Lịch sử Đức Phật & Thánh chúng
Lịch sử Phật giáo Tây Tạng
Pháp sư Thánh Nghiêm - Việt dịch: Thích Tâm Trí
Đã cập nhật: 0 phút
Kích cỡ chữ:  Giảm Tăng

CHƯƠNG I. 
Lịch Sử Và Hoàn Cảnh Tây Tạng

TIẾT 1
Lịch Sử  Tây-Tạng.

Không rõ sử cổ đại của dân tộc Tây Tạng như thế nào, nay chỉ dựa vào những ghi chép trong cổ sử Trung Quốc để có được những hiểu biết về dân tộc Tây Tạng.

Theo truyền thuyết vì ba mối nguy nên vua Thuấn phải đánh dẹp Tam Miêu, đó chẳng qua là Hán tộc mượn cớ để chinh phạt Miêu tộc và tiến sâu vào lãnh thổ Tây Tạng. Nhân đó mở ra mối quan hệ qua lại giữa hai dân tộc Hán-Tạng. Theo sự ghi chép của chính sử, thì phải đợi đến khi nhà Đường mở nước Tây Tạng mới có sự tiếp xúc với nội địa Trung Quốc. Theo “Tân Đường thư, Thổ Phồn truyện” phần mở đầu viết: “Thổ Phồn vốn là một chi hệ của Khương tộc, buổi đầu tộc Khương có hơn một trăm năm mươi giống, ở rãi rác  khắp vùng Hà, Niết, Giang, Dân. trong đó phát triển nhất là giống Khương-Đường-Mao sống ở vùng Tích Chi và Thuỷ Tây. Vị tị tổ có tên là Cốt-Đề-Bột-Tất-Dã đã cùng một số tộc Khương chiếm đất làm địa bàn cư trú”. Chữ Bột khi phát âm gần giống chữ Phồn, vì thế con cháu họ tự xưng là Thổ Phồn nhưng lại mang họ Bột Tất Dã. Theo “Cựu Đường thư” phần nói về Thổ Phồn : “Thổ Phồn ở về phía tây Trường An tám nghìn dặm”.

Đất Tây Khương xưa vốn là đất Hán, nhưng chủng tộc bị lãng quên nên không còn nhớ nguồn gốc phát tích; hoặc có thể gọi họ là hậu duệ của chi hệ Lợi Dã Cô ở Nam Lương, Đột Phát; lại do chữ Đột Phát mà chuyển âm thành Thổ Phồn. Về mặt vị trí địa lý  thì Thổ Phồn chính là  tộc người Khương. Nguyên vì hiện nay trong số các tộc người Khương ở tỉnh Thanh Hải có một chi hệ có tên là “Ngang”, đây là chi hệ mà từ thời Tần Hiến Công, ông này đã đưa các bộ tộc của mình đi về phương Nam, chia ra ở khắp vùng Hà Tây đạt đến số nghìn dặm. Nói chung họ là các tộc người Khương từ thời Nam Bắc triều, và họ lấy Lạp Tát(Lasha) ngày nay làm trung tâm để kiến lập nước Thổ Phồn, có điều là từ đó họ không còn giao thông với Trung nguyên.

Vào thời vua Đường Thái Tông, thế lực nước Thổ Phồn rất mạnh, nên sử sách mới bắt đầu ghi chép về Thổ Phồn. Đến đời vua Nguyên Ý Tôn, Hốt Tất Liệt dùng vũ lực sát nhập Tây Tạng vào bản đồ Trung Quốc và gọi Tây Tạng là Thổ Phồn hoặc Tây Phồn. Lúc Minh Thành Tổ đại định thiên hạ, bấy giờ Tây Tạng được gọi là Ô-Tư-Tạng. Các tên gọi trên là do  triều Nguyên thiết lập cơ cấu hành chính của họ ở địa phương Tây Tạng mà ra. Có đến ba lộ tuyên uý sứ ty là Ô Tư Tạng, Nạp Lý và Cổ Lổ Tôn, người của ba lộ này đều do phủ Nguyên soái phái đến. Người dân Tạng phát âm hai chữ  Ô Tư  là “Veä” (Usu), nhân đó còn có tên là Vệ-Tạng, nghĩa của chữ Ô Tư là trung tâm và chữ Tạng có nghĩa là thanh tịnh, ý  nói Tây Tạng là “Phật quốc tịnh độ”. Tây Tạng còn mang tên của một Châu, Châu này dùng để chỉ địa phương Lạp Tát, bởi vị trí địa lý của Tây Tạng nằm về biên thuỳ phía tây Trung Quốc, do vậy đời nhà Thanh gọi châu này là Tây Tạng, cũng hàm ý Tây Tạng là “tây phương tịnh độ”.

Nhân đó, người Tây Tạng tự gọi dân tộc mình là “Bố-Đặt, và nước mình là nước Bod-(Kyi)yul, người tây phương gọi Tây Tạng là Tibet, còn Trung Quốc dịch chữ Bod-(Kyi)yul là “Đồ-Bố-Đặt” hoặc “Thổ-Bố-Đặt”. Nguyên nhân của các tên gọi trên đều có quan hệ đến việc chuyển âm mà ra. Người Tây Tạng đọc chữ Phồn thành chữ Bố-Đặt (Bod), hai chữ Bố Đặt có nghĩa là “Phật Đà Quốc”. Điều quan trọng là do đâu mà nhà Đường lại thêm chữ Thổ vào trước chữ Phồn? Đây là vấn đề mà đến nay vẫn chưa có thuyết nào giải thích. Cứ theo Cựu Đường Thư và cổ sử Tây Tạng được viết bằng Phạn văn, thì người Tây Tạng gọi dân tộc mình là “Đột-Phát-Lợi Lộc Cô Tử Tôn”, lại cũng do chữ Đột chuyển âm thành chữ Phồn. Nhà Nguyên dùng Mông Cổ ngữ là Hô Thổ Phồn đọc thành Đồ Bố Đặt hoặc Thổ Bố Đặt, trong khi nguyên âm của nó là Tobed mà người Tây phương dịch là Tibet. Điều đó cho thấy việc chuyển âm được diễn ra ở nhiều giai đoạn lịch sử khác nhau của Tây Tạng. Chung quy là do người Tây Tạng tự cho đất nước mình là “Phật Đà Quốc” mà ra.

Đem việc chuyển âm ra khảo sát, thì Tân Đường Thư cho rằng vấn đề là do chữ “Phát” của người Phát Khương chuyển thành chữ “Phồn”. Căn cứ những khảo sát về chuyển âm, thì chẳng có gì phải nghi khi hai chữ Phật Đà (Buddha) được người Tây Tạng đọc thành Bố Đặt, nhân vì Phạn ngữ cũng gọi Tây Tạng là Bộc Tra (Bhota), chỉ có tên gọi Thổ Phồn là mới được dùng từ thời sơ Đường, còn việc Phật giáo được truyền vào Tây Tạng thì đã có lịch sử và có thể khảo sát. Ở vào thời sơ Đường không rõ người Tây Tạng nhằm vào thời gian nào để tự xưng đất nước mình là “Phật Đà Quốc”? Đây là điều không dễ tra cứu. Ngoài ra, Tây Tạng  còn có những tên gọi như “Tuyết Hữu quốc” (Gans-Can-Yul) “Tuyết Cốc quốc” (Gans-ljons-Yul) và “Xích Diện” (Gdon-Dmar)v..vv…


TÂY TẠNG TRƯỚC TRIỀU NGUYÊN

 

Trước thời nhà Đường, Tây Tạng tuy có thành lập vương quốc nhưng vẫn chưa ra khỏi cục diện còn mang tính bộ lạc. Do đó, không thể gọi Tây Tạng là một vương quốc thống nhất.Đến khi Tây Tạng Vương Thống đời thứ ba mươi là Khí Tông-Lộng Tán (tức Tùng Cán Cang Bố-Sron-btsan-sgam-po) lên ngôi, bấy giờ dân tộc Tạng mới nhân vào vũ lực cường thịnh của mình mà làm nên việc lớn, thậm chí họ  thường cướp phá vùng biên cương nhà Đường; có những trận hai bên đánh nhau đến nay vẫn còn âm hưởng. Kết cục, vua Đường-Thái-Tông phải dùng phương thức “Liên Hôn” nhằm tranh thủ hoà bình cho cõi biên thuỳ. Năm Trinh Quán thứ mười lăm (641), vua Đường đem tôn nữ là công chúa Văn Thành gả cho vua Tây-Tạng. Trước đó không lâu cũng với phương thức liên hôn, vua Tây Tạng (Tạng vương) đã cưới con gái của quốc vương nước Ni-Bạc-Nhĩ là Ba Lợi Khố Cơ (Bhrkuti), cho thấy thời ấy quốc thế của Tây Tạng rất mạnh.

Do hai vị công chúa người nước ngoài đều là tín đồ kiền thành của Phật giáo, và cả hai đều đến từ những nước đã có nền văn hóa rất cao. Cũng từ đó Tạng vương bắt đầu nghe theo sự khuyến khích của hai người vợ người nước ngoài.Ôâng cho thỉnh tăng già người Hán và Aán đến Tây Tạng hoằng pháp, đồng thời phái quan đại thần là Đoan Mỹ Tam Bồ Đề (Thon-mi-sandhota) cùng với mười tám người đến Ấn Độ lưu học, những người này sau khi học xong vềû lại Tây Tạng, họ dùng Phạn văn (Deva nàgari) làm cơ sở để sáng tạo ra mẫu tự Tạng, rồi dùng Tạng văn vừa được chế tác để phiên dịch kinh Phật. Đích thân Tạng vương cũng tự mình học tập cách sử dụng Tạng văn; cũng từ đó Tây Tạng mới khởi sự tiến vào thời đại văn minh.

Năm Cảnh Vân nguyên niên (710), vua Đường Duệ Tông đem công chúa Kim Thành gả cho Tây Tạng vương thống đời thứ ba mươi lăm là Tạng vương Khí Lệ Súc Tán. Đương thời về mặt quân sự giữa hai nước Hán-Thổ luôn có sự cấu kết với nhau, và đối với công việc hoà bình giữa hai nước thì sự đóng góp của hai vị công chúa là không nhỏ. Về phương diện văn hóa, hai vị công chúa cũng đem những sách như :”Mao Thi””Xuân Thu”và “Lễ ký” du nhập vào Tây Tạng. Về sau vào thời vua Đường Đức Tông, Kiến Trung năm thứ tư (783), và Đường Mục Tông, năm Trường Khánh nguyên niên (821), hai nước Đường - Thổ Phồn ký minh ước hoà bình, minh ước nầy được khắc trên bia đá, bia hiện nay vẫn còn và được đặt trước cung Bố Đạt Lạp với tên gọi là “Sinh Cửu liên minh bi”, bia được lập vào những năm niên hiệu Trường Khánh.

Thời vua Đường Văn Tông, năm Khai Thành thứ ba (838), nhằm vào thời Tây Tạng vương thống đời ba mươi chín là Lãng Đạt Ma lên ngôi Tán Phổ (tức Tạng vương). Đây là ông vua theo tín ngưỡng nguyên thủy của Tây Tạng là Bổng-giáo, vì vậy ông ra sức tiêu diệt Phật giáo. Năm Hội Xương thứ hai (842) vua Võ Đế nhà Đường cũng tàn diệt Phật giáo, khoảng cách về thời gian giữa hai ông vua nầy là không xa. Kể từ Tạng vương Lãng Đạt Ma phá Phật, cục diện chính trị Tây Tạng bị lâm vào trạng thái phân manh, và tình trạng nầy kéo dài cả trăm năm hơn, khiến Tây Tạng bị rơi vào thời kỳ hắc ám, trong khi đó nhà Đường thì ngày càng tiến gần đến suy vong, nhân đó mà sức mạnh lập quốc của nhà Tống càng lúc càng lớn mạnh nhưng lại ẩn mình dưới lớp võ nhà Đường, cho nên mối quan hệ giữa hai nước Đường-Thổ Phồn bị gián đoạn và sử sách cũng không dựa vào đâu để ghi chép.
 
 

TÂY TẠNG SAU KHI THẦN PHỤC MÔNG CỔ.
 

Thành Cát Tư Hãn là người kiến lập đế quốc Mông Cổ, và Tây Tạng cũng mau chóng trở thành một Bộ của đế quốc nầy. Thời Mông Kha Hãn, ông nầy sai em trai là Hốt Tất Liệt mang quân đi nam chinh. Nguyên Ý Tông năm thứ ba (1253), tướng Mông Cổ là Khắc Đại Lý khống chế đông bộ Tây Tạng. Về sau nầy khi Hốt Tất Liệt lên kế vị Mông Kha Hãn làm Đại Hãn, thì vào năm Chí Nguyên thứ chín (1272), Nguyên Thế Tổ sai Bình Tây Vương A Lỗ Xích tiến đánh Tây Phồn buộc Tây Tạng thần phục Mông Cổ, Hốt Tất Liệt biết rất rõ người Tây Tạng rất thiện chiến và không dễ gì dùng vũ lực để buộc họ thần phục lâu dài, do đó ông dùng tín ngưỡng Phật giáo của người Tây Tạng để ràng buộc họ bằng cách ân đãi Phật giáo, ông cũng đãi ngộ vị Tổ thứ tư của phái Tát-Già là đại Lạt-ma Tát-CaBan Trí Đạt (Sakya-pandita), và nhờ ông nầy khuyên dân Tây Tạng hướng về nội tâm.

Cũng trong thời gian nầy, Tát Ca Ban Trí Đạt phái cháu trai mình là Phát Tư Ba (còn có tên là Bát Tư Ba hay Mạt Tư Ba- Hphagspa) đến Mông Cổ, khi đến Mông Cổ ông được Hốt Tất Liệt tôn làm quốc sư và phong tước hàm Đại Bảo Pháp Vương, Phát Tư Ba là người chế tạo ra tân tự cho dân tộc Mông Cổ, và làm chủ trì Viện Chính Giáo, nắm giữ và trông coi tất cả công việc Phật sự và chính trị trên toàn khu vực Khương-Tạng. Phát Tư Ba là vị tổ thứ  năm của Lạt-ma giáo thuộc phái Tát Già. Cũng từ đó về sau, phái Tát Già là cơ sở cho việc khai sinh ra chế độ “Chính giáo Hiệp nhất” ở Tây Tạng. Do đó, mà Tây Tạng Pháp vương cũng kiêm luôn chức vị Tạng vương.

Tây Tạng và Ấn Độ là hai nước láng giềng, nhưng sau khi Hồi giáo chinh phục Ấn Độ, thì vào đời vua Nguyên Thuận Đế, niên hiệu Chí Nguyên thứ ba, thứ tư (1337-1338), từng có lần tướng Hồi giáo là Mã Lập Khắc Ni Khắc Tỉ (Malik Nikpai) thống lĩnh mười vạn kỵ binh và phần lớn bộ binh xâm lấn Tây Tạng. Kết quả, do Tây Tạng là xứ cao nguyên phần thì mưa gió trở ngại, phần thì dịch bệnh hoành hành đến độ toàn quân gần như chết sạch.

Vào cuối triều nhà Nguyên, chính quyền từ tay phái Tát Già lần lần chuyển sang tay Mạt Khắc Mộc Bộ (Phagmo-du), ông này sau đó trở thành Tạng vương.

 Khi nhà Minh lập quốc, với Tây Tạng, triều Minh vẫn giữ cách cư xử như triều Nguyên trước đây, Vĩnh Lạc năm thứ tư (1406), Minh Thành Tổ phong Hiệp-Lập-Ma (Halima)của phái Già-Cử làm Đại Bảo Pháp Vương, mười một năm sau lại phong Côn Trạch Tư Ba của phái Tát Già làm Đại Thừa Pháp Vương; năm Tuyên Đức thứ chín (1434), vua Minh Tuyên Tông lại phong đệ tử của Tông Khách Ba là Thích Ca Dã làm Đại Từ Pháp Vương 

Về việcï phân phái của Phật giáo Tây Tạng sẽ giới thiệu ở một chương sau. Phần trước có đề cập đến nhân vật Tông Khách Ba–Người khai sáng phái Hoàng giáo, còn gọi là phái Cách Lỗ. Sau khi Tông Khách Ba viên tịch, hai đệ tử của ông dùng phương thức “Chuyển thế” để phân biệt Chưởng Lĩnh Hàm tức Tiền Tạng khác với Tạng-tức Hậu Tạng, mà sau trở thành Đạt Lai và Ban Thiền. Người của phái Hoàng giáo thủ đắc được chính quyền có liên hệ với thời của đức Đạt Lai đời thứ ba, nhân việc phái Hoàng giáo được vị Hãn Mông Cổ là A Nhĩ Đát (Minh sử gọi là Yêm Đáp Hãn) sùng tín và quyết định đưa phái nầy trở thành lãnh tụ của Tây Tạng Chiùnh-Giáo.

Đến triều nhà Minh, đường lối đối với Tây Tạng có phần tinh tế. Vua Minh là Trang Liệt Đế, niên hiệu Sùng Trinh thứ mười lăm (1642). cho Cố Thỉ Hãn của Mông Cổ và Thát Đặt Bộ vào Tây Tạng hiệp sức trợ giúp Hoàng giáo nhằm phế trừ Hậu Tạng và duy trì Hồng giáo của Tạng Ba Hãn, sau khi làm sống lại các lực lượng chống đối nhau, Cố Thỉ Hãn để con trai mình lưu lại Tây Tạng, còn ông thì lui về Thanh Hải, từ đó giữa Mông Cổ và Tây Tạng không những đồng nhất về tín ngưỡng, mà về mặt chính trị và địa lý còn có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Riêng các Hãn Mông Cổ đều coi Hoàng giáo như người bảo hộ cho cách cư xử của mình.
 
 

TRIỀU THANH XÁC LẬP CHỦ QUYỀN TẠI TÂY TẠNG.
 

Dân tộc Tây Tạng xưa kia vốn là một chi hệ của dân tộc Trung Hoa, ngay cả hiện nay dân Tây Tạng cũng không nghĩ họ là người Ấn Độ. Chẳng qua là từ thời nhà Đường mà sử ghi là “có sự tiếp xúc qua lại” giữa Thổ Phồn với nội địa Trung Quốc, còn Tây-Tạng thì chối từ họ không thuộc chủ quyền của Trung Quốc.

Mãi đến khi nhà Mãn Thanh hưng khởi bèn đem Nội Mông đặt dưới quyền kiểm soát của mình, nhân việc nầy Cố Thỉ Hãn từ Tây Tạng trở về lại Nội Mông Cổ để cùng đức Đạt Lai Lạt Ma vào chầu triều đình Mãn Thanh(triềuThanh-Thế-Tổ, niên hiệu Thuận Trị thứ chín-1652). Do hoàng đế Mãn Thanh có tín ngưỡng Hoàng giáo và đãi ngộ đức Đạt Lai đời thứ năm, việc nầy từng khiến cho Ngoại Mông Cổ cũng nhân đó mà bị phụ thuộc Trung Hoa. Kịp đến đời Thanh-Thành-Tổ, năm Khang-Hy hai mươi mốt (1682), đức Đạt Lai đời thứ năm viên tịch, nhưng quyền thần là Đệ Ba Tang Tiết giữ bí mật không phát tang để nhằm đoạt lấy quyền hành tại Tây Tạng. Do đó, một mặt ông âm thầm liên lạc với Chuẩn Cát Nhĩ Hãn của tây Mông Cổ là Cát Nhĩ Đan, một mặt ông kéo dài sự che dấu đối với triều Thanh, việc nầy kéo dài được mười bốn năm.

Mãi về sau  khi tin về việc viên tịch của Đạt Lai đời thứ năm bị tiết lộ ra ngoài, thì Tang Tiết liền tuyên bố là đã tìm ra được vị Đạt Lai đời thứ sáu, có tên là La Bốc Tạng Nhân Thanh Trát Dương Gia Mục Thố. Bấy giờ do biết được nội vụ, nên người  cháu của Cố Thỉ Hãn là Lạp Tạng Hãn coi Tang Tiết là kẻ nguỵ bèn bắt nhốt và giết đi. Nhân vụ nầy dẫn đến sự can thiệp của Chuẩn Cát Nhĩ Hãn của Tây Mông Cổ vào Tây Tạng, ông nầy cũng bắt giết Lạp Tạng Hãn và tự mình lập một vị Đạt Lai đời thứ sáu. Năm Khang Hy năm mươi chín (1720), triều Thanh cử đại quân tiến vào Tây Tạng để bình định  cuộc nổi loạn, sau đó dùng hai cựu thần của Lạp Tạng Hãn là Khương Tề Nãi và Phả La Nãi, phân quyền cho họ trông coi chính vụ của Tiền Tạng và Hậu Tạng.

Thanh Thế Tông, Ung Chính năm thứ năm (1727) lại phát sinh biến loạn ở Tiền Tạng và Khương Tề Nãi bị sát hại, trong sự kiện nầy Phã La Nãi của Hậu Tạng là người có công bình loạn, do đó ông được triều  Thanh phong làm “Bối Tử”, và cho tổng lý toàn bộ chính vụ cả Tiền lẫn Hậu Tạng. Mãi hai tháng sau quân của Thanh triều mới đến được Tây Tạng. Nhân thắng lợi nầy, Thanh triều liền buộc nước Bất Đan phải tiếp nhận chủ quyền gốc của Trung Quốc. Lại một lần nữa vin vào việc làm của Phã La Nãi mà Châu Nhĩ Mặc Na Mộc Trát Lặc âm mưu gây biến loạn, nhưng ông nầy được vị “Trú Tạng đại thần” của Thanh triều chiêu dụ và bắt giết. Từ đó về sau triều đình nhà Thanh không còn phong tước Hãn, tước Vương cho Tây Tạng.

Thanh Cao Tông, năm Càn Long thứ năm mươi lăm, năm mươi sáu (1790-1791), Khuếch Nhĩ Khách (Gurka-nay Ni Bạc Nhĩ) hai lần đem quân xâm phạm Tây Tạng, khiến triều Thanh phải cử đại binh từ Thanh Hải tiến thẳng vào Tây Tạng đánh dẹp Khuếch Nhĩ Khách, và nhân thắng lợi lần thứ hai nầy triều Thanh buộc Ni Bạc Nhĩ công nhận chủ quyền gốc của Trung Quốc, cũng qua đó quân uy nhà Thanh vang dội khắp vùng. Đối với vấn đề chính trị và tôn giáo của Tây Tạng; về bản chất, nhà Thanh vừa biến cải vừa đặt ra quy định mới. Đồng thời nhà Thanh cũng tăng thêm quyền lực cho vị đại thần của mình đang đồn trú tại Tây Tạng, vị đại thần nầy nắm quyền giải quyết tất cả mọi việc cả về chính trị lẫn tôn giáo ở Tây Tạng, quyền hạn của vị  “trú Tạng đại thần” ngang bằng với Đạt Lai và Ban Thiền.

Đạt Lai và Ban Thiền muốn điều tấu việc gì lên hoàng đế Đại Thanh cũng đều do vị đại thần chuyển tấu.Về quan hệ đối ngoại, nếu có trao đổi qua lại giữa Tây Tạng với các vương quốc như: Ni Bạc Nhĩ, Bất Đan và Triết Hùng v.v… cũng phải do vị đại thần chủ trì. Vấn đề “Hoạt Phật chuyển thế” thì Đạt Lai và Ban Thiền không được che dấu và làm rối loạn. Để giải quyết vấn đề Hoạt Phật chuyển thế, vị Trú Tạng đại thần cho đặt “Kim Bôn Ba Bình” ở Lạp Tát, sau khi tình báo cho biết là đã tìm được hậu thân Đạt Lai Lạt Ma thì cả ba phía:Trú Tạng đại thần, Đạt Lai và Ban Thiền phải dùng phương thức rút thẻ để đi đến quyết định.

Theo Hoàng Phấn Sinh tác giả cuốn “Nghiên cứu biên cương Chính Giáo”(Thương vụ tàng bản-trang 82, 83) thì quyền lực của vị Trú Tạng đại thần trong thời kỳ nầy được quy nạp thành bảy điều khoản:

Vị Trú Tạng đại thần được quyền bình đẳng với Đạt Lai và Ban Thiền.

Trú Tạng đại thần được quyền tuyển dụng và bãi miễn các quan văn, võ.

Trú Tạng đại thần được quyền giám đốc và chỉ huy quân sự.

Trú Tạng đại thần được quyền giám định vị Đạt Lai Lạt Ma chuyển thế (Tái sinh).

Trú Tạng đại thần được quyền giám đốc và thẩm hạch tài chính.

Trú Tạng đại thần được quyền kiểm tra thông tin.

Trú Tạng đại thần được quyền quy hoạch hệ thống giao thông.

Trên thực tế, khi  thực thi những điều khoản trên là đem toàn bộ quyền hạn về chính trị, kinh tế, quân sự, tôn giáo và giao thông đặt vào tay vị Trú Tạng đại thần của nhà Mản-Thanh. Vì vậy, Tây Tạng chỉ lấy lại được chủ quyền hoàn toàn vào cuối đời Càn Long.

Sau khi vua Càn Long băng hà, Thanh triều cũng theo đó mà dần dần suy vi, đối với Tây Tạng Thanh triều cảm thấy không còn đủ sức khống chế, một khi triều Thanh không còn khả năng bảo hộ , Tây Tạng tránh được những cuộc nỗi loạn bên trong cũng như bên ngoài, vì thế mà Tây Tạng dần dà thóat ly khỏi sự bảo hộ của triều Thanh. Cạnh đó quyền lực của Đạt Lai Lạt Ma ngày càng được khuếch trương, đến đời vị Đạt Lai thứ mười ba, đầu tiên là do quân Anh quốc xâm lăng Tây Tạng nên Ngài phải chạy đến Bắc Kinh cầu cứu, nhưng lúc này triều đình nhà Thanh hôn dung nhu nhược chẳng giúp được gì, do đó đức Đạt Lai về lại Tây Tạng, sau vì hoàn cảnh bức bách, Ngài từ một người chống Anh quốc trở thành người thân Anh (quốc), và đào vong sang Ấn Độ. Lúc vị hoàng đế cuối cùng của nhà Thanh thóai vị, nhân đó đức Đạt Lai liền tuyên bố Tây Tạng độc lập.
 

NGƯỜI ANH KINH LƯỢC TÂY TẠNG.
 

Tây Tạng nằm ở vị trí trung tâm của cao nguyên Châu Á. Với thế giới, Tây Tạng xưa nay được coi là vùng đất phong cấm; ngoài việc tiếp xúc với Trung Quốc, người phương tây tuyệt nhiên không có đường dẫn đến Tây Tạng. Mãi đến đời vua Minh Hy Tông; năm Thiên Khải thứ tư (1624), các giáo sĩ Thiên Chúa giáo người Bồ Đào Nha là Aân Đắt Lộ Địch (Antienio Andrade) và Mã Nhĩ Khuê (Mamuel Margues) vượt Hy Mã Lạp Sơn vào Tây Tạng thuộc vùng Sát Mạt Lãng (Tran-Arang) ở tây bộ Tây Tạng, tại đây họ lập một nhà thờ Thiên Chúa giáo.

Vào đời Thanh Cao Tông, Càn Long năm ba mươi ba(1768), Công ty Đông Aán của Anh quốc quyết định tiến hành điều tra Tây Tạng, hy vọng sẽ thiết lập thương vụ tại Tây Tạng, Càn Long năm ba mươi chín (1774), viên tổng đốc người Anh đồn trú tại Mãnh Gia Lạp là Cáp Tư Định Tư (Hastings) phái một sứ bộ vào Tây Tạng phỏng vấn Ban Thiền, trong cùng thời gian nầy người Anh không ngừng dùng vũ lực áp đặt và xâm chiếm lãnh thổ Bất Đan, về phương diện tôn giáo, Bất Đan chịu sự lãnh đạo của Ban Thiền. Có thể nói người Anh cử sứ bộ đến Tây-Tạng là có ý đồ muốn xâm lăng và thôn tính Tây Tạng.

Thanh Nhân Tông, năm Gia Khánh mười chín (1814), người Anh mượn cớ vùng biên cảnh có xung đột nhân đó đưa quân xâm chiếm Ni Bạc Nhĩ, hai năm sau Ni Bạc Nhĩ bị buộc phải ký thoả ước cắt đất giao cho Anh quốc. Thanh Mục Tông, Đồng Trị năm thứ tư (1865), người Anh nhân việc Bất Đan làm nhục sứ thần của họ, họ liền tấn công Bất Đan và cũng buộc Bất Đan ký hiệp ước nhượng địa cho họ, trước đó vào đời Thanh Văn Tông-năm Hàm Phong mười một (1861), người Anh cũng đã bức bách Tích Kim phải công nhận Anh quốc là nước bảo hộ. Lúc Phã La Nãi còn cai trị Tây Tạng thì Bất Đan và Tích Kim đều hướng về Tây Tạng nạp cống, chưa nói là về tôn giáo hai nước nầy nhất hướng thuộc về hệ thống tín ngưỡng của Tây Tạng, và người Tây Tạng cũng cảm nhận được rằng mối quan hệ giữa họ với Bất Đan và Tích Kim như môi với răng, hể môi hở thì răng lạnh.

Thanh Đức Tông, năm Quang Tự  hai mươi chín (1903), viên Tổng đốc là Khấu Tôn (Lord-Curjon) trú tại Ấn Độ nhân những thắng lợi của quân Anh, ông ta đòi mở cuộc hội thảo để bàn về vấn đề biên cảnh, địa điểm tổ chức mà y đưa ra dứt khóat là tại Lạp Tát, với lập trường như vậy, ông bèn sai Thượng hiệu là Vinh Xích Bằng (Colonel Younghasband) xuất quân xâm chiếm Tây Tạng. Đầu tháng tám năm sau quân Anh trực chỉ Lạp Tát. Kết quả, Anh quốc ra điều kiện: chính phủ Trung Quốc phải đại diện cho Tây Tạng bồi thường cho họ năm mươi vạn bảng Anh tiền chiến phí, đổi lại, người Anh sẽ công nhận chủ quyền gốc của Trung Quốc tại Tây Tạng. Trước giờ người Anh đã có ý thôn tính Tây Tạng nhưng mãi đến năm Đồng Trị thứ mười (1871) họ mới thực hiện.

Trong khi đó, nước Nga cũng liên tục phái người đến Mông Cổ, Tây Tạng và Thanh Hải để điều tra các địa khu nầy, nhưng người Nga lại nhờ Bối Gia Nhĩ và Hồ Chu Biên là những người có cùng tín ngưỡng Lạt-ma giáo với Bố Lý Nhã Đặt người Mông Cổ để họ cùng nhau thường lui tới Tây Tạng nhằm giúp Tây Tạng khai thông và mở cửa giao tiếp với nước Nga, cũng cùng thời gian nầy, hai nước Anh-Nga rất lo ngại thế lực của Đức quốc, vì Đức bấy giờ đang khuếch trương và uy hiếp châu Aâu. Do đó, thay vì xẫy ra xung đột giữa hai nước Nga, Anh, thì cả hai lại tạo hoà hoãn về vấn đề Tây Tạng. Nếu chẳng phải vậy ắt Tây Tạng đã phải chịu sự bảo hộ của Anh quốc và điều đó chẳng có gì phải nghi.

Vấn Đề Tây Tạng đầu thế kỷ hai mươi về sau. Khi Vinh Xích Bằng đang tiến quân xâm nhập Lạp Tát, thì đức Đạt Lai đời thứ mười ba đang ở Thanh Hải bèn chạy đến Bắc Kinh. Sau đó giữa Ngài và Bắc Kinh không thoả hiệp được với nhau, nên năm sau ngài trở về Tây Tạng, Thanh triều liền phái đại quân vào Tây Tạng để trấn áp đức Đạt Lai. Trong tình cảnh bức bách, đức Đạt Lai chuyển hướng chạy sang Ấn Độ cầu thân với Anh quốc, biết được việc làm nầy của đức Đạt Lai, triều Thanh liền bãi trừ danh hiệu Đạt Lai và thúc giục đức Đạt Lai hãy bẻ gãy kế hoạch của người Anh.

Mãi đến nay những người Tây Tạng từng tiếp thu nền giáo dục của Anh quốc hãy còn rất nhiều, họ  là những người mang chất liệu kiến trúc của phương Tây vào Tây Tạng để kiến thiết xứ sở mình.

Sau cuộc cách mạng Tân Hợi (1911), quân Tứ Xuyên đang trú đóng tại Tây Tạng lại gây biến loạn, nhưng mãi đến năm Dân quốc thứ hai, thứ ba (1913-1914) mới được người Anh đứng ra điều giải, họ mở hội nghị tại Tây Mổ Lạp ở Ấn Độ. Trung Quốc phái Tuyên vũ sứ tại Tây Tạng là Trần Di Phạm làm đại biểu phó hội, Tây Tạng thì do Cát Luân Hà Cát là người thân Anh nên được cử làm đại biểu tham dự hội nghị, còn Anh quốc thì lấy Ngoại vụ đại thần tại Ấn Độ là Mạch Khắc Mã Hồng (Sir-Mcmahon) làm đại biểu. Kết quả, người Anh lấy tư thế trung gian và đưa ra chủ trương là chiếu theo lệ cũ của Mông Cổ chia Tây Tạng ra thành Ngoại Tạng và Nội Tạng. Người Anh lấy đại bộ phận của tỉnh Thanh Hải và một bộ phận của tỉnh Tứ Xuyên, và góc tây bắc của tỉnh Vân Nam quy hoạch thành Nội Tạng (phần còn lại thuộc ngoại Tạng), Nội Tạng thì thuộc về Trung Quốc.

Nhưng chính phủ Trung ương không được can thiệp vào công việc nội chính của Ngoại Tạng, không được thiết lập quan viên văn võ và gởi quân đội đến đồn trú ở Ngoại Tạng. Như thế là người Anh dời biên giới Ấn Độ về phía bắc, bằng cách lấy phía đông Đại Vượng Đề Lang Tông của Bất Đan cho đến góc lãnh thổ phía nam của Tây Khương quy nhập về lãnh địa của Ấn Độ. Đường ranh giới nầy được gọi là “Mạch Khác Mã Hồng Tuyến”. Điều ước nầy được viết thành văn, đại biểu Trần Di Phạm của triều Thanh cũng có ký tên, nhưng chung cuộc nó không được chính phủ Trung Quốc thừa nhận. Do đó, mãi đến nay vấn đề phân định ranh giới giữa hai nước Ấn Độ và Trung Quốc vẫn còn là vấn đề lớn chưa được giải quyết xong. Do bị triều đình nhà Thanh bức bách, nên đức Đạt Lai đời thứ mười ba mới chuyển hướng thân Anh. Năm Dân quốc mười hai (1923) giữa Đạt Lai  và Ban Thiền có sự bất hoà, Ban Thiền chạy đến Bắc Kinh và có khuynh hướng thân Trung Quốc.

Trong khi đó tại Tây Tạng đức Đạt Lai nắm trọn quyền bính. Dân quốc năm mười bảy (1928), quân đội Cách mạng Trung Quốc bắc phạt thành công, đức Đạt Lai liền phái người hướng về chính phủ Trung ương ở Bắc Kinh để bàn việc thiết lập lại quan hệ giữa Tây Tạng và Trung Quốc. Năm Dân quốc hai mươi hai (1933), đức Đạt Lai đời thứ mười ba viên tịch; năm Dân quốc hai mươi sáu (1937), Ban Thiền dự định trở về Tây Tạng, nhưng chưa kịp khởi hành thì viên tịch tại Ngọc Thụ ở Thanh Hải, năm Dân quốc hai mươi tám (1939), chính phủ Trung ương phái Uỷ Viên Trưởng Mông Tạng Uỷ Viên Hội là Ngô Trung Tín vào Tây Tạng chủ trì lễ đăng quang của Đạt Lai đời thứ  mười bốn, đồng thời thiết lập tại Lạp Tát “Đệ Nhất Nhậm Trú Tạng Biện Sự Xứ”Dân quốc năm ba mươi tám (1949), Trung ương lại phái Uỷ Viên Trưởng Mông Tạng Uỷ Viên Hội là Quang Kiết Ngọc đến Tây Ninh chủ trì lễ đăng quang của Ban Thiền đời thứ chín.Sau đó không lâu, chính phủ Quốc Dân Đảng buộc phải triệt thóai khỏi lục địa Trung Hoa để chạy sang Đài Loan, và như vậy Tây Tạng lại được chính phủ của Đảng Cộng Sản Trung Quốc tiếp quản.

Tháng 10 năm 1950 Nhân Dân Giải Phóng Quân tiến vào Xương Đô của Tây Khương. Tây Tạng liền phái đại biểu đến Bắc Kinh để ký “Hoà Bình Giải Phóng Tây Tạng Hiệp Nghị”gồm mười bảy điều với chính phủ Trung Quốc; nội dung như sau :

Trục xuất thế lực xâm lược của chủ nghĩa đế quốc ra khỏi địa khu Tây Tạng.

Hợp sức trợ giúp Nhân Dân Giải Phóng Quân đến đồn trú tại Tây Tạng.

Chính phủ Trung Quốc thừa nhận địa phương Tây Tạng được tự trị.

Chính phủ Trung Quốc bảo chứng quyền lực của Đạt Lai Lạt Ma và thể chế chính trị của Đạt Lai được tiếp tục tồn tại.

Chính phủ Trung Quốc bảo chứng quyền lực của Ban Thiền cũng như địa vị của Ban Thiền.

Địa vị của Đạt Lai đời thứ mười bốn cùng với Ban Thiền đời thứ chín vẫn được giữ y như trước, nhưng hai bên phải hỗ tương hợp tác với nhau.

Tôn trọng tín ngưỡng tôn giáo và phong tục tập quán của nhân dân, bảo hộ sự thu nhập của Đạt Lai Lạt Ma.

Biến cải quân đội Tây Tạng thành Nhân Dân Giải Phóng Quân.

Phát triển ngữ văn Tây Tạng cùng nền giáo dục và trường ốc.

Phát triển các ngành nghề: nông, mục, công, thương của Tây Tạng.

Mọi cải cách của Tây Tạng giao cho chính quyền địa phương.

Những người trước đây thân chủ nghĩa đếù quốc và Quốc Dân Đảng, không được cử giữ các chức vụ quan lại ở các cấp.

Trung Quốc đưa quân đội đồn trú đến Tây Tạng để duy trì kỷ cương.

Công việc đối ngoại, giao thiệp đều do chính phủ đại lục thống nhất xử lý.

Để bảo chứng bản hiệp định nầy được thực thi, cần lập Quân Chính Uỷ Viên Hội và Bộ tư lệnh quân khu.

Kinh phí của Quân Chính Uỷ Viên Hội, Bộ tư lệnh quân khu và quân đồn trú tại Tây Tạng do Trung ương đại lục đảm trách.

Bản hiệp định nầy có hiệu lực ngay sau khi được ký kết.
 
 

Tiết II
HOÀN CẢNH TÂY TẠNG.
Nóc Nhà Thế Giới.

Nếu lấy hoàn cảnh địa lý của Tây Tạng mà nói, thì Tây Tạng nằm trên một cao nguyên cao nhất thế giới, bình quân so với mặt nước biển thì độ cao của Tây Tạng là mười sáu ngàn mét (16.000m), những nơi trũng thấp và có sông chảy so với mặt biển vẫn ở độ cao từ mười ngàn đến mười lăm ngàn mét. Do đó, Tây Tạng được coi là nóc nhà của thế giới. Toàn cảnh Tây Tạng là tầng tầng lớp lớp những ngọn núi cao trơ trọi và nhọn hoắt, tại Tuyết Tuyến đi ngược lên có đến hằng trăm những ngọn núi cao quanh năm tuyết phủ, từ xưa giờ vẫn chưa tan chảy, khiến người xem trông giống như bức rèm tuyết. Chính do yếu tố nầy mà Tây Tạng còn có tên là Tuyết quốc.

Tây Tạng băùc giáp cao nguyên Mạc Mễ Nhĩ của Tân Cương, gối đầu lên sơn mạch của sơn hệ Côn Lôn, nam tiếp giáp sơn mạch của dãi Hy Mã Lạp Sơn, ở giữa nằm vắt ngang sơn mạch của dãi sơn hệ Võng Đê Tư, còn có sơn mạch Đường Cổ Lạp chạy xuống hướng đông để gặp Thanh Hải và Tây Khương. Có thể nói Tây Tạng là sự liên kết của các sơn hệ lớn nhất thế giới tạo thành.

Xét về mặt địa đồ, thì chu vi của Tây Tạng bắc tiếp giáp Tân Cương, đông nối liền Thanh Hải và Tây Khương, nam giáp Ấn Độ, Bất Đan, Triết Mạnh Hùng (Tích Kim) và Ni Bạc Nhĩ, tây giáp các nước như: Khách Thập, Mễ Nhĩ, Ba Cơ Tư Đát, A Phú Hãn và Tô Nga, do đó vị trí của Tây Tạng nằm ngay giữa trung tâm châu Á. Vị trí nầy, đứng về mặt quốc phòng là cực kỳ trọng yếu.
Tây Tạng-Ranh giới và nhân khẩu..

Tây Tạng có diện tích rất lớn, tuy nhiên lại có nhiều thuyết khác nhau. Bản dịch “Tây Tạng Kiến Văn lục”của Trần Trừng (trang 4, 5) nói rằng sách “Hoàng Thanh dư địa” của Lý Sát Đát (Richard), thì Tây Tạng là một xứ rất dài, từ đông sang tây có đến 1.200 dặm Anh, từ bắc vào nam rộng đến 740 dặm Anh, diện tích Tây Tạng ước có 463.320 dặm vuông Anh.[1] 

Theo Trung Thôn Nguyên người Nhật Bản viết trong “Phương pháp tư duy của người Tây Tạng”, thì Tây Tạng có diện tích 800.000 km2 vuông. Cuốn “Tây Tạng” do chính phủ Anh quốc biên khảo, thì chiều dài của đất nước Tây Tạng tính từ đông sang tây  là 1.370 dặm Anh, chiều ngang từ nam ra bắc là 802 dặm Anh. Tổng diện tích của Tây Tạng là: 1.000.000 dặm vuông Anh hoặc hơn đôi chút. Diện tích trên là tính luôn cả Tây Khương và Thanh Hải vào nội cảnh Tây Tạng; cũng chính vì vậy mà tại hội nghị Tây Mỗ Lạp người Anh mới đem Tây Tạng  chia ra thành Nội Tạng và Ngoại Tạng.

Thực thì hiện nay vị trí Tây Tạng nằm từ 78 đến 96 độ kinh đông, và từ 27 đến 35 độ bắc tuyến. Chiều dài tối đa của Tây Tạng từ đông sang tây đo được là 701, 3 dặm Anh, nơi rộng nhất tính từ nam ra bắc đo được là 499, 3 dặm Anh. Tổnh diện tích của Tây Tạng là 308.713 dặm vuông Anh. Nhưng theo thống kê của Học Hội Địa Lý Thế Giới, thì tổng diện tích chính xác của Tây Tạng là 469.294 dặm vuông Anh.

Về nhân khẩu, theo đánh giá của Trung Quốc lục địa trước khi kiến lập chính quyền, thì bấy giờ Tây Tạng có từ 120 đến 130 vạn nhân khẩu. Nếu tính luôn tộc người Tạng sống ở các tỉnh Cam Túc, Thanh Hải, Tây Khương và Vân Nam .v.v… thì Tây Tạng có từ 270 đến 300 vạn nhân khẩu (trích: “Biên cương luận văn tập” từ trang 26 trở lui). Theo bản dịch “Tây Tạng Kiến văn lục” của Trần Trừng- (trang 02) thì: “Dân số Tây Tạng có hơn 3.722.000 người sống phân bổ ở các địa xứ: Tây Tạng, Thanh Hải, Tây Khương, Tứ Xuyên, tất cả đều  nói tiếng Tạng và đều có cùng tín ngưỡng Lạt-ma giáo”.

Theo Thôn Trung Nguyên-người Nhật Bản thì: “Nhân khẩu Tây Tạng ước có từ bốn triệu rưỡi đến năm triệu người, trong số nầy có hai triệu bảy trăm ngàn người sống tại Tây Tạng, số còn lại sống ở các xứ biên cảnh như: Tứ Xuyên, Vân nam, Thanh Hải.v.v..” (trích: “Phương pháp tư duy của người Tây Tạng” -trang 05). Số thống kê trên là của Trung Quốc lục địa sau khi họ thiết lập chính quyền ở Tây Tạng. Nhưng khi Nhân Dân Giải Phóng Quân tiến vào Tây Tạng họ lấy luôn những di dân Tây Tạng đang sống ở các tỉnh vùng ven tính gộp lại là năm triệu người, họ dùng con số năm triệu nầy để dung hợp và đồng hóa với hai triệu bảy trăm ngàn người đang cư trú tại bản địa Tây Tạng nhằm mục đích đã phá luận điểm cho rằng tại Tây Tạng vốn đã có nền văn hóa độc lập, và đã kiến lập thể chế chính trị riêng, cũng như tại Tây Tạng vốn đã có phong tục tập quán và tín ngưỡng tôn giáo riêng của họ (trang 04-sách đã dẫn ở trước). Đương nhiên đây cũng là kế hoạch của Trung Quốc lục địa trước đó, vì cũng do ở Tây Tạng người dân tại các vùng nông thôn phụ cận Lạp Tát sau khi thu hoạch mùa vụ họ thường dâng sản vật lên cúng Phật và tế Thần, đồng thời họ cũng từ chối treo hình Mao Trạch Đông và Lưu Thiếu Kỳ thay cho tượng Phật. Cũng cần nói thêm, người Tây Tạng cũng được chia thành ba đại tộc.

1/ Tạng Ba, còn gọi là Bác Ba (Bodpa), đây là tộc người Tạng đang sinh sống tại bản địa Tây Tạng. Tạng Ba cũng là tên gọi của những nông dân và dân chăn nuôi ở bắc bộ Nhã Lỗ Tạng, Bố Giang, Hà Ốc.

2/ Khương Ba, xưa gọi là Khách Mộc (Kham), ý của chữ Khách Mộc là chỉ tộc người Tạng sinh sống  ở Tây Khương, người Khương Ba có thân hình cao to khoẻ khoắn, do đó họ thường được chọn làm cảnh vệ cho các Lạt Ma tại cac ngôi đại tự, nơi cư trú chủ yếu của họ được phân bố tại Tây Khương và cả những người di cư đến Nhã Lỗ Tạng, Bố Giang, Hà Ốc.

3/ An Đa, cựu xưng là Đường Cổ Đặt cũng còn gọi là A-Mộc-Đa (Amdo). A Mộc Đa là tên gọi phổ thông của người Mông Cổ dùng để gọi người Tây Tạng. Về sau tên gọi A Mộc Đa trở thành tiếng chuyên dùng để chỉ tộc người Tạng sinh sống  ở các tỉnh như Cam Túc, Thanh Hải, Tứ Xuyên.

Địa thế thiên nhiên và phân khu chính trị. Phàm những địa phương có sông chảy qua ngang dọc ắt nơi ấy có dân cư quần tụ, và sản sinh ra nền văn hóa của riêng họ. Tây Tạng là một trong số những địa phương như vậy. Nội cảnh Tây Tạng là một khu vực rất giàu có, đông đúc nằm giữa hai dãy núi Hy Mã Lạp Nhã và Võng Tư Đê, có sông Tạng Nam Tùng Cốc chạy từ đông sang tây, và đó cũng là lưu vực Hà Cốc của sông Bố Giang ở Nhã Lỗ Tạng. Đây là con sông lớn nhất trong nội cảnh Tây Tạng, nó dài ước khoản bốn ngàn dặm Anh, chi lưu của sông nầy rất nhiều, chẳng hạn như sông Niên Sở chảy qua Giang Tư và Nhật Khách Tắc, sông Lạp Tát chảy qua thủ phủ Lạp Tát. Duy có vùng thượng du của Lạp Tư tại Nhật Khắch Tắc là giới tuyến phân chia khí hậu với Tạng Nam Tùng Cốc.

Từ Lạp Tư chạy về hướng đông, đi đến đâu cũng thấy toàn là cao nguyên thảo nguyên, trên cao nguyên nầy có rất nhiều sông chảy qua nên rất thích hợp cho việc chăn nuôi, trồng trọt phía tây Lạp Tư là khu vực núi non chỉ thích nghi cho việc chăn nuôi loài bò đuôi dài và loài dê lông mềm mà thôi. Những sông phát nguyên từ Tây Tạng được chia thành bốn hệ lớn. Trước hết phải nói đến là sông Nhã Lỗ Tạng Bố Giang, đây là chi lưu lớn nhất của hệ sông Hằng của Ấn Độ, tây bộ Tạng Nam Tùng Cốc có sông Lang, sông Tượng Tuyền, sông Sư Truyền ba sông nầy hợp lưu tại thành Trác Tích Võng rồi chạy theo hướng tây bắc chảy qua Khách Thập Mễ Nhĩ rồi đổ vào Ba Cô Tư Đát, lại có sông Lang Sở bắt nguồn từ  Ma Na Tát La Cốc Trì (đại khái muốn chỉ A Nậu Đạt Trì trong kinh Phật) chảy vào sông Tát Đặt Lợi Nhật rồi tuông về Ấn Độ hà, vì thế tại các vùng nầy đều là hệ sông của Ấn Độ. Tại đông bộ Tây Tạng có sông Khách Lạt Ô Tô phát nguyên từ Bố Khách Trì, hạ lưu của nó chảy qua Tây Khương, Vân Nam rồi vào Miến Điện và đổ ra biển, đây thuộc hệ sông Nộ Giang.

Bắc bộ Tây Tạng là hệ sông chảy trong đất liền, chẳng hạn như sông Thiên Trì (tức Đằng Cách Lý Hồ) và Hồ Kỳ Lâm. Đó là những ao hồ nổi tiếng ở Tây Tạng. Nguyên nhân vì sao địa khu Tây Tạng tuy rộng lớn nhưng có ít nhân khẩu? Là vì bắc bộ Tây Tạng là cả một địa khu cao nguyên rộng lớn mà đa phần là những ngọn núi lởm chởm và đất gò gồ ghề, từ Tuyết Tuyến trở lên núi non chập chùng khiến việc đi lại khó khăn cách trở. Nam bộ Tây Tạng tuy có người ở nhưng rất ít, họ cư trú tại Hà Lý và sống bằng nghề sơn mục. Bắc bộ Tây Tạng có tộc người Hồi chuyên sống bằng nghề vào núi săn bắn, đại bộ phận địa khu nầy hầu như quanh năm không có dấu chân người.

Đời nhà Thanh có người cư trú ở đất Đái đem Tây Tạng chia thành ba khu vực chính trị, ngoại trừ tộc người Tạng An Đa, số còn lại cộng tất cả có sáu mươi sáu (66) dòng họ.
- Một là Vệ, tức Tiền Tạng, đó là tộc người Tạng ở Giang Tư của Nam Tạng chạy thẳng đến Bắc Tạng và hơi chếch về tây, thủ phủ là Lạp Tát, thống quản cả thảy ba mươi sáu (36) dòng họ.
- Hai là Tạng, tức Hậu Tạng, lấy Nhật Khách Cách Tắc làm thủ phủ và thống quản hai mươi sáu (26) dòng họ
- Ba là A Lý, sống ở vùng biên cảnh Ni Bạc Nhĩ giáp với tuyến Hồ Tây và Khách Thập Mễ Nhĩ, thống quản mười(10) dòng họ .

Cơ sở tôn giáo của Tây Tạng. 

Theo truyền thuyết, người Tây Tạng tự nhận tổ tiên của họ là Hầu tử (con vượn), con Hầu tử nầy là hóa thân của Bồ Tát Quan Thế Aâm, nó vượt qua dãy núi Hy Mã Lạp Nhã đến ở bên bờ sông Nhã Lỗ Tạng Bố Giang, một hôm nó lần theo dấu chân của một ma nữ và kết hôn cùng nàng. Rồi cả hai vào ở trong hang đá mãi tận thâm sơn, thuộc địa phận Tư Đường, cứ thế trãi qua nhiều đời, con cháu của họ ngày nay là dân tộc Tây Tạng, nhân truyền thuyết này mà người dân Tây Tạng lấy tên vị vua nổi tiếng trong thời cổ đại của dân tộc  mình, cũng như vị Đạt Lai đời đời chuyển sanh ở hiện tại và cho rằng hai vị trên đều do đức Bồ Tát Quan Thế Âm hóa thân.

Trú xứ của Bồ Tát Quan Thế Aâm vốn tại núi Phổ Đà Lạt Giạ ở nam Ấn Độ. Cũng nhân đó người Tây Tạng đặt tên cho trung tâm chính trị, tôn giáo của họ là Bố Đạt Lạp- tức là liên đài, và người ngự trên liên đài là Quan Thế Aâm Bồ Tát. Trên đây chỉ là truyền thuyết, bởi ngay từ rất sớm Tây Tạng đã trở thành địa khu Phật hóa. Kỳ thực không phải vậy, truyền thuyết trên chỉ xuất hiện sau khi Phật giáo đã thịnh hành tại Tây Tạng, và không thể xuất hiện sớm hơn trước thời Tuỳ, Đường. Hơn nữa, chỉ sau khi Phật giáo được du nhập Tây Tạng, người Tây Tạng mới lấy văn hóa Ấn Độ làm chủ lưu cho thời bấy giờ, và mới có được quan niệm trên–tức quan niệm về sự tích Thánh hầu, sự tích Thánh hầu là bắt nguồn từ sử thi “La Ma Sở hành truyện” (Ràmàgana) của Ấn Độ.

Đất nước Tây Tạng tiếp giáp với tây Á và đông bắc Á, trong đó gồm có các tộc người sinh sống bằng nghề du mục hoặc nghề săn bắn ở khu vực cao nguyên thảo nguyên nầy, và họ cùng có một cộng đồng tín ngưỡng-đó là tín ngưỡng “Vu”, một thứ tôn giáo của thời nguyên thủy, tín ngưỡng Vu là “Khẩu Lý” (trong miệng) của dân Tây Bá Lợi Á còn có tên là Tát Mãn (Shama). Do đó, trong môn tôn giáo học cũng liệt kê Tát Mãn là một tín ngưỡng, và gọi là Tát Mãn giáo. Tát Mãn giáo lấy Tây Bá Lợi Á làm trung tâm rồi mở rộng ra bốn phía như Mông Cổ, Mãn Châu, Tân Cương (còn gọi là Lý Ngột Nhi) và Tây Tạng v.v.Trong xã hội của các dân tộc người vừa nêu có một phương thức sinh hoạt giống nhau, đó là tất cả đều tiếp nhận tín ngưỡng Tát Mãn giáo.

Tát Mãn giáo là do luyện tập các huyễn thuật và phù chú mà thành, và gọi đó là “Công Năng Vu”. Công Năng Vu tương tự như “ĐạoThuật Uy Lực” của Trung Quốc. Công Năng Vu có thể trị liệu bệnh tật, bói toán kiết hung, giải trừ tà ma, cầu mưa, dập lửa. Trong Tát Mãn giáo có một việc mà Công Năng Vu không thể làm được, đó là lập đại đạo tràng để cầu Thần giáng. Tín ngưỡng nguyên thủy của Tây Tạng vốn dĩ là Bổng giáo (Bon). “Bon” là tiếng Mông Cổ có nghĩa là Vu Sư. Điều này cho thấy Bổng giáo cũng là một chi trong hệ thống Tát Mãn giáo.

Không lâu trước khi Phật giáo bắt đầu thịnh hành ở Tây Tạng, thì liền bị tín đồ Tát Mãn giáo đố kỵ; mới dẫn đến chuyện vị Tạng vương là Lãng Đạt Ma-một tín đồ Tát Mãn giáo, nổi lên huỷ diệt Phật giáo. Về sau, khi Phật giáo phục hưng Bổng giáo mới được quy hóa về Phật giáo, có người lấy Phật giáo bổ sung vào Bổng giáo mà thành Hắc giáo; giống như Phật giáo, do hấp thu các thành phần của Bổng giáo và tạo thành nét đặc sắc của Lạt-ma giáo. Mãi đến trước khi lục địa Trung Quốc kiến lập chính quyền tại Tây Tạng, thì tại các chùa Phật của Lạt-ma giáo vẫn còn Phật sự về Thần giáng. Cũng giống như Mật giáo Ấn Độ lấy các thần của Ấn Độ giáo làm vị hộ pháp cho Phật giáo. Lạt-ma giáo của Tây Tạng cũng lấy thần của Bổng giáo đưa vào Phật giáo.

Theo sự nghiên cứu của một học giả Tây Tạng là Khâu Tư Khắc Ni Môn (Chos-Kiy-ni-ma), thì lịch sử Bổng giáo tại Tây Tạng cũng được phân thành ba thời kỳ.
- Thời kỳ đầu là Bổng giáo nguyên thủy (Hjol bon): Đây là thời của Bổng giáo sư, thời này chưa đặc định ra nghi thức dùng để sùng bái Tinh Linh, cũng như chưa hoàn chỉnh giáo nghĩa để có thể truyền bá.
- Thời kỳ thứ hai, đây là thời của Hỗn Tạp Bổng giáo (Hkhyar-bon), thời kỳ này nhân có ba vị tăng từ Ca Tư Di La vào Tây Tạng vì đức vua Kiết Lợi Cống Cán Phổ (Gri-gum-bcan-po) mà cử hành nghi thức cho người chết, vì thế thời nầy được gọi là Phần mộ Bổng giáo.
- Thời kỳ thứ ba là thời Bổng giáo bị biến cách (Bsgyur bon): Đây là thời sau khi chịu ảnh hưởng Phật giáo, nội dung của Bổng giáo trong thời kỳ này là biến cải, cách tân để phát triển.