Đời
sống người xuất gia dưới thời đức Phật còn tại thế
 		PHẦN
3
 			ĐỜI SỐNG NGƯỜI XUẤT GIA
 			dưới thời đức Phật còn tại thế
 			 
 			Là người Phật  			
tử của xã hội ngày nay, bất cứ ai cũng biết trong Phật giáo có nhiều  		
tông phái và nhiều hình thức tu tập khác nhau. Như là thiền tông thì  	
tu thiền định, tịnh độ tông tu pháp môn niệm Phật, mật tong tu pháp  	
môn niệm thần chú.v.v… Bài viết này tôi không giới thiệu thiền tông  	
hay mật tông, cũng không giới thiệu pháp môn niệm Phật của tịnh độ  		
tông, mà giới thiệu về đời sống và phương pháp tu tập của tăng đoàn  		
trong Phật giáo Nguyên thủy. 
 			Phật giáo Nguyên thủy là giai đoạn  			Phật 
giáo tính từ khi đức Thế Tôn thành đạo dưới cội cây bồ đề cho  			đến 
khi Phật pháp chưa bị phân chia, tăng già còn hòa hợp. Điểm đặc  			
trưng của thời kỳ này: mục đích của người xuất gia là giác ngộ và  			
giải thoát, nội dung giáo lý lấy 37 phẩm trợ đạo làm trung tâm, lấy  			
bốn niệm xứ làm phương tiện tu tập, với đời sống vô gia cư, mang  			
bình bát vào thôn xóm khất thực, và trở về sống trong rừng núi, xa  			
cách thị thành, không bàn luận những vấn đề siêu hình.
 			Qua đó chúng ta thấy, giữa hệ thống  			giáo 
lý, mục đích xuất gia và hoàn cảnh sống của người xuất gia có  			mối 
quan hệ biện chứng logic, không giống như Phật giáo ngày nay là  			
cường điệu quan điểm ‘độ sinh’, nhưng vấn đề ‘tự độ’ là cơ sở cho  			
‘độ sinh’ thì lại buông thả, dẫn đến tình trạng phức tạp trong Phật  			
giáo, đôi lúc có nhiều sinh hoạt không liên hệ gì đến mục đích giác  			
ngộ và giải thoát của Phật giáo. 
 			Với nội dung bài viết này, tác giả  			muốn 
gợi ý cho độc giả hiểu được thế nào gọi là tu tập, và nguyên  			tắc tu 
tập dưới thời đức Thế Tôn chỉ dạy như thế nào. Chúng ta có  			thể lấy 
đó làm cuộc so sánh để hiểu những gì chúng ta đang làm có  			phù hợp 
với Phật pháp không. Nói như vậy, không phải ngụ ý rằng chỉ  			có hình 
thức này là đúng, hình thức khác là sai mà  chỉ nhằm mục  			đích ‘ôn cố
tri tân’, lấy chuyện xưa để biết chuyện nay, làm thước  			đo cho chúng
ta hiểu được chính mình đang làm gì, và việc làm đó có  			ý nghĩa gì.
 			Cuộc sống luôn luôn đổi thay, nhận  			thức 
con người cũng theo đó thay đổi, vì vậy không thể có một hình  			thức 
tu tập cố định nào làm tiêu chuẩn cho mọi thời đại. Hình thức  			sinh 
hoạt cũng như phương pháp tu tập trong Phật giáo mang tính 'tùy  			thời
tùy cơ', có nghĩa là tùy theo thời đại và căn cơ của chúng sanh  			mà 
Phật pháp thiết lập hình thức cụ thể để giáo hóa. Điều đó có  			nghĩa 
là với thời đại này xã hội này con người này, hình thức sinh  			hoạt 
hay phương pháp tu tập này là hợp lý, nhưng với thời đại khác  			xã hội
khác con người khác thì hình thức này chưa chắc đã phù hợp,  			đôi khi
phản tác 
dụng nữa là  			khác. Nhưng cho dù hình thức nào, điều quan trọng
là trong đó phải  			ẩn chứa khuynh hướng giác ngộ và giải thoát. Bằng 
ngược lại, cho dù  			sinh hoạt dưới hình thức tu tập nào, nhân danh là 
tông phái nào vẫn  			là vô ý nghĩa với đạo Phật. Quan điểm này, chúng 
ta không chỉ thấy  			trong kinh điển của Phật giáo Đại thừa mà ngay cả 
trong kinh điển  			Nikàya[1]  
hay A Hàm  			(Àgama)[2]. 
Do vậy, với nội dung bài viết này, tác giả không có ý phê phán những
hình thức sinh hoạt hay pháp tu tập nào trong Phật giáo, mà chỉ 
muốn  			nói một điều thử xem những mà mình đang tu tập đó có chứa đựng 
sự  			giác ngộ và giải thoát không?
 			Giới thiệu về “Đời sống người xuất  			gia 
dưới thời Phật còn tại thế” là đề tài gợi ý để mỗi người chúng  			ta tự
so sánh, biết được sự dị biệt giữa những gì trong quá khứ và  			hiện 
tại, nhằm giúp cho chúng ta hiểu được đâu là tinh thần giáo dục  			và 
đâu là hình thức giáo dục của đức Phật, từ đó chúng ta rút ra  			nhiều 
bài học quí giá từ quá khứ, đồng thời nó sẽ giúp cho chúng ta  			vững 
tâm hình thành một mô hình sinh hoạt, một phương pháp tu tập  			phù hợp
với đời sống hiện tại ở xã hội mà chúng ta đang sống, và  			cũng từ đó
định hướng cho một loại hình sinh hoạt trong tương lai,  			chúng ta sẽ
cảm thấy không bỡ ngỡ trước sự thay đổi hình thức. Có  			được sự nhận 
thức như vậy, cuộc sống tu tập hằng ngày của chúng ta  			mới thật sự có
hạnh phúc và an lạc. Với tinh thần đó, tôi sẽ cố gắng  			giới thiệu về
đề tài này ngang qua các kinh điển Nikàya và A Hàm.
 			 
 			1.  			Mục đích của đời  			sống phạm hạnh
 			Nếu chúng ta nghiên cứu kỹ hai hệ  			thống 
kinh điển Nikaya và A  			Hàm, hai nguồn tư liệu này  			đều ghi rằng, 
những người xuất gia trong thời này chỉ có mục tiêu  			hướng đến là 
giác ngộ và giải thoát. Quan niệm hoằng pháp độ sanh,  			nếu có đi 
chăng nữa cũng rất là mờ nhạt, không phải là yếu tố quan  			trọng của 
người xuất gia trong thời kỳ này. Điều đó mang một ý nghĩa  			đặc thù 
muốn nói rằng, người xuất gia là những người tự xác định  			chính mình 
là những người còn nhiều khổ đau và phiền muộn, do vậy  			muốn xuất gia
để được giác ngộ và giải thoát những khổ đau đó, không  			phải xuất 
gia vì mục đích để hoằng dương Phật pháp, cứu độ chúng  			sanh. Nếu có ý
nguyện độ sanh đi chăng nữa, nó cũng chỉ xuất hiện  			sau khi xuất 
gia, trải qua thời gian tu tập, thành tựu được giới,  			thành tựu thiền
định và trí tuệ xong, vị ấy mới phát nguyện độ sanh,  			hoặc tối thiểu
là vị ấy phải hiểu rõ giáo lý của đức Phật, sau đó  			mới phát nguyện 
đem Phật pháp vì người khác giảng dạy. Nếu không có  			kinh nghiệm tu 
tập, Phật pháp lại không hiểu làm sao có thể hoằng  			dương Phật pháp 
hoặc cứu độ chúng sanh, làm sao có thể giúp đỡ người  			khác khi mà tự 
thân mình không có gì để giúp? Nếu không biết cách mà  			cứ làm thì 
cách hoằng dương Phật pháp này vô cùng nguy hiểm, không  			những có hại
cho bản thân mà còn làm tổn thương đến Phật pháp. 			
 			Thật ra tinh thần ‘lợi tha’ hay  			‘giáo hóa 
chúng sanh của Phật giáo Đại thừa được xây dựng trên  			nguyên tắc là 
người đã giác ngộ, tức là các vị Bồ tát (Bodhisattva)  			phải có lòng 
từ bi và trí tuệ. Có một số người không nắm được nguyên  			tắc này, vội
vã hành Bồ tát đạo, cho nên trong Phật giáo đã xảy ra  			những hiện 
tượng không phù hợp với chánh pháp. Ví dụ có một số người  			sau khi 
xuất gia vội vàng thọ giới, nhưng không trải qua thời gian  			huấn 
luyện nếp sống của người phạm hạnh, không học tập Phật pháp,  			vội vã 
xây dựng cơ sở tôn giáo, hoặc thành lập cơ sở từ thiện xã  			hội, nhằm 
thực thi tinh thần 'độ tha', trong khi đó bổn phận và  			trách nhiệm 
của người xuất gia là giác ngộ giải thoát dường như quên  			mất, thậm 
chí Phật pháp cũng chẳng biết gì, ngang nhiên tự cho mình  			là người 
làm hạnh của người xuất gia, thực thi Bồ tát hạnh, cứu giúp  			chúng 
sanh. Thật đáng buồn thay cho tinh thần Bồ tát hạnh của Phật  			giáo 
Đại thừa đã và đang bị lạm dụng một cách bữa bãi và vô ý thức.  			Đây 
là điểm mà các nhà lãnh đạo Phật giáo cần phải suy nghĩ và tìm  			cách 
ngăn chận.
 			Với mục đích xuất gia, tìm cầu sự  			giác ngộ
và giải thoát, cho nên đức Phật đã hướng dẫn các đệ tử xuất  			gia của
mình sống đời sống vô gia cư, tránh xa nơi thị thành ồn ào  			náo 
nhiệt, tìm nơi thanh vắng như là rừng núi, bãi tha ma, hoặc nơi  			đồng
trống để tu tập thiền định, quán chiếu thân này là giả tạm, thế  			
gian là vô thường, đồng thời lấy tinh thần 'thiểu dục tri túc' làm  			
nguyên tắc cho cuộc sống tu tập. Có lẽ chính vì cuộc sống này cho  			
nên đức Phật đã qui định cho một vị xuất gia cần phải có ba điều  			
kiện cơ bản để bảo vệ đời sống: Một là y -là y phục tỷ kheo. Hai là  			
bình bát - là vật dụng cần thiết cho vị tỷ kheo đi khất thực. Ba là  			
đồ lọc nước - là vật dụng cần thiết cho vị tỷ kheo khi sống đời sống  		
di cư trong rừng núi, gặp nước không sạch cần phải thanh lọc cho  			
sạch trước khi uống. Ba điều kiện này có thể nói là ba điều kiện rất  		
hữu ích và hợp lý với đời sống di cư trong rừng núi ở thời đại đức  			
Phật còn tại thế, nhưng nó không còn thích nghi với cuộc sống định  			
cư, nhất là đời sống ở thời đại chúng ta. Cuộc sống này, vốn không  			
phải riêng chỉ có Phật giáo mà hầu hết những người thực thi đời sống  		
xuất gia của các tôn giáo khác cũng đều sống như vậy. Có lẽ đức Phật  	
nhận thấy cuộc sống này thật sự giúp ích cho người xuất gia mau  			
thành đạt mục tiêu giác ngộ và giải thoát, cho nên đức Phật xem đó  			
như là nguyên tắc sống cho người xuất gia trong xã hội thời bấy giờ,  		
vì nó có giá trị huấn luyện cho người mới vừa từ đời sống gia đình  			
sang sống không gia đình, là cuộc sống ly dục. Đời sống tịch mịch  			
trong rừng núi, cách ly gia đình, từ bỏ hưởng thọ những dục lạc thế  			
gian là phương pháp cần thiết và thích đáng cho người mới xuất gia,  			
đã được đức Phật tán thán như ‘Kinh Sợ Hãi và Khiếp Đảm’  			
(Bhayabheravasutta) số 4[3], 
‘Kinh Khu Rừng’ (Vanapatthasutta)[4].v.v...trong
“Kinh Trung Bộ”.
 			Đức Phật cho rằng, sinh hoạt trong  			rừng 
núi của người xuất gia, nhằm mục đích giúp cho hành giả mau  			thành 
đạt thánh quả, chứ không mang ý nghĩa chỉ có cuộc sống rừng  			núi mới 
có sự giác ngộ và giải thoát. Trên nguyên tắc chung, bất cứ  			cuộc 
sống nào dù là trong rừng núi hay trong gia đình cũng có thể  			mang 
lại giác ngộ và giải thoát, với điều kiện không bị nhiễm ô bởi  			các 
dục vọng của thế gian, đoạn trừ vô minh.
 			Nhưng nếu chúng ta căn cứ bản tánh  			tham 
lam của con người thì đời sống rừng núi là điều kiện tốt nhất,  			giúp 
ta mau chóng từ bỏ các loại ham mê về vật chất. Có lẽ đó là lý  			do 
tại sao trong 'Kinh Thừa Tự Pháp' (Dhammadàyàda sutta)  			
trong "Kinh Trung Bộ" tập 1, đức Phật dạy các Tỷ kheo 
rằng:
 			Này các Tỷ-kheo, hãy là người thừa  			tự Pháp
của Ta, đừng là những người thừa tự tài vật. Ta có lòng  			thương 
tưởng các Ngươi và Ta nghĩ: "Làm sao những đệ tử của Ta là  			những 
người thừa tự Pháp của Ta, không phải là những người thừa tự  			tài 
vật?". Và này các Tỷ-kheo, nếu các Ngươi là những người thừa tự  			tài 
vật của Ta, không phải là những người thừa tự Pháp, thì không  			những 
các Ngươi trở thành những người mà người ta nói: "Cả thầy và  			trò đều
là những người thừa tự tài vật, không phải là những người  			thừa tự 
Pháp", mà cả Ta cũng trở thành người mà người ta nói: "Cả  			thầy và 
trò đều là những người thừa tự tài vật, không phải là những  			người 
thừa tự Pháp.[5]
 			Mặc dù trong thời gian đức Phật còn  			tại 
thế, những vật dụng mà chư tăng và đức Phật sở hữu chỉ đơn giản  			chỉ 
là y, bát, đồ lọc nước và tọa cụ, nhưng căn cứ lòng tham lam của  			con
người và sự phát triển của Phật giáo, đức Phật dự đoán trong  			tương 
lai, khi sinh hoạt của Phật giáo trở thành định cư, những vật  			dụng 
cần thiết cho đời sống này cũng tùy theo đó mà tăng trưởng, như  			vậy 
thật khó cho vị xuất gia thoát khỏi miếng mồi của vật dục, Phật  			pháp
cũng tùy theo đó mà suy tàn, ánh sáng của chánh pháp cũng vì  			vậy mà
dần dần bị lu mờ, không những làm hại chính mình mà còn làm  			tổn hại
cho đạo pháp, làm thương tổn thanh danh đức Phật. Có lẽ đó  			chính là
lý do tại sao đức Phật đã thuyết giảng bài pháp này.  			
 			Ngài Xá lợi Phất (Sriputta)  			giải thích Khổ đế trong giáo lý Tứ
đế bao gồm 8 loại khổ, ngoài 5  			loại khổ đầu là sanh, lão, bệnh, tử,
và ngũ ấm xí thạnh khổ là 5  			loại khổ tự nhiên của con người, bất cứ
ai cũng có, ngay cả người đã  			chứng đắc thánh quả. Cầu bất đắc khổ, 
oán tắng hội khổ và ái biệt ly  			khổ là những nỗi khổ thuộc về tâm lý.
Nguồn gốc của 3 loại khổ đau  			này là do vô minh, vì vô minh cho nên 
con người không biết lại mong  			cầu những gì vượt ngoài tầm tay. Vì vô
minh mà con người không chấp  			nhận những gì mà con người đang có, vì
vô minh mà con người không  			hài lòng những gì mà nó không còn đủ yếu
tố để tồn tại. Cái gì do vô  			minh tạo thành, cái ấy là nguyên nhân 
của khổ, muốn diệt trừ cái khổ  			ấy, phải từ diệt trừ vô minh, có 
nghĩa là lấy trí tuệ để diệt trừ vô  			minh, đây là nguyên tắc cơ bản 
trong đạo Phật. 
 			Điều này mang ý nghĩa khá sâu sắc  			rằng, 
đạo Phật nói đến việc cứu giúp chúng sanh thoát ly cảnh khổ là  			đề 
cập đến góc độ khổ đau về mặt tâm lý, không phải là sự khổ đau về  			
mặt tự nhiên, tức là giúp cho con người được giàu sang. Nếu như  			
chúng ta đồng ý quan điểm này thì chúng ta nên làm nhiệm vụ, bổn  			
phận và trách nhiệm của người xuất gia, giúp chúng sanh thoát khỏi  			
khổ đau bằng cách giúp họ; làm sống dậy đặc tính giác ngộ trong mỗi  			
chúng sanh, không phải chỉ là lời an ủi hay cường điệu vấn đề từ  			
thiện, những công việc mang tính giúp đỡ bằng vật chất, đó là lý do  			
tại sao đức Phật khuyên chúng ta nên làm nhiệm vụ chính mình. Nếu  			
chúng ta tự xưng mình là trưởng tử của Như Lai thì chúng ta nên kế  			
thừa sự nghiệp vĩ đại của Ngài là hoằng truyền chánh pháp, không nên  		
là người kế thừa tài vật, là những gì thuộc vật chất của thế gian.  			
Nếu chúng ta không làm như vậy mà làm ngược lại thì đó là nguyên  			
nhân để cho người trong thế gian có sự hiểu lầm chê cười đạo Phật,  			
chê cười đoàn thể trong sáng và thanh tịnh của tăng già, và đó cũng  			
là nhân tố để giáo pháp của đức Phật càng ngày càng xa rời thế gian. 			
 			Ở đây, người viết đề cập vấn đề này,  			không
đồng nghĩa với sự phê phán xây dựng cơ sở của Phật giáo mà chỉ  			muốn
nói rằng, sự phát triển cơ sở vật chất cần xét đến nhu cầu thực  			tế 
sinh hoạt của Phật giáo và quần chúng Phật tử, không nên có suy  			nghĩ
sự khuếch trương to lớn những cơ sở vật chất của Phật giáo đồng  			
nghĩa với sự hưng thịnh Phật giáo, vì sự hưng thịnh với chùa to Phật  		
đẹp đôi khi không giống nhau. Sự hưng thịnh của đạo Phật được căn cứ  	
từ sự lớn mạnh của tăng già, là một đoàn thể hòa hợp trong sự thanh  	
tịnh, của những nam nữ cư sĩ là những người biết tu tập và biết hộ  		
trì chánh pháp. Đây là điều mà mọi thành viên trong tăng già cần suy  	
nghĩ.
 			 
 			2.  			Các pháp tác thành  			vị sa môn
 			Liên quan đến đời sống phạm hạnh của  			một 
vị xuất gia theo 'Đại Kinh Xóm Ngựa' (Mahàssapura- sutta)  			
trong "Kinh Trung Bộ" (Majjhima-Nikàya) tập 1, kinh số 
39,  			đức Phật đã dạy các Tỷ kheo như sau:
 			Sa-môn! Sa-môn! Này các Tỷ-kheo,  			dân chúng
biết các Ông là vậy. Và nếu các Ông được hỏi: "Các Ông là  			ai!" Các 
Ông phải tự nhận: "Chúng tôi là Sa-môn". Này các Tỷ-kheo,  			các Ông đã
được danh xưng như vậy, đã tự nhận là như vậy, thì này,  			các 
Tỷ-kheo, các Ông phải tự tu tập như sau: "Chúng ta sẽ thọ trì và  			
thực hành những pháp tác thành Sa-môn, những pháp tác thành  			
Bà-la-môn. Như vậy, danh xưng này của chúng ta mới chân chánh và sự  			
tự nhận này của chúng ta mới như thật. Và những đồ cúng dường mà  			
chúng ta thọ hưởng như y phục, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm  			
trị bệnh mới có được kết quả lớn, lợi ích lớn cho chúng ta. Và chúng  		
ta xuất gia không thành vô dụng, có kết quả, có thành tích.[6]
 			Nội dung và ý nghĩa của đoạn kinh vừa  			dẫn 
trên là đoạn kinh đức Phật nói về bổn phận và trách nhiệm của vị  			
xuất gia theo đạo Phật. Ở đây, từ ‘sa môn’ vốn là danh từ chung chỉ  			
cho tất cả những người xuất gia sống đời sống phạm hạnh, không giới  			
hạn chỉ có Phật giáo mà cho cả những tôn giáo khác. Nhưng ở trong  			
kinh này từ này được đức Phật sử dụng là chỉ cho các tỷ kheo và tỷ  			
kheo ni hay nói đúng hơn là những người xuất gia sống theo hạnh giác  		
ngộ và giải thoát. Đức Phật khuyên các vị tỷ kheo, khi chúng ta tự  			
thú nhận mình là sa môn, là đệ tử xuất gia theo đức Phật thì chúng  			
ta phải làm tròn bổn phận và trách nhiệm, hoàn thành tư cách của vị  			
tỷ kheo là đệ tử của đức Phật.
 			Đức Phật là người đề cao vai trò trí  			tuệ, 
lấy trí tuệ (pa��a)  			làm sự 
nghiệp, lấy thiền định làm phương tiện để tiến sâu vào tuệ  			giác, lấy
giới luật làm thước đo cho nếp sống đạo đức. Thế thì chúng  			ta tự 
nhận mình là người xuất gia đệ tử của Ngài thì cũng phải học  			tập và 
thực hành theo lời dạy của Ngài. Các vị tỷ kheo có làm như  			vậy thì 
bổn phận và trách nhiệm của vị tỷ kheo mới hoàn thành, tư  			cách của 
vị tỷ kheo cũng từ đó mà có, chúng ta sống trong giáo pháp  			của Phật 
cũng không trở thành vô dụng.
 			Thế thì bổn phận và trách nhiệm gì mà  			vị 
tỷ kheo phải làm? Ngoài việc, vị tỷ kheo là người xuất gia sống  			đời 
sống vô gia đình, sống độc cư ở những nơi thanh vắng, như rừng  			núi, 
nơi đồng trống... ăn một ngày một bữa, lấy hạnh khất thực để  			nuôi 
thân, vị ấy còn phải: 1). Thúc liễm thân tâm bằng giới hạnh,  			2). Hộ 
trì các căn, 3). Tiết chế việc ăn uống, 4). Chú tâm cảnh  			giác, 5). 
Chánh niệm tỉnh giác, 6). Đoạn trừ 5 triền cái, 7). Thành  			tựu 4 
thiền. Bảy pháp này là những yếu tố cần thiết để tác thành vị  			tỷ 
kheo. Tỷ kheo cũng nhờ bảy pháp này thành đạt thánh quả A La Hán.  			
Bảy pháp này sẽ được tuần tự phân tích và giải thích như dưới đây.
 			 
 			2.1 Sống có giới hạnh
 			Thử lội ngược dòng thời gian trở về  			quá 
khứ vào những thế kỷ trước công nguyên, tìm hiểu về đời sống xã  			hội 
con người, tôi tin rằng, không ai phủ nhận ánh sáng văn minh của  			
khoa học kỹ thuật của thời đó chưa xuất hiện, đời sống con người  			
trong xã hội còn lạc hậu, luật pháp vẫn chưa hình thành rõ ràng,  			
việc quản lý con người còn tùy tiện theo quan điểm của người lãnh  			
đạo. Từ thực trạng xã hội như vậy, mặc nhiên vai trò tôn giáo chiếm  			
vị trí khá quan trọng trong việc giữ gìn đời sống đạo đức trong xã  			
hội. Sự ca ngợi đời sống có đạo đức, biết phục thiện là phương pháp  			
duy nhất để kiềm chế bản tánh tư dục chiếm hữu của con người. Sự  			
tiết chế bản năng ham muốn vật dục của con người trở thành trọng tâm  		
giáo dục, là động cơ để hình thành quan điểm đạo đức của tôn giáo,  			
với mục tiêu mang lại đời sống bình an hạnh phúc cho cá nhân mình và  		
sự công bằng cho cả xã hội.
 			Quan niệm đạo đức trong Phật giáo  			không 
giới hạn chỉ mang tính giải quyết vấn đề xã hội mà còn biểu  			thị tính
đặc thù của đạo Phật là sự giác ngộ và giải thoát. Vì đặc  			tính đạo 
đức hay giới luật của Phật giáo có mục đích hướng đến sự  			giác ngộ và
giải thoát, không đơn thuần chỉ mang tính đạo đức của  			thế gian, cho
nên tinh thần đạo đức hay giới luật của Phật giáo phải  			lấy tính vô 
tham vô sân và vô si làm cơ sở, không phải là  			những
giới điều. Giới điều trong Phật giáo là những quy định cụ thể,  			có 
mối liên hệ thân thiết đến thời gian và không gian nhất định. Như  			đã
được 'Kinh Chánh Tri Kiến' (Sammàditthi sutta) trong "Kinh
Trung Bộ" đức Phật giải thích sự khác biệt rõ về hai khái 
niệm  			'thiện' và 'căn bản thiện'; 'bất thiện' và 'căn bản bất thiện' 
như  			sau:
 			Chư Hiền, khi Thánh đệ tử tuệ tri  			được bất
thiện và tuệ tri được căn bổn bất thiện, tuệ tri được thiện  			và tuệ 
tri được căn bổn thiện, chư Hiền, khi ấy Thánh đệ tử có chánh  			tri 
kiến, có tri kiến chánh trực, có lòng tin Pháp tuyệt đối và  			thành 
tựu diệu pháp này. 
 			Chư Hiền, thế nào là bất thiện,  			thế nào là
căn bổn bất thiện, thế nào là thiện, thế nào là căn bổn  			thiện? Chư 
Hiền, sát sanh là bất thiện, lấy của không cho là bất  			thiện, tà hạnh
trong các dục là bất thiện, nói láo là bất thiện, nói  			hai lưỡi là 
bất thiện, ác khẩu là bất thiện, nói phù phiếm là bất  			thiện, tham 
dục là bất thiện, sân là bất thiện, tà kiến là bất  			thiện. Chư Hiền, 
như vậy gọi là bất thiện. 
 			Và chư Hiền, thế nào là căn bổn  			bất thiện?
Tham là căn bổn bất thiện, sân là căn bổn bất thiện, si  			là căn bổn 
bất thiện. Chư Hiền, như vậy gọi là căn bổn bất thiện. 			
 			Và này chư Hiền, thế nào là thiện?  			Từ bỏ 
sát sanh là thiện, từ bỏ lấy của không cho là thiện, từ bỏ tà  			hạnh 
trong các dục là thiện, từ bỏ nói láo là thiện, từ bỏ nói hai  			lưỡi 
là thiện, từ bỏ ác khẩu là thiện, từ bỏ nói phù phiếm là thiện,  			
không tham dục là thiện, không sân là thiện, chánh tri kiến là  			
thiện. Chư Hiền, như vậy gọi là thiện. 
 			Chư Hiền, thế nào là căn bổn  			thiện? Không 
tham là căn bổn thiện, không sân là căn bổn thiện,  			không si là căn 
bổn thiện. Chư Hiền, như vậy gọi là căn bổn thiện.[7] 	
 			Qua nội dung ý nghĩa của đoạn kinh  			vừa 
trích dẫn, nó gợi ý cho chúng ta hiểu rằng, khái niệm 'thiện'  			hay 
'bất thiện' khác với khái niệm 'căn bổn thiện' hay ‘căn bổn bất  			
thiện’. Sự khác biệt này, đức Phật muốn chỉ cho chúng ta thấy rõ vấn  		
đề khác nhau giữa 'hình thức' và 'tinh thần'. Hình thức là những gì  		
được qui định một cách cụ thể, không phải là trừu tượng. Ví dụ như  			
trong giới luật Phật giáo qui định một vị xuất gia trước khi muốn  			
thọ giới Cụ túc hay còn gọi là thọ giới tỷ kheo, vị ấy phải có 3  			
điều kiện cơ bản là: y, bát và đãy lọc nước (vật dụng lọc nước).  			
Những qui định cụ thể này được căn cứ vào đời sống thực tế của những  		
tỷ kheo trong thời đức Phật còn tại thế, là cuộc sống vô gia cư, rày  	
đây mai đó trong rừng núi, nuôi thân bằng phương tiện khất thực,  			
không phải là đời sống định cư. Ba điều kiện này trở thành vật không  		
thể thiếu cho vị tỷ kheo sống đời sống vô gia cư trong rừng núi, y  			
áo để mặc, bình bát là vật dụng để đựng vật thực cúng dường, vì tỷ  			
kheo lấy việc khất thực làm phương tiện sống, khác với đời sống định  		
cư như chư tăng ngày nay. Ở đây cũng nên hiểu thêm rằng, theo văn  			
hóa xứ Ấn Độ, khất thực là hành vi cao cả, dành cho người sống đời  			
sống Phạm hạnh, nhưng với văn hóa Trung Quốc khất thực lại có ý  			
nghĩa ngược lại, chỉ cho giới thấp hèn, sống đời sống bằng nghề ăn  			
xin. Do vì văn hóa khác nhau, cho nên Phật giáo truyền đến Trung  			
Quốc, truyền thống này cũng được bỏ đi, thay vào đó bằng sự cúng  			
dường từ tín chúng ở nơi tự viện. Và cuối cùng, đãy lọc nước là vật  			
dụng cần thiết dành cho vị tỷ kheo sống di cư trong rừng núi, khi  			
gặp nước tù đọng, ao, hồ, khe, rạch...khi gặp phải nước không trong  			
sạch, trước khi sử dụng tỷ kheo cần phải được lọc sạch, nhằm phòng  			
ngừa bịnh tật phát sinh, làm chướng ngại cho việc tu tập. Do đó, đức  		
Phật qui định 3 điều kiện này nhằm để bảo vệ về đời sống tốt đẹp và  		
mạnh khoẻ cho vị tỷ kheo, nhằm tiến tu đạo nghiệp, hoàn thành mục  			
đích xuất gia của mình, nó không mang ý nghĩa là điều kiện bắt buộc  			
của tỷ kheo, khi đời sống đã thay đổi, nó chỉ có giá trị khi nào vị  			
tỷ kheo sống đời sống di cư, không nhà cửa, sống lang thang trong  			
rừng núi, thì nó là nhu cầu cần thiết cho vị ấy. 
 			Do vậy, chúng ta không nên có quan  			niệm cố
chấp cho rằng, những tỷ kheo nào ăn bằng bình bát, mang theo  			mình 
đãy lọc nước, tỷ kheo ấy có tu tập, vì ý nghĩa chữ tu tập trong  			Phật
giáo không tùy thuộc vào 3 điều kiện này. Tỷ kheo ăn bằng bình  			bát,
nhưng khi tỷ kheo nói năng và hành động với lòng tham lam sân  			hận 
và si mê mà không biết, hoặc biết mà không chịu sửa đổi thì tỷ  			kheo 
ấy không thể gọi là tỷ kheo có tu tập, và ngược lại bất cứ ai,  			mặc 
dù không ăn bằng bình bát, không mang theo đãy lọc nước, nhưng  			người
ấy biết hành vi sai lầm của mình, chấp nhận và sửa sai hành vi  			ấy, 
người ấy vẫn được gọi là người có tu tập.
 			Có người hỏi: căn cứ vào đâu mà đưa  			ra 
quan điểm này? Điểm mà chúng ta căn cứ chính là đức Phật giải  			thích 
về ‘thiện’ khác với ‘căn bản thiện’. ‘Thiện’ là những giới  			điều bao 
gồm 5 giới, 10 giới, 250 giới…là những hình thức được qui  			định cụ 
thể, có giá trị theo thời gian và không gian nhất định; ‘Căn  			bản 
thiện’ là tính không tham không sân và không si, là tinh thần  			của 
giới luật, hay nói một cách khác là mục đích hướng đến của giới  			
luật. Hình thức (giới điều) được thiết lập phải dựa vào tinh thần  			
(không tham, sân và si), hình thức là cái tùy theo thời gian không  			
gian và căn cơ trình độ của chúng sanh mà thiết lập, còn tinh thần  			
là tính cốt lõi xuyên suốt, không bị thời gian và không gian chi  			
phối. Như vậy, hình thức là cái bị giới hạn bởi thời gian và không  			
gian; tinh thần là cái vô hạn, không bị giới hạn bởi không gian và  			
thời gian. Cái gì bị giới hạn, cái đó không phải là chân lý; cái gì  			
không bị giới hạn, cái ấy là chân lý. Như vậy, cái gì được hình  			
thành bởi nhân tố đặc thù của xã hội thì hình thức ấy cũng sẽ trở  			
thành vô dụng, không có giá trị khi yếu tố xã hội đó đã bị thay đổi. 			
 			Cũng giống như vậy, trong giới luật  			của 
nhà Phật có khá nhiều giới điều được thiết lập mang tính tùy  			thời, 
tùy nơi, tùy căn cơ. Khi bối cảnh của nó không còn nữa thì  			hình thức
giới điều đó sẽ không còn giá trị, dù chúng ta có quan  			điểm như thế
này hay thế kia, sự thật vẫn là sự thật. Thế nhưng,  			chúng ta cần 
chú ý, hình thức của giới điều tuy không còn giá trị  			nữa, nhưng 
trong hình thức giới điều đó ẩn chứa tinh thần của giới  			luật, tinh 
thần đó có giá trị muôn đời, vì giới điều được thiết lập  			căn cứ tinh
thần giới luật, tức là tính vô tham vô sân và vô si. Đây  			chính là ý
nghĩa câu: ‘Y kinh giải nghĩa tam thế Phật oan, ly kinh  			nhất tự tức
đồng ma thuyết’, hay trong kinh điển của Phật giáo Đại  			thừa đức 
Phật đã nói: ‘49 năm ta không nói lời nào’. Ba tạng kinh  			điển do 
Ngài giảng dạy, tại sao Ngài phủ nhận? Theo người viết, nội  			dung mà 
đức Phật chứng ngộ dưới cội cây bồ đề là chân lý, là tinh  			thần của 
giáo lý. Kinh điển được viết thành lời, bằng ngôn ngữ, bộ  			kinh này 
hay bộ luận khác đều là hình tướng mang tính tùy căn cơ của  			mỗi loại
chúng sanh mà nói, ý tưởng được trình bày trong kinh, luật,  			luận đó
cũng mang tính tùy căn cơ. Do vậy, chúng ta không nên căn cứ  			vào 
bất cứ bộ kinh, luật, luận nào mà cho rằng chỉ có đây mới là bộ  			kinh
của Phật, ngoài ra đều không phải là của Phật. Như thế là cố  			chấp, 
không phải là tinh thần giải thoát của đạo Phật. Đây là ý  			nghĩa của 
câu: ‘Y kinh giải nghĩa tam thế Phật oan’. Thế nhưng,  			trong mỗi bộ 
kinh, luật, luận nào cũng đều hàm chứa ý tưởng mà đức  			Phật muốn 
khuyên dạy chúng ta, chúng ta muốn hiểu được ý tưởng đó  			không thể tự
mình suy diễn, phải ngang qua kinh điển này để tìm hiểu  			ý nghĩa đó,
từ bỏ kinh 
điển này  			không có lời Phật dạy. Đây là ý nghĩa của câu: ‘Ly 
kinh nhứt  			tự tức đồng ma thuyết’.
 			Trở lại vấn đề mà chúng ta đang thảo  			luận.
Thế nào gọi là sống có giới hạnh? Theo tinh thần của kinh điển  			
Nikàya, đức Phật giải thích cuộc sống có giới hạnh là cuộc sống biết  		
tàm quí, sống với 3 nghiệp thanh tịnh và mạng sống thanh tịnh. Đây  			
được gọi là đời sống có giới hạnh. Trước hết chúng ta tìm hiểu ý  			
nghĩa 'tàm quí' được đức Phật giải thích như thế nào.
 			 
 			2.2. Biết tàm quí
 			Tàm quí có nghĩa là biết hổ thẹn và  			sợ 
người khác chê cười. Khi làm việc gì sai lầm, biết hổ thẹn, sợ  			người
chê cười, có thái độ ăn năn sám hối, sửa đổi tội lỗi. Vì tính  			chất 
của nó như vậy, cho nên trong tiến trình tu tập của Phật giáo,  			đức 
Phật lấy đức tính ‘tàm quí’ làm điều kiện cơ bản và cần thiết  			cho 
pháp tác thành tư cách của một vị xuất gia. Như trong 'Đại  			Kinh 
Xóm Ngựa' (Mahà -Assapura-sutta) đức Phật dạy:
 			Này các Tỷ-kheo, thế nào là các  			pháp tác 
thành Sa-môn, và các pháp tác thành Bà-la-môn? "Chúng ta sẽ  			thành 
tựu tàm quý", như vậy, này các Tỷ-kheo, các Ông phải tu tập.[8]
 			Nội dung đoạn kinh này đức Phật cho  			rằng, 
nguyên tắc thứ nhất để tác thành sa môn là 'biết tàm quí'. Tại  			sao 
đức Phật lại lấy pháp này làm nền tảng cho việc tu tập? Ý nghĩa  			của 
pháp tàm quí là 'biết hổ thẹn' những lỗi lầm của mình. Từ ý  			nghĩa 
này chúng ta tiến hành phân tích nó liên hệ gì với quá trình  			tu tập 
của Phật giáo. Nếu chúng ta đồng ý quan niệm tu tập trong  			Phật giáo 
là sự sửa đổi của 3 nghiệp: thân nghiệp khẩu nghiệp và ý  			nghiệp thì 
mối quan hệ giữa lòng tàm quí và sửa 3 nghiệp rất mật  			thiết. Nếu ý 
nghĩa của khái niệm ‘tu tập’ trong Phật giáo là sự 'sửa  			sai' thì 
chúng ta không những chỉ biết đến việc sai là gì mà còn  			phải biết 
việc đúng, có như vậy mới thành ý nghĩa ‘tu tập’, có nghĩa  			là sửa 
điều sai thành điều đúng. Chúng ta tự cho rằng mình là người  			tu, 
nhưng bản thân không biết việc sai và việc đúng thì ý nghĩa tu  			tập 
cũng trở thành vô nghĩa, sự tự xưng là trống rỗng. Biết sai chấp  			
nhận sửa sai, cũng có nghĩa là biết hổ thẹn tàm quí với lỗi lầm.  			
Điều đó, gợi ý cho người tu tập hiểu rằng, trước khi chúng ta bước  			
vào giai đoạn 'tu tập', chúng ta cần phải biết Phật pháp, biết ăn  			
năn hối cãi, sau đó mới lấy Phật pháp sửa đổi sai lầm của mình. 			
 			Ở đây đức Phật cho rằng pháp tác  			thành vị 
sa môn là 'thành tựu tàm quí' hay 'biết tàm quí' có nghĩa  			là biết 
việc sai lầm của mình. Khi biết việc sai lầm của mình, nhưng  			với tâm
tư bướng bỉnh hay cố tình che đậy tội lỗi của mình, không  			biết hổ 
thẹn xấu xa với việc sai lầm đó và cũng không sợ ai biết  			được tội 
lỗi của mình, .như vậy là 'không biết tàm quí'. Thái độ tâm  			lý không
biết hổ thẹn là thái độ không muốn sửa sai lỗi lầm của  			mình, nó là 
vật chướng ngại cho các thiện pháp phát sinh, là tâm tư  			không có 
những hạt giống thiện pháp chỉ có những mầm mống của tham  			lam sân 
hận và si mê, điều đó biểu lộ một tâm hồn không có an lạc và  			hạnh 
phúc. Một tâm hồn như vậy là tâm hồn không có 'tu tập', cho dù  			người
ấy hằng ngày niệm Phật hay lạy Phật, cho dù người ấy ngồi  			thiền bao
nhiêu giờ cũng không phải là người tu tập trong đạo Phật.
 			Ngược lại, người biết hổ thẹn là  			người 
không những chỉ biết việc làm sai của mình mà còn có thái độ  			hổ thẹn
sám hối và muốn sửa chữa lỗi lầm của mình. Với tâm tư như  			vậy, 
người ấy chắc chắn sẽ tiến bộ, gột sạch pháp bất thiện ra khỏi  			tâm 
tư của mình, là điều kiện cho những hạt giống thiện pháp đua nở.  			Vì 
tâm tư biết hổ thẹn là bức tường ngăn chận pháp bất thiện xâm  			nhập 
vào thân tâm, nó cũng là điều kiện tốt cho hạt giống bồ đề sanh  			
khởi. Tính quan trọng của lòng biết hổ thẹn như vậy, cho nên trong  			
kinh này đức Phật xem ‘lòng tàm quí’ như là nguyên tắc đầu tiên cho  			
tiến trình tu tập hay pháp tác thành vị sa môn. Đó cũng là lý do tại  		
sao đức Phật khuyên Ngài Rahula (La Hầu La):
 			Này Rahula, đối với ai biết mà nói  			láo, 
không có tàm quý, thời Ta nói rằng người ấy không có việc ác gì  			mà 
không làm. Do vậy, này Rahula, "Ta quyết không nói láo, dầu nói  			để 
mà chơi", này Rahula, Ông phải học tập như vậy.[9]. 			
 			Lời dạy này, đức Phật cảnh báo cho  			chúng 
ta biết rằng, người nào làm việc sai lầm mà tự mình không biết  			hổ 
thẹn thì người đó không từ chối bất cứ việc ác nào. Ví như chiếc  			áo 
màu đen nhơ nhớp và cũ kỹ, nếu như chiếc áo đó có dính bụi nhơ  			gì, 
cũng không vì vậy khiến cho ta cảm thấy khó chịu, lý do vì tâm  			tư 
người đó nghĩ rằng, chiếc áo này đã dơ lại cũ, có dính bụi cũng  			
không sao. Như vậy, chiếc áo đó tha hồ để cho bụi dính. Cũng vậy,  			
một người làm việc ác, không biết hổ thẹn về hành vi sai trái của  			
mình, tâm tư suy nghĩ như vậy nhiều lần, và đến một lúc nào đó, trở  			
thành thói quen và sẽ cảm thấy bình thường khi làm việc ác. Một lỗi  			
nhỏ nếu chúng ta cảm thấy bình thường không biết hổ thẹn dần dần sẽ  			
thành thói quen, là nguyên nhân cho người ấy sẽ làm việc ác lớn hơn,  		
và cứ thế tăng dần cho đến việc cực ác. Đó là lý do tại sao đức Phật  	
dạy Rahuala rằng:
 			Ai biết mà nói láo, không có tàm  			quý, 
thời Ta nói rằng người ấy không có việc ác gì mà không làm.
 			Đây chính là ý nghĩa mà đức Phật lấy  			pháp 
biết tàm quí làm pháp đầu tiên cho pháp tác thành vị tỷ kheo.
 			 
 			2.3. Ba nghiệp thanh tịnh
 			Pháp thứ ba của pháp tác thành sa môn  			là 
‘Ba nghiệp thanh tịnh’. Trong Phật giáo Đại thừa có câu: Chúng  			sanh 
có tám muôn bốn ngàn phiền não, Phật cũng có tám muôn bốn ngàn  			pháp 
môn tu tập. Câu nói này mang ý nghĩa, có rất nhiều nguyên nhân  			gây 
ra phiền não, Phật pháp cũng có rất nhiều phương pháp đối trị.  			Phiền
não thì có nhiều loại nhưng cũng không ngoài phiền não do thân  			gây 
ra, do miệng gây ra và do ý gây ra. Thân, khẩu và ý là 3 nghiệp  			của 
con người. Nghiệp bao gồm nghiệp thiện và bất thiện. Nghiệp  			thiện là
nghiệp có chiều hướng đến nhân thiên và giải thoát. Nghiệp  			ác là 
nghiệp có xu hướng đọa lạc và mang lại khổ đau. Trong Phật  			giáo, nói
tu tập là nói đến sự sửa đổi hay chuyển hóa 3 nghiệp. Thân  			nghiệp 
là những hành vi thuộc về thân; khẩu nghiệp là những hành vi  			thuộc 
về miệng; ý nghiệp là những hành nghiệp thuộc về ý thức. Những  			hành 
vi trong cuộc sống hằng ngày của con người không vượt ra ngoài  			3 
nghiệp này, nếu chúng ta không thể hiện bằng thân thì thể hiện  			bằng 
miệng và trước khi thể hiện ở nơi thân hoặc miệng thì ý thức  			đắn đo 
suy nghĩ tính toán. Ý là chủ nhân gây ra các nghiệp. Việc ác  			từ đây 
mà sinh, việc thiện cũng từ đây mà có; khổ đau do nghiệp tạo  			thành, 
hạnh phúc cũng do nghiệp mà sanh. Như vậy toàn thể sinh hoạt  			hằng 
ngày của chúng ta không việc gì vượt ra ngoài 3 nghiệp. Có lẽ  			đó 
chính là lý do tại sao đức Phật khuyên chúng ta nên làm cho 3  			nghiệp
thanh tịnh.
 			Này các Tỷ-kheo, thế nào là công  			việc đáng
phải làm hơn nữa? "Thân hành chúng ta phải được thanh  			tịnh.... Khẩu
hành chúng ta phải được thanh tịnh....Ý hành chúng ta  			phải được 
thanh tịnh, minh chánh, cởi mở, không có tỳ vết, che giấu.[10]
 			Khái niệm 'thanh tịnh' ở đây, không  			mang ý
nghĩa 'thân'  			không hoạt động,  			miệng không
nói, ý không suy nghĩ, nó mang ý nghĩa đức Phật khuyên  			chúng ta 
thân nên làm việc thiện, miệng nên nói chuyện hợp thời hợp  			lý[11],
và ý nên suy nghĩ theo nguyên tắc 'như lý tác ý'[12],
có nghĩa là đạo lý của sự vật như thế nào thì nên suy nghĩ nói năng
và hành xử như thế ấy, không phải là sự suy tư bằng tưởng tượng, 
nói  			năng sai sự thật và thực hành không phù hợp với qui luật sống 
của  			con người trong xã hội. 
 			'Kinh Giáo Giới Rahula'  			trong "Kinh Trung Bộ" đức
Phật phân tích giải thích về phương  			pháp tu tập 3 nghiệp rất đặc 
biệt, ở đây chúng ta cần chú ý. Ngài  			căn cứ vào 3 điểm thời gian là 
vị lai, hiện tại và quá khứ để phân  			tích về 3 nghiệp là thân, khẩu 
và ý. Nội dung và ý nghĩa của kinh  			này được giải thích như sau.
 			 			 			a.        
Đối với thân nghiệp sẽ làm 
 			 			Trước hết là thân nghiệp 
muốn làm. Trong ‘Kinh Giáo Giới Rahula’  			(Ambalatthikà Ràhulovàda 
sutta) đức Phật phân tích:
 			 			Này 
Rahula, khi Ông muốn làm một thân nghiệp gì,  			hãy phản tỉnh thân 
nghiệp ấy như sau: "Thân nghiệp này của ta có thể  			đưa đến tự hại, có
thể đưa đến hại người, có thể đưa đến hại cả hai;  			thời thân nghiệp 
này là bất thiện, đưa đến đau khổ, đem đến quả báo  			đau khổ"...Một 
thân nghiệp như vậy, này Rahula, Ông nhất định chớ có  			làm. Này 
Rahula, nếu sau khi phản tỉnh, ông biết: "Thân nghiệp này  			ta muốn 
làm. Thân nghiệp này của ta không có thể đưa đến tự hại,  			không có 
thể đưa đến hại người, không có thể đưa đến hại cả hai;  			thời thân 
nghiệp này là thiện, đưa đến an lạc, đem đến quả báo an  			lạc". Một 
thân nghiệp như vậy, này Rahula, Ông nên làm. 			 			 			 		
[13]
 			 			Đức Phật khuyên chúng ta 
muốn làm (sẽ làm) việc gì thuộc về thân,  			trước hết hãy xem xét đắn 
đo suy nghĩ việc ấy thật kỹ lưỡng, sau khi  			suy nghĩ, nếu cảm thấy 
việc ấy là việc bất thiện, mang lại khổ đau  			cho mình cho người cho 
cả hai thì chúng ta không nên làm việc ấy.  			Ngược lại, nếu cảm thấy 
việc mà chúng ta sắp muốn làm là việc thiện,  			nó mang lại sự an lạc 
cho mình cho người cho cả hai thì đức Phật  			khuyên chúng ta nên làm 
việc ấy.
 			 			Theo kinh nghiệm thực tế 
của cuộc sống cho thấy, những phiền não và  			âu lo đều phát sinh từ 
việc làm cẩu thả thiếu suy xét, do thiếu suy  			tư bồng bột dẫn đến 
hành động sai lầm, từ đó phát sinh đau khổ. Do  			vậy, đức Phật khuyên 
chúng ta muốn làm một việc gì cần phải chín  			chắn suy tư việc ấy, với
mục đích nhằm ngăn chận những nguyên nhân  			gây ra khổ đau cho con 
người.
 			 			b. 
 			Đối với thân  			nghiệp đang làm
 			 			Kế đến là thân nghiệp 
đang làm. Cũng trong kinh này, đức Phật phân  			tích như sau:
 			 			Này 
Rahula, khi Ông đang làm một thân nghiệp, Ông  			cần phải phản tỉnh 
thân nghiệp ấy như sau: "Thân nghiệp này ta đang  			làm. Thân nghiệp 
này của ta đưa đến tự hại, đưa đến hại người, đưa  			đến hại cả hai; 
thời thân nghiệp này là bất thiện, đưa đến đau khổ;  			đem đến quả báo 
đau khổ....Này Rahula, ông hãy từ bỏ một thân nghiệp  			như vậy. Nhưng 
nếu, này Rahula, trong khi phản tỉnh ông biết như  			sau: "Thân nghiệp 
này ta đang làm. Thân nghiệp này của ta không đưa  			đến tự hại, không 
đưa đến hại người, không đưa đến hại cả hai; thời  			thân nghiệp này là
thiện, đưa đến an lạc, đem đến quả báo an lạc".  			Thân nghiệp như 
vậy, này Rahula, Ông cần phải tiếp tục làm.[14].
 			 			Cũng vậy, khi chúng ta 
đang làm một thân nghiệp gì, cần phải phản  			tỉnh xem xét việc ấy, sau
khi phản tỉnh biết việc ấy là bất thiện,  			nếu tiếp tục làm, nó sẽ 
mang lại khổ đau cho mình cho người và cho  			cả hai, cần phải từ bỏ 
không tiếp tục làm việc ấy. Ngược lại, sau  			khi phản tỉnh, biết được 
việc ấy là việc thiện, nếu làm nó sẽ mang  			lại sự hạnh phúc an lạc 
cho mình cho người cho cả hai thì việc ấy  			chúng ta nên tiếp tục làm.
 			 			c. 
 			Đối với thân  			nghiệp đã làm
 			 			Tiếp theo là thân nghiệp 
đã làm. Cũng trong 'Kinh Giáo Giới Rahula'  			đức Phật giải thích về 
vấn đề này như sau:
 			 			Sau 
khi Ông làm xong một thân nghiệp, này Rahula,  			Ông cần phải phản tỉnh
thân nghiệp ấy như sau: "Thân nghiệp này ta  			đã làm. Thân nghiệp này
của ta đưa đến tự hại, đưa đến hại người,  			đưa đến hại cả hai; thời 
thân nghiệp này là bất thiện, đưa đến đau  			khổ, đem đến quả báo đau 
khổ".....Một thân nghiệp như vậy, này  			Rahula, Ông cần phải thưa lên,
cần phải tỏ lộ, cần phải trình bày  			trước các vị Ðạo sư, hay trước 
các vị đồng Phạm hạnh có trí. Sau khi  			đã thưa lên, tỏ lộ, trình bày,
cần phải phòng hộ trong tương lai.  			Nếu trong khi phản tỉnh, này 
Rahula, Ông biết như sau: "Thân nghiệp  			này ta đã làm. Thân nghiệp 
này không đưa đến tự hại, không đưa đến  			hại người, không đưa đến hại
cả hai; thời thân nghiệp này thiện, đưa  			đến an lạc, đem đến quả báo
an lạc". Do vậy, này Rahula, Ông phải an  			trú trong niềm hoan hỷ tự 
mình tiếp tục tu học ngày đêm trong các  			thiện pháp.[15]
 			Đối với việc đã làm xong, cần phải  			phản 
tỉnh xem xét việc đã làm ấy, nếu như biết nó đưa đến tự hại,  			hại 
người hại cả hai, đó là việc bất thiện. Một thân nghiệp như vậy,  			
chúng ta cần phải đến trước vị đạo sư hay người có trí, trình bày  			
việc sai lầm đã làm của mình và tỏ thái độ thật sự muốn ăn năn sám  			
hối, và thề nguyện không tái phạm. Ngược lại, sau khi phản tỉnh rõ  			
biết việc đã làm không hại mình, hại người và hại cả hai, thân  			
nghiệp đó là thân nghiệp thiện, chúng ta nên hoan hỷ và tiếp tục làm  		
những việc làm như vậy.
 			Đây là thân nghiệp của 3 thời gian đã  			được
đức Phật giải thích một cách rất tường tận. Kế đến là khẩu  			nghiệp 
và ý nghiệp. Theo sự trình bày của kinh này, đức Phật giải  			thích về 
khẩu nghiệp và ý nghiệp cũng căn cứ vào ba mốc thời gian là  			quá khứ 
hiện tại và vị lai mà khẩu và ý nghiệp dự định sẽ thực hiện;  			khẩu và
ý nghiệp đang thực hiện; và khẩu và ý nghiệp đã thực hiện.  			Cách 
giải thích của hai nghiệp này cũng giống như thân nghiệp, chỉ  			khác ở
điểm là thay vào chữ 'thân nghiệp' bằng chữ 'khẩu nghiệp’ hay  			‘ý 
nghiệp'. Để tránh sự trùng lặp, do vậy nơi đây người viết chỉ  			giải 
thích. 
 			Qua nội dung và ý nghĩa của việc phản  			tỉnh
3 nghiệp, nó gợi ý cho chúng ta nhận thức điều quan trọng rằng,  			
phương pháp tu tập trong kinh này rất thực tế và rõ ràng, nó không  			
mang ý nghĩa mơ hồ trừu tượng, bất cứ ai đọc cũng hiểu và bất cứ ai  			
cũng thực hành được. Nếu như các vị tỷ kheo là người xuất gia mỗi  			
ngày sống trong chánh pháp, chính mình thường phản tỉnh về 3 nghiệp,  		
chắc chắn chúng ta sẽ rất rõ 3 nghiệp của mình đã làm đang làm và sẽ  	
làm. Từ sự rõ ràng đó, chúng ta sẽ lựa chọn việc nào nên làm và việc  
nào không nên làm. Nếu 3 nghiệp được thanh tịnh, như vậy sống đời  		
sống xuất gia không trở thành vô dụng, tư cách của vị tỷ kheo cũng  			
nhờ đây mà thành tựu, làm gương sáng cho đời. Với tư cách như vậy,  			
chắn chắn người thế tục không những không khinh khi mà còn tán dương  		
khen ngợi người xuất gia, Phật pháp cũng nhờ đó càng ngày chói sáng  		
ở thế gian. Không những chính mình gặt hái sự lợi ích mà người trong  	
thế gian cũng nhờ đó được ích lợi từ Phật pháp.
 			Nếu chúng ta là người cư sĩ tại gia,  			hằng 
ngày tu tập bằng cách phản tỉnh 3 nghiệp. Có nghĩa là sửa đổi 3  			
nghiệp bất thiện thành 3 nghiệp thiện. Tôi tin rằng, người ấy không  			
những là người Phật tử chân chính còn là người mẫu mực, người tốt  			
trong gia đình và xã hội. Đối với công việc làm ăn, chính nhờ sự  			
phản tỉnh thường xuyên, cho nên chúng ta dễ nhận ra những nguyên  			
nhân đưa đến thất bại. Khi biết được nguyên nhân nào đưa đến thất  			
bại đau khổ chúng ta liền có biện pháp ngăn chận; yếu tố nào đưa đến  		
thành công liền thực thi những yếu tố ấy. 
 			Cuộc sống được mọi thành viên trong  			gia 
đình thương yêu, được mọi người trong xã hội thương mến, công  			việc 
làm ăn thuận duyên, không bị thất bại, mhư vậy, chúng ta là  			người 
sống trong an lạc và hạnh phúc, không phải là người sống trong  			đau 
khổ. Tôi nghĩ đây là một phương pháp tu tập rất thiết thực và  			hữu 
ích cho người Phật tử tại gia.
 			 
 			2.4  Mạng sống thanh tịnh
 			Pháp thứ tư của ‘Pháp tác thành vị sa  			môn’
là ‘Mạng sống thanh tịnh'. Ở đây, nội dung và ý nghĩa của từ  			này 
chỉ cho cách sống của tỷ kheo phải được thanh tịnh. Liên quan  			đến 
mạng sống thanh tịnh trong 'Đại Kinh Xóm Ngựa' (Mahà  			
-Assapura-sutta) đức Phật dạy:
 			 
 			Này các Tỷ-kheo, thế nào là công  			việc đáng
phải làm hơn nữa? "Sanh mạng chúng ta phải được thanh  			tịnh, minh 
chánh, cởi mở, không có tỳ vết, che giấu.[16]
 			Theo đức Phật, người xuất gia là  			người 
sống có ý thức, nhận thức được cuộc đời là giả tạm và đầy khổ  			đau, 
cho nên người ấy xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình,  			với 
chí nguyện mong cầu thành đạt giác ngộ và giải thoát. Vì muốn  			thành 
tựu mục đích cao cả này, đức Phật đã qui định người xuất gia  			phải có
cuộc sống trong sạch, trong kinh này gọi là ‘Mạng sống thanh  			tịnh’,
vì người xuất gia lấy giác ngộ và giải thoát làm mục đích,  			cho nên 
cần phải sống bằng đời sống chân chính, lấy tinh thần 'thiểu  			dục tri
túc' làm thước đo cho cuộc sống, và nuôi thân bằng đời sống  			khất 
thực, xem việc ăn uống như là sự giữ gìn sức khoẻ để tiến tu  			đạo 
nghiệp, không phải vì ngon miệng, vì những mục đích không chính  			
đáng. Thế nhưng, sau khi Thế Tôn nhập diệt, Phật giáo càng ngày càng  		
phát triển, số lượng tăng già càng ngày càng đông, nhất là Phật giáo  	
được sự đồng tình ủng hộ của nhà vua A Dục và những người giàu có.  		
Bấy giờ những người xuất gia với mục đích không chân chính, lợi dụng  	
Phật pháp, trà trộn trong tăng đoàn, sống cuộc sống trụy lạc, lợi  			
dụng hình tướng xuất gia để trục lợi cá nhân, không sống theo đời  			
sống Phạm hạnh, sống bằng các nghề nghiệp bất chính, như là xem bói,  		
xem tướng...Đó là những trường hợp Phật giáo trong ngày xưa, nhưng  			
còn Phật giáo ở ngày nay như thế nào? Theo tôi, còn tồi tệ hơn nữa,  			
bất chấp sự thịnh suy của chánh pháp, xem thường sự thị phi đàm tiếu  		
của người thế tục, làm tổn thương niềm tin của người Phật tử tại  			
gia. Tôi cho rằng, đây là nguyên nhân chủ yếu để làm cho Phật pháp  			
suy đồi. 
 			Thiết nghĩ, đã đến lúc tăng già nên  			ngồi 
lại với nhau, tìm ra biện pháp thích đáng để ngăn ngừa những  			yếu tố 
xấu làm cản trở sự phát triển đạo pháp.
 			Là người xuất gia mà sống với nghề  			nghiệp 
như vậy, đức Phật gọi đó là 'tà mạng' không chân chính, không  			thích 
nghi với đời sống của một người xuất gia, trái với mục đích  			xuất gia
của mình. Không những nó làm chướng ngại cho mục tiêu giác  			ngộ và 
giải thoát của chính mình mà còn làm tổn thương đến đạo pháp,  			làm 
mất đi lòng tin của người Phật tử tại gia.
 			 
 			2.5. Hộ trì các căn
 			Trong các pháp tác thành vị sa môn,  			pháp 
thứ 5 là 'hộ trì các căn'. Liên hệ đến pháp tu tập này, trong  			kinh 
điển A Hàm hay Nikàya có rất nhiều kinh đề cập đến pháp tu hộ  			trì 
các căn. Ở đây, vì tính chất thống nhất giải thích tiến trình tu  			tập
trong 'Đại Kinh Xóm Ngựa', cho nên tôi căn cứ cách giải  			
thích của bài kinh này, trong khi phân tích nếu có điểm nào chưa rõ  			
chúng ta sẽ vận dụng những kinh khác để làm sáng tỏ vấn đề hơn. 			
 			Ý nghĩa 'hộ trì các căn' trong  			'Đại 
Kinh Xóm Ngựa' (Mahà -Assapura-sutta) giải thích như sau:
 			Này các Tỷ-kheo, thế nào là các  			công việc 
đáng phải làm hơn nữa? "Chúng ta phải hộ trì các căn. Khi  			mắt thấy 
sắc, không nắm giữ tướng chung, không nắm giữ tướng riêng.  			Những 
nguyên nhân gì khiến con mắt không được chế ngự, khiến tham  			ái, ưu 
bi, các ác, bất thiện pháp khởi lên, chúng ta sẽ tự chế ngự  			nguyên 
nhân ấy, hộ trì con mắt, thực hành sự hộ trì con mắt. Khi tai  			nghe 
tiếng... mũi ngửi hương... lưỡi nếm vị... thân cảm xúc... ý  			nhận 
thức các pháp, không nắm giữ tướng chung, không nắm giữ tướng  			riêng.
Những nguyên nhân gì khiến ý căn không được chế ngự, khiến  			tham ái,
ưu, bi, các ác, bất thiện pháp khởi lên, chúng ta sẽ tự chế  			ngự 
nguyên nhân ấy, hộ trì ý căn, thực hành sự hộ trì ý căn". Như  			vậy, 
này các Tỷ-kheo, các Ông cần phải tu tập.[17]
 			Nội dung và ý nghĩa đoạn kinh vừa dẫn  			
trên, đức Phật khuyên các vị tỷ kheo cần phải hộ trì các căn. Ở đây,  		
từ 'các căn' tức chỉ cho 6 căn, tức là nhãn căn, nhĩ căn, tỷ căn,  			
thiệt căn, thân căn và ý căn. 5 căn đầu là những cơ quan tiếp xúc  			
thế giới bên ngoài, như nhãn căn là cơ quan để tiếp xúc các loại  			
hình sắc, nhĩ căn là cơ quan tiếp xúc các loại âm thanh, tỷ căn là  			
cơ quan tiếp xúc các loại mùi hương, thiệt căn là cơ quan tiếp xúc  			
các vị ngon ngọt, thân căn là cơ quan tiếp xúc các loại cảm xúc của  			
thân, và ý căn là cơ quan tiếp xúc các pháp, là những hình ảnh chụp  			
lại từ 5 trần, là thế giới bên ngoài, trong 12 xứ gọi là ‘pháp xứ’  			
là đối tượng nhận thức của ý thức.
 			Ở đây, đức Phật khuyên các vị tỷ  			kheo: 
"Khi mắt thấy sắc, không nắm giữ tướng chung, không nắm giữ  			tướng 
riêng. Những nguyên nhân gì khiến con mắt không được chế ngự,  			khiến 
tham ái, ưu bi, các ác, bất thiện pháp khởi lên, chúng ta sẽ  			tự chế 
ngự nguyên nhân ấy, hộ trì con mắt, thực hành sự hộ trì con  			mắt." 
Nội dung và ý nghĩa lời dạy này, đức Phật khuyên các vị tỷ  			kheo cần 
phải 'hộ trì con mắt'. Ở đây chúng ta nên hiểu rằng, sự hộ  			trì con 
mắt không có nghĩa là gìn giữ con mắt không để cho nó bị  			bịnh, mà nó
mang ý nghĩa không để cho tâm sanh khởi lòng sân hận hay  			tham lam 
khi chúng ta đối diện với sắc pháp. Vì sắc có hai loại là  			sắc đẹp và
sắc xấu, khi mắt nhìn thấy sắc đẹp, nếu tâm không tu tập,  			liền sanh
tâm tham ái đam mê sắc đẹp ấy, khi tâm đã sanh lòng tham  			ái thì tâm
liền muốn chiếm đoạt sắc đẹp đó thuộc về của riêng mình.  			Muốn chiếm
đoạt mà không chiếm được là khổ đau, bất cứ ai cũng biết,  			nhưng với
trường hợp muốn chiếm đoạt lại chiếm đoạt thành công,  			trong trường 
hợp này có sanh khổ đau không? Vẫn có khổ đau, vì tất  			cả các pháp 
của thế gian đều mang tính duyên sinh vô thường vô ngã;  			cái gì vô 
thường biến hoại mà suy nghĩ của chúng ta cho rằng nó là  			thường hằng
vĩnh cửu thì chính suy nghĩ không đúng ấy sanh đau khổ.  			Sắc là vô 
thường, ai chấp trước sắc ấy là thường hằng là của tôi,  			khi sắc biến
hoại sẽ sanh đau khổ. Đó là một định luật.
 			Ngược lại, nếu mắt của chúng ta nhìn  			thấy 
sắc xấu, là những đối tượng không ưa thích, tâm chúng ta không  			thích
chúng, nhưng sự vật không phải vì chúng ta không thích mà nó  			không 
hiện hữu. Cái mà chúng ta không muốn nhìn mà nó luôn hiện hữu  			thì 
cái ấy sanh đau khổ buồn bực. Như chúng ta không thích người  			thân 
trong gia đình hư đốn, nhưng sự kiện ấy vẫn xảy ra là đau khổ.  			Đây 
chính là ý nghĩa mà đức Phật khuyên các vị tỷ kheo, không nên  			nắm 
giữ tướng chung, tướng riêng, và những nguyên nhân gì khiến cho  			tham
ái khởi lên, chúng ta cần phải chế ngự những nguyên nhân ấy.
 			Có người đặt nghi vấn, ai sống trên  			cuộc 
đời này lại không biết sự vô thường biến đổi của vạn vật, nhưng  			tại 
sao họ vẫn đau khổ? 
 			Theo tôi, vấn đề này nên hiểu rằng,  			chúng 
ta hiểu sự vô thường biến đổi là chúng ta hiểu nó qua sự vô  			thường 
của người khác, nhưng chúng ta không hiểu sự vô thường của  			chính 
mình. Ví dụ, người bạn của mình có người thân qua đời, do vậy  			người 
bạn thương tiếc và khổ đau vô cùng. Bấy giờ mình bèn khuyên  			người 
bạn rằng: Này bạn ơi! bạn không nghe đức Phật dạy cuộc đời là  			vô 
thường, có sanh thì có diệt không, do vậy bạn không nên buồn đau.  			
Thế nhưng vài hôm sau sự kiện đau buồn ấy lại đến với chính mình,  			
một người thân của mình cũng ra đi, sự khổ đau đó lại xuất hiện với  			
chính mình, dường như không chịu nổi. 
 			Ở đây chúng ta thử phân tích hai  			trường 
hợp này, tại sao hai việc giống nhau, nhưng việc xảy ra với  			người 
bạn thì mình không khổ đau, nhưng xảy ra chính mình thì vẫn bị  			khổ 
đau? Thật ra hai sự kiện này hoàn toàn giống nhau, chỉ khác nhau  			ở 
chỗ là mình và người. Chúng ta chỉ chấp nhận lẽ vô thường xảy ra ở  			
người khác, nhưng lại không chấp nhận sự vô thường xảy ra ở chính  			
mình. Do vậy, khi vô thường xảy ra với người thì mình không khổ đau,  		
nhưng nó xảy ra nơi mình thì mình sanh khổ đau. Như vậy, chúng ta có  	
lời giải đáp cho câu hỏi trên là: Chúng ta chỉ biết vô thường ở  			
người mà không biết sự vô thường ở chính mình.
 			Ngoài ra, khi tai nghe tiếng, mũi  			ngửi mùi
hương, lưỡi nếm các vị, thân cảm xúc các loại cứng mềm cũng  			mang ý 
nghĩa như vậy.
 			Thế thì chúng ta bằng cách nào để  			ngăn 
chận lòng tham ái khi gặp đối tượng mà mình ưa thích, cũng như  			lòng 
sân hận khi gặp đối tượng không thích? Phải chăng chúng ta  			không 
nhìn sắc, không nghe tiếng, không ngửi mùi vị, không nếm các  			vị, 
thân không xúc chạm? Với vị trí là con người mà là con người  			bình 
thường, không bị bịnh tâm thần thì bất cứ ai cũng muốn sống,  			sống 
vui sống đẹp, khi đã muốn sống thì sáu căn của người ấy phải  			hoạt 
động, phải tiếp xúc với sáu trần. Tiếp xúc là tất yếu, nhưng  			tiếp 
xúc như thế nào mới là vấn đề. Đây chính là sự khác nhau giữa  			người 
hiểu biết và không hiểu biết, hay nói theo từ chuyên môn của  			nhà 
Phật gọi là có trí tuệ và không có trí tuệ. Người có trí tuệ là  			
người khi tiếp xúc với 6 trần tâm không bị dao động bởi 6 trần, và  			
ngược lại người không có trí tuệ là người khi tiếp xúc với 6 trần  			
tâm bị lôi cuốn và dao động. Như vậy vấn đề chính ở đây chính là có  			
trí tuệ hoặc không có trí tuệ. Thế thì như thế nào gọi là trí tuệ?  			
Để trả lời câu hỏi này, ở đây chúng ta mượn lời vấn đáp giữa đức  			
Phật và Aggivessana để làm sáng tỏ vấn đề:
 			- Này Aggivessana, Ông nghĩ thế  			nào? Sắc 
là thường hay vô thường?
 			- Vô thường, Tôn giả Gotama
 			- Cái gì vô thường thì cái ấy là  			khổ hay 
lạc?
 			- Là khổ, Tôn giả Gotama.
 			- Cái gì vô thường, khổ, biến  			hoại; có hợp
lý chăng khi chánh quán cái ấy là: "Cái này là của tôi,  			cái này là 
tôi, cái này là tự ngã của tôi"?
 			- Thưa không, Tôn giả Gotama.
 			- Này Aggivessana, Ông nghĩ thế  			nào? 
Thọ... (như trên)... tưởng... (như trên)... các hành... (như  			
trên)... Này Aggivessana, Ông nghĩ thế nào? Thức là thường hay vô  			
thường?
 			- Vô thường, Tôn giả Gotama. 			
 			- Cái gì vô thường là khổ hay lạc?
 			- Là khổ, Tôn giả Gotama.  			
 			- Cái gì vô thường, khổ, biến  			hoại; có hợp
lý chăng khi chánh quán cái ấy là: "Cái này là của tôi,  			cái này là 
tôi, cái này là tự ngã của tôi"?
 			- Thưa không, Tôn giả Gotama.[18]
 			Qua nội dung lời vấn đáp này, nó gợi  			ý cho
chúng ta nhận thức, bản chất của các sắc pháp, âm thanh, mùi  			vị, 
hương thơm, cảm xúc và các pháp vốn là vô thường sanh diệt.  			Không 
một pháp nào không sanh diệt, vì sự hình thành của chúng vốn  			là do 
nhân duyên hòa hợp, nhân duyên đầy đủ thì các pháp sanh khởi,  			nhân 
duyên không còn thì chúng tan rã. Như vậy, khi nhân duyên của  			các 
pháp chưa mất, dù ý thức của chúng ta không muốn nó tồn tại thì  			nó 
vẫn tồn tại, ngược lại, khi yếu tố nhân duyên không còn, ý thức  			
chúng ta muốn chúng tồn tại, cũng không vì sự mong muốn ấy mà chúng  			
tồn tại. Cái gì mà chúng ta muốn mà không được thì sanh ra khổ, và  			
cái gì chúng ta không thích mà nó vẫn tồn tại cũng sanh ra khổ.  			
Chúng ta muốn dứt trừ những khổ đau này, chỉ có cách duy nhất chúng  			
ta phải nhận thức đúng đắn bản chất của sự vật, là duyên khởi là vô  			
thường, và chấp nhận định luật vô thường. Nếu chúng ta có được sự  			
nhận thức như vậy, khi đối diện với đối tượng đẹp, tâm của chúng ta  			
sẽ không vì sắc đẹp quyến rũ, dao động, và khi chúng ta đối diện với  		
sắc xấu cũng không vì vậy mà tâm sanh giận hờn. Đây chính là ý nghĩa  	
của pháp thứ 5 là ‘hộ trì các căn’ đã được đức Phật trình bày trong  	
kinh này.
 			 
 			2.6 Tiết chế việc ăn uống
 			Pháp thứ 6 tác thành vị sa môn là sự  			'Tiết
chế việc ăn uống'. Liên quan đến vấn đề này theo 'Đại Kinh  			Xóm 
Ngựa' (Mahà -Assapura-sutta) được đức Phật giải thích như  			sau:
 			Này các Tỷ-kheo, thế nào là các  			công việc 
đáng phải làm hơn nữa? Chúng ta phải biết tiết độ trong ăn  			uống, với
chánh tư duy, chúng ta thọ thực, không phải để vui đùa,  			không phải 
để đam mê, không phải để trang sức, không phải để tự làm  			đẹp mình, 
mà chỉ để thân này được sống lâu và được bảo dưỡng, để  			khỏi bị 
thương hại, để hỗ trợ phạm hạnh.... Như vậy, này các  			Tỷ-kheo, các 
Ông cần phải tu tập.[19]
 			Nội dung và ý nghĩa đoạn kinh này,  			đức 
Phật khuyên các vị tỷ kheo cần phải tiết chế việc ăn uống. Theo  			tôi 
có mấy nguyên nhân khiến cho đức Phật khuyên các vị tỷ kheo cần  			phải
tiết chế việc ăn uống. Thứ nhất, phương pháp tu tập của chư  			tăng 
lúc bấy giờ là tu tập thiền định, nếu như ban chiều ăn quá no  			sẽ gây
chướng ngại cho việc ngồi thiền, dễ sanh hôn trầm, tức buồn  			ngủ. 
Thứ hai, đời sống tăng già lúc Phật còn tại thế là đời sống  			trong 
rừng núi, cách xa làng xóm, do vậy việc khất thực rất bất  			tiện. Thứ 
ba, vì xã hội đương thời không phải là một xã hội có đời  			sống kinh 
tế cao, mà là đời sống nông nghiệp lạc hậu, hơn nữa đời  			sống tăng 
già hoàn toàn đều nương nhờ vào sự cúng dường của thí chủ,  			cho nên 
các vị tỷ kheo cần tiết chế việc ăn uống, tránh bớt sự phiền  			hà cho 
người Phật tử tại gia, cho nên người xuất gia chỉ ăn một ngày  			một 
bữa vào giữa trưa. Hơn nữa, Phật giáo xem vấn đề ăn uống rất nhẹ  			
nhàng, xem việc ăn uống như là việc uống thuốc, để duy trì thân  			
mạng, vì thân mạng được ví như chiếc thuyền để vượt qua sông mê, đến  		
bến bờ giác ngộ, do vậy việc ăn uống của người xuất gia không giống  		
như là người thế tục, không phải vì đam mê, vì bổ dưỡng...mà ăn uống  	
là để sống để tu tập.
 			Đời sống xuất gia trong thời đức  			Phật, so 
với đời sống bây giờ có khác đi nhiều, trong những yếu tố  			khuyên 
người xuất gia, việc tiết chế ăn uống trong đó có yếu tố vì  			đời sống
kinh tế xã hội còn thấp, tất nhiên với yếu tố này so với  			thời đại 
chúng ta thì ngược lại, nhất là đời sống ở những nước giàu  			có như 
các nước Phương tây, có nghĩa là chúng ta không nên quá cố  			chấp vào 
hình thức. Thế nhưng, ở thời đại ngày nay, vật chất quá dư  			thừa, 
phát sinh một số vấn đề. Cái khổ của con người ngày nay không  			phải 
là thiếu ăn mà là vấn đề dư thừa vật thực. Vật thực quá thừa  			thãi, 
ăn uống quá nhiều, cơ thể sanh nhiều bịnh tật, trong đó có  			những 
chứng bịnh phát sinh từ việc ăn uống, như bịnh tiểu đường là  			một ví 
dụ điển hình. Qua những thực tế từ xã hội, chúng ta thấy, lời  			khuyên
của đức Phật về sự tiết chế việc ăn uống không phải là không  			có lý.
 			Ở trong thời đại ngày nay, nếu như  			người 
xuất gia nào biết tiết chế ăn uống, vị ấy chắc chắn giảm nhiều  			bịnh 
tật từ ăn uống. Người có thân thể khoẻ mạnh tu tập và thực thi  			nhiệm
vụ hoằng dương Phật pháp tốt hơn là người có bịnh tật. Người  			Phật 
tử tại gia nếu biết tiết chế việc ăn uống thì thân thể sẽ mạnh  			khoẻ,
tu tập cũng sẽ thuận duyên tinh tấn hơn.
 			 
 			2.7. Chú tâm cảnh giác
 			Pháp tác thành vị sa môn thứ 7 là  			'Chú tâm
cảnh giác'. Pháp này nhằm mục đích giúp hành giả rèn luyện  			cho tâm 
luôn chú ý đến mọi hành vi cử chỉ của mình, và cảnh giác  			không cho 
những pháp bất thiện xâm nhập làm ô nhiễm thân tâm. Nhờ có  			chú tâm 
cảnh giác, hành giả mới có thể tiến thêm một bước nữa là  			'Chánh niệm
tỉnh giác', với mục đích để dễ dàng nhập vào 4 cõi thiền  			định. Liên
quan đến 'Chú tâm cảnh giác', trong 'Đại Kinh Xóm Ngựa'  			
(Mahà -Assapura-sutta), đức Phật giải thích như sau:
 			Này các Tỷ-kheo, thế nào là các  			công việc 
đáng phải làm hơn nữa? Chúng ta phải chú tâm cảnh giác.  			Ban ngày khi
đi kinh hành (hay) trong lúc ngồi, chúng ta phải tẩy  			sạch tâm tư 
khỏi các pháp chướng ngại. Ban đêm canh một khi đi kinh  			hành (hay) 
trong lúc ngồi, chúng ta phải tẩy sạch tâm tư khỏi các  			pháp chướng 
ngại. Ban đêm canh giữa, chúng ta phải nằm dáng nằm con  			sư tử, 
nghiêng bên hông tay phải, một chân đặt trên chân kia, chánh  			niệm 
tỉnh giác, tâm nghĩ đến lúc thức dậy lại. Ban đêm canh đầu thức  			dậy,
đi kinh hành (hay) trong lúc ngồi, chúng ta phải tẩy sạch tâm  			tư 
khỏi các pháp chướng ngại. Như vậy, này các Tỷ-kheo, các Ông cần  			
phải tu tập.[20]
 			Trong kinh này đức Phật mô tả về  			trạng 
thái 'Chú tâm cảnh giác' là: Bất luận ban ngày hay ban đêm,  			khi vị 
Tỷ kheo đi kinh hành, trong lúc ngồi hay trong lúc nằm tâm tư  			cần 
phải chú tâm cảnh giác, ngăn chận không để cho các pháp bất  			thiện 
khởi lên, các pháp chướng ngại nào khởi lên cần phải ngăn chận  			đoạn 
trừ, giữ tâm luôn luôn được thanh tịnh.
 			Có thể nói đây là một trong những  			biện 
pháp cơ bản để huấn luyện cho vị Tỷ kheo tu tập thiền định. Vì  			khi 
tu tập thiền định là lúc năm giác quan là mắt, tai, mũi, lưỡi và  			
thân của hành giả tạm ngưng không hoạt động, chỉ còn ý căn hoạt  			
động, cho nên nó hoạt động rất mạnh, giống như giòng thác nước đang  			
tuôn chảy, tất cả những hình ảnh gì trước đây được lưu giữ lại trong  		
tâm, nó tuôn trào xuất hiện, làm cho tâm tán loạn, cản trở tâm không  	
được chuyên chú, do vì trong cuộc sống hằng ngày của tỷ kheo ấy  			
không được huấn luyện, làm cho tâm có sự chú ý. Hành giả khi ngồi  			
thiền muốn cho tâm không bị tán loạn hoặc dong ruỗi theo sáu trần,  			
biện pháp tốt nhất hằng ngày phải huấn luyện tâm, có nghĩa là không  			
phải đợi đến lúc tọa thiền mà trước tiên phải huấn luyện cho tâm có  			
sự chú ý. Trong cuộc sống hằng ngày tâm đã được huấn luyện thuần  			
thục, khi ngồi thiền sẽ dễ dàng định tâm hơn. Đây là ý nghĩa của  			
pháp 'chú tâm cảnh giác'.
 			 
 			2.8. Chánh niệm tỉnh giác
 			Pháp tác thành sa môn thứ 5 là 'Chánh  			niệm
tỉnh giác'. Pháp này nhằm mục đích giúp cho vị tỷ kheo luôn  			luôn ở 
trong chánh niệm và tỉnh giác. Chánh niệm là ý niệm chân  			chánh, 
không liên hệ đến dục vọng, làm ô nhiễm tâm; tỉnh giác là sự  			tỉnh 
thức cảnh tỉnh nhắc nhở. Nhờ hai pháp này mà tỷ kheo dễ tiến  			vào 
thiền định. Pháp này được 'Đại Kinh Xóm Ngựa’ giải thích  			
như sau:
 			Này các Tỷ-kheo, thế nào là các  			công việc 
đáng phải làm hơn nữa? Chúng ta phải chánh niệm tỉnh giác,  			khi đi 
tới, khi đi lui đều tỉnh giác, khi nhìn thẳng, khi nhìn quanh  			đều 
tỉnh giác, khi co tay, khi duỗi tay đều tỉnh giác, khi mang y  			kép, 
bình bát, thượng y đều tỉnh giác, khi ăn uống, nhai, nuốt đều  			tỉnh 
giác, khi đi đại tiện, tiểu tiện đều tỉnh giác, khi đi đứng,  			nằm, 
thức, nói, yên lặng đều tỉnh giác. Như vậy, này các Tỷ-kheo,  			các Ông
cần phải tu tập.[21]
 			Nếu như pháp 'Chú tâm cảnh giác' là  			pháp 
giúp cho hành giả luôn luôn sống trong trạng thái chú tâm và  			cảnh 
giác, theo dõi và kiểm soát tâm, nếu thấy tâm xuất hiện những  			pháp 
bất thiện nào liền tẩy trừ ngay pháp ấy. Ở đây pháp 'chánh niệm  			tỉnh
giác' chủ yếu giúp cho hành giả luôn luôn sống trong chánh niệm  			và 
tỉnh giác. Thế nào là chánh niệm tỉnh giác? Khái niệm 'chánh  			niệm' 
ngoài ý nghĩa sống trong ý niệm chơn chánh, liên hệ với tâm  			không 
tham lam sân hận và si mê, nó còn mang ý nghĩa cột chặt tâm tư  			vào 
một đối tượng nào đó, không để tâm tán loạn, hành vi không để  			tâm 
tán loạn này là 'tỉnh giác', có nghĩa là làm việc gì biết rõ  			việc 
ấy, cho nên trong kinh mô tả là khi đi đứng nằm ngồi, nhìn tới,  			nhìn
lui, khi co tay duỗi tay...đều tỉnh giác. Vì mục đính của pháp  			
chánh niệm tỉnh giác là giúp cho hành giả tiến sâu vào thiền định và  		
có xu hướng làm cho hành giả triển khai trí tuệ, giác ngộ thật tướng  	
của các pháp, hay nói một cách khác là khiến cho hành giả sống trong  
'như lý tác ý', để thành đạt sự giác ngộ và giải thoát.
 			 Nếu tỷ kheo nào thực hành pháp  			'chánh 
niệm tỉnh giác' vị ấy chắc chắn sống với tâm sáng suốt và  			việc làm 
rất minh chính, Phật pháp cũng nhờ vậy mà không bị lu mờ.  			Nếu là 
Phật tử tại gia sống trong gia đình hành pháp này, vị ấy chắc  			chắc 
được nhiều lợi ích, không những trong tâm tư vị ấy được an lạc  			mà 
còn làm cho cuộc sống gia đình càng thêm hạnh phúc, có niềm tin.
 			 
 			2.9. Đoạn trừ 5 triền cái
 			Pháp tác thành vị sa môn thứ 6 là  			'Đoạn 
trừ 5 triền cái', là những pháp làm chướng ngại hành giả tu  			tập 
thiền định, đó là 1. tham lam, 2. sân hận, 3. hôn trầm thuỵ  			miên, 4.
trạo cử, 5. nghi ngờ. 5 pháp này được 'Đại Kinh Xóm  			Ngựa' 
giải thích như sau:
 			Này các Tỷ-kheo, thế nào là các  			công việc 
đáng phải làm hơn nữa? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo lựa  			một chỗ 
thanh vắng, tịch mịch, như khu rừng, gốc cây, khe núi, hang  			đá, bãi 
tha ma, lùm cây, ngoài trời, đống rơm. Sau khi đi khất thực  			về và ăn
xong, vị ấy ngồi kiết già, lưng thẳng, và an trú chánh niệm  			trước 
mặt. Vị ấy từ bỏ tham ái ở đời, sống với tâm thoát ly tham ái,  			gột 
rửa tâm hết tham ái. Từ bỏ sân hận, vị ấy sống với tâm không sân  			
hận, lòng từ mẫn thương xót tất cả chúng hữu tình, gột rửa tâm hết  			
sân hận. Từ bỏ hôn trầm thụy miên, vị ấy sống thoát ly hôn trầm và  			
thụy miên, với tâm tưởng hướng về ánh sáng, chánh niệm tỉnh giác,  			
gột rửa tâm hết hôn trầm thụy miên. Từ bỏ trạo cử hối quá, vị ấy  			
sống không trạo cử hối tiếc, nội tâm trầm lặng, gột rửa tâm hết trạo  		
cử hối tiếc. Từ bỏ nghi ngờ, vị ấy sống thoát khỏi nghi ngờ, không  			
phân vân lưỡng lự, gột rửa tâm hết nghi ngờ đối với thiện pháp.[22]
 			Sau khi tỷ kheo đã  			thành tựu 'chú tâm 
cảnh giác', 'chánh niệm tỉnh giác', trước nhất  			tTỷ kheo cần phải tìm
nơi thật thanh vắng, tịch mịch, như khu rừng,  			gốc cây, khe núi, 
hang đá, bãi tha ma, lùm cây, ngoài trời hay đống  			rơm...Tại sao vị 
tỷ kheo cần phải lựa nơi thanh vắng như vậy? Lý do  			vì 5 giác quan là
mắt, tai mũi, lưỡi, thân của chúng ta thường dong  			ruỗi theo 5 cảnh 
là sắc, thinh, hương, vị và xúc. Sự dong ruỗi này  			trở thành một tập 
quán xấu, thiếu sự kiềm chế, do vậy rất khó cho  			hành giả sống nơi ồn
ào tu tập thiền định, tâm tư dễ bị tán loạn khó  			nhiếp phục. Đó là 
lý do tại sao đức Phật khuyên hành giả tu thiền  			cần phải tìm nơi 
vắng vẻ, vì nơi đó hoàn cảnh vắng lặng, không có  			tiếng ồn, rất dễ 
cho hành giả nhiếp tâm, và khi hành giả ở trong  			thiền định cũng 
không vì tiếng ồn ào làm cho tâm của vị ấy bị khuấy  			nhiễu sanh tâm 
tán loạn.  			
 			Sau khi tìm chỗ thích hợp thanh vắng  			xong,
vị ấy ngồi kiết già, lưng thẳng, và an trú chánh niệm trước  			mặt. Có
thể nói, đây là tư thế tọa thiền tốt nhất trong Phật giáo.  			Kiết già
là một tư thế ngồi thiền tương đối ổn định nhất trong các  			tư thế, 
hai chân bắt tréo lên nhau, như hai sợi dây mây bện lại với  			nhau, 
trông rất vững, máu huyết cũng dễ dàng lưu thông. Lưng thẳng,  			đầu 
hơi nghiêng cúi xuống với đôi mắt lim dim nửa nhắm nửa mở, và  			cột 
niệm trước mặt. Đây là cách ngồi thiền để cho thân không mỏi  			mệt, 
tránh bệnh tật, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho tâm an  			trú 
trong thiền định được lâu dài. 
 			Sau khi lựa nơi thanh vắng, ngồi kiết  			già 
và an trú chánh niệm trước mặt xong, vị ấy tiến sâu vào thiền  			định, 
quán chiếu thấy được thật tướng của con người và thế gian là  			vô 
thường và vô ngã, cho nên tâm của vị ấy từ bỏ triền cái thứ nhất  			là 
lòng tham ái, sống với tâm không tham ái. Từ bỏ sân hận, sống với  			
tâm không sân hận, ngược lại có lòng từ mẫn đối với tất cả chúng hữu  		
tình. Từ bỏ trạng thái hôn trầm thụy miên, sống không hôn trầm và  			
thụy miên, ngược lại có chánh niệm tỉnh giác. Từ bỏ trạo cử hối quá,  		
vị ấy sống không trạo cử hối tiếc, nội tâm trầm lặng, gột rửa tâm  			
hết trạo cử hối quá. Từ bỏ nghi ngờ, vị ấy sống không nghi ngờ,  			
không phân vân lưỡng lự, gột rửa tâm hết nghi ngờ đối với thiện  			
pháp. Như vậy là vị ấy đã đoạn trừ năm triền cái, đây là điều kiện  			
duy nhất để hành giả có thể chứng đắc bốn thiền.
 			 
 			2.10. Chứng đắc bốn thiền
 			Thiền định là pháp tu tập của Phật  			giáo, 
nhưng phương pháp tu tập thiền của Phật giáo Nguyên thủy và  			Phật 
giáo Đại thừa khác nhau. Thiền của Phật giáo Nguyên thủy gọi là  			Tứ 
Niệm Xứ, được gọi là Như Lai thiền, tức là phương pháp tu tập của  			
đức Phật. Thiền của Phật giáo Đại thừa gọi là Tổ sư thiền, là những  			
phương pháp tu tập của các thiền sư ở Trung Quốc. Theo Phật giáo  			
Nguyên thủy kết quả tu tập pháp Tứ Niệm Xứ hành giả chứng được 4  			
thiền, tức là 4 trạng thái chứng đắc thiền định từ thấp lên cao, tức  		
thiền thứ nhất, thiền thứ hai, thiền thứ ba và thiền thứ tư. Dưới  			
đây chúng ta lần lượt tìm hiểu bốn cõi thiền này.
 			 
 			a.       			Thiền thứ nhất
 			Theo 'Đại Kinh Xóm Ngựa' trạng  			
thái thiền thứ nhất được giải thích như sau:
 			Sau khi đã đoạn trừ năm triền cái  			này, 
những triền cái làm ô nhiễm tâm tư, làm yếu ớt trí tuệ, vị ấy  			ly 
dục, ly ác, bất thiện pháp chứng và trú thiền thứ nhất, một trạng  			
thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm, có tứ.[23]
 			Vị tỷ kheo sau khi hoàn thành các  			pháp tác
thành vị sa môn là sống có giới hạnh, hộ trì các căn, tiết  			chế việc
ăn uống, chú tâm cảnh giác và chánh niệm tỉnh giác xong, vị  			ấy lựa 
nơi thanh vắng, an trú chánh niệm trước mặt, nhờ vậy mà vị ấy  			đoạn 
trừ 5 triền cái và chứng được cõi thiền thứ nhất. Cõi thiền thứ  			nhất
được kinh này cũng như các kinh khác nhất quán định nghĩa là: 			
 			Ly dục ly bất thiện pháp, chứng và  			trú 
thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc, do ly dục sanh, có tầm và  			tứ.
 			Có nghĩa là trạng thái thiền thứ nhất  			là 
trạng thái sau khi tỷ kheo đã từ bỏ những pháp gì thuộc về dục  			vọng 
và những hành vi bất thiện. Nhờ sự từ bỏ này mà tâm tư của vị  			ấy 
xuất hiện trạng thái hỷ lạc, ở cõi thiền này vẫn còn có tầm và  			tứ. 
Tầm và tứ là trạng thái truy đuổi của tâm nắm bắt đối tượng của  			tâm,
vì tâm của hành giả chưa thuần thuật nhu nhuyễn nên phải nắm  			bắt 
đối tượng đã định sẵn, mới có thể từ bỏ các pháp bất thiện. Sự  			từ bỏ
này làm cho tâm cảm nhận được sự hạnh phúc. 
 			 
 			b.      			Thiền thứ hai
 			Cũng theo kinh này, đức Phật đã giải  			thích
cảnh giới thiền thứ hai được mô tả như sau:
 			Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo  			diệt tầm
và tứ, chứng và trú thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do  			định 
sanh, không tầm không tứ, nội tĩnh nhất tâm.[24] 
 			Dựa vào cơ sở chứng đắc của thiền thứ  			nhất
là ly dục ly bất thiện pháp, hành giả tiếp tục nỗ lực tu tập và  			
chứng thiền thứ hai. Với trạng thái của cõi thiền này, trước tiên  			
hành giả phải từ bỏ tầm và tứ, đồng thời cũng từ bỏ trạng thái hỷ  			
lạc do ly dục sanh của thiền thứ nhất, để chứng đắc trạng thái hỷ  			
lạc do thiền định sanh, không có tầm và tứ, với nội tâm chuyên nhất,  		
không tán loạn. Đây là trạng thái thiền thứ hai.
 			c.      			Thiền thứ ba
 			Kế đến là thiền thứ ba, là cõi thiền  			tương
đối cao. Cõi thiền này được 'Đại Kinh Xóm Ngựa' giải thích như  			sau:
 			Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo  			ly hỷ 
trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc  			Thánh 
gọi là "xả niệm lạc trú", chứng và trú Thiền thứ ba.[25]
 			Hoàn toàn không giống như hai cõi  			thiền 
trước, ở cõi thiền này, hành giả phải từ bỏ không những
chỉ có trạng thái hỷ lạc của thiền thứ nhất, là hỷ lạc do ly dục, 
ly  			ác bất thiện pháp sanh mà còn từ bỏ cả trạng thái lạc của cõi 
thiền  			thứ hai là lạc do định sanh, từ thái độ xả này, thân tâm vị ấy
cảm  			thọ một loại lạc được gọi là 'xả niệm lạc trú'. Đây là trạng 
thái  			thiền thứ ba được trình bày trong kinh này.
 			d.      			Thiền thứ tư
 			Trong bốn cõi thiền, cõi thiền thứ tư  			là 
cao nhất, khi hành giả chứng đắc cõi thiền này, 3 minh liền xuất  			
hiện, và tâm sanh khởi tứ vô lượng tâm là từ bi hỷ và xả. Theo 'Đại 
Kinh Xóm Ngựa' giải thích cõi thiền như sau:
 			Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo  			xả lạc 
xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng và trú Thiền thứ  			tư, 
không khổ không lạc, xả niệm thanh tịnh.[26].
 			Nếu như cõi thiền thứ nhất có niềm hỷ  			lạc 
do ly dục ly bất thiện pháp, thiền thứ hai lại có trạng thái hỷ  			lạc 
do tu tập thiền định, thì cõi thiền thứ ba lại phải từ bỏ hai  			loại 
lạc này, an trú trong trạng thái 'xả' của tâm. Nhưng đến cõi  			thiền 
thứ 4 hành giả không những chỉ có xả lạc xả khổ, xả hỷ, xả ưu  			mà 
ngay cả trạng thái lạc do xả của cõi thiền thứ ba cũng xả luôn,  			vị 
ấy ở trong trạng thái này được gọi là 'không khổ không lạc, xả  			
niệm thanh tịnh'. Đây là trạng thái thiền định của cõi thiền thứ  	
tư như đã được ghi lại trong kinh này. 
 			Thiết nghĩ, nếu như người nào đã trải  			qua 
tu tập thiền định có thể hiểu biết tường tận hơn. Trong phạm vi  			của 
ngôn từ thật khó mô tả cho trọn vẹn những trạng thái tâm lý của  			
thiền định, chúng ta không thể vay mượn những niềm vui của thế gian  			
để mô tả về những niềm vui của thiền định. Muốn thấu hiểu trạng thái  		
hỷ lạc của thiền định như thế nào không cách nào tốt hơn là tự chúng  	
ta thực nghiệm để hiểu về nó. 
 			Qua nội dung và ý nghĩa của cõi thiền  			thứ 
tư, gợi ý cho chúng ta hiểu thêm rằng, hệ tư tưởng Kinh Bát nhã  			của 
Phật giáo Đại thừa nhấn mạnh trạng thái 'xả' và 'vô phân biệt  			tâm'. 
Thiết nghĩ, nó được xây dựng trên tinh thần 'xả' của cõi thiền  			thứ 
tư được các kinh Nguyên thủy trình bày. Điều đó có ý nghĩa tư  			tưởng 
của Phật giáo Đại Thừa có mối quan hệ thân thiết với tư tưởng  			Phật 
giáo nguyên thủy, chẳng qua cách trình bày khác nhau.
 			 
 			3. Kết luận
 			Sau khi đức Phật nhập diệt, cuộc sống  			của 
tăng già cũng theo thời gian và không gian thay đổi, do vì thay  			đổi 
về phương cách sống dẫn đến sự bất đồng ý kiến về giới luật.  			Giáo 
pháp mà đức Phật giảng dạy cũng được lý giải khác nhau theo  			từng 
cách nhìn. Sự bất đồng này là nhân tố dẫn đến Phật giáo chia  			rẽ, 
hình thành hai trường phái lớn của Phật giáo là Thượng Tọa Bộ và  			Đại
Chúng Bộ. Đại diện cho phái Thượng Tọa Bộ là những bậc Thượng  			tọa 
lớn tuổi, mang tư tưởng bảo thủ; Đại Chúng Bộ là những thanh  			niên 
tăng có tinh thần phóng khoáng cải cách. Những bản kinh Nikàya  			và A 
Hàm là những bản kinh được kết tập thành văn sớm nhất trong  			Phật 
giáo, là những bản kinh của phái Thượng tọa bộ.
 			Mặc dù những bộ kinh này là những bộ  			kinh 
được kiết tập dưới thời vua A Dục (Asoka), là những bộ kinh của  			các 
bộ phái, không phải là Nguyên thủy, nhưng ngang qua những bản  			kinh 
này, chúng ta có thể khôi phục lại đời sống tăng già dưới thời  			đức 
Phật còn tại thế. Theo tinh thần 'Đại Kinh Xóm Ngựa'  			trong "Kinh
Trung Bộ" ghi lại, khi nào chúng ta tự xưng ta là  			người 
xuất gia, sống đời sống Phạm hạnh thì chúng ta phải làm tròn  			bổn 
phận và trách nhiệm của người xuất gia: Thứ nhất là chúng ta  			phải 
sống có giới hạnh. Thứ hai, biết tàm quí.Thứ ba, 3 nghiệp thanh  			
tịnh. Thứ tư, mạng sống thanh tịnh. Thứ năm, hộ trì các căn. Thứ  			
sáu, tiết chế việc ăn uống. Thứ bảy, chú tâm cảnh giác. Thứ tám,  			
chánh niệm tỉnh giác. Thứ chín, đoạn trừ 5 triền cái. Thứ mười,  			
thành tựu 4 thiền. 
 			Qua những phương pháp tu tập này ta  			có thể
hiểu rằng, dưới thời đức Phật còn tại thế, mục đích người  			xuất gia 
là tìm cầu sự giác ngộ và giải thoát, vì thế những hình  			thức tu tập 
mà đã được Ngài giảng dạy trong kinh này luôn luôn gắn  			liền với mục 
đích xuất gia, có xu hướng làm tăng trưởng trí tuệ,  			đoạn trừ phiền 
não, giảm thiểu những hình thức sinh hoạt vô ích.
 			Nội dung và ý nghĩa của bài viết này  			không
ngoài tinh thần 'ôn cố tri tân'. Với tinh thần đó, trước nhất  			người
viết căn cứ những kinh điển Nikàya giới thiệu 'Đời sống của  			người 
xuất gia trong thời đức Phật còn tại thế', hay nói đúng hơn  			nhằm đề 
cập đến tinh thần biết bổn phận và trách nhiệm của người  			xuất gia. 
Bất cứ ai sống trong xã hội đều phải có bổn phận và trách  			nhiệm của 
mình, dù người đó là nhỏ hay lớn, già hay trẻ, người xuất  			gia cũng 
thế, phải biết bổn phận và trách nhiệm của mình. Bổn phận  			và trách 
nhiệm của người xuất gia là giác ngộ giải thoát. Chúng ta  			muốn hoàn 
thành mục đích này, trước tiên chúng ta cần phải hiểu rõ  			lời Phật 
dạy, lấy đó làm kim chỉ nam hướng dẫn con đường tu tập và  			công việc 
hoằng dương Phật pháp. Nếu như không am tường thì việc tu  			tập hay 
hoằng pháp lợi sinh là việc làm mơ hồ ảo tưởng.
 			Cũng qua nội dung bài viết này, nó  			gợi ý 
cho chúng ta hiểu được 10 pháp tác thành vị sa môn này cũng là  			hình 
thức và phương pháp tu tập của vị xuất gia dưới thời đức Phật còn tại thế.  			Ở bối cảnh xã hội của thời đại chúng ta 
mặc dù có nhiều sự thay đổi,  			không những chỉ thay đổi về mặt thời 
gian mà ngay cả không gian,  			kinh tế khoa học kỹ thuật cũng thay đổi 
đã ảnh hưởng đến đời sống và  			cách tư duy của con người, nhu cầu sống
của con người cũng khác  			nhau, do vậy chúng ta không nhất thiết phải
rập khuôn làm theo những  			hình thức sống của tăng già dưới thời đức 
Phật, mà cần phải thay vào  			đó một hình thức sống thích nghi với con 
người và xã hội ngày nay  			hơn. Nhưng cho dù thay đổi như thế nào đi 
nữa, hình thức sinh hoạt  			đó cũng phải được thiết lập trên tinh thần 
'giác ngộ' và 'giải  			thoát' của đạo Phật. Đi quá xa mục tiêu này là 
mầm mống để cho Phật  			pháp suy tàn. 			
 			 
 			SÁCH THAM KHẢO
 			 
 			1. HT. 
Minh Châu dịch, “Kinh Trung Bộ”  			tập 1, Viện NCPHVN 
ấn hành 1992. 			
 			2. HT. 
Minh Châu dịch, “Kinh Trung Bộ”  			tập 2, Viện NCPHVN 
ấn hành 2000. 			
 			3. HT. 
Thiện Siêu và Thanh Từ dịch, “Kinh  			Tạp A Hàm”
tập 1 Viện NCPHVN ấn hành, 1993. 			
 			4. HT. 
Thiện Siêu và Thanh Từ dịch, “Kinh  			Tạp A Hàm” tập 2
Viện NCPHVN ấn hành, 1994. 			
 				
 
 					 					 					 					[1]
Bao gồm: 1. “Kinh Tương Ưng Bộ”, 2.  					“Kinh Trung Bộ”, 3. “Kinh 
Trường Bộ”, 4. “Kinh Tăng Chi Bộ”,  					5. “Kinh Tiểu Bộ”.
 
 					 					 					 					[2]
Bao gồm 4 bộ: 1. “Kinh T ạp A hàm”, 2.  					“Kinh Trung A hàm”, 3. 
“Kinh Trường A hàm”, “Kinh Tăng Nhất  					A hàm”.
 
 					 					 					 					[3]
HT Minh Châu dịch, "Kinh Trung Bộ" tập  					1, Viện NCPHVN ấn hành 
1992, trang 41~58.
 
 					 					 					 					[4]
HT Minh Châu dịch, "Kinh Trung Bộ" tập  					1, Viện NCPHVN ấn hành 
1992, trang 239~246.
 
 					 					 					 					[5]
HT Minh Châu dịch, "Kinh Trung Bộ" tập  					1, Viện NCPHVN ấn hành 
1992, trang 31~32.
 
 					 					 					 					[6]
HT. Minh Châu dịch, "Kinh Trung Bộ",  					tập 1, Viện NCPHVN ấn hành 
1992, trang 593~594.
 
 					 					 					 					[7]
HT.Minh Châu dịch, "Kinh Trung Bộ",  					tập 1, Viện NCPHVN ấn hành 
1992, trang 112~113.
 
 					 					 					 					[9]
HT.Minh Châu dịch, 'Kinh Giáo Giới  					Rahula Trong Rừng Ambala' 
trong "Kinh Trung Bộ", tập 2, Viện  					NCPHVN ấn hành 2000, trang 174.
 
 					 					 					 					[10]
HT. Minh Châu dịch, "Kinh Trung Bộ"  					tập 1, Viện NCPHVN ấn hành 
1992, trang 595~596.
 
 					 					 					 					[11]
Tham khảo phần 'Lời nói'.
 
 					 					 					 					[12]
Tham khảo HT. Minh Châu dịch,  					"Kinh Trung Bộ" 
tập 1, 'Kinh Tất Cả Lậu Hoặc' trang  					19~20 ghi: "Này các Tỷ-kheo, 
Ta giảng sự diệt tận các lậu  					hoặc cho người biết, cho người thấy, 
không phải cho người  					không biết, cho người không thấy. Và này các 
Tỷ-kheo, thế  					nào là sự diệt tận các lậu hoặc cho người biết, cho 
người  					thấy: có như lý tác ý và không như lý tác ý. Này các  					
Tỷ-kheo, do không như lý tác ý, các lậu hoặc chưa sanh được  					sanh 
khởi, và các lậu hoặc đã sanh được tăng trưởng. Này các  					Tỷ-kheo, 
do như lý tác ý, các lậu hoặc chưa sanh không sanh  					khởi, và các 
lậu hoặc đã sanh được trừ diệt".
 
 					 					 					 					[13]
HT. Minh Châu dịch, “Kinh Trung Bộ”  					tập 2, Viện NCPHVN ấn hành 
2000, trang 174~175.
 
 					 					 					 					[14]
HT. Minh Châu dịch, “Kinh Trung Bộ”  					tập 2, Viện NCPHVN ấn hành 
2000, trang 175~176.
 
 					 					 					 					[15]
HT. Minh Châu dịch, “Kinh Trung Bộ”  					tập 2, Viện NCPHVN ấn hành 
2000, trang 176~177.
 
 					 					 					 					[16]
HT. Minh Châu dịch, “Kinh Trung Bộ”  					tập 1, Viện NCPHVN ấn hành 
1992, trang 596.
 
 					 					 					 					[17]
HT. Minh Châu dịch, “Kinh Trung Bộ”  					tập 1, Viện NCPHVN ấn hành 
1992, trang 597.
 
 					 					 					 					[18]
HT. Minh Châu dịch, "Kinh Trung Bộ"  					tập 1, 'Tiểu Kinh Saccaka'
Viện NCPHVN ấn hành 1992,  					trang 510~ 511.
 
 					 					 					 					[19]
HT. Minh Châu dịch, “Kinh Trung Bộ”  					tập 1, Viện NCPHVN ấn hành 
1992, trang 598.
 
 
 					 					 					 					[20]
HT. Minh Châu dịch, “Kinh Trung Bộ”  					tập 1, Viện NCPHVN ấn hành 
1992, trang 599.
 
 					 					 					 					[21]
HT. Minh Châu dịch, “Kinh Trung Bộ”  					tập 1, Viện NCPHVN ấn hành 
1992, trang 600.
 
 					 					 					 					[22]
HT. Minh Châu dịch, “Kinh Trung Bộ”  					tập 1, Viện NCPHVN ấn hành 
1992, trang 600~601.
 
 					 					 					 					[23]
HT. Minh Châu dịch, “Kinh Trung Bộ”  					tập 1, Viện NCPHVN ấn hành 
1992, trang 603..
 
 					 					 					 					[24]
HT. Minh Châu dịch, “Kinh Trung Bộ”  					tập 1, Viện NCPHVN ấn hành 
1992, trang 604.
 
 					 					 					 					[25]
HT. Minh Châu dịch, “Kinh Trung Bộ”  					tập 1, Viện NCPHVN ấn hành 
1992, trang 605..
 
 					 					 					 					[26]
HT. Minh Châu dịch, “Kinh Trung Bộ”  					tập 1, Viện NCPHVN ấn hành 
1992, trang 606.