là ‘Kinh Giáo  			Giới Rahula trong rừng Ambala’ 
và một câu kệ trong pháp  			môn sám hối mà mỗi nửa tháng 
chúng ta thường nghe quí thầy  			cô xướng ‘Tội từ tâm khởi…’ 
để rút ra những điểm chung nhất  			và cốt lõi của hai hệ 
thống kinh điển này, nhằm giới  			thiệu cùng độc giả. Và nơi 
đây, tôi sẽ cố gắng trình bày  			một cách đơn giản và dễ 
hiểu, để cho mọi người đều hiểu  			được lời Phật dạy.
 			1.  			Mối quan hệ giữa sám  			hối và ba nghiệp
 			Như tôi vừa
giải thích, nghi thức  			‘sám hối’ là một trong những phương 
pháp tu tập trong đạo  			Phật. Ý nghĩa chữ tu tập trong đạo 
Phật, nói cho cùng  			chính là sự sửa đổi ba nghiệp, có 
nghĩa chuyển hóa ba  			nghiệp bất thiện thành ba nghiệp thiện.
 			Ở đây, 
trước khi chúng ta muốn  			tìm hiểu ý nghĩa của từ ‘SÁM HỐI’
thì công việc đầu tiên  			mà chúng ta phải tìm hiểu trước 
tiên là: Thế nào là ba  			nghiệp? Thế nào gọi là nghiệp ác? 
Thế nào gọi là nghiệp  			thiện? 
 			Trước hết,
chúng ta tìm hiểu  			thế nào gọi là ba nghiệp (trìni-krmàni)[1]. 
Ba nghiệp bao gồm thân nghiệp, khẩu nghiệp và ý nghiệp.  			
Khái niệm ‘nghiệp’ vốn không phải là khái niệm của người  			
Trung Hoa hay người Việt Nam chúng ta, mà nó là khái niệm  			
được du nhập từ văn hóa Ấn Độ, nó cũng không phải là từ  			
riêng của Phật giáo mà là từ được sử dụng rất phổ biến  			
trong các tôn giáo hay các nền triết học của Ấn Độ, điều  			
mà chúng ta cần chú ý là mỗi tôn giáo và triết gia khi  			
giải thích từ này đều có ý nghĩa riêng biệt, không giống  			
nhau, nhưng chịu ảnh hưởng lẫn nhau. Ở đây, vì tính chất và  			
phạm vi của bài viết, không cho phép chúng ta vượt qua những  		
gì không liên quan đến chủ đề. Như vậy, chúng ta chỉ giới  			
hạn thảo luận khái niệm nghiệp trong Phật giáo. Thật ra,  			
nếu chúng ta đứng từ góc độ tư tưởng sử của Phật giáo quan  		
sát, nghiệp được định nghĩa và giải thích khác nhau theo từng bộ  	
phái, nhưng điểm chung nhất của các phái là trong ba nghiệp  		
ý nghiệp là quan trọng. 
 			Nghiệp 
tiếng Pàli là kamma tiếng  			Phạn gọi là krma đều có ý nghĩa
là sự tạo tác, hành  			động, hành vi. Nhưng ở đây chúng ta 
cần chú ý nghiệp trong  			Phật giáo đặc biệt chú trọng vai 
trò của ý nghiệp  			(manas-krman)[2], 
tức là hành vi có ý thức, vì nó chính là chủ nhân của  	
mọi hành vi của thiện và ác. Như vậy khi chúng ta nói đến  	
thân nghiệp (kàya-krma) hoặc khẩu nghiệp (ỳak-krman) có nghĩa  	
là đã đề cập đến ý nghiệp, vì bất cứ hành vi nào không  		
có ý nghiệp tham gia thì hành vi đó không có kết quả vui hay  	
khổ, cho nên không thành nghiệp hay gọi nó là vô ký nghiệp.  	
Đây chính là ý nghĩa chữ nghiệp trong Phật giáo.
 			Kế đến, 
chúng ta tìm hiểu, thế  			nào gọi là hành vi ác nghiệp và 
thiện nghiệp? Thông thường  			chúng ta gọi những hành vi như là
sát sinh, lấy của không  			cho, sống tà hạnh, nói láo, uống 
rượu…là những hành vi ác  			hay gọi là nghiệp bất thiện,[3]  
ngược lại không sát sanh, không lấy của không cho…được gọi là  	
thiện nghiệp. Nhưng trên thực tế, chúng ta căn cứ trên mặt  			
hình thức của hành vi đi đến kết luận nó là bất thiện hay  		
thiện thì có thể dẫn đến sự kết luận sai lầm, vì đôi lúc  		
động cơ thúc đẩy hành vi không phù hợp với hành vi. Ví dụ, khi  	
ta thấy một kẻ khủng bố đang tiến hành việc khủng bố  			
người khác, ta biết được hành vi của kẻ ấy, và trong  			
trường hợp ấy không có cách nào khác, chỉ bằng cách đánh  			
hoặc giết kẻ đó, mới có thể cứu được người khác. Trong  			
trường hợp này, hành vi đánh hoặc giết người, nếu chúng ta  			
đứng trên mặt hình thức đánh giá thì đó là hành vi ác,  			
nhưng đứng về mặt đạo đức mà suy xét, hành vi đó không phải  		
là ác mà là thiện, vì người đó giết người với tâm sáng  			
suốt và từ bi, vì sự an vui hạnh phúc cho con người và xã  			
hội, không phải với tâm ngu si hay lòng sân hận. Như vậy,  			
trong Phật giáo hành vi được định nghĩa là thiện hay ác  			
không căn cứ vào những hình thức bề ngoài mà căn cứ vào  			
tâm tư của người đó, cách suy nghĩ của người đó là thiện  			
hay ác thì hành vi đó phải căn cứ vào tâm hành giả mà xác  			
định. 
 			Thế thì 
vấn đề được đặt ra ở  			đây là: Thế nào là tâm thiện và thế
nào là tâm ác? Liên  			quan đến vấn đề này, trong “Kinh
Trung Bộ” ‘Kinh Chánh  			Tri Kiến’ được đức Phật giải 
thích như sau:
 			Chư 
Hiền, thế nào gọi là căn  			bổn bất thiện? Tham là căn bổn 
bất thiện, sân là căn bổn  			bất thiện, si là căn bổn bất 
thiện. Chư hiền, như vậy gọi  			là căn bổn bất thiện……Chư 
Hiền, thế nào gọi là căn bổn  			thiện? Không tham là căn bổn 
thiện, không sân là căn bổn  			thiện, không si là căn bổn thiện.
Chư hiền, như vậy gọi là  			căn bổn thiện.”[4]
 			Qua đoạn 
kinh vừa dẫn, đức Phật  			đã cho chúng ta một định nghĩa rất 
thực tế có liên hệ mật  			thiết đến cuộc sống mà chúng ta 
đang sống. Có những hành  			vi biểu hiện bề ngoài rất đẹp 
dường như có đạo đức, nhưng  			khi chúng ta đi sâu vào tâm hồn 
của người ấy thì không phải như  			thế, với tâm tư lươn lẹo và độc
ác, bằng cặp mắt thường khó  			lường được. Nhưng cũng có người 
nhìn hình thức bề ngoài  			biểu hiện hành vi rất thô lỗ dữ 
tợn, nhưng tâm hồn của họ  			rất dễ thương hiền hòa và trong 
sáng. Sự tương phản này là  			sự mâu thuẫn giữa hành vi và 
sự suy nghĩ của con người,  			thật khó cho chúng ta đoán định 
đâu là đúng đâu là sai, đâu  			là thiện đâu là ác. Trước sự 
kiện này, đức Phật đã đưa ra  			một nguyên tắc để làm rõ hành vi 
này, Ngài chỉ ra rằng, ý thức  			con người là chủ nhân sai sử 
mọi hành vi thiện ác, sự biểu  			hiện bên ngoài chỉ là tay 
sai, là công cụ thực thi ý muốn  			của ý thức. Do vậy muốn 
đánh giá một hành vi thuộc thiện  			hay ác không nên căn cứ vào 
hành vi bên ngoài mà phải căn cứ vào  			tâm ý. Tâm ý là gốc là chủ 
nhân để sai sử thân và miệng, cho nên  			gọi tâm là căn bản. Tâm có hai
loại là thiện và ác, tâm thiện là tâm  			không tham không sân và không
si; tâm ác là tâm có tham sân và si.  			Như vậy nếu tâm là nguồn gốc 
thì tham sân và si cũng là nguồn gốc,  			do đó hành vi được gọi là 
thiện hay ác luôn gắn liền với tâm  			tham sân si hay là không 
tham không sân và không si. Nếu hành  			động nào gắn liền với 
tham sân si được gọi là căn bản bất  			thiện, và ngược lại 
được gọi là căn bản thiện. Tại sao  			gọi nó là căn bản, vì 
ba độc là cái gốc, cho nên được gọi  			nó là ‘căn bản’. Như 
vậy, lòng tham sân si hoặc lòng không  			tham không sân và không 
si chính là động cơ thúc đẩy để cho  			thân và khẩu thực thi 
những hành vi thiện hoặc bất thiện.
 			Nếu chúng 
ta đứng từ góc độ  			này mà tìm hiểu ý nghĩa sám hối trong 
đạo Phật, hẳn nhiên  			chúng ta thấy hành vi sám hối của ba 
nghiệp có mối quan hệ  			mật thiết với việc đoạn trừ hay 
chuyển hóa lòng tham sân và  			si. Nếu như việc sám hối chỉ 
dừng lại ở mặt hình thức,  			có nghĩa là thân lạy Phật, 
miệng đọc tụng lời sám hối,  			nhưng tâm tư lại suy nghĩ việc 
bất chính, không thay đổi ba  			nghiệp bất thiện thì việc sám 
hối đó không có ích lợi gì.  			Vì sự sám hối chỉ có lợi 
ích khi nào chúng ta thật sự ăn  			năn hối hận và từ bỏ 
những lỗi lầm của mình. Do vậy, để  			cho việc sám hối thật 
sự có lợi ích, chúng ta cần phải  			phối hợp ba nghiệp một 
cách chặt chẽ, khi năm vóc gieo xuống  			đất - lạy Phật với 
lòng thành kính, miệng xướng danh hiệu  			Phật hoặc đọc lời 
văn sám hối, cần chuyên tâm nhất ý lãnh  			thọ lời Phật dạy, 
dùng hình ảnh đức Phật hoặc lời Phật  			dạy làm ngọn đuốc 
soi sáng, phản chiếu ba nghiệp của mình  			đã làm, thấy rõ 
hành vi sai trái, hết lòng và thành thật  			sửa đổi. Nếu làm
được vậy, cõi ác càng ngày càng xa, cõi  			lành càng ngày 
càng gần. Như vậy, sự sám hối này có quan  			hệ mật thiết 
với ba nghiệp, hay nói một cách khác, sám  			hối cũng có 
nghĩa là sự chuyển đổi ba nghiệp bất thiện  			thành ba nghiệp
thiện.
 			 
 			2. 
Ýnghĩa sám hối trong kinh điển  			Phật giáo nguyên thủy
 			Phần lớn 
các nhà học giả cho  			rằng, Phật giáo Nguyên thủy là thời kỳ 
tính từ sau khi đức  			Phật thành đạo cho đến khi Phật giáo chưa
chia rẽ, tăng già  			vẫn còn hòa hợp thanh tịnh. Thật ra ở thời 
này, kinh điển Phật  			giáo chưa kết tập thành văn tự, Phật 
pháp được truyền thừa  			dưới hình thức khẩu truyền. Thánh 
điển Pàli là 5 bộ  			Nikàya và 4 bộ A Hàm là những thánh 
điển của Phật giáo  			bộ phái, được kết tập dưới thời vua 
Asoka vào khoảng thế  			kỷ thứ III TCN. Như vậy, làm thế nào 
để chúng ta có thể  			hiểu tư tưởng của Phật giáo Nguyên 
thủy? Có lẽ chỉ có  			cách duy nhất là ngang qua hai nguồn 
thánh điển này, chúng  			ta tìm hiểu về cuộc sống và tư 
tưởng của đức Phật ở Phật  			giáo Nguyên thủy. Do vậy, từ mà
tôi gọi là Phật giáo Nguyên  			thủy là muốn ám chỉ đến 2 
nguồn tư liệu A Hàm và Nikàya.
 			Liên quan 
đến vấn đề sám hối mà  			chúng ta đang đề cập, trong kinh 
tạng Pàli và A Hàm có khá  			nhiều kinh đề cập, với nội dung
đức Phật giảng dạy, khi  			chúng ta vấp phải sự sai lầm, cần
phải ăn năn sám hối, vì  			sám hối là pháp làm trong sáng tâm
linh, là nền tảng thăng  			hoa cuộc sống đạo đức, cũng là cơ 
sở cho người xuất gia và  			tại gia vươn tới cuộc sống giác 
ngộ và giải thoát. Để tránh  			sự trùng lặp, ở đây tôi chỉ 
trích dẫn một vài kinh mang  			tính tiêu biểu để trình bày ý 
nghĩa về pháp sám hối trong  			Phật giáo nguyên thủy, lấy đó 
làm nền tảng để chúng ta  			tìm hiểu sự phát triển của nó 
trong Phật giáo về sau. Đề  			cập đến pháp sám hối, theo tôi, 
bài kinh tiêu biểu nhất là:  			‘Giáo giới Rahula trong rừng 
Am-ba-la’ trong “Kinh Trung Bộ”[5]. 
Kinh này đức Phật khuyên dạy Rahula khi vấp phải sự sai lầm 
nên ăn năn sám hối như sau:
 			Nếu 
trong khi phản tỉnh, này  			Rahula, ông biết như sau: ‘Thân (và 
khẩu) nghiệp này ta đã  			làm, Thân (và khẩu) nghiệp này của 
ta đưa đến tự hại, đưa  			đến hại người, đưa đến hại cả hai; 
thời Thân (và khẩu)  			nghiệp này là bất thiện, đưa đến đau 
khổ, đem đến quả báo  			đau khổ’. Một thân (và khẩu) như vậy, 
này Rahula, ông cần  			phải thưa lên, cần phải tỏ lộ, cần phải
trình bày trước  			các vị đạo sư, hay trước các vị đồng 
phạm hạnh có trí.  			Sau khi đã thưa lên, tỏ lộ, trình bày, 
cần phải phòng hộ  			trong tương lai.[6]
 			Khác với 
trường hợp của thân  			nghiệp và khẩu nghiệp, trong trường hợp
ý nghiệp được đức  			Phật giảng dạy như sau:
 			Sau khi 
ông làm xong một ý  			nghiệp, này Rahula, ông cần phải phản 
tỉnh ý nghiệp ấy như  			sau: ‘Ý nghiệp này ta đã làm, ý 
nghiệp này của ta đưa đến  			tự hại, đưa đến hại người, đưa 
đến hại cả hai; thời ý  			nghiệp này là bất thiện, đưa đến 
đau khổ, đem đến quả báo  			đau khổ’. Nếu trong khi phản tỉnh, 
này Rahula, ông biết như  			sau: ‘Ý nghiệp này ta đã làm. Ý 
nghiệp này đưa đến tự  			hại, đưa đến hại người, đưa đến hại 
cả hai; ý nghiệp này  			là bất thiện, đưa đến đau khổ, đem 
đến quả báo đau khổ’.  			Một ý nghiệp như vậy, này Rahula, ông
cần phải lo âu, cần  			phải tàm quí, cần phải nhàm chán. Sau
khi lo âu, tàm quý,  			nhàm chán, cần phải phòng hộ trong 
tương lai.[7]
 			Hai đoạn 
kinh vừa nêu trên, là  			lời dạy của đức Phật đối với tôn giả
Rahula, là người con  			duy nhất của ngài khi chưa xuất gia. Qua
đó, cho chúng ta  			thấy, lời dạy của ngài rất thực tế, 
không mơ hồ, nó luôn  			luôn gắn với đời sống hằng ngày của 
con người và có giá  			trị rất thiết thực gắn liền với đời 
sống hiện tại. Ngài  			khuyên răn nhắc nhở Rahula trước khi làm
một việc gì, đang  			làm một việc gì hay sau khi làm việc 
gì, chúng ta xem xét  			quan sát việc đó có mang lại phiền 
não khổ đau cho mình và  			người không, nếu như có thì đó là 
việc ác, nếu ta đang làm  			thì cần phải dừng lại ngay, nếu 
như đó là việc chúng ta  			sẽ làm thì nên từ bỏ ý định đó. 
Còn nếu như chúng ta đã  			lỡ làm một thân nghiệp hay khẩu 
nghiệp gì bất thiện, cần  			phải đem sự kiện đó thưa lên bậc 
đạo sư hay vị đồng phạm  			hạnh có trí, để cho vị ấy nắm rõ
sự kiện và có lời  			khuyên dạy thích đáng, nhằm chấm dứt 
việc làm bất thiện  			của thân và miệng trong tương lai. Nhưng 
riêng về ý nghiệp  			thì không giống như thân nghiệp và khẩu 
nghiệp, đức Phật  			dạy khi chúng ta phạm phải sai lầm về ý 
nghiệp thì tự  			mình ăn năn sám hối và phòng hộ trong tương 
lai không tái  			phạm, nhưng đức Phật không khuyên người phạm sai
lầm phải  			đến trước vị đạo sư hay người đồng phạm hạnh có
trí trình  			bày sự sai lầm của mình, vì sự sai lầm đó chỉ
xuất hiện  			trong ý thức chưa thể hiện qua hành động, do vậy
tự mình ăn  			năn sám hối là đủ rồi. 
 			Qua đoạn kinh vừa dẫn trên, theo 
tôi nó có liên quan  			đến cách sám hối trong Phật giáo Đại 
thừa mà mỗi người  			chúng ta đang tu tập, do vậy chúng ta cần
lưu ý 3 vấn đề̀:  			(a) Phản tỉnh, (b) Trình bày với bậc đạo
sư hay đồng phạm  			hạnh có trí, (c) Phòng hộ trong tương lai. 
 			 			 
 			 			 			a. Phản tỉnh
 			Phản tỉnh là sự quan sát, xem 
xét lại những hành vi  			đã qua trong qua khứ. Tại sao đức 
Phật khuyên chúng ta phải  			phản tỉnh? Một trong những lý do 
chính là, chúng ta quá  			hời hợt với cuộc sống chính mình, 
việc gì chúng ta đã  			làm, dường như không muốn lưu tâm suy 
xét, cho rằng cái gì  			đã qua thì cho nó qua, dù việc đó là
việc tốt hay xấu.  			Theo tôi cách suy nghĩ như vậy không những 
không phù hợp với  			lời dạy đức Phật, còn là một trong những 
nguyên nhân của mọi sự  			thất bại. Thế thì tại sao trong “Kinh Trung 
bộ” Ngài lại khuyên dạy  			chúng ta ‘Quá khứ không truy tìm, tương
lai không ước vọng…,’[8]?
Thật ra, hai ý nghĩa này khác nhau. Với ý nghĩa của bài 
kinh  			này đức Phật chỉ khuyên chúng ta không nên vì chuyện đã
qua  			mà khổ, vì chuyện tương lai mà sanh ưu sầu. Vì chuyện 
đã  			qua chúng ta có nuối tiếc cũng không lợi ích gì, còn 
chuyện  			tương lai thì lại chưa đến, chúng ta không nên đặt kỳ 
vọng ước  			muốn quá nhiều, vì cuộc sống đang thay đổi từng sát na, do 
vậy điều  			mà chúng ta đang kỳ vọng cũng theo đó thay đổi, như vậy 
chúng ta sẽ  			thất vọng, trận sóng thần vừa qua ở tại các nước 
Châu Á là một  			chứng minh cụ thể. Như vậy với ý nghĩa của 
lời dạy này  			không đồng nghĩa ‘không kiểm điểm những hành vi
đã qua’. 			
 			Sự kiểm điểm quan sát này, giúp 
cho chúng ta rút ra  			những bài học kinh nghiệm đáng quí, nhờ 
phản tỉnh chúng ta  			mới biết được lý do tại sao vấp phải sự
sai lầm, từ đó có  			bài học để tránh sự lặp lại sự sai lầm
đó ở tương lai. Đây  			là ý nghĩa và lý do tại sao, đức Phật 
khuyên chúng ta cần  			phải phản tỉnh.
 			 			 
 			 			b. Trình bày với  	
bậc đạo sư hay đồng phạm hạnh có trí
 			Là con người ai cũng vấp phải 
những chuyện sai lầm  			dù ít hay nhiều, không ai tránh khỏi, 
nhưng sự khác biệt giữa  			người trí và kẻ ngu là thái độ cư
xử đối với việc sai  			lầm đó. Người có trí khi vấp phải sai
lầm sau khi phản tỉnh  			suy xét biết được sai lầm, liền thừa nhận 
và với tâm mong cầu  			được sửa đổi. Thế nhưng, kẻ ngu thì 
ngược lại, luôn luôn  			lúc nào cũng bưng bít, bằng nhiều thủ 
đoạn hình thức khác  			nhau cố tình che dấu lỗi lầm của mình, 
không chấp nhận sửa  			đổi. Đó là sự khác biệt giữa người 
trí và kẻ ngu.  			
 			Ở đây, đức Phật khuyên các đệ tử
của mình nên học  			tập thái độ của người trí, bằng cách 
khi biết được mình  			vấp phải hành vi sai lầm nào đó, cần 
đem việc đó trình  			bày với bậc đạo sư hay người đồng phạm 
hạnh, nhưng phải là  			người có trí, đồng thời trình bày sự 
sai lầm của mình lên  			họ, để mong họ cho mình những lời 
khuyên thích đáng, lấy  			đó làm hành trang cho cuộc sống ở hiện 
tại và tương lai. Về mặt  			tâm lý, người phạm phải lỗi lầm, nếu được 
trình bày với vị thầy hay  			người thân nào đó, sau khi trình bày xong,
tâm lý của người đó sẽ  			được nhẹ nhàng thoải mái hơn, có lòng biết 
hổ thẹn, nhưng không tự  			ti mặc cảm, là nhân tố để làm lại cuộc đời, 
tiếp tục cuộc sống,  			người chung quanh cũng sẵn sàng tha thứ, dễ dàng
hòa nhập vào cuộc  			sống. Đó là lý do tại sao đức Phật khuyên 
đệ tử của ngài,  			khi phạm phải sai lầm cần trình bày với 
người đồng phạm  			hạnh có trí. 
 			Ý nghĩa này chính là yếu tố mà
Phật giáo Đại thừa  			đã thiết lập hình thức lạy Phật sám 
hối, có nghĩa là  			chúng ta đối diện trước chư Phật và các vị 
Bồ tát thành tâm lễ  			lạy, mong ngài chứng minh sự thành tâm 
của mình với một ý  			thức thật sự muốn sửa đổi lỗi lầm. 
Tại sao phải làm như vậy?  			Theo tôi cho rằng, nếu là chư tăng sống 
trong tăng đoàn thì có thể  			đối diện trước vị tỷ kheo khác để bộc 
bạch lỗi lầm và xin sám hối,  			nhưng với người cư sĩ tại gia thì rất 
khó, ai lại đem điểm xấu lỗi  			lầm của mình nói cho người khác biết, 
thái độ ‘xấu che tốt khoe’ của  			con người, có lẽ đó chính là yếu tố 
để cho các nhà Đại thừa thiết  			lập pháp sám hối. Chúng ta không đối 
diện với thầy với bậc thiện tri  			thức còn đang sống để tỏ bày sám 
hối, thì chúng ta cùng nhau đối  			diện trước Phật thành tâm sám hối, 
có thể mỗi người chúng ta dễ dàng  			chấp nhận và đều làm được, do vậy 
mà pháp sám hối ra đời. Đây là  			điểm mà chúng ta cần lưu ý.
 			 			 
 			c.         
 			Phòng hộ tương lai
 			Phòng hộ là thái độ cẩn thận 
biết bảo vệ, biết  			giữ gìn. Ở đây, câu ‘phòng hộ trong tương
lai’ có nghĩa là  			cẩn thận giữ gìn, không để cho ba nghiệp 
ác tái phạm. Đứng  			về mặt ngữ nghĩa mà nói, thái độ 
phòng hộ hay giữ gìn  			thường được xuất hiện, khi con người 
vấp phải sự sai lầm  			nào đó, vì để tránh trường hợp tái 
diễn cho nên con người  			cần có thái độ phòng hộ. Thế nhưng, 
trên thực tế khi chúng  			ta vấp phải sai lầm rất ít người 
rút kinh nghiệm từ sự sai  			lầm đó, làm bài học cho tương 
lai. Do đó, sự sai lầm cứ  			tiếp tục xảy ra, nó là một trong
những nguyên nhân gây khổ  			đau cho con người. Đó là lý do tại
sao đức Phật khuyên chúng  			ta cần phải có thái độ phòng hộ
hay cẩn thận với ba  			nghiệp.
 			Liên quan đến vấn đề ‘sám hối’ 
trong phật giáo Nguyên  			thủy, chúng ta thấy “Kinh Tạp A
Hàm” kinh số 347 có  			đề cập đến vấn đề này, vì 
để độc giả hiểu rõ pháp sám  			hối trong Phật giáo đóng một
vai trò khá quan trọng trong  			tiến trình tu tập, tôi xin giới
thiệu khái quát nội dung kinh  			này để người đọc có cơ sở 
tìm hiểu pháp sám hối trong  			Phật pháp. 
 			Nội dung Kinh 347 này ghi rằng, 
trong thời đức Phật  			còn tại thế, các ngoại đạo thường có 
lòng ganh tị với đức  			Phật, vì tăng đoàn của đức Phật được 
nhà vua, các đại  			thần, trưởng giả, Bà-la-môn, cư sĩ cung 
kính tôn trọng và  			cúng dường, do đó các ngoại đạo đã sai 
Tu Thâm là người  			rất thông minh lén vào trong đạo Phật xuất 
gia, với mục  			đích phá hoại đạo Phật, nhằm gây mất niềm tin 
với quần chúng.  			Sau khi Tu Thâm xuất gia, sống trong chúng tăng, 
đưa ra những  			hoài nghi và giải thích không phù hợp Phật pháp,
làm xáo  			trộn Tăng chúng. Đức Phật đã gọi Tu Thâm giảng 
dạy Phật  			pháp và chỉ ra những ác ý của ông. Sau khi Tu Thâm 
nghe Phật  			giảng dạy xong, cảm thấy ăn năn hối hận vô cùng 
và thành  			thật xin sám hối cùng Phật và tăng chúng. Đức 
Phật chấp  			nhận sự ăn năn sám hối của Tu Thâm và bảo Tu Thâm
nên nói  			lên những lời ăn năn sám hối, Tu Thâm đã nói:
 			Ngày  			xưa con ngu si làm bất thiện, vô trí ở trong 
chánh pháp luật  			lén xuất gia, ngày nay ăn năn lỗi lầm, tự 
thấy tội, tự  			biết tội. Trong đời sau sẽ thành tựu luật 
nghi, công đức  			tăng trưởng, trọn không thối giảm. Vì sao? Hễ 
có người có  			tội tự thấy, tự biết và ăn năn lỗi lầm của 
mình thì ở  			đời sau luật nghi sẽ thành tựu, công đức tăng 
trưởng, trọn  			không thối giảm[9]. 			
 			Theo kinh 
này ghi lại, sau khi sám  			hối xong, Tu Thâm nhờ vậy được chân 
chính xuất gia được sống  			trong tăng chúng với Thế Tôn, nhờ vậy
được lợi lạc từ Phật  			pháp, sau đó thấy được chánh pháp (kiến 
pháp), đắc pháp và  			giác ngộ, các lậu hoặc cũng theo đó 
được đoạn trừ.
 			Ở đây, 
chúng ta thử đặt vấn đề,  			tại sao đức Phật khuyên bảo người
phạm tội phải tự mình  			nói lên những lời ăn năn sám hối 
này? Không phải trong đạo  			Phật nói rằng, tâm tạo tội lỗi, 
đem tâm đó sám hối là đủ  			sao? Trên nguyên tắc là như vậy, 
nhưng chúng ta cần phải xét  			đến góc độ xã hội, tức là 
mối quan hệ giữa người với  			người. Hành động sai lầm của 
chúng ta khi đã được biểu  			hiện qua thân và miệng, hành vi 
đó chắc chắn sẽ được nhiều  			người biết đến, do vậy chúng 
ta cũng cần bằng lời nói của  			chính mình công khai sám hối,
điều này đồng nghĩa với hình  			thức xin lỗi của thế gian. 
Cách làm này có hai ý nghĩa,  			thứ nhất tự tâm mình cảm 
thấy an ổn không còn chướng ngại,  			khi mình đã thật lòng 
sám hối; thứ hai qua những lời công  			khai sám hối này, người
khác cũng sẽ cảm thông cho mình,  			và sẵn sàng tạo điều 
kiện cho mình thăng tiến trong cuộc  			sống. Đó là hai lý do 
mà đức Phật khuyên một người phạm sai  			lầm cần phải phát lồ
sám hối. Cũng vậy, Tu Thâm là người  			ngoại đạo đã lén lút
trà trộn trong tăng chúng xuất gia  			với ác ý, đã tạo sự 
xôn xao bàn luận trong chúng. Mặt dù,  			sau khi ông nghe Thế Tôn
giảng dạy chỉ ra sự sai lầm của  			mình, chính ông đã thức 
tỉnh, đã bày tỏ sự ăn năn sám hối  			của mình với đức Thế 
Tôn, nhưng còn chúng tăng và sự đồn  			đãi trong xã hội như 
thế nào, nhất là những người mới vào  			đạo hay chưa biết gì
về đạo, họ sẽ có cái nhìn không tốt,  			thiếu thiện cảm 
với Tu Thâm, sẽ tạo thành những chướng  			duyên cho cả đôi bên. 
Trong trường hợp này, phương pháp hay  			nhất cho Tu Thâm tự mình
ăn năn sám hối, đồng thời công khai  			sám hối cùng đại chúng.
Đó là lý do tại sao phương pháp tu  			tập trong Phật giáo có 
pháp sám hối.
 			Tóm lại, 
phương pháp sám hối  			trong đạo Phật nguyên thủy, đức Phật 
đặc biệt chú trọng  			phương pháp̣ ‘phản tỉnh ba nghiệp’, sau 
khi phản tỉnh hay quan  			sát, thấy ba nghiệp đã qua của mình 
không phù hợp với  			chánh pháp, mang lại sự khổ đau cho mình 
và người, lập tức  			phải ăn năn sám hối ba nghiệp đó, bằng 
cách nếu đó là ý  			nghiệp thì tự tâm mình ăn năn sám hối 
là đủ rồi, nhưng nếu  			nó là thân nghiệp hay khẩu nghiệp, có
nghĩa là những hành  			vi sai lầm đã được người khác biết 
đến, người đó cần  			phải, trước nhất là trình thưa với bậc 
Đạo sư hay những  			người phạm hạnh có trí tuệ, đồng thời 
nếu sự việc sai  			lầm đó có liên quan đến người khác thì 
cần phải công khai  			tự mình nói lên những điều sám hối, để 
được an lạc cho cả  			đôi bên, và một điểm quan trọng nữa là 
sau khi sám hối cần  			phải thận trọng giữ gìn không tái phạm
sự sai lầm đó nữa.  			Đây là ý nghĩa sám hối trong Phật 
giáo nguyên thủy.
 			 
 			3.  			Ý nghĩa sám hối  			trong kinh điển Phật giáo 
Đại thừa
 			Về mặt hình 
thức, pháp 'sám hối'  			trong Phật giáo Đại thừa khác với Phật giáo 
Nguyên thủy. Nếu như  			Phật giáo Nguyên thủy lấy việc thiền quán để 
kiểm soát ba nghiệp làm  			phương pháp tu tập, thì Phật giáo Đại thừa 
lấy việc lạy Phật và  			miệng tụng đọc danh hiệu Phật hay sám văn làm 
phương pháp tu tập.  			Nói một cách khác Phật giáo Nguyên thủy chú 
trọng 'ý nghiệp', còn  			Phật giáo Đại thừa chú trọng đến thân nghiệp 
và khẩu nghiệp, nhưng  			xét cho cùng cả hai hệ thống kinh điển đều dựa
vào ba nghiệp để tu  			tập sám hối. Nếu chúng ta muốn tìm hiểu tại sao
hai hệ thống kinh  			điển trong Phật giáo có sự dị biệt này, cần chú ý
đến đối tượng mà  			Phật giáo Đại thừa giáo hóa, đó là tất cả mọi đối 
tượng trong xã  			hội, từ giới tri thức đến người bình dân, từ người 
xuất gia đến tại  			gia, không như Phật giáo Nguyên thủy đối tượng mà 
đức Phật giáo hóa  			chính là giới xuất gia. Sự khác biệt về đối tượng 
này chính là  			nguyên nhân dẫn đến sự khác nhau về phương pháp giáo 
dục, đây là một  			trong những điểm mà chúng ta cần chú ý.
 			Đối tượng 
giáo dục là người tại gia,  			dành cho tất cả mọi thành phần trong xã 
hội, như vậy chúng ta cũng  			khẳng định rằng đây là một đối tượng khá 
phức tạp, đại đa số người  			trong đó là những người đến với đạo Phật 
cầu tài cầu phước, hay nói  			đúng hơn là cầu phước báo hữu lậu, không 
phải mong cầu sự giác ngộ  			và giải thoát, nhất là Phật giáo tồn tại 
và hoằng dương Phật pháp  			trong nền văn hóa của Bà-la-môn với những 
hình thức lễ nghi tôn giáo  			phức tạp. Trong bối cảnh như vậy, Phật 
giáo Đại thừa không thể không  			sử dụng đến cửa phương tiện, gieo 
trồng hạt giống bồ đề cho xã hội,  			làm nền tảng cho đạo đức, thúc đẩy
xã hội phát triển trong trật tự,  			cho nên khuyên dạy mọi người nên 
lấy việc tụng đọc kinh Phật và  			thường ngày lễ lạy chư Phật để ăn năn
sám hối những lỗi lầm của  			mình. Có lẽ đó là lý do tại sao Phật giáo
Đại thừa chú trọng miệng  			tụng đọc sám văn và thân lễ lạy Phật; 
miệng đọc sám văn để tự biết  			chỗ sai của mình, lạy Phật để ăn năn 
sám hội.
 			Tuy nhiên, 
chúng ta không nên căn cứ  			vào hình thức này mà cho rằng Phật giáo 
quá chú trọng đến vấn đề lễ  			nghi là không đúng, vì Phật giáo Đại 
thừa vẫn lấy tâm làm cơ sở cho  			việc sám hối, như chúng ta thấy câu 
kệ sau đây: 
 			Tội từ tâm khởi, đem tâm sám,
 			Tâm được tịnh rồi, tội liền tiêu;
 			Tội tiêu, tâm tịnh thảy đều không,
 			Thế mới thật là chân sám hối.
 			Nội dung bài
kệ này giải thích phương  			pháp sám hối trong Phật giáo Đại thừa. 
Trước hết là câu: “Tội từ  			tâm khởi, đem tâm sám”. Để tìm 
hiểu ý nghĩa câu này, trước hết  			chúng ta cần tìm hiểu khái niệm 
‘tội’. Tội là gì? Thông thường người  			Phật tử chúng ta hiểu “tội” là 
những hình thức trừng phạt trong địa  			ngục như đã được mô tả trong 
các kinh điển Phật giáo, là kết quả của  			việc làm bất thiện. Thật ra 
khái niệm 6 đạo hay 5 đạo luân hồi vốn  			là khái niệm được sử dụng 
trong tôn giáo truyền thống của Ấn Độ,  			không phải khái niệm chuyên 
môn đặc trưng của Phật giáo.Vì thấy nó  			có giá trị và ích lợi trong 
việc giáo dục, có thể dùng làm phương  			tiện răn đe khuyên dạy con 
người nên đức Phật đã vay mượn nó để mô  			tả sự nguy hiểm của hành vi 
bất thiện của ba nghiệp, nhằm chấm dứt  			nỗi khổ con người, cũng như 
là nỗi khổ trong địa ngục. Lấy hình ảnh  			trừng phạt trong địa ngục 
làm hình thức răn đe con người, với mục  			đích ngăn chận hành vi bất 
chính của con người, tức là ngăn chận ba  			nghiệp ác, nhưng trong ba 
nghiệp này ý nghiệp vẫn là nghiệp cơ bản,  			chỉ đạo cho thân nghiệp và
khẩu nghiệp. Từ ý nghĩa này gợi ý cho  			chúng ta hiểu rằng, khái niệm
‘tội’ được đề cập trong câu kệ này  			mang ý nghĩa ngăn chận suy nghĩ 
bất chính của con người, vì nó là  			nguồn gốc phát sinh mọi khổ đau. 
Như vậy, Phật giáo đề cập đến khái  			niệm ‘tội’ là đề cập đến nghiệp, 
đề cập đến nghiệp là đề cập đến ý  			nghiệp; đề cập đến nghiệp là đề 
cập đến nhân của khổ, đề cập đến tội  			là đề cập đến quả của khổ. Thế 
nhưng, tại sao câu kệ này không đề  			cập đến nghiệp mà lại nói đến 
khái niệm ‘tội’? Đây là điểm mà chúng  			ta cần lưu ý. Để lý giải vấn 
đề này, chúng ta cần tìm hiểu câu: ‘Bồ  			tát sợ nhân chúng sanh sợ 
quả’ trong Phật giáo. Thông thường con  			người chúng ta thường chú ý 
kết quả của một hành động hơn là chú ý  			đến nguyên nhân hay tiến 
trình hình thành của một sự kiện. Ví dụ,  			con người thường sợ hãi tù 
tội hơn là sợ hãi nguyên nhân dẫn đến tù  			tội. Cũng vậy, con người 
thường nghĩ đến cái vui nhỏ bé của việc cờ  			bạc rượu chè hơn là nghĩ 
đến cái khổ do nhân của việc này gây ra,  			cho nên con người đã lao 
vào việc cờ bạc rượu chè. Đó chính là lý do  			tại sao đức Phật thường 
nêu đến vấn đề tội và phước, khái niệm tội  			khiến cho chúng sanh sợ 
hãi, từ đó không làm điều bất thiện. Ngược  			lại, khái niệm phước 
khiến cho chúng sanh cảm thấy vui vẻ thích thú,  			nó làm động cơ thúc 
đẩy cho chúng sanh làm việc lành, nếu không có  			hai khái niệm này, 
chúng sanh sẽ không thích làm việc thiện cũng như  			từ bỏ các việc ác.
 			Như vậy câu:
“Tội từ tâm khởi, đem  			tâm sám”, có ý nghĩa rằng, tất cả 
các nghiệp ác ở trong hiện tại  			hay ở vị lai mà chúng ta phải gánh 
lấy đều do tâm của chính chúng ta  			tạo ra. Cái tâm này chính là nguồn
gốc của tất cả nghiệp, nghiệp  			thiện cũng như nghiệp ác, làm Phật 
hay làm chúng sanh cũng do tâm  			này tạo thành. Không ai đủ khả năng 
cho ta phước đức cũng không ai  			có quyền đày đọa cho chúng ta khổ 
đau, tự mình quyết định cuộc sống  			cho chính mình. Tâm tham lam sân 
hận và ngu si là yếu tố trở thành  			chúng sanh, tự tạo ra cảnh địa 
ngục. Ngược lại tâm sáng suốt không  			còn ba độc là nhân tố tác thành 
một bậc thánh, một vị Phật. Nếu như  			tâm là nguồn cội của tất cả các 
nghiệp thiện ác thì những tội lỗi mà  			chúng ta đang có cũng từ tâm 
tạo thành, vậy muốn chấm dứt những lỗi  			lầm này, cũng phải bắt nguồn 
từ tâm, có nghĩa là chúng ta cũng phải  			sửa đổi ăn năn sám hối từ 
trong tâm của chúng ta, không phải là sự  			sửa đổi bên ngoài, đó là ý 
nghĩa câu “Tội từ tâm khởi, đem tâm  			sám”. Chữ sám hối ở đây
có nghĩa là ăn năn hối cải những lỗi lầm  			của mình, không chỉ giới 
hạn ở việc tụng đọc lời văn sám hối và lễ  			lạy chư Phật. Việc tụng 
đọc kinh văn chỉ mang ý nghĩa để cho chúng  			ta hiểu được lời Phật 
dạy, thấu rõ những lỗi lầm của mình, nó giống  			như tấm kính soi rọi 
tâm mình mà thôi. Việc lạy Phật chỉ là hình  			thức chúng ta đối diện 
chư Phật, chư Bồ tát và đại chúng, biểu lộ  			thái độ thành khẩn ăn năn
sám hối những lỗi lầm của mình, không mang  			ý nghĩa chúng ta lạy một
lạy là Phật sẽ trừ cho ta một tội, cũng  			không có nghĩa việc lễ lạy 
làm động lòng chư Phật, Bồ tát, để các  			Ngài trừ bỏ lỗi lầm cho chúng
ta, vì lỗi lầm của chúng ta giảm bớt  			hay tăng trưởng đều tùy thuộc 
vào sự sửa đổi của chúng ta, không  			phải tùy thuộc vào việc lạy lục 
hay cầu xin. Phật là người chỉ cho  			chúng sanh con đường đến giác ngộ
và giải thoát, Phật không phải là  			vị quan tòa quyết định tội lỗi 
của con người. Chúng sanh làm tội  			lỗi, dù có Phật hay không có Phật,
chúng sanh vẫn phải gánh chịu hậu  			quả của nó; chúng sanh làm thiện 
dù có Phật hay không có Phật chúng  			sanh cũng sẽ hưởng thọ kết quả 
tốt lành. Đây chính là ý nghĩa câu: “tâm  			được tịnh rồi, tội liền
tiêu”.
 			Ở đây, khái 
niệm ‘tịnh’ mang ý nghĩa  			trong sạch, nó là một trạng từ bổ nghĩa cho
chữ ‘tâm’, có nghĩa là  			với ‘tâm trong sạch’. Thế nào gọi 
là tâm trong sạch? Tâm  			trong sạch là tâm không bị lòng tham lam sân 
hận và si mê nhiễm  			trước, không phải tâm tịnh là tâm không suy nghĩ.
Vì đạo Phật cho  			rằng, con người còn sống cần phải có suy nghĩ, có 
suy tư mới biết  			được việc đúng và sai, thiện và bất thiện…nhưng suy 
nghĩ có hai loại  			thiện và bất thiện. Thiện là tâm không tham không 
sân và không si.  			Bất thiện là tâm tham sân và si, nó là chủ nhân tạo
các nghiệp ác;  			chất liệu của tâm là tham sân và si thì đó là chất 
liệu ô uế không  			trong sạch. Như vậy tâm trong sạch là tâm không tham
lam, không sân  			hận và ngu si. Tâm không còn tham sân và si là tâm 
không có các  			nghiệp ác. Nghiệp ác không có thì không sinh ra khổ, 
điều đó có  			nghĩa là khi tâm thiện sinh thì tâm ác biết mất, cho nên 
gọi là ‘tội  			liền tiêu’. Có nghĩa là sau khi sám hối, chúng 
ta nhận thấy rõ  			sự sai lầm của mình và một lòng sửa đổi sự sai lầm 
đó, từ đó trở về  			sau nghiệp xấu không tái sanh, đây chính là ý nghĩa
của pháp sám hối  			trong đạo Phật.
 			Và hai câu 
cuối cùng là: "Tội  			tiêu, tâm tịnh thảy đều không. Thế mới thật 
là chân sám hối". Ý  			nghĩa hai câu này nói lên quan điểm tư 
tưởng của Phật giáo Đại thừa.  			Nếu như chúng ta đứng từ góc độ tư 
tưởng sử mà nhìn Phật giáo thì  			sau khi đức Phật nhập diệt vào khoảng
hơn 100 năm, trong nội bộ tăng  			đoàn tranh cãi nhau về ‘Năm việc của
Đại Thiên’ (Mahàdeva)[10] 
hoặc theo nguồn sử liệu của Phật giáo Nam truyền ghi chép, sau khi  
Phật diệt độ khoảng 218 năm, nội bộ Phật giáo tranh cãi về ‘Thập sự  
phi pháp’  			 			[11].
Kết quả cuộc tranh cãi này dẫn đến sự rạn nứt, phân chia Phật giáo 
thành hai phái là Thượng Tọa Bộ và Đại Chúng Bộ. Phái Đại Chúng Bộ  
là tiền thân của tư tưởng Phật giáo đại thừa. Quá trình hình thành  	
tư tưởng của Phật giáo Đại thừa khá phức tạp, vì tính chất và nội  			
dung của bài viết này có giới hạn, do vậy, ở đây tôi không đi sâu  			
vào điểm này, nhưng đại khái sự hình thành tư tưởng Phật giáo Đại  			
thừa gắn liền với tư tưởng Phật giáo Bộ phái, nhất là tư tưởng của  			
phái Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ (Srvastivadin), gọi tắt là Hữu bộ, là  			
học phái có tư tưởng đối lập với Phật giáo đại thừa, vì phái này chủ  		
trương, có quan điểm cho rằng: Các pháp trong ba đời đều thật có và  		
vĩnh viễn tồn tại. Ngược lại Phật giáo Đại thừa không chấp nhận tư  			
tưởng này nên trong hệ thống Kinh Bát Nhã đã đưa ra tư tưởng ‘Tất cả  		
pháp đều là không’ hoặc Long thọ cho rằng: 'Duyên khởi tánh không'.  		
Nói chung Phật giáo đến thời kỳ Bát Nhã hay Long Thọ lấy tư tưởng  			
‘không’ (sènyat) phản bác tư tưởng ‘hữu’ (bhva)  			của phái Hữu bộ. 
 			Qua đó, khái
niệm ‘không’ trong Phật  			giáo Đại thừa có một bối cảnh cụ thể như 
vậy, có sự liên hệ với Hữu  			bộ như vậy, nếu chúng ta muốn tìm hiểu tư
tưởng 'không' này, việc  			cần làm trước tiên là chúng ta so sánh đối 
chiếu giữa hai nguồn tư  			liệu của Hữu bộ và Đại thừa. Nếu không làm 
như vậy mà ngược lại dùng  			phương pháp phân tích triết học của Tây 
phương hay lấy tư tưởng Lão  			Trang nghiên cứu phân tích tư tưởng 
không của Phật giáo đại thừa,  			theo tôi, rất dễ bị ngộ nhận. 
 			Như vậy, 
khái niệm ‘không’  			được đề cập trong câu kệ này chính là 
khái niệm không của  			Phật giáo Đại thừa. Ở đây, nói đến ‘tội
tiêu tâm tịnh thảy đều  			không’ là nói đến tinh thần vô chấp hay
vô phân biệt của tư  			tưởng Phật giáo Đại thừa. Thế nào gọi là tinh 
thần vô chấp vô phân  			biệt? Chúng ta muốn hiểu tinh thần này cần phải
hiểu khái niệm trí  			tuệ trong hệ thống kinh điển Phật giáo Đại thừa 
cụ thể là Kinh Bát  			Nhã. Trong hệ thống kinh điển này thường mô tả 
trí tuệ siêu việt của  			Phật bằng tiếng Phạn là Pra-jñaparamit,  			tiếng Tàu dịch là Bát nhã Ba la mật, 
tiếng Việt gọi là trí tuệ. Thật  			ra, từ pra-jñaparamit  			được dịch là 'trí tuệ' thì vẫn chưa mô tả 
hết ý nghĩa của nó, vì từ  			này được ghép lại bởi pra là 
'trước' 'trước khi' và jña  			là thức, hiểu biết, phân 
biệt...và paramit  			là một hình 
dung từ bổ ngĩa cho j�a,  			như vậy, từ pra-jña mang ý 
nghĩa là 'trước khi nhận thức,  			trước khi phân biệt...', cái đó được 
gọi là pra-jñaparamit, tức là loại nhận
thức, hiểu biết trước khi đối tượng nhận thức xuất  			hiện, nó khác 
với ý nghĩa của từ pañña (trí tuệ) trong kinh tạng  			Pàli hay phái 
Thượng Tọa Bộ thường được sử dụng, vì ý nghĩa của từ 			pañña 
là một loại nhận thức bao giờ cũng cần có đối tượng  			nhận thức, sau 
khi phân biệt giữa các đối tượng, nó sẽ cho hành giả  			nhận biết cái 
nào là đúng cái nào là sai, pháp nào là pháp thiện,  			pháp nào là pháp
bất thiện, chính cái biết này gọi là trí tuệ.Vì vậy  			trong Bát chánh
đạo đề cập đến vai trò của ‘chánh kiến’, trong bảy  			giác chi đề cập 
đến ‘trạch pháp giác chi’, là yếu tố của trí tuệ. Có  			lẽ chính vì vậy
mà các nhà dịch thuật Trung Hoa dịch hai từ này bằng  			cách dịch âm 
không dịch nghĩa. Nếu chúng ta xét từ góc độ tư tưởng  			thì hai từ này
mang nội dung và ý nghĩa không giống nhau, mặc dù hai  			từ đều được 
dịch là ‘trí tuệ’. Đây là điểm cần chú ý khi nghiên cứu  			hai hệ thống
kinh điển Đại thừa và Tiểu thừa.
 			Từ nội dung 
và ý nghĩa từ  			pra-jñaparamit 			này,
gợi ý cho chúng ta  			hiểu thế nào gọi là ‘tội tiêu tâm tịnh thảy 
đều không’. Có  			nghĩa là mô tả sau khi hành giả thực hành pháp 
sám hối thành đạt  			được pra-jñaparamit
- ở đây chúng ta tạm thời gọi nó là trí tuệ siêu việt - cho nên vị ấy  
không còn đối tượng nhận thức của cái gọi là ‘tội tiêu’ và ‘tâm  			
tịnh’, vì bản chất của sự vật đang trôi chảy không có một tướng  			
trạng nào cố định, giữa ‘tội’ và ‘tịnh’ là hai khái niệm do con  			
người chúng ta qui định, thật ra tâm của con người cũng không ‘tội’  			
và ‘tịnh’ nào là khái niệm cố định, cho nên gọi tội tiêu tâm tịnh  			
thảy đều không. Chữ không ở đây là ngụ ý nói đến không có tướng  			
trạng nhất định, không phải là ‘trống rỗng không có gì’. Do vậy,  			
trong chữ ‘trí tuệ’ này được các nhà Đại thừa giải thích một cách  			
khác nữa là trạng thái vô phân biệt, tức là cái thấy của bậc chứng  			
ngộ, cũng là sự nhận thức của pra-jñaparamit của Đại thừa, không phải là pañña của Thượng 
Tọa Bộ.
 			Đồng thời 
chúng ta không nên hiểu  			khái niệm ‘không’ trong câu: ‘tội tiêu, 
tâm tịnh thảy đều không’  			như là một khái niệm ‘trống không, hư 
không’ mà nên hiểu khái niệm  			này gắn liền với khái niệm 
pra-jñaparamit, như là sự vô 
phân biệt, vô chấp trước của bậc giác ngộ, trạng thái đó  			được gọi là
‘không, ‘vô tướng’. 
 			Khi hành giả
thực hành pháp sám hối  			thành đạt được trạng thái pra-jñaparamit  			này, được gọi là sự sám hối tối thượng, 
cho nên ở đây gọi là ‘thế  			mới thật là chân sám hối’. Thật 
ra pháp sám hối của Phật giáo  			Đại thừa, trên căn bản là sự kết hợp 
giữa phương pháp sám hối của  			Phật giáo Nguyên thủy và tư tưởng 
‘không’ của Phật giáo Đại thừa.  			Đây là ý nghĩa pháp sám hối của Phật
giáo Đại thừa.
 			 
 			4.  			Sự lợi ích của người  			biết thực hành pháp 
sám hối
 			Qua sự trình
bày về pháp sám hối giữa  			hai hệ thống kinh điển của Phật giáo Đại 
thừa và Tiểu thừa hay nói  			đúng hơn giữa Phật giáo Thượng Tọa bộ và 
Đại Chúng Bộ, chúng ta nhận  			thức rõ rằng, cho dù chúng ta tu tập 
pháp sám hối theo truyền thống  			Phật giáo Đại thừa hay Tiểu thừa đều 
có ý nghĩa, giúp cho cuộc sống  			càng ngày càng thăng hoa tiến bộ hơn,
nó là yếu tố cơ bản xây dựng  			đời sống an lạc và hạnh phúc, miễn là 
chúng ta thực hành đúng theo  			phương pháp sám hối đã được đức Phật 
chỉ dạy.
 			Nếu như 
chúng ta hiểu phương pháp sám  			hối của Phật giáo có ý nghĩa giúp cho 
con người tự kiểm soát lại  			hành vi của chính mình, và khi phát hiện 
ba nghiệp thân khẩu và ý đã  			lỡ làm những hành vi bất thiện, thì sám 
hối của đạo Phật là phương  			pháp giúp cho con người làm trong sạch 
tâm hồn, và có trách nhiệm  			ngăn ngừa các lậu hoặc phát sinh trong 
tương lai, bằng cách phản  			tỉnh và có thái độ ăn năn hối hận những 
lỗi lầm của chính mình.
 			Nếu chúng ta
thừa nhận, con người ai  			cũng phạm phải sai lầm, thì phương pháp sám
hối của đạo Phật có chức  			năng, giúp cho con người có đủ năng lực 
làm trong sạch cuộc sống  			bằng cách nhìn nhận và sửa sai lỗi lầm. 
Thái độ nhìn nhận và biết  			sửa sai là hành vi biết phục thiện, biết 
hổ thẹn hành vi sai lầm,  			biểu hiện ý chí cầu tiến, là chiếc áo giáp 
bảo vệ và ngăn chận không  			cho ba nghiệp phát sinh hành vi bất thiện.
Nếu như con người sống  			bằng ba nghiệp thiện thì đó là nền tảng để 
xây dựng đời sống hạnh  			phúc của thế gian và cũng là nhân tố chính để
trở thành bậc thánh  			xuất thế gian. Nếu chúng ta bình tâm suy nghĩ, 
căn cứ từ những kinh  			nghiệm qua đời sống hằng ngày sẽ thấy rõ điều 
đó. Gia đình mất hạnh  			phúc là gia đình có đời sống bất chính, thiếu 
sự hiểu biết, cố chấp,  			không biết phục thiện, không nhìn thấy lỗi 
lầm của mình, chỉ nhìn  			lỗi của người, đó là nguyên nhân dẫn đến mất 
hạnh phúc. Ví dụ, người  			chồng với lý do vì công việc làm ăn thường 
hay tiếp xúc với sự việc  			không lành mạnh trong xã hội, dần dần thành
thói quen, và xem đó như  			là việc bình thường, tạo thành sự xào xáo 
mất hạnh phúc trong gia  			đình. Vì bảo vệ hạnh phúc của gia đình người
vợ hay cha mẹ, bà con  			hay bạn bè... khuyên răn người đó, không nên 
gần gũi với những việc  			bất thiện ấy nữa, nếu người ấy biết phục 
thiện, biết ăn năn sám hối  			những lỗi lầm của mình thì đó là yếu tố 
để cho mọi người tha thứ,  			hàn gắn lại vết thương bị đổ vỡ ở trong 
lòng của mọi người, cũng từ  			đó mái ấm của gia đình sẽ tái thiết 
định. Ngược lại, khi được người  			khác khuyên răn chỉ điểm, nhưng 
không biết phục thiện, ăn năn và sám  			hối thì đức Phật gọi người đó, 
không có việc ác nào mà người đó  			không dám làm, vì đức tính biết xấu
hổ và biết phục thiện của người  			đó không còn.
 			Ở đây, thái 
độ ăn năn sám hối chính  			là ý nghĩa sám hối trong đạo Phật. Ý nghĩa 
sám hối trong đạo Phật  			không mang ý nghĩa là nghi thức rửa tội như 
các tôn giáo khác đã  			làm, mà nó mang ý nghĩa nhận sai và sửa sai. 
Hình thức tụng đọc sám  			văn chỉ có ý nghĩa giúp cho con người biết 
được thế nào là việc  			thiện và thế nào là việc bất thiện, nên làm gì 
và không nên làm gì,  			làm tiêu chuẩn cho cuộc sống, để cho con người 
phân biệt biết được  			đâu là việc sai và đâu là việc đúng. Đồng thời, 
hình thức lễ lạy chỉ  			biểu hiện thái độ thành thật ăn năn sám hối của
mình, không phải là  			sự van xin năn nỉ để được Phật, Bồ tát tha thứ 
những lỗi lầm của  			mình, vì học thuyết nhân quả nghiệp báo của nhà 
Phật đã nói rõ tính  			công bằng giữa nhân và quả.
 			Như vậy, 
pháp sám hối của nhà Phật  			chỉ có giá trị giúp sức cho con người có 
đủ sức mạnh để vượt qua  			những mặc cảm về tâm lý, hướng dẫn con người
thấy rõ vịệc tội lỗi  			của chính mình, và ngăn chận những lỗi lầm 
trong tương lai. Nếu như  			chúng ta thực hành đúng lời Phật dạy, như 
trong hai hệ thống kinh  			điển, chắc chắn nó sẽ là điều kiện cơ bản để
mang lại đời sống hạnh  			phúc cho gia đình, và cũng là nhân tố để 
hoàn thành đời sống giác  			ngộ và giải thoát.
 			 
 			5.  			Kết luận
 			Nếu nước bốn
bể của đại dương chỉ có  			một vị mặn thì giáo pháp của Phật có hương 
vị giải thoát. Trải qua  			lịch sử phát triển của đạo Phật, Phật giáo 
tuy có nhiều tông phái,  			Đại thừa và Tiểu thừa, nhưng tất cả đều có 
một vị chung là vị giác  			ngộ và giải thoát, vị đó là đặc tính chung 
nhất của đạo Phật.  			
 			Cũng vậy, dù
rằng trên mặt hình thức  			hai phương pháp sám hối của hai hệ thống 
kinh điển có khác nhau,  			nhưng giống nhau về mặt nội dung tư tưởng. 
Cả hai hệ phái đều lấy ý  			nghiệp làm nền tảng cho việc sám hối, có 
nghĩa là xem ý như là nguồn  			gốc của các nghiệp thiện hay ác. Nghiệp 
thiện là nghiệp mang lại sự  			hạnh phúc, nghiệp ác là nghiệp mang lại 
sự khổ đau. Dù cho nghiệp  			thiện hay nghiệp bất thiện đều sanh từ ý, 
như vậy việc ăn năn sám  			hối cũng bắt đầu từ ý nghiệp, tức là thấy rõ
nghiệp ác và quyết tâm  			sửa sai. Hữu ích của việc lễ lạy và tụng đọc
sám văn là: thứ nhất  			qua đó người đọc tụng sẽ biết được việc nào là
việc thiện và việc  			nào là việc ác; thứ hai, là hình thức biểu hiện 
sự thành tâm ăn năn  			sám hối của mình, đó là cách tu tập mang tính 
khế lý và khế cơ.
 			Căn cứ vào 
những điều đã được trình  			bày trên cho thấy phương pháp sám hối của 
đạo Phật không những mang  			lại cho con người có đời sống an ổn, tự 
tin mà còn là nhân tố mang  			lại đời sống hạnh phúc cho gia đình, cũng
là sự đóng góp không nhỏ  			cho việc xóa bỏ những tệ đoan của xã hội, 
nêu cao tinh thần có bổn  			phận và trách nhiệm.
 			Hơn thế nữa,
phương pháp sám hối của  			đức Phật là nền tảng cơ bản cho những ai 
muốn thành đạt giác ngộ và  			giải thoát. Ai muốn được giải thoát, 
người ấy phải có giác ngộ. Ai  			muốn có sự giác ngộ, người ấy phải 
biết được việc thiện và bất  			thiện. Như vậy ai muốn giải thoát người 
ấy phải sửa sai, tức tu tập.  			Muốn tu tập, trước tiên phải thấy sai 
và nhận sai; nhận sai là  			phương pháp sám hối của Phật giáo.
 				
 
 					 					 					 					[1]
Thich Hạnh Bình, “Tìm hiểu Đạo  					Phật Nguyên thủy” NXB Tôn 
giáo, Hà nội, 2004.
 
 					 					 					 					[2]
‘Nếu kẻ nào cố ý tạo nghiệp, Ta  					nói rằng kẻ ấy phải 
thọ quả báo, hoặc thọ ngay  					trong đời hiện tại, hoặc thọ 
vào đời sau. Nếu tạo  					nghiệp mà không cố ý, Ta nói rằng 
người ấy chắc  					chắn không phải thọ quả báo’. (Viện CĐPH 
Hải đức  					dịch, “Kinh Trung A Hàm” tập 1, VNCPHVN ấn hành, 
1992,  					trang 137.)
 
 					 					 					 					[3]
Xin tham khảo, HT.Minh Châu dịch,  					“Kinh Trung Bộ” tập 1, 
VNCPHVN ấn hành, 1992, trang  					112~113.
 
 					 					 					 					[4]
HT.Minh Châu dịch, “Kinh Trung Bộ”  					tập 1, VNCPHVN ấn hành, 
1992, trang 112~113.
 
 					 					 					 					[5]
Tương đương Hán tạng ‘Kinh La Vân’  					thuộc “Kinh Trung A hàm”.
 
 					 					 					 					[6]
HT. Minh Châu dịch, “Kinh Trung Bộ”  					tập 2, VNCPHVN ấn hành, 
1992, trang 176~178.
 
 					 					 					 					[7]
HT. Minh Châu dịch, “Kinh Trung Bộ”  					tập 2, VNCPHVN ấn hành, 
1992, trang 181.
 
 					 					 					 					[8]
Xin tham khảo HT. Minh Châu d ịch ‘Kinh  					Nhất dạ Hiền giả’
trong “Kinh Trung Bộ” Viện NCPHVN  					ấn hành..
 
 					 					 					 					[9]
HT. Thiện Siêu và Thanh Từ dịch “Kinh  					Tạp A Hàm” tập 2, VNCPP 
Việt Nam ấn hành, 1994, trang  					39.
 
 					 					 					 					[10]
Xin tham khảo "Dị bộ tông luân luận"  					Đại chánh 
tân tu Đại tạng kinh, quyển 49.
 
 					 					 					 					[11]
Xin tham khảo "Kathàvatthu".