TIẾT II
PHẬT GIÁO MÔNG CỔ
Người Mông Cổ Và Tôn Giáo Gốc Của Họ.
Phần mở đầu quyển một của bộ sách Đa-Tang Mông Cổ Sử
viết: “Trung bộ vùng Á Tế Á, bắc có các sơn hệ làm ranh giới với Tây Bá
Lợi Á, nam giáp Cao Ly, Trung Quốc, Thổ Phồn, sông Tế Hồn (Sihoun), và
sông Lý Hải, tây khởi từ sông Phục Nhĩ Gia (Volga), đông giáp biển Nhật
Bản. Từ thời thái cổ đã là nơi cư trú của ba giống dân du mục mà người
đời thường gọi là Đột Quyết, Thát Đát và Mông Cổ, hoặc còn gọi là
Đông-Hồ, là Nữ-Chân. Sự khu biệt nầy là y cứ vào phương diện ngôn ngữ và
hình mạo của họ là chính. Cổ sử Trung Quốc gọi họ là Bắc Địch, về sau
còn phân ra Hung Nô, Tiển Ty, Thát Bạt, Đột Quyết, Kiết Đan và Nữ Chân.
Họ là những dân tộc du mục rất hiếu chiến, qua nhiều thời kỳ họ thường
gây tai hoạ cho đất nước Trung Hoa. Nhất là sự xuất hiện của Thành Cát
Tư Hãn - người làm chẤn Động thế giới.
Ở phần trước chúng tôi đã trình bày về tín ngưỡng tôn
giáo của các dân tộc du mục ở vùng Trung–Á mà giới học giả gọi tín
ngưỡng nầy là Tát Mãn giáo. Theo ghi chép của Đa Tang Mông Cổ Sử thì tín
ngưỡng của dân tộc Thát Đát bị liệt vào loại mê tín. Điều đó cũng dễ
hiểu, vì đối với các dân tộc du mục còn man dã cư trú ở khu vực bắc bộ Á
Châu, tín ngưỡng của họ đều mang tính mê tín giống nhau. Tất cả họ đều
thừa nhận có một vị Chủ tể, vị Chủ tể nầy hiệp với (Ông) Trời và có tên
là Nhật Đằng Cách Lý (Tangri). Họ sùng bái cả nhật, nguyệt, sơn, hà
thuộc ngũ hành (kim, mộc, thuỷ, hoả, thổ). Họ dùng cây gỗ hoặc lông thú
để chế tác ngẫu tượng có tên là Ông-Cang (Ongon) và treo lên vách tường
rồi hướng về mà lễ bái. Họ quan niệm rằng con người sau khi chết sẽ tái
sinh ở một đời khác kế tiếp, và cũng sinh hoạt như ở đời hiện tại nầy.
Họ
cho rằng tai họa là do ác quỷ gây ra, muốn khỏi thì phải dùng phẩm vật
để cúng, hoặc mời (thầy) Tát Mãn cầu đảo. Tát Mãn là một loại hình tôn
giáo đầu tiên trong sinh họa tín ngưỡng tôn giáo của thời nguyên thủy.
Chức năng của Tôn giáo-sư của thời kỳ nầy gồm nhiều chủng loại như:
huyễn thuật gia, thầy giải mộng, thầy bói toán, chiêm tinh và kiêm luôn y
thuật v.v.. Các Tôn giáo-sư tự nhận họ là người thân cận với thần linh.
Họ tự cho là họ biết được mối quan hệ bí mật giữa quá khứ với hiện tại
và tương lai. Họ đánh trống và đọc tụng thần chú, hồi lâu phân phát cho
đến ngây lịm, lúc ấy sẽ được thần linh đỡ lấy thân thể họ và rồi họ nhảy
múa tứ tung cùng lúc họ nói ra những lời về kiết hung, họa phúc. Những
việc nhân sinh đại sự, người ta đều tin vào lời nói của Vu-Sư (tức Tôn
giáo sư). Và họ tin một cách rất thâm thiết”. (bản dịch của Hồng Thừa
Quân- trang 33).
Chương 69 của sách “Mã Khã Ba La Hành Ký” cũng có đề cập
đến “Thần Đạo của người Thát Đát”, và nói rằng: “Người Thát Đát tin là
có thần.Vị Thần có tên là Nạp-Xích Cai (Nacigay).Đây là vị Địa thần, là
thần bảo vệ và giúp đỡ con cháu, sinh, súc vật và ruộng lúa của họ. Thần
thọ nhận lễ cúng rất lớn. Người ta dùng vải hoặc lông thú để bài trí
thần vị. Đức tin nầy của người Thát Đát, theo chú thích của Sa Hải Ngang
thì: “người Thát Đát tin là có một vị thần sáng tạo, tạo ra tất cả mọi
vật hữu hình và vô hình, mọi hành vi tốt xấu của con người, thần đều
thấu hiểu và có sự thưởng phạt phân minh” (bản dịch của Hồng Thừa Quân
–trang 246-249).
Đằng Cách Lý là tên của vị thiên thần, Nạp Xích Cai là
tên vị địa thần. Tát Mãn giáo tuy quan niệm có một vị thần tối cao ở
trên trời, nhưng kỳ thực họ thuộc tín ngưỡng đa thần. Minh Thần Tông,
năm Vạn lịch thứ năm (1577) Hoàng giáo Tây Tạng được truyền đến Mông Cổ,
và rồi Tát Mãn giáo của bản địa dần dà bị Hoàng giáo dung hợp. Trải qua
thời gian bị mất dần thế lực.
Hốt Tất Liệt Với Hồng Giáo Tây Tạng.
Thành Cát Tư Hãn tự mình tách khỏi và chống lại hai mươi
nước Liêu, Kim để dấy khởi cơ nghiệp. Nhưng phải kinh qua bốn người con
và hai người cháu, đó là: Oa Hoắc Đài, Thuật Xích, Sát Hiệp Đài, Đà
Lôi, Qúi Do và Mông Kha, đến đời Hốt Tất Liệt mới diệt được nhà Nam
Tống, thống nhất Trung Quốc về dưới quyền ông. Phật giáo được người Mông
Cổ đón nhận như tín ngưỡng phổ biến của họ. Điều đó có được là nhờ vào
sự mở đầu ở thời đại Nguyên Thế Tổ-Hốt Tất Liệt.Trước đó, đại đa số dân
Mông Cổ đều tín ngưỡng Tát Mãn giáo, có nơi còn có dấu tích của Cơ Đốc
giáo.
Vậy Phật giáo được du nhập Mông Cổ vào thời kỳ nào? Câu
trả lời chậm nhất là vào đời Nguyên Hiến Tông-Mông Kha Hãn. Đa Tang Mông
Cổ Sử quyển hai, chương năm, nói: Sau khi tức vị, Mông Kha liền sai
hoàng đệ là Hốt Tất Liệt nắm quyền cai trị vùng đất có nhiều hộ dân ở sa
mạc phía nam. Lấy tăng nhân là Hải Vân coi về Thích giáo vụ, lấy Lý Chí
Thường coi về Đạo giáo vụ, sau đó phong Tây Thẩm Tăng Na Ma làm Quốc
sư, cho trông coi bao quát mọi việc về Phật giáo. Vị “Na-Ma” nầy có
người hiểu nhầm là Lạt-ma, thực thì vị Na Ma nầy có quan hệ với vị tổ
đời thứ tư của phái Tát Già. Trong cuốn “Uy Khương Tộc Hành Ký” của Lỗ
Khắc Hắc Nhĩ cũng chép là thời Mông Kha Hãn: “ Thành Hoà Lâm của Mông Cổ
đã từng đến với tăng lữ Lạt ma Hồng giáo”. Lại thấy trong cuốn Đa Tang
Mông Cổ Sử quyển ba, chương một nói: “Trước khi Phát Tư Ba chưa đến
Mông Cổ, thì hai vị Hãn sau Thành Cát Tư Hãn cũng từng mời vị Lạt ma có
tên là Sagtcha pandita (Tát Già Ban Trí Đạt) từ Thổ Phồn đến Mông Cổ, và
nhờ vị nầy chế tác mẫu tự cho Mông Cổ, việc chưa xong thì vị Lạt ma nầy
viên tịch”.
Như vậy, rõ là trước thời Hốt Tất Liệt, Phật giáo đã
được truyền vào Mông Cổ. Chẳng qua thời nầy các vị Hãn của Mông Cổ không
nghiêng về một tôn giáo nào. Riêng Hốt Tất Liệt là người từng đến Tây
Tạng nhiều lần, hơn nữa lúc chưa lên ngôi Hốt Tất Liệt cũng đã quy y Tam
Bảo rồi. Đương thời các Lạt ma Tây Tạng đã từng đem Phật giáo từ Uý
Ngột Nhi, Thổ Phồn truyền giảng khắp các doanh tướng của các vị vương
Mông Cổ. Sau khi Mông Kha Hãn từ trần, Hốt Tất Liệt tự lập lên làm Hãn
và dùng Phát Tư Ba làm Đế sư, đồng thời nhờ ông nầy chế tác tân tự cho
dân Mông Cổ.
Nguyên Thế Tổ, năm Chí Nguyên thứ sáu (1269) xuống
chiếu ban hành sử dụng tân tự, chiếu có đoạn viết: “ Nước ta dẫn khởi
nghiệp từ phương Bắc, phong tục còn chuộng theo xưa, chưa kịp chế tác
mẫu từ. Vì thế, phàm khi dùng đến văn tự phải cậy đến Hán tự hoặc Uý
Ngột tự. Ngay bản triều ta mà nói, thì việc chế tác văn tự cho Mông Cổ
vẫn chưa hoàn bị. Do đó, Ta đặc mệnh cho quốc sư Phát Tư Ba sáng chế ra
Mông Cổ tân tự. Nay ban hành lệnh cho muôn dân hãy dùng tân tự Mông Cổ
để dịch, viết, thay cho tất cả các văn tự khác, mục đích sao cho mọi
việc đều thuận ngôn đạt sự”. Đây quả là một cống hiến cực kỳ to lớn đối
với văn hóa Mông Cổ.
Khi đã ổn định triều chính, Hốt Tất Liệt phỏng theo chế
độ của Hán tộc mà kiến lập nhà Thái miếu ở Yên Kinh. Chí Nguyên năm thứ
ba (1266), lạc thành nhà Thái miếu, lệnh cho tăng lữ làm các Phật sự
trong bảy ngày đêm. Từ đó về sau quy định mỗi năm đều dùng lễ nầy làm
“Vĩnh thức”. Chí Nguyên năm hai mươi hai (1285), một lần nữa Nguyên Thế
Tổ sai Phát Tư Ba và những vị tăng trong Pháp phái hãy tham khảo, đối
chiếu và khâm định lại kinh bản của Hán tạng và Thổ Phồn Tạng để tuyển
thành một bộ “ Chí Nguyên Pháp Bảo Khám Đồng Tổng Lục”.
Nhà Nam-Tống tiêu vong vào năm Chí Nguyên mười bảy
(1280). Nguyên Thế Tổ băng hà năm Chí Nguyên ba mươi mốt (1294). Người
kế vị Nguyên Thế Tổ là Nguyên Thành Tông-Nạp Ma Hạ. Thành Tông là người
dốc lòng tin Phật một cách cực kỳ thành tâm. Do đó, ông cho Tất Lan Nạp
Thức Lý (con trai ông) thay vua cha xuất gia làm tăng, và lệnh cho ông
nầy phiên dịch Phạn kinh ra Mông Cổ văn, và ban hiệu cho Lịch Sĩ Sổ Đại
là “Phổ Đồ Minh Quảng Chiếu Hoằng Biện Tam Tạng Quốc Sư”. Đời vua Nguyên
Võ Tông, Chí Đại năm thứ ba (1310), có cao tăng Tây Tạng là Pháp Quang
đến Mông Cổ chỉnh sửa thêm Mông Cổ tân tự do Phát Tư Ba chế tác.
Lại
có các học giả Trung Quốc và các vùng ở Hồi Cốt đem tạng kinh Tạng văn
dịch ra thành tạng kinh Mông Cổ văn. Từ đó về sau trải qua các đời vua
nhà Nguyên như: Nhân Tông, Anh Tông, Thái Định Đế, Văn Tông, Thuận Đế,
đời đời đều sùng tín Phật giáo Tây Tạng. Lúc Minh Thành Tổ hưng nghiệp (
1369) thì Nguyên Thuận Đế như ông già quay về quê cũ- Bắc mạc; và rồi
Phật giáo Mông Cổ có một thời bị lãng quên. Cả trăm năm sau Hoàng giáo
Tây Tạng một lần nữa được truyền đến Mông Cổ, khi ấy Phật giáo tại Mông
Cổ mới có cơ phục hưng.
Hoàng giáo Du Nhập Mông Cổ
Hoàng giáo truyền đến Mông Cổ chủ yếu là ở khu vực Nội
Mông, thuộc bộ tộc Ngạc Nhĩ Đa Tư của A Nhĩ Đát Hãn (Sử nhà Minh gọi ông
là Yêm Đáp Hãn). Thoạt tiên, A Nhĩ Đát Hãn đưa quân vào cướp phá Trung
nguyên. Về sau quy phục vua Mục Tông nhà Minh và được phong làm Thuận
Nghĩa Vương. Ông thỉnh được tạng kinh Tây Tạng có chữ viết bằng vàng.
Đồng thời ông cũng nghênh đón nhiều vị Lạt-ma đến Nội Mông để giáo hóa
dân bản địa. Có một sự kiện tối chủ yếu liên quan đến chuyện nghinh đón
Lạt-ma đến Nội Mông, đó là người cháu ngoại của A Nhĩ Đát Hãn có tên là
Triệt Thầm Hồng Đài Cổ, sau khi ông nầy chinh phục Tây Tạng, ông lại quy
y phật giáo Tây Tạng. Chính Triệt Thầm là người cung thỉnh một vị
Lạt-ma danh tiếng của Tây Tạng là Khấu Ba Khắc Thực cùng về Mông Cổ với
ông. Minh Thần Tông, Vạn Lịch năm thứ tư (1576), Lạt ma Khấu Ba Khắc
Thực diện kiến Yêm Đát Hãn và khuyên ông quy y Lạt ma giáo, Yêm Đát Hãn
hứa sẽ thực hiện. Ngoài ra, năm Vạn Lịch nguyên niên ( 1573), Yêm Đát
Hãn đánh phá ven vùng Cáp Lạp Đỗ Nhĩ Bá Đặc có bắt sống một số người
Tạng, trong đó có Lạt ma A Lý Khắc, ông nầy cũng khuyên Yêm Đát Hãn quy y
Phật giáo.
Nhờ vậy mà Vạn Lịch năm thứ năm (1577), Yêm Đát Hãn phái
chuyên sứ vào Tây Tạng nghênh thỉnh đức Đạt Lai Lạt Ma đời thứ ba là
Tỏa Lãng Gia Mục Thố tuần tích Mông Cổ, và ban tặng ngài danh hiệu
“Thánh Thức Nhất Thiết Ngõa Tề Nhĩ Đạt Lai Lạt Ma”. Ông lại vì đức Đạt
Lai mà kiến tạo chùa tại thành Quy Hóa thuộc xứ Tuy Viễn. Yêm Đát Hãn
một đời chinh chiến, vậy mà ông vứt bỏ binh nghiệp quy y đầu Phật, và nỗ
lực dùng văn trị, và nghe theo sự giáo hóa của đức Phật, tinh tấn làm
việc thiện, nghiêm cấm bộ chúng không được sát hại. Điều đó đánh dấu sự
khởi đầu thịnh hành của Hoàng giáo ở mạn nam Mông Cổ (Nội Mông). Đức Đạt
Lai đời thứ ba viên tịch, sau chuyển sinh làm Đạt Lai đời thứ tư, kế vị
với pháp hiệu là Vinh Đan Gia Mục Thố. Bấy giờ nhằm vào thời tằng tôn
của Yêm Đát Hãn là Đồ Cổ Long Hãn, nhân vì Đồ Cỗ Long Hãn xuất thân từ
giới quý tộc võ nghiệp nên ông được dân vùng bắc mạn Mông Cổ (Ngoại
Mông) hết sức yêu quý.
Khởi đầu cho việc Hoàng giáo có mặt ở ngoại Mông Cổ,
trước tiên phải nói đến công trạng của A Ba Đại Hãn. Ông là tằng tổ của
Thổ Tạ Đồ Hãn. Trong biểu văn của Thổ Tạ Đồ Hãn thuộc Khách Nhĩ Khách
bộ chép rằng: “Trong nước vốn chưa có Phật giáo, nhưng từ lúc Tằng tổ
ta bái yết đức Đạt Lai Lạt Ma, và được Ngài ban hiệu cho tằng tổ ta là
Ngoã Sát Lạt Tái Âm Hãn. Từ đó Phật giáo trong nước mới ngày càng sáng
rỡ như nhật tinh”. Trong cuốn “Mông Cổ Cập Mông Cổ nhân” của Bao Tư Đắc
Niết Phu (Pozdneyeff)thì chép: “A Ba Đại Hãn là người Mông Cổ đầu tiên
hoằng truyền Lạt ma giáo tại Mông Cổ”. A Ba Đại Hãn cung thỉnh vị đệ tử
của đức Đạt Lai đời thứ ba là Đại Từ Mại Đạt Lý Hô Đồ Khắc Đồ đến trú
tích tại một ngôi chùa gần sông Đồ-lạp của bộ tộc Khách Nhĩ Khách để
tuyên dương Phật hóa. Đại Từ Mại Đạt Lý nhận được sự hoan hỷ và kính
ngưỡng cực lớn của người dân Mông Cổ. Nhân đó ông được A Ba Đại Hãn tặng
tôn hiệu là “Đại Từ Nặc Môn Hãn” hoặc “ Bác Thạc Khắc Đồ Tề Nông”.
Lại nói bộ tộc Ách Lỗ Đặt ở tây Mông Cổ quy y Phật giáo,
việc nầy có khả năng là vào cuối đời nhà Minh. Vạn Lịch năm bốn mươi
bốn (1616), các Quân trưởng của bộ Ách Lỗ Đặt đều quy y Lạt ma giáo;
trong khi các địa khu khác gồm: Khoa Bố Đa, A Nhĩ Thái, U Lê, Tháp Nhĩ
Ba Cáp Đài, Thanh Hải v.v… cũng đều quy y Lạt ma giáo. Trong số đó, con
của Quân trưởng Ba Đồ Lỗ Hồn Đài Kiết thuộc bộ Chuẩn Cát Nhĩ được cho
xuất gia làm tăng. Quân trưởng của các bộ đều cho một con trai đi xuất
gia làm tăng lữ, vị Quân trưởng nào không có con trai thì nuôi một dưỡng
tử nam trong cùng bộ tộc để cho xuất gia làm Lạt ma. Khách Nhĩ Đan Hãn
của Chuẩn Cát Nhĩ bộ cũng đã từng vào Tây Tạng làm Lạt ma, và được đức
Đạt Lai ban thưởng tôn hiệu là “Bác Thạt Khắc Đồ Hãn”. Sách Vượng A Lạp
Bố Đát cũng thuộc Chuẩn Cát Nhĩ bộ, noi theo Phá Lạp Tạng Hãn vào Tây
Tạng xuất gia làm Lạt ma và được đức Đạt Lai ban tôn hiệu là “Bảo Quyền
Đại Khánh Vương”. Về sau ông nầy kiến lập chùa Cổ-Nhĩ-Tráp ở phía bắc
sông Y-Lê để cúng dường, tăng lữ của chùa có hơn sáu nghìn vị .
Phật Giáo Mông Cổ Với Triết Bố Tôn Đan Ba.
Sự xuất hiện của Triết Bố Tôn Đan Ba
(Rje-btsun-dam-pa-Chí Tôn Bảo Vương), về phương diện lịch sử Phật giáo
tại Ngoại Mông Cổ mà nói, thì Triết Bố Tôn Đan Ba quả là một viên ngọc
quý vô cùng trọng yếu. Căn cứ theo danh xưng thì Triết Bố Tôn Đan Ba là
đệ tử của Tông Khách Ba đại sư, nhưng về mặt lịch sử thì ông có liên hệ
với phái Tước Nang của đại học giả Đa La Na Tha. Những năm cuối đời ông
du hóa ở vùng ngoại Mông. Về sau vị Đại Lạt Ma là tổ thứ năm của phái
Tước Nang trú tại Lạp Tát cải quy về phái Cách Lỗ, trong khi đó Đa La Na
Tha chuyển sinh thành Triết Mộc Tôn Đạt Nhĩ Lạp Đáp của Hoàng giáo.
Danh xưng Triết Bố Tôn Đan Ba là chuyển âm của Triết Mộc Tôn Đạt Nhĩ Lạp
Đáp.
Do đâu mà Triết Bố Tôn Đan Ba trở thành Khố Luân Hoạt
Phật? Chế độ Hoạt Phật khởi đầu là do Sách Vượng A Lạp Bố Đát thuộc bộ
tộc Chuẩn Cát Nhĩ, ông là người kiến tạo chùa để cúng tăng. Do vị lãnh
tụ của bộ tộc Chuẩn Cát Nhĩ đối địch lại triều nhà Thanh. Do đó, đương
thời triều Thanh cấm chỉ việc giao tiếp giữa Triết Bố Tôn Đan Ba với
Chuẩn Cát Nhĩ bộ, vì vậy nên Sách Vượng A Lạp Bố Đát Hãn bèn lấy danh
xưng là Tây Lặc Đồ, và mời bốn vị Đại Lạt-ma chứng minh làm chủ trì. Từ
đó, phàm hễ gặp vấn đề gì trọng đại nghi nan, hoặc kế sách khẩn yếu ông
đều vấn ý bốn vị Đại Lạt-ma rồi mới quyết định, cũng từ đó thiết lập một
hệ giáo quyền với đầy đủ uy tín. Về sau do có sự bất hoà giữa bộ tộc
Chuẩn Cát Nhĩ và Khách Nhĩ Khách, nhân đấy Thanh Thánh Tổ phái quân đến
tiểu trừ, nhưng Thanh triều lại biểu lộ sự ưu đãi với Phật giáo Mông Cổ.
Với các Lạt-ma, nhà Thanh gia phong tước hiệu như: Quốc sư,
Thiền sư v.v… Đồng thời nhà Thanh còn cho khởi công xây cất nhiều tự
viện và tăng thêm sự phong tặng danh hiệu Đại Lạt-ma, cho hưởng thêm
nhiều đặc quyền.Lúc Đa La Na Tha du hóa vùng biển cảnh của Ngoại Mông
(vào thời của A Ba Đại Hãn. Do đó, có thuyết nói Đa La Na Tha cũng tức
là Đại Từ Mạt Đạt Lý). Ông được bộ tộc Khách Nhĩ Khách hết sức kính
ngưỡng và quy y. Bộ tộc nầy có lập chùa tại Khố Luân. Lúc chuyển thế
lại nhằm vào đời vua Thánh Tổ nhà Thanh, và được thọ phong làm Triết Bố
Tôn Đan Ba Hô Đồ Khắc Đồ.
Khang Hy năm thứ ba mươi (1691), Thanh
Thánh Tổ tuần hạnh (vua đi chơi) vùng biên cảnh Sát Cáp Nhĩ Đa Luân Nặc
Nhĩ, bấy giờ Triết Bố Tôn Đan Ba mới có dịp hội kiến với vị hoàng đế
nhà Mãn Thanh. Theo Ba Đức Lôi (Badeley) thì Triết Bố Tôn Đan Ba sinh
vào năm Sùng Trinh thứ tám (1635) đời vua Minh Trang Liệt Đế và tịch vào
năm Ung Chính nguyên niên (1723), đời vua Thanh Thế Tông. “Đại Thanh
Hội Điển Sự Liệt” cũng chép: “Năm Khang Hy ba mươi hai phong Triết Bố
Tôn Đan Ba Hô Đồ Khắc Đồ làm Đại Lạt-ma, cho lập chùa ở Khố Luân thuộc
bộ tộc Khách Nhĩ Khách, rộng truyền phái Hoàng giáo tại đây”.
Trong khoảng thời gian từ vua Khang Hy đến vua Càn Long,
Triết Bố Tôn Đan Ba có phần nào nhận sự ưu ngộ của triều đình nhà
Thanh. Khang Hy năm thứ ba mươi (1691), sau khi gặp Thánh Tổ cho đến năm
Khang Hy thứ bốn mươi, trong khoảng mười năm liền, năm nào ông cũng
nhận được chiếu của vua Thanh vời đến Bắc Kinh, mỗi lần hội kiến lần nào
ông cũng đều nhận được phẩm vật do Thánh Tổ ban tặng. Khi tiếp xúc,
giữa ông với vua Thanh không có sự cách ly. Khang Hy năm sáu mươi mốt
(1722), ông tuy thân suy, bệnh nặng nhưng vẫn cố gắng làm đúng lời giao
ước với Thanh Thánh Tổ từ lúc tuổi còn bảy mươi, nay tuổi đã chín mươi
là phải gặp nhau. Tiếc rằng khi ông đến kinh kỳ thì Thánh Tổ đã băng hà.
Ông yết kiến vua ở Tử-cung. Truy điếu lại những việc giữa hai người khi
vua còn sinh tiền; hai năm sau đó, năm Ung Chính nguyên niên (1723),
ông chưa kịp về lại Khố Luân thì viên tịch tại một ngôi chùa của Hoàng
giáo ở Bắc Kinh.
Vua Thanh Thế Tông–Ung Chính vốn là một tín đồ thuần
thành của Phật giáo, nên đối với Triết Bố Tôn Đan Ba-vị Đại Lạt-ma của
Hoàng Khảo Thánh Tổ, vua càng trân trọng quý kính vô cùng. Ung Chính
dùng lễ rất hậu để tiếp đãi. Có chuyện trùng hợp rất lạ là Thánh Tổ
thăng hà nhằm ngày giáp ngọ, Triết Bố Tôn Đan Ba cũng viên tịch ngày
giáp ngọ, khiến người trong thiên hạ cho rằng cả hai đều là bậc phi
thường! Chuyện cũng lạ là không thấy Lý Thẩm Viện cản ngăn việc vua Ung
Chính phá lệ, đó là việc nhà vua đích thân đến trước kim quan của Triết
Bố Tôn Đan Ba hành đại điếu lễ bằng cách treo màn cúng trà, và xưng hiệu
là “Khải Pháp Triết Bố Tôn Đan Ba Đại Lạt Ma”, lại còn đặc phái đại
thần hộ tống di cốt của Triết Bố tôn Đan Ba về Khố Luân.
Việc kiến tạo tự viện ở Khố Luân xẩy ra vào năm Khang Hy
thứ năm (1666), còn Triết Bố Tôn Đan Ba thì thường vãng lai trác tích
tại Khố Luân. Nhưng có một việc được khởi sự vào năm Càn Long thứ sáu
(1741). Năm Càn Long hai mươi hai (1757), Triết Bố Tôn Đan Ba sáng lập
Cao đẳng tôn giáo học viện Trác Ni Đặc tại Khố Luân. Học viện hình thành
một số học bộ, mỗi học bộ được chia ra thành nhiều cấp học. Đại để là
thiết lập bốn học bộ:
1.Hiển giáo học bộ–một ngành học chuyên nghiên cứu Phật giáo.
2.Mật giáo học bộ-chuyên nghiên cứu áo nghĩa Phật giáo Tây Tạng.
3.Thiên văn học bộ-chuyên nghiên cứu các hiện tượng tinh tú và khí hậu tự nhiên.
4.Y dược học bộ-chuyên nghiên cứu y thuật và cách sử dụng dược liệu.
Hai học bộ 3 và 4, nguyên trước đây là chức năng của Tát Mãn giáo. Đến thời nầy được Phật giáo hóa thành phương tiện giúp đời.
Khi học xong chương trình, tăng sinh phải qua một cuộc
khảo thí rất chuẩn mực. Học vị tốt nghiệp phải được Triết Bố Tôn Đan Ba-
là tước hiệu (danh từ chung) chứ không phải riêng chỉ vị Triết Bố Tôn
Đan Ba như lúc ban đầu – chuẩn nhận. Do cách tổ chức tu học có tính quy
mô và sư phạm như vậy nên Khố Luân trở thành Trung tâm chính trị, tôn
giáo của Ngoại Mông Cổ. Về mặt giáo dục, thì đây đúng là thánh địa của
Lạt-ma giáo tại Ngoại Mông. Trung tâm nầy thu hút tăng lữ khắp nơi trong
xứ Mông Cổ quần tụ về tu học.
Theo “Tuy Phục Kỷ Lược” của Tùng Quân thì: “Sở dĩ gọi
Khố Luân là Thành-quyển, vì ở đó có quá nhiều Lạt-ma làm “cây” che chắn,
nên gọi là Khố Luân” (ý nói có quá nhiều Lạt-ma, và mọi quyền về kinh
tế, chính trị, tôn giáo đều do Lạt-ma nắm giữ.Giống cái chuồng bị vây
bởi rất nhiều cây)
Lúc vua Càn Long vừa tức vị, Triết Bố Tôn Đan Ba Hô Đồ
Khắc Đồ có đến kinh thành yết kiến, và ông được vua Càn Long ban cho hai
vạn lạng bạc và “Huỳnh Sắc Vi Kiều” (?). Càn Long năm thứ mười chín
(1754), cho thiết lập Thương Trát Đặc Ba, đặt ra chức Ty Sa Tỉ Nạp Nhĩ
và một số chức khác để trông coi “tục sự”. Ít lâu sau cho lập Trú Khố
Luân Biện Sự Đại Thần, nhằm hạn chế quyền lực của vị Hoạt Phật, cũng là
để phòng ngừa thế lực vị Hoạt Phật khi trở nên quá mạnh.
Thanh triều lệnh cho Khố Luân hướng về Tây Tạng mà phỏng
tầm Hô Tất Lặc Hãn. Thời vua Gia Khánh tìm được vị Triết Bố Tôn Đan Ba
đời thứ tư, thời vua Đạo Quang tìm được vị đời thứ năm. Đến thời vua Hàm
Phong, tuy không còn gắn bó mật thiết với Triết Bố Tôn Đan Ba như thời
Khang Hy, nhưng cũng không gây tổn hại đến những gì tốt đẹp mà các đời
vua trước đã gây tạo.
Vào đời Thanh Đức Tông, Quang Tự năm thứ tư (1878), tình
hình có biến động, vị đại thần của Thanh triều tại Khố Luân là Chí
Cương –ông nầy từ chối việc khi đối diện với Triết Bố Tôn Đan Ba thì
phải lạy ba lạy và khấu đầu chín lần. Ngược lại, ông ra lệnh cho vị
Triết Bố Tôn Đan Ba đời thứ tám (1870-1924) phải đứng lên mỗi khi nghinh
tiếp vị Biện Sư Đại Thần của triều đình.
Kết quả, do vị Mông Cổ Biện Sự Đại Thần vừa mới thông
hiếu với Thanh triều, do đó nhà Thanh buộc Chí Cương phải nhượng bộ.
Quang Tự năm hai mươi hai (1896), vị Biện Sự Đại Thần của Mãn Châu trú
tại Khố Luân trở nên tế nhị trong cung cách ứng xử hơn, nhưng vẫn yêu
cầu Triết Bố Tôn Đan Ba phải đứng lên mỗi khi có sự tiếp xúc với nhau
giữa hai người.
Cuối đời nhà Thanh, triều đình trở nên hủ bại, và với
Phật giáo lại càng trở nên lạnh nhạt. Chẳng hạn năm Quang Tự thứ hai
mươi bốn (1908), vị Biên cương đại thần của hai tỉnh Tứ Xuyên và Vân Nam
là Triệu Nhĩ Phong phụng chỉ đi kinh lược vùng biên cảnh, nhân đấy ông
phá hoại sức mạnh của Lạt-ma giáo, đến độ ông cho quân Thanh xé lấy bìa
cứng của những quyển kinh để làm đế giầy. Cũng cùng năm nầy, đức Đạt Lai
đời thứ mười ba chống lại Bắc Kinh, buộc vị đại thần nhà Thanh mỗi khi
tiếp kiến hoặc ban yến v.v… phải quỳ mà bái lạy ngài. Vua Thanh là Phổ
Nghi, Tuyên Thống năm thứ hai (1910), Triệu Nhĩ Phong xuất quân tiến
chiếm Lạp Tát, bức hại đức Đạt Lai, buộc ngài phải lưu vong sang Ấn Độ.
Đồng
thời nhà Thanh cũng tước bỏ danh hiệu Đạt Lai của ngài. Cùng lúc tại
Khố Luân, Đức Nghĩa Sũng Mộc Phô bị thương, nhân đấy vị Biện Sự Đại Thần
của Thanh triều tại Khố Luân là Tam Đa, không lý gì đến Lạt-ma, cứ tiến
hành việc nghiêm phạt người của Khố Luân. Khiến Triết Bố Tôn Đan Ba
phải diện kiến Tam Đa để yêu cầu sớm ổn định tình hình. Tam Đa không
đồng ý lại còn quở trách và đòi bồi thường tổn hại cho Mộc Phô, đem phạm
nhân ra trước Lý Thẩm Viện xử phạt, đồng thời tấu thỉnh triều đình cách
chức các vị Lạt-ma cao cấp đang nắm giữ chưởng quản Tục-sự và Chủ-kế.
Kết quả: Nhà Thanh bị diệt vong, năm Dân Quốc nguyên
niên ( 1912), Ngoại Mông Cổ liền tuyên bố độc lập. Vị Triết Bố Tôn Đan
Ba ở Khố Luân tự lập lên làm hoàng đế, thành lập nhà nước Đại Mông Cổ,
lấy niên hiệu là Cộng Đới.
Phật giáo và Ngoại Mông Cổ độc lập
Năm Dân Quốc nguyên niên (1912), đại tổng thống tuyên bố
giúp đỡ và ủng hộ các vị vương công Trát Tát Khắc của Mông Cổ. Người
Mông Cổ nào có công với đại cuộc thì chiếu chức vụ hiện hữu mà thăng lên
một cấp, còn như chức Hãn và Thân Vương vì không có cấp nào cao hơn,
thì phong chức cho con hoặc cháu của các vị ấy. Dân quốc năm thứ tư
(1915), tháng sáu nền độc lập của Ngoại Mông Cổ bị thủ tiêu, chính phủ
Bắc Kinh liền phái sứ thần đến Khố Luân sách phong Triết Bố Tôn Đan Ba
làm “Ngoại Mông Cổ Bác Khắc Đa Triết Bố Tôn Đan Ba Hô Đồ Khắc Đồ Hãn”.
Trước khi Ngoại Mông Cổ tuyên bố độc lập, thì Triết Bố Tôn Đan Ba được
tấn phong tước vị Vương Công, nay chính phủ Bắc Kinh cũng cho ông truy
nhận lại tước vị nầy. Về chính trị, chính phủ Ngoại Mông được tự trị.
Đây là thời kỳ mà Phật giáo tại Ngoại Mông phát triển cực thịnh.
Đến năm Dân quốc thứ tám (1919), Triết Bố Tôn Đan Ba và
Vương Công của Ngoại Mông tự yêu cầu chính phủ Bắc Kinh triệt tiêu chế
độ tự trị ở Ngoại Môn. Chính phủ Dân quốc liền phái Từ Thọ Tranh làm Tây
Bắc Trù Biên Sứ trông coi mọi việc giao hảo ở Ngoại Mông. Người kế
nhiệm Từ Thọ Tranh là Trần Nghị. Dân quốc năm thứ mười(1921) tháng hai,
người Bạch Nga là Ân Cầm Ba Long công hãm Khố Luân nhằm phò giúp Triết
Bố Tôn Đan Ba lên làm quân vương ở Ngoại Mông Cổ. Việc nầy khiến cho
vùng Ngoại Mông không do đâu mà được tự chủ và có được nền độc lập lần
thứ hai. Nhưng người của Quốc Dân Đảng ở Ngoại Mông là Tô Ái Ba Đồ Nhĩ
nổi lên đánh lại Ân Cầm nhờ có sự trợ lực của Hồng quân do Tô-liên yểm
trợ. Cũng trong năm nầy, tháng bảy Hồng quân tấn công Khố Luân và lập
lên “Mông Cổ Quốc Dân Chính Phủ”. Lại cũng lấy Triết Bố Tôn Đan Ba làm
vị nguyên thủ.
Năm Dân quốc mười ba (1924), vị Triết Bố Tôn Đan Ba đột
ngột viên tịch. Sau sự cố nầy, Ngoại Mông Cổ bước vào hệ thống xã hội
chủ nghĩa. Chế độ nầy cải tổ chính phủ thành chế độ “Mông Cổ Nhân Dân
Cộng Hòa Quốc”. Phế bỏ chế độ Chính–Giáo hiệp nhất, cấm chỉ việc truy
tìm sự chuyển sinh của Triết Bố Tôn Đan Ba như trước, và triệu tập quốc
dân hội nghị để chế định Hiến pháp, và tiến hành cải tạo xã hội chủ
nghĩa. Bãi bỏ tất cả mọi đặc quyền của các tước vị như: Hãn, Vương Công,
Đài–Kiết, Hô Đồ Khắc Đồ, Hô Tất Lặc Hãn v.v… Không để các Lạt-ma tham
gia hoạt động chính trị, và thanh niên từ mười tám tuổi trở lên không
được xuất gia làm tăng. Dân quốc năm thứ mười bảy (1928), Mông Cổ nhân
dân cách mạng đảng tổ chức đại hội lần thứ bảy, ra nghị quyết tịch thu
tất cả tài sản của các Chùa, cưỡng bức tăng lữ hoàn tục. Dân quốc năm
hai mươi hai (1931), nhà nước xã hội chủ nghĩa Mông Cổ mới đưa ra chính
sách ôn hoà đối với Phật giáo.
Hiến pháp của Ngoại Mông Cổ có 81 điều, trong đó có một
điều quy định: “Người dân có quyền tín ngưỡng tôn giáo, và có quyền phản
đối tín ngưỡng tôn giáo”. Chính điều quy định nầy khiến người dân Ngoại
Mông Cổ ngày càng ít thỉnh mời các tăng lữ tụng kinh cầu nguyện, cũng
như ngày càng cạn dần những người nhiệt thành với đức tin tôn giáo. Đồng
thời người tự nguyện xuất gia cũng giảm.
Do đó, mà vào năm Dân quốc thứ sáu (1917), tăng lữ phật
giáo ở Ngoại Mông Cổ có đến 116.577 vị, đến năm Dân quốc hai mươi mốt
(1931) con số nầy giảm xuống còn 82.000 vị.
Trên thực tế, chính phủ xã hội chủ nghĩa Mông Cổ không
thể coi thường tiềm lực của Phật giáo ở chính đất nước họ; do đó mà năm
1964, chính phủ Ngoại Mông Cổ cử một phái đoàn đại biểu Phật giáo đến Ấn
Độ tham dự đại hội “Thế Giới Phật Giáo Đồ Liên Nghị Hội” lần thứ bảy
Nội Mông Cổ Và Chương Gia Hoạt Phật.
Chương–Gia (Lcan-skya) là danh hiệu dùng để tôn xưng vị
lãnh tụ tôn giáo ở mạn nam Mông Cổ (Nội Mông). Chương–Gia là người đầu
tiên khai mở nền Phật giáo Nội Mông, dường như Chương–Gia cũng đồng thời
với Triết Bố Tôn Đan Ba của Ngoại Mông. Nội Mông có 49 tộc người Mông
so với Ngoại Mông có ba bộ với 39 tộc người Mông. Thời vua Thanh Thánh
Tổ còn tại vị có chế định; các vương công và các tước hiệu khác ở Ngoại
Mông khi được vua ban ngân lượng, vải lụa như thế nào, thì các vị Quân
trưởng của Nội Mông cũng y như thế mà ban tặng.
Nhờ thỉnh được vị Chương–Gia Hô Đồ Khắc Đồ là đệ tử của
đức Đạt Lai đời thứ năm đến kiến lập chùa Vị- Tông (còn gọi là chùa Đông
miếu hoặc Hoàng tự) ở Đa Luân Nặc Nhĩ, và đồng thời cũng để truyền bá
Phật giáo ở cả Nội và Ngoại Mông Cổ. Chương Gia là người thuộc tỉnh
Thanh Hải, người đời gọi ông là A-Cát Vượng La Bố Tang Khước Lạp Đan.
Ông vào Tây Tạng tu học, nhờ đó được thân cận đức Đạt Lai đời thứ năm,
và nhiều vị học giả nổi tiếng. Ông cầu học giới luật cùng các Pháp môn
khác, về sau mới trở thành vị Chương–Gia Hô Đồ Khắc Đồ đời thứ mười bốn.
Khang Hy năm hai mươi sáu (1687), ông đến Yên Kinh yết kiến Thanh Thánh
Tổ. Khang hy năm bốn mươi bốn (1705), ông được ban Kim Ấn và tước hiệu
“Quán Đảnh Phổ Chiếu Quảng Từ Đại Quốc Sư”.
Tháng giêng, Khang Hy năm thứ ba mươi bảy (1698). Tháng
giêng, Khang Hy năm bốn mươi mốt (1702), tháng hai, Khang Hy năm bốn
mươi chín (1710), vua Thánh Tổ nhà Thanh ba lần đích thân đến Ngũ Đài
Sơn để trông coi việc trùng tu chùa Đại Văn Thù, và chùa nầy trở thành
“Bổn Sơn” của Lạt ma giáo ở Nội Mông Cổ. Thanh Thế Tông, Ung Chính năm
thứ năm (1727), vua phát mười vạn lượng vàng, và lệnh cho Chương Gia Hô
Đồ Khắc Đồ đời thứ mười lăm kiến lập chùa Thiện–Nhân. Chùa ở về phía tây
nam chùa Vị-Tông (nên còn gọi là Tây miếu hoặc Thanh Tự). Càn Long năm
thứ sáu (1741), vua Thanh Cao Tông lệnh cho Chương Gia đời thứ mười lăm
và Ban Thiền đời thứ bảy cùng nhiều vị dịch giả khác, đem bộ phận Đan
Châu Nhĩ của Tây Tạng Đại Tạng Kinh xem có phần nào chưa dịch ra Mông Cổ
ngữ thì hãy dịch cho hoàn bị. Đồng thời vua xuống lệnh khắc in và phổ
biến.
Càn-Long năm hai mươi ba (1758), vua lại lệnh cho Chương
Gia đời thứ mười lăm và Trang Thân Vương cùng các vị dịch giả hãy tuyển
định thành một bộ “Mãn, Hán, Mông-Cổ, Tây-Phồn Hiệp Bích Đại Tạng Toàn
Chú” gồm có 88 quyển, cùng với bộ “Đồng Văn Vận Thống” gồm 08 quyển.
Trải qua nhiều đời, các vị Chương Gia Hô Đồ Khắc Đồ luôn
hướng về triều Thanh mà giữ lòng trung thành, không bao giờ có ý dời
đổi. Những trú xứ mà các vị Chương Gia thường trác tích là ở Đa Luân,
Bắc Kinh và Ngũ Đài Sơn. Ung Chính khi còn “tiềm để” đã từng tham học
giáo nghĩa Phật pháp với Chương Gia, và tự nói ông đối Thiền đã có được
cơ chỉ, đó là nhờ sự trợ duyên của Chương Gia đời thứ mươi lăm. Những
năm vua Khang Hy tại vị, Ung Chính luôn tinh tấn tham thiền, ngẫu nhiên
ông hốt ngộ, nhân đó cóù vị thiền tăng hiệu Tánh Âm ca ngợi ông có được
sự đại ngộ sâu xa, ông không dám tin lời tán thán của vị thiền tăng. Ông
bèn đến hỏi Chương Gia, Chương Gia bảo không phải vậy, và khen Ung
Chính tiến bộ rất nhiều trong tu thiền.
Do đó, khi lên ngôi Ung
Chính hết mực kính ngưỡng Chương Gia, ông tán thán Chương Gia là “bậc
siêu nhân tái sinh, độ đại thiện tri thức, bậc phạm hạnh tinh thuần,
viên thông vô ngại, lúc bờ cõi thanh nhàn, ta hơn mười lần tiếp trà với
ngài, nhân đó mà đắc đại phương tiện, liễu giải được cứu cánh của đạo
thiền”. (Ngự Tuyển Ngữ Lục, quyển 18). Trong “Hậu Từ Văn” ông lại nói:
“Chương Gia, người có tư chất linh dị, phù nghiệm hiển nhiên, khiến giáo
pháp lưu hành, giảng dạy đồ chúng, ngày thêm quần tụ” (Ung Chính Đế
Thiện Nhân Tự Ngự Chế Bi).
Vị Chương Gia đời thứ mười chín viên tịch tại Đài
Bắc–Đài Loan, năm 1957. Lúc còn là đồng ấu Ngài đã tỏ ra linh dị. Sau
khi đến Đài Loan, lúc nhàn rỗi Ngài tự thuật với các pháp sư người Hán
rằng; lúc tám nước liên minh đánh Bắc Kinh, bấy giờ Từ Hy Thái Hậu hồn
kinh phách tán không biết phải hành xử như thế nào, bèn cho vời vị
Chương Gia Hoạt Phật (tuy lúc ấy tuổi còn ấu niên) đến hỏi xem nên phải
làm gì. Chương Gia chỉ đường, nhờ đó Từ Hy chạy trốn thóat hiểm. Có lần
Từ Hy Thái Hậu mắc chứng đau bụng lâu mà không ngớt, liền yêu cầu vị ấu
niên Chương Gia Hoạt Phật dùng tay đè lên bụng Thái Hậu, lúc bàn tay Kim
Cang của vị Chương Gia Hoạt Phật vừa ấn lên bụng, lập tức cơn đau của
Thái Hậu mất biến.
Khi triều Thanh kết thúc, Viên Thế Khải một lần nữa lại
dùng mỹ hiệu mà vua Khang Hy đã dùng để ban tặng Chương Gia là “Quán
Đảnh Phổ Chiếu Quảng Từ” còn thêm bốn chữ “Hoằng Tế Quang Minh”. Về
sau, Từ Thế Xương lại tặng thêm bốn chữ “Triệu Nhân Xiển Hóa”. Sau đó
còn ban tặng đức hiệu “Hộ Quốc Tịnh Giác Phụ Giáo Đại Sư”, và Ngài cũng
từng đảm nhiệm nhiều chức vụ trọng yếu. Tóm lại, Chương Gia đời thứ mười
chín là người có đủ mọi vinh, suy trước lúc viên tịch.
TIẾT III
CHẾ ĐỘ PHẬT GIÁO MÔNG –TẠNG
Thứ Hạng Lạt-Ma:
Giáo Đoàn Lạt-Ma Mông-Tạng.
Từ đời nhà Thanh, do vấn đề chính trị, tôn giáo hỗn hợp
mới tạo nên giáo đoàn Lạt-ma Mông Tạng và được chia ra nhiều thứ hạng.
Riêng về danh xưng cũng rất phức tạp, xin đơn cử mấy thứ hạng sau:
(1)- Phân loại theo chức hàm, có tám loại; 1-Chuyển Thế
Hô Đồ Khắc Đồ, 2-Chuyển Thế Nặc Môn Hãn, 3- Hô Đồ Khắc Đồ, 4- Nặc Môn
Hãn, 5-Ban Đệ Đạt, 6-Kham Bố, 7-Xước Nhĩ Tề, 8- Hô Tất Lặc Hãn.
(2) phân loại theo nhậm chức có mười bảy:1 -Quốc sư,
2-Thiền sư, 3-Trát Tát Khắc Lạt Ma, 4-Phó Trát Tát Khắc Đạt Ma, 5- Trát
Tát Khắc Đạt Ma, 6- Phó Đạt Lạt Ma, 7- Phó Đạt Lạt Ma, 8- Hư Hàm Đạt Lạt
Ma, 9-Tô Lạp Lạt Ma, 10-Thương Tát Đặc Ba, 11-Đức Mộc Tề, 12- Cách Tư
Qui, 13-Cách Long, 14-Ban Đệ. Chức hàm tính từ Trát Tát Khắc Lạt Ma trở
lên thì dùng Ấn, từ Tô Lạp Lạt Ma trở xuống thì dùng Trác (thẻ), và từ
Đức Mộc Tề trở xuống mới được phép có đồ chúng. Lại nữa, tại các châu
như: Thiểm (huyện Thiểm thuộc tỉnh Hà Nam), Cam (huyện Trương Dịch thuộc
tỉnh Cam Túc), Thao (huyện Lâm Đàm thuộc tỉnh Cam Túc), Dân (thuộc
huyện Cũng-Xương thuộc Cam Túc) thì tuỳ hoàn cảnh mà đặt định. 15-Đô
Cang, 16-Tăng Cang, 17-Tăng Chánh. Các chức nầy đều được nhận Trác(thẻ).
(3) Tuỳ theo nơi cư trú, được phân làm bốn loại: 1-Trú
Kinh Lạt ma, tức các Lạt ma trú tích tại các chùa như: Nhiệt Hà, Thịnh
Kinh (nay là Thẩm Dương), Đa Luân Lặc Nhĩ, Ngũ Đài Sơn. Ở những nơi nầy
phải là các Lạt ma có chức hàm như, Chương Gia Hô Đồ Khắc Đồ, Mãn Châu
Nhĩ Hô Đồ Khắc Đồ. 2-Tây Tạng Lạt ma:gồm có Đạt Lai Lạt Ma, Ban Thiền
Ngạch Nhĩ Đức Ni v.v… 3-Tây Phồn Lạt ma: gồm các Lạt ma ở các chùa thuộc
đất Phồn, như : Lãng-Trang, Tây Ninh, Mộc Lý, Sạ Nha, Sát Mộc Đa, Loại Ô
Tề v.v…4-Du Mục Lạt ma: tức các vị Lạt ma ở các địa khu du mục như: Quy
Hóa Thành, Thổ Mặc Đặc, Sát Hiệp Nhĩ, Tích Tứ Đồ Khố Luân, 49 kỳ ở Nội
Trát Tát Khắc, Khách Nhĩ–Khách, A–Lạp Thiện v.v…. Loại 1 và 2, phải xuất
thân từ chức hàm Hô Tất Lặc Hãn, loại 3 và 4, không nhất thiết phải
xuất thân từ Hô Tất Lặc Hãn.
(4) Các Lạt-ma tuỳ theo tự viẹân cư trú, và được chia
thành sáu loại: 1-Các vị tốt nghiệp từ Hiển Giáo Học Bộ thì có: Lan
Chiên Ba Lạt ma, Cát Bố Sở Lạt ma, Hiệp Nhĩ Ba Lạt ma. 2- Các vị tốt
nghiệp từ Bí Mật Học Bộ thì có: Tạp Khắc Lâm Ba Lạt ma. 3-Các vị tốt
nghiệp từ Y Học Bộ thì có: Mãn Lan Ba Lạt ma, Mãn Sa Lạt ma. 4-Các vị
tốt nghiệp Thời Luân Học Bộ thì có: Tề Lâm Ba Lạt ma. 5-Các vị Bộ trưởng
của bốn bộ thì có: Tô Ni Đặt Lạt ma, Cầu Thứ Đặc Lạt ma, Mãn Ba Lạt ma,
Điện Cát Nhĩ Lạt ma. 6-Trên bốn bộ có Tổng Bộ trưởng của các bộ Lạt ma
với tên gọi là Tây Lôi Lạt ma. Trực thuộc Tây Lôi Lạt ma, còn có Đạt Lạt
ma và Phó Đạt Lạt ma.
(5) Những Tăng, Ni bình thường cũng được chia thành bảy
loại: 1-Cách Long, 2-Ban Đệ, 3-Học Nghệ Ban Đệ , 4-Tăng Lữ của Đài Khiết
Nguyện, 5-tuỳ vào số đồ đệ mà Lạt ma có được chức hàm hoặc nhậm chức
hàm, 6-Ô Ba Thập, 7-Sư nữ được gọi chung là Tề Ba Hản Sát.
Cách tổ chức Tự Viện rất hiện đại của Phật giáo Tây Tạng.
Hiện nay bên trong các ngôi đại tự viện của Tây Tạng
được chia thành nhiều Trung bộ học viện độc lập, và tên gọi của học viện
là Trát Thương; trong mỗi Trung bộ được chia ra nhiều Tiểu bộ, và gọi
là Khương Thốn. Mỗi ngôi đại tự đều chọn một nơi thích đáng ở trung tâm
để thiết lập Tổng điện – đây là nơi mà toàn thể tăng chúng trong chùa
tập trung để tụng kinh vào giờ công phu khuya. Mỗi Trung bộ cũng có một
Điện. Điện là nơi để tất cả tăng chúng trong bộ tập trung tụng kinh vào
giờ ngọ; mỗi tiểu bộ cũng có một Điện, Điện nầy được bao quanh bởi nhiều
tăng phòng. Ở giữa Điện xây một Đan Trì. Mỗi Trung bộ đều có trường sở
dùng làm nơi giảng kinh và biện luận. Chùa Triết Phong được chia thành
bảy Trung bộ, chùa Sắc Lạp có bốn Trung bộ, chùa Cam Đan có hai Trung
bộ.
Chức sự trong chùa gồm có hai loại:
1-“Cơ Tự” là người quản lý toàn bộ tài sản của
chùa, chữ Cơ Tự có nghĩa là tổng quản lý. Có Chánh và Phó Cơ tự. Cạnh đó
còn có nhiều người trợ lý cho Chánh, Phó Cơ tự. Họ là những người
chuyên về trông coi, lo liệu mọi sinh kế trong chùa, nhưng không chịu
trách nhiệm về oai nghi của chúng tăng.
2-“Nghĩa-Ngạc” là người chịu trách nhiệm về oai
nghi của tất cả chúng tăng của chùa. Nghĩa Ngạc giống như vị Thủ tọa của
Phật giáo Trung Quốc vậy. Đây là chức vụ có quyền tối cao đối với mọi
sinh hoạt trong chùa. Có Chánh, Phó Nghĩa Ngạc, cùng nhiều người trợ lý.
Vị Duy-Na thì quản về giờ giấc, thời khóa tụng niệm nơi đại điện; vị
Lảnh chúng phụ trách việc tụng kinh của đại chúng, nhưng không chịu
trách nhiệm về oai nghi.
Chức sự của mỗi Trung bộ lại được phân làm ba:
1-Kham Bố-tức vị Trú trù. Vị nầy phụ trách giáo
dục tăng chúng trong một Trung bộ, cũng vừa là Giáo Thọ Sư và Giáo Giới
Sư trông coi về oai nghi của đại chúng. Khi ở Biện luận trường, thì vị
Kham Bố làm chủ trì. Kham Bố chịu trách nhiệm giao tiếp với chính phủ về
mọi Phật sự của chùa. Do đó, Kham Bố là chức vị mà nếu không phải là
người chân tu và thực học thì không thể đảm trách. Trường hợp khi có
nhân duyên đặc thù thì lấy chức vị Cách Tây sung vào. Mỗi Trung bộ suy
cử một vị Kham Bố, và một số vị trợ lý.
2-Đương Gia, mỗi Trung bộ có một số vị Đương-Gia
với nhiều trợ lý. Các vị nầy phụ trách việc quản lý tài sản, cũng như lo
việc kinh doanh, họ là những người chi phối mọi chi dùng trong một
Trung bộ.
3-Củ-Sát, tiếng Tạng gọi là “Cách quả” (kẻ đôn
đốc mọi người làm điều thiện). Củ-Sát là vị giám đốc oai nghi của chúng
tăng khi ở nội điện cũng như lúc ở Biện luận trường. Những vị là Phổ
thông tăng đều có thể sung vào chức vị Đương Gia và Củ-Sát, vì không cần
phải có học vị Cách Tây.
Tại các tiểu Trung bộ cũng có những vị giống như ở Trung
bộ. Duy có vị chưởng quản oai nghi của tăng chúng thì có tên là “Khương
Thôn Cách Ngạch”. Ý nói đây không phải là vị đạo sư mới đến trong năm
nay của Tiểu trung bộ. Phần lớn các chức vị trên đều tuỳ vào niên hạn mà
họ đã tu học tại chùa. Người xuất gia tại Tiểu trung bộ, sau khi nhận
chức vị Khương Thôn Cách Ngạch mới được tiến vào Lão học chúng, mới được
Yết ma (hội nghị) về các Phật sự lớn nhỏ trong Tiểu trung bộ của mình,
mới được quyền phát biểu ý kiến. Các tân học chúng mới đến không được
phép bình nghị cũng như tham gia hội nghị.
Giáo Dục Và Khảo Thí.
Việc giáo dục và khảo thí tăng lữ được chia làm hai loại:
I. Chuyển thế tục nhiệm: Cần có sự tuyển định
Linh-nhi để xác định xem Linh-nhi đó có phải là Đạt Lại Lạt Ma chuyển
sinh hay không. Việc tuyển định do các vị Hô Tất Lặc Hãn hoặc Hô Đồ Khắc
Đồ đảm trách. Một khi sự tuyển định được xác nhận, sau đó mới cử hành
lễ đăng quang cho vị Linh nhi là Đại Lai Lạt Ma chuyển sinh. Đồng thời
cử tuyển một vị Đại Lạt Ma có học đức khiêm-tôn làm thầy cho Linh nhi,
cạnh đó cũng chọn lấy một số vị có học tài làm phụ tá cho vị Đại Lạt-ma
để lo việc giáo dục Linh-nhi. Hàng ngày Linh-nhi vẫn phải học kinh điển
và chấp tác như các tăng lữ phổ thông, nhưng về sinh hoạt có phần phong
phú hơn; như có người trợ giúp trong việc nghiên cứu, việc giảng biện,
so với phổ thông tăng thì nhân duyên đầy đủ và thuận lợi hơn. Đủ hai
mươi tuổi Linh nhi mới được thọ cụ túc giới-Tỳ kheo giới. Sau khi thọ
giới Tỳ kheo, Linh nhi phải vượt qua cuộc khảo thí học vị Cách Tây, thì
mới chính thức được hành xử chức vụ và quyền hạn đã có từ kiếp trước.
II .Khảo thí tấn nhậm: Đây là chế độ của các ngôi
đại tự viện. Các vị là Phổ thông tăng, trước phải học thông Hiển giáo
và phải được khảo thí để 1ấy học vị Cách Tây. Khi đã có học vị Cách Tây
mới được tiến nhập Cử-Ba- chuyên nghiên cứu Mật pháp. Một khi được sung
vào các chức vị như Củ-Sát, Cử-Ba sau đó mới được thăng làm “Kham Bố Cử
Ba”. Trong các chức vị, Kham bố là tối tôn. Khi được chức vị Kham Bố Cử
Ba mới được thăng lên làm Pháp Vương (toàn bộ chỉ có hai vị). Từ chức vị
Pháp Vương mới được thăng lên làm tọa chủ chùa Cam- Đan, gọi là “Cam
Đan Trì Ba”. Phải trải qua các giai đoạn như thế mới xứng là truyền nhân
của đại sư Tông Khách Ba; tức phải do khảo thí mà lần lượt thăng nhậm
các danh vị tối cao và tối tôn.
Thực ra khi đã được tiến nhập Cử Ba để học Mật pháp, lại cũng chia thành hai loại.
1. Các vị chưa từng chịu khảo thí để lấy học vị Cách Tây
bởi ba ngôi đại tự, nhưng các vị nầy trước đó đã từng theo học và tu
tập với một vị Sư trưởng và đã học xong “Tập Mật Kim Cang Đại Giáo Chủ
Kinh” và kinh “Nghi quỷ”, thậm chí là thuộc lòng, nhưng phải đợi khi nào
nhân số Cử Ba của ba ngôi đại tự bị khuyết thì mới khảo thí để bổ
khuyết. Cử Ba cũng có hai loại: Thượng Cử Ba – tức Cử Ba của ba ngôi đại
tự. Hạ Cử Ba-tức Cử Ba trực tiếp tiến nhập. Tính luôn cả Thượng, và Hạ
Cử Ba chỉ có một nghìn vị, vì số lượng mỗi loại Cử Ba được giới hạn ở
con số năm trăm vị. Sau khi được tiến nhập, trong năm năm đầu phải chấp
tác mọi việc trong chùa trong cương vị của một Sa-di thừa sự các Tỳ
kheo, như nấu cơm, xách nước v.v… chẳng hạn. Đến năm thứ sáu mới được
thọ giới Tỳ kheo nhưng vẫn còn chấp sự của một Sa-di. Hạng Cử Ba nầy lấy
việc học tập Mật bộ Nghi quỷ làm chính.
2. Các vị sau khi đã vượt qua khảo thí để lấy học vị
Cách Tây mới được tiến nhập Cử Ba. Khi đã được tiến nhập Cử Ba trong năm
đầu, oai nghi của các vị nầy giống như một Sa-di, không được hành lễ ở
chính điện, ngoài trừ lúc bị thiếu, và cũng phải thừa sự các vị Tỳ kheo.
Cuối năm thứ hai, vị trí mới ngang bậc Thượng tọa, mọi việc chấp tác
được có phương tiện trợ giúp. Nếu ai có sức học vượt trội, có thể được
khảo hạch để thăng lên hạng Kham Bố.
Trình Tự Khảo Thí Cách Tây.
Những vị chưa khảo thí Cách Tây đều phải qua một lịch trình học tập lâu dài, và được chia ra hai giai đoạn:
1. Những vị đã nhập tự được năm, sáu năm thì hai năm đầu
phải y chỉ một Tỳ kheo để học tập phương thức luận sơ cấp về Nhân Minh.
2. Trong năm, sáu năm tiếp theo, phải rộng học về giải
thích “Hiện Quán Trang Nghiêm Luận” thuộc bộ “Đại Bát Nhã Kinh”. Nếu
nghiên cứu một cách thông đạt bộ luận Hiện Quán Trang Nghiêm, tất nhiên
đối với thứ đệ của Tam thừa càng hiểu rõ hơn về thứ đệ của Đại thừa,
được vậy mới là người tu hành có được sự liễu giải kiên cố, và không bị
sai lầm.
3. Sau năm thứ sáu là giai đoạn chuyên nghiên cứu về
“Nhập-Trung Luận” của Nguyệt-Xứng. Bộ luận gồm có mười phẩm, giảng về
Thập Địa và Thập Hạnh; đặc biệt là phẩm thứ sáu chứng minh một cách rất
tinh tường: Chư pháp là do duyên khởi, chư pháp vốn là tánh không. Tu
hành theo Trung Quán mới có khả năng đoạn phiền nảo, xuất sinh tử. Do
đó, đây quả là bộ luận vô cùng thiết yếu đối với người tu.
4. Phải trải qua hai hoặc ba năm kế tiếp để chuyên
nghiên cứu Giới Luật học. Vì đến đây tuổi cũng sắp đến hai mươi, là tuổi
chuẩn bị thọ đại giới. Do đó, cần phải hiểu rõ những gì là: “khai giá
trì phạm và chỉ trì chỉ tác”.
5. Cuối cùng, trong thời gian chờ đợi khảo thí Cách-Tây,
tăng sinh phải học kỹ luận Cu- Xá. Đây là bộ luận giải rõ một cách
tường tận về sinh tử, Niết bàn, về tổng, về biệt, về nhân duyên, nhân
quả v.v… Luận Cu- Xá là một yếu điển của A Tỳ Đạt Ma.
Đồng thời trong suốt thời gian học trình, mỗi năm vào
mùa đông, họctăng phải dành một tháng để học Nhân Minh luận. Bởi Phật
giáo Tây Tạng đặc biệt chú trọng phương pháp luận lý. Theo họ bất luận
vị học tăng ấy học pháp điển nào , tu pháp môn gì, và giảng thuyết kinh
luận gì đi nữa mà không nắm vững chính lý để biện luận và quyết trạch ,
thì chẳng khác người đi trên bùn lại cho rằng bùn không lún.
Khảo thí Cách–Tây được phân ra bốn bậc, và có liên hệ
đến thời gian học luận Cu- Xá. Điều này lại do Kham Bố của các học viện
Trung bộ lượng định về học lực, dù đẳng cấp được phê chuẩn là không đồng
đẳng.
1-Đầu Đẳng Cách–Tây:
Một năm trước kỳ khảo thí để lấy học vị Cách–Tây, thì
vào mùa hạ của năm đó các tăng thí sinh đều phải cu hội về tại Ma-Ni
Viên – nơi ở của đức Đạt Lai--để cùng tham dự cuộc khảo thí với mười sáu
người. Hai bên phải lập tông và hỗ tương biện luận. Vị thị giả của đức
Đạt Lai Lạt Ma phụ trách việc đọc đề cương, trong khi đó các vị Kham Bố
đóng vai chứng pháp nhân. Trong lúc diễn ra biện luận, đức Đạt Lai
thường buông màn ngồi nghe. Danh xưng đệ nhất, đệ nhị Cách Tây trực tiếp
được ước lược và khảo định trong thời gian diển ra biện luận. Kế tiếp
là tổ chức pháp hội vào mùa đông. Các vị trong độ tuổi được ứng khảo của
các Trung bộ học viện, lúc nầy tại các biện luận trường của học viện
mình đều phải tiếp nhận đề tài biện luận để lập tông.
Có Kham Bố
và các vị Đại đức được đặc tuyển làm chứng pháp nhân. Bước kế tiếp là
các vị đệ nhất, đệ nhị Cách Tây vào ngày mùng một tháng giêng phải vân
tập về tại cung Đạt Lai. Mỗi vị phải tự lập tông, và đối biện pháp
nghĩa. Có đức Đạt Lai Lạt Ma, các vị Kham Bố của ba ngôi đại tự và tất
cả những yếu nhân của chính phủ đều đến tham quan chứng kiến. Sau cùng
là thời điểm truyền lập tông được phát ra từ chùa Đại Chiêu. Người ứng
thí tiếp nhận tất cả mọi vấn nạn từ ba ngôi đại tự để biện luận, phải
đợi ngày bế mạc Đại hội mới biết ai là người trúng học vị Cách Tây. Đây
là một trong những cách khảo thí để tuyển chọn học vị Cách Tây khó nhất.
2-Nhị đẳng Cách Tây:
Các tăng thí sinh ở hạng Nhị đẳng Cách Tây, vào mùa đông
ai ở Trung bộ học viện nào thì cùng nhau tổ chức biện luận. Nhiên hậu
vào tháng hai năm sau, được truyền đến Tiểu Chiêu Tự để cùng với đại
chúng của ba ngôi đại tự biện luận. Các tăng thí sinh nầy vào mùa hạ của
năm trước đó vẫn phải đến Ma Ni Viên để tham gia biện luận. Chẳng qua
là vì lối khảo thí nầy không nghiêm cách bằng Đầu Đẳng Cách Tây.
3-Tam Đẳng Cách Tây
Cách khảo thí nầy được tổ chức trước đại điện thuộc tự
viện mà tăng thí sinh đang cư trú. Vẫn phải lập tông, nhưng về biện luận
thì không mấy khúc mắc. Có thể mời người đại diện Kham Bố đến để tiếp
nhận biện luận. Đây là lối Cách Tây mang tính tượng trưng dành cho những
vị tuổi đã lớn và có vốn học vấn ít ỏi, hoặc họ chỉ được học sơ lược
một bộ kinh luận nào đó nhưng chưa hoàn tất vì tuổi đã luống. Do đó, họ
chỉ cần cái danh dự Cách Tây mà thôi.
Những vị trúng Đầu đẳng và Nhị đẳng Cách Tây sẽ có hai con đường để chọn:
- Một là thóai ẩn nơi sơn cốc, tinh tấn tu hành cầu giải
thoát. Nhưng đôi lúc vì nhu cầu, Chính phủ phải thu nhận họ. Do đó, họ
không thể tĩnh tu mà phải đảm nhiệm chức vị Kham Bố.
- Hai là chuyển thẳng vào hàng ngũ Cử -Ba để tiến tu Mật
pháp. Chức vị tối cao của họ là thăng nhậm làm Cam Đan Trì Ba, những vị
còn lại, sau thời gian đã trở thành Cử-Ba còn lưu trú tại tự viện sẽ
được phái đến các chùa trong cùng chi phái của ba ngôi Đại tự để nhận
chức vị Kham Bố.
Những vị Đệ tam, Đệ tứ đẳng Cách Tây chỉ có ẩn cư tĩnh
tu, bởi đại đa số họ là những người không được Chính phủ lưu tâm thu
dụng.
Tổng kết:
Nền giáo dục của người Tây Tạng có thể nói chỉ duy nhất
là dùng để nghiên cứu Phật học. Họ giảng dạy phương pháp nghiên cứu Phật
học để sao cho việc điều lý được nghiêm cẩn. Chính vì vậy mà nhiều quốc
gia theo Phật giáo trên thế giới không quốc gia nào theo kịp. Khi người
Tây Tạng luận đàm về bất kỳ bộ kinh nào, họ luôn tập trung theo sát nội
dung của bộ kinh ấy và tuyệt đối không “bàng trưng phiếm dẫn”, không
hỏi đông đáp tây, hoặc né tránh lòng vòng. Do đó, họ không bị rơi vào tệ
bác tạp và hỗn loạn. Trong biện luận, câu chữ luôn tuân theo luận thức
Nhân Minh để vấn và đáp, chứ không “tuỳ khẩu loạn thuyết”. Họ cho rằng,
nếu không y chiếu theo phương pháp Nhân Minh luận thì lý chứng không thể
hiển lộ một cách phân minh. Nhờ vậy mà Phật giáo Tây Tạng có khả năng
đào tạo và bồi dưỡng phẩm chất cho rất nhiều nhân tài Phật giáo.