[02]
PHẦN THỨ
HAI
TRÍ DUYÊN VIÊN MÃN TÌNH BẰNG HỮU
Nếu Ðại
Ðức Sàrìputta nổi tiếng về đức tính biết ơn sâu dày, thì tình bằng hữu của Ngài
đậm đà cũng không kém. Với Ðại Ðức Mahà Moggallàna, một người bạn cũng là một
đồng chí trong thuở thiếu thời của Ngài. Ngài luôn luôn giữ chặt tình bằng hữu.
Và những bằng chứng khác nữa là sau khi xuất gia, họ đã tìm đến nhau để đàm
luận về Pháp bảo rất nhiều. Nhờ thế mà có lần khi Ðại Ðức Sàrìputta còn đang
tiến triển trên con đường đạt đến đạo quả, sự luận pháp đã giúp cho Ngài nhiều
tia sáng hữu dụng đặc biệt. Ðiều đó đã được ghi lại trong kinh Anguttara Nikàya
Catukka Nipàta số 167.
Ðoạn ấy thuật rằng: Một lần nọ,
Ðại Ðức Mahà Moggallàna đến gặp đạo huynh của Ngài là Sàrìputta và nói:
"Này sư huynh Sàrìputta. Có bốn con đường tiến hóa là:
1/ Tiến hóa khó khăn mà chậm
chạp thì trực tiếp hiểu biết.
2/ Tiến hóa khó khăn mà nhanh
chóng cũng được trực tiếp hiểu biết.
3/ Tiến hóa dễ dàng mà chậm chạp
thì được hiểu biết trực tiếp.
4/ Tiến hóa dễ dàng mà nhanh
chóng thì cũng được hiểu biết trực tiếp.
Thế thì cái nào trong bốn cách
tiến hóa này đã cho tâm trí của đạo huynh thoát khỏi những điều xấu xa không
còn dư sót?".
- Này đệ Mahà Moggallàna. Chỉ có
cách thứ tư là "Tiến hóa dễ dàng nhanh chóng và hiểu biết trực tiếp".
Cắt nghĩa như đoạn trên chính là
dập tắt các nhơ bẩn trong tâm rồi, chuẩn bị cho sự chấp nhận hay sáng suốt, đó
là một việc làm không khó khăn lắm (Ðây là theo căn duyên của những ai có trí
tuệ phi thường như Ðại Ðức Sàrìputta. Theo kinh điển Phật giáo thì Ðại
Ðức Sàrìputta có trí tuệ bậc nhất trong các đệ tử Phật.) nên được gọi là
Dễ (Sukha Patipadà), ngược lại tức là Khó hay Khổ sở (Dukkha Patipadà). Nếu sau
khi dập tắt hết các nhơ bẩn nơi nội tâm rồi, con đường hành đạo để tiến tới
giác ngộ dù khó khăn đến đâu với Sa-môn loại này cũng trở thành dễ dàng và
nhanh chóng. Do đó họ vẫn có thể chứng đạt một cách thiết thực và vững chắc.
Ở đây sự hiểu biết trực tiếp
(hay còn gọi là trạng thái nối liền với đạo quả) được gọi là nhanh chóng
(Khippabhinnà) còn ngược lại là chậm chạp (Dandàbhinnà).
Trong kỳ luận đạo này, những câu
nói của Ðại Ðức Sàrìputta ám chỉ đến sự đạt được quả vị A-la-hán của Ngài. Tuy
nhiên khi nói đến ba đạo Thánh đầu tiên, vấn đề cắt nghĩa còn tùy theo các chú
giải trong kinh điển. Nhất là để luận về câu "Tiến hóa dễ dàng, chậm chạp
thì được hiểu biết trực tiếp".
Nhờ những cách đàm luận như thế,
đôi bạn Sàrìputta và Mahà Moggallàna đã hiểu biết nhau và trao đổi cho nhau
những kinh nghĩa, những nhận định về Pháp bảo. Họ cũng thường lui tới hội họp
để tham dự những vấn đề bàn cãi giữa Tăng chúng.
Có một dịp khác, nhằm khi họ hợp
tác với nhau trong việc thức tỉnh những vị Tỳ-khưu đã lầm lạc nghe theo lời xúi
dại của ông Devadatta (Ðề Bà Ðạt Ða). Thái độ rất ý nghĩa của Ðại Ðức Sàrìputta
là ngẫu nhiên khen ngợi một cách nhân từ những thật quả của ông Devadatta đã
đạt được, khiến ông quá tự đắc với những thành công ấy mà lâm vào tình trạng
chia rẽ Tăng chúng, gây một biến cố làm suy đồi Phật giáo ngay khi đức Thế Tôn
còn tại tiền. Kết quả những Tỳ-khưu lầm lạc đã được tỉnh ngộ.
Căn cứ theo Cìlavagga, Sangha
Bhedaka Khandhaka, Sanghabheda Kathà thì có một đoạn thuật lại rằng:
"Khi ấy đức Phật bảo Ðại
Ðức Sàrìputta vào công bố trong thành Ràjagaha là tất cả những hành vi và ngôn
ngữ của ông Devadatta sẽ không còn liên hệ vì không được đức Phật, đức Pháp và
đức Tăng nhìn nhận nữa..."
Ðại Ðức Sàrìputta nói:
- Trước đây đệ tử đã từng tán
dương vài khả năng tu tập của ông Devadatta bây giờ đệ tử tuyên bố ngược lại sợ
rằng sẽ gây hoang mang trong dân chúng chăng?
Ðức Phật bèn dạy:
- "Này Sàrìputta. Khi ông
ca ngợi khả năng của ông Devadatta, ông có nói một cách thực thà không?".
- Vâng. Bạch đức Thế Tôn.
- Thế thì bây giờ, này
Sàrìputta. Ông cũng chỉ nói một sự thực về Devadatta (Ðề Bà Ðạt Ða) mà thôi.
Do đó, sau khi được Tăng chúng
công cử Ðại Ðức Sàrìputta cùng vời một số Tỳ-khưu đã vào thành Ràjagaha (Vương
Xá) truyền rao như lời Phật dạy.
Ông Devadatta khi đó đã công
khai chia rẽ Tăng chúng bằng cách tuyên bố là ông có thể hướng dẫn mọi hoạt
động của chư Tăng một cách riêng rẽ. Ông bèn dắt năm trăm vị Tỳ-khưu trẻ tuổi
lên núi Linh Thứu (Ðỉnh núi có nhiều giống kênh kênh chuyên ăn xác người chết
ở) lập đoàn thể riêng.
Ðể gọi họ trở về, đức Phật đã
sai hai Ðại Ðức Sàrìputta và Mahà Moggallàna đến đó. Trong khi ông Devadatta
đang an nghỉ thì hai vị Ðại đệ tử Phật này liền giảng giải cho các vị Tỳ-khưu
lầm lạc ấy nghe về Pháp bảo khiến họ đắc quả Nhập Lưu (Tu Ðà Hườn) và đồng kéo
nhau về với đức Bổn Sư.
Có một lần khác, khi Ðại Ðức
Sàrìputta và Ðại Ðức Mahà Moggallàna đang cùng hợp tác hướng dẫn Tăng lữ thì
khi đó có một số Tỳ-khưu do Ðại Ðức Assàji làm thầy (Không phải Trưởng lão
Assàji đã nói trên) và Ðại Ðức Punabbasu đang ngụ tại Kìtagiri bỗng làm những
điều đáng chê trách, mặc dù đã được các hàng huynh đệ khả kính khuyên nhủ nhiều
lần, những vị Tỳ-khưu này vẫn không sửa đổi tư cách. Do đó hai Ðại Ðức
Sàrìputta và Mahà Moggallàna lại được phái đi để phân xử. Hai vị tôn túc này đã
phải dùng đức kiên nhẫn vô biên mới giải quyết được vấn đề. Kết quả những vị
Tỳ-khưu phạm lỗi vào chịu nghiêm phạt đúng theo giới luật. Nhất là họ phải sám
hối với nhau về tội công kích cá nhân lẫn công kích Tăng Già. (Theo Cùlavagga
Kammakkhadhaka Pabbàjaniya Kamma Pàràjika Pàli Sanghàdisesa Kanda Kuladùsaka
Sikkhàpada).
Thế nhưng chẳng có gì làm chia
rẽ tình bằng hữu của Ðại Ðức Sàrìputta được. Và căn cứ theo chú giải của bộ
kinh Mahàgosinga Sutta thì cũng có một sợi dây cảm mến sâu đậm giữa Ngài và Ðại
Ðức Ànanda, người luôn luôn hầu cận đức Phật. Sở dĩ như thế là vì Ðại Ðức
Sàrìputta nghĩ rằng "Phận sự chăm nom Bổn Sư là việc lẽ ra chính mình phải
lo mỗi ngày. Còn sự cảm mến của Ðại Ðức Ànanda đối với Ðại Ðức Sàrìputta là bởi
Ðại Ðức được đức Phật tuyên bố Ngài là một đệ tử ưu tú. Khi Ðại Ðức Ànanda (A
Nan) làm lễ xuất gia bậc thấp (Sa Di) cho một người học trò trẻ. Ngài đã dẫn
ông ấy đến Ðại Ðức Sàrìputta để thọ giới bậc cao (Tỳ-khưu). Ðại Ðức Sàrìputta
đã hoan hỷ đáp ứng lời yêu cầu của Ðại Ðức Ànanda... Cứ như thế cả hai đã có
tới năm trăm học trò chung.
Bất cứ khi nào Ðại Ðức Ànanda được
y phục tốt hay những vật dụng tốt khác, Ngài thường đem biếu cho Ðại Ðức
Sàrìputta, và ngược lại khi Ðại Ðức Sàrìputta có bất cứ những đồ dâng hiến đặc
biệt nào phát sinh đến Ngài, Ngài cũng đem biếu lại Ðại Ðức Ànanda. Một lần nọ,
Ðại Ðức Ànanda được một bộ y rất quí do một người Bà-la-môn dâng cúng. Sau khi
được đức Phật cho phép Ngài đã giữ bộ y đó đến mười ngày, cho Ðại Ðức Sàrìputta
trở về vì Ngài đang đi vắng. Trong Tiểu chú giải còn nói rằng:
"Các học giả Phật giáo sau
này biết đâu sẽ chẳng bình phẩm: - Ðại Ðức Ànanda vì chưa đắc đạo quả A-la-hán
nên cảm tình cá nhân vẫn còn nhưng Ðại Ðức Sàrìputta là một vị A-la-hán tại sao
cũng có những hành động tương tự?".
Và Tiểu chú giải đã phân tích
rõ:
"Sự kính mến của Ðại Ðức
Sàrìputta nào phải giống như một tình cảm ràng buộc của người đời mà là một
lòng thương do đức hạnh của Ðại Ðức Ànanda. Trong Phật giáo gọi là Ðức cảm
(Guna bhatti)".
Có một lần đức Phật dạy Ðại Ðức
Ànanda: "Này Ànanda! Trong hàng tứ chúng có rất nhiều người cảm mến Ðại
Ðức Sàrìputta. Còn ông, ông có bằng lòng vị Sa-môn ấy không?".
Ðại Ðức Ànanda cung kính trả
lời:
- "Bạch đức Thế Tôn! Dường
như tất cả mọi người đều bằng lòng Ðại Ðức Sàrìputta, chỉ trừ những kẻ còn ấu
trĩ, hư hỏng, ngu muội hoặc ở trong một tinh thần bại hoại. Bạch đức Thế Tôn!
Ðại Ðức Sàrìputta là một vị toàn học, có một trí tuệ vô biên, bạch đức Thế Tôn!
Trí tuệ ấy còn quảng bác, trong sáng, nhanh nhẹn, sắc bén và tiềm ẩn chẳng khác
nào ánh sáng phản chiếu ra từ một tảng pha lê. Ðại Ðức Sàrìputta là một người
ít đòi hỏi, tri túc, vắng lặng, không thích đông đảo và giàu nghị lực. Ngài còn
có tài biện luận, có nghệ thuật nghe để thanh lọc và thu thập. Thật là một bậc
luôn luôn chỉ lo tự kiểm soát để loại trừ những gì là tội lỗi (căn cứ theo kinh
Devaputta. S. Susimasutta).
Trong kinh Thera Gàthà (N.
V-1034) chúng ta thấy Ðại Ðức Ànanda diễn tả sự cảm mến của Ngài khi Ðại đức
Sàrìputta lên đường về quê để tịch diệt. Ngài kêu lên:
- Khi người bạn cao thượng
Sàrìputta đã ra đi cuộc đời này đối với tôi như chìm vào đêm tối.
Ngài cứ nhắc đi nhắc lại như thế
phía sau: Ðoàn người tiễn biệt mà chân không buồn bước, đến nỗi họ và ngay cả
Ðại Ðức Sàrìputta đã bỏ Ngài một khoảng rất xa. Sự mến tiếc đã làm cho những
người xung quanh hầu như chỉ biết có Ngài. Nét ưu buồn của Ðại Ðức Ànanda khi
Ðại Ðức Sàrìputta lên đường nhập diệt cũng được diễn tả rất cảm động trong kinh
Cunda Sutta.
Ðại Ðức Sàrìputta là một người
bạn thật, có ngôn ngữ rất trong sáng và đầy đủ. Ngài thông hiểu nhiều phương
pháp để khai triển những cái đẹp, những cái cao thượng ở những người xung
quanh. Và trong khi làm như thế Ngài đã không chần chờ, đôi khi còn tích cực
một cách thẳng thắn xây dựng bất cứ ai có dịp thân cận với mình. Chính đức Bổn
Sư cũng nói: "Chỉ có những người như vậy mới dám vạch rõ những lỗi lầm của
bạn".
Nhờ vậy mà Ngài Sàrìputta đã
từng giúp Ðại Ðức Anuruddha (A Nậu Lâu Ðà) bẻ gãy hết những chướng ngại sau
cùng để tiến tới phẩm vị A-la-hán. Câu chuyện này được ghi lại trong kinh
Tikanipàta số 128 thuộc bộ Anguttara Nikàya.
Kinh ấy thuật như sau:
"Có một lần nọ, Ðại Ðức
Anuruddha đến gặp Ðại Ðức Sàrìputta. Sau khi chào hỏi và an tọa hợp lễ rồi,
Ngài bèn hỏi Ðại Ðức Sàrìputta:
- Này đạo huynh Sàrìputta. Với
đôi mắt tinh tường nhờ thanh tịnh, với một sự nhận xét không còn phàm tình, tôi
có thể nhìn thấy giòng đời muôn mặt. Sự vững chắc và nghị lực của tôi thật là
bất tuyệt. Tôi lúc nào cũng ghi nhớ và không bị nhầm lẫn. Thể xác yên tịnh và
không bị xáo trộn. Tâm trí của tôi được tập trung vào một điểm (đề mục). Thế mà
thần thức tôi dường như không được thoát khỏi những nguyên nhân bại hoại, nhất
là không được tự do lạc trụ, ngược lại còn bị vướng mắc.
Ðại Ðức Sàrìputta trả lời:
- "Này Ngài Anuruddha.
Chính vì Ngài đã nghĩ như vậy về đôi mắt tinh tường, về sự nhận xét thoát tục,
về trình độ vững chắc, về trạng thái không nhầm lẫn của mình v.v... mà Ngài tự
động dính mắc. Ðó là pháp ngã mạn còn ẩn phá trong Ngài. Rồi Ngài càng biết
rằng mình đang có những khả năng ấy mà vẫn không được tự tại là Ngài càng thắc
mắc, và còn thắc mắc là không có tiến hóa. Sự tự phụ, một hình tướng của ngã
mạn (Màna) và hoạt ý thắc mắc (Uddhacca) là hai trong ba chiếc xiềng
(Samyojana) hằng đeo dính theo hành giả cho đến phẩm A-la-hán mới bị bẻ gãy.
- Này Ngài Anuruddha. Thực ra,
đó là một điều tốt đẹp nếu Ngài từ bỏ những tư tưởng tự phụ này, ấy chính là
Ngài đang vững tiến trên con đường giải thoát.
Sau đó Ðại Ðức Anuruddha đã xa
lìa ba trạng thái chướng ngại ấy, chẳng màng nghĩ đến chúng nữa và Ngài đã thấy
được yếu tố bất tử. Từ ấy, Ðại Ðức Anuruddha tìm sống riêng rẽ tách rời khỏi
mọi sinh hoạt bận rộn, chăm chú hăng hái với một tư tưởng quyết định:
"Trước khi đạt được đời sống thực sự này, Ngài phải hiểu và kinh nghiệm
được nó. Ðối với Ngài mục tiêu cao nhất là kiếp sống cao thượng đó". Là
thể hiện đầy đủ ý nghĩa: "Những đứa con trọn đời đi khỏi gia đình để góp
mặt vào một đại gia đình". Ngài lại còn biết rằng: "Còn lười biếng là
còn tái sinh. Bất tử là phải vĩnh cửu. Giải thoát là không còn dính mắc vào bất
cứ cái gì nằm trong vòng sinh diệt này". Vì thế Ðại Ðức Anuruddha đã trở
thành một trong những vị Thánh A-la-hán.
Ðại Ðức Sàrìputta đã gây quảng
kiến cho đồng đạo và đã được khám phá ra nhiều thiện pháp mới lạ: Mỗi người có
một bẩm tính trong khả năng tiến hóa. Những bẩm tính ấy có khi giống nhau, có
khi khác nhau, có khi biến thành thiện pháp, có khi biến thành ác pháp. Theo
kinh Mahà Gosinga Sutta thuộc Majjhima Nikàya số 32 thì một buổi
chiều kia, khi các Trưởng lão Mahà Moggallàna, Mahà Kassapa, Ngài Anuruddha,
Ngài Revata và Ngài Ànanda đồng đến Ðại Ðức Sàrìputta để nghe pháp. Ðại Ðức
Sàrìputta đã tiếp họ và nói:
- Thật hân hạnh cho rừng cây
Sàlagosinga này. Ðêm nay có trăng. Tất cả những cây Sàla trổ đầy hoa và tỏa
hương thơm như mùi hương từ cung trời bay xuống, thoang thoảng đâu đây. Này đạo
huynh Ànanda! Theo Ngài thì vị nào sẽ làm cho rừng Sàla Gosinga này rực rỡ hơn
lên?
Cùng câu hỏi đó, Ngài cũng đem
hỏi những vị kia, và mỗi vị đã trả lời khác nhau tùy theo cá tính của họ. Sau
cùng Ðại Ðức Sàrìputta nói lên câu trả lời của riêng Ngài như sau:
- Chỉ có vị Tỳ-khưu nào đã kiểm
soát được tư tưởng mình, không còn lệ thuộc dưới sự sai khiến của phóng tâm
nữa. Bất cứ ý nghĩ nào có tính cách lâu bền và đạt được đạo quả mà Ngài hằng ao
ước để nghiền ngẫm về buổi sáng, Ngài có thể suy gẫm đúng trong khoảng thời
gian ấy. Bất cứ kiến thức nào có tính chất lâu bền hay đạt được quả vị mà Ngài
hằng mong muốn để nuôi dưỡng chơn tâm vào buổi trưa Ngài cũng có thể gìn giữ
được vào lúc đó. Và bất cứ nhận thức nào bền vững hữu đạt mà Ngài ưa thích để
nhiếp giữ đề mục vào buổi tối, Ngài cũng có thể làm được trong thời gian đó.
Vì thế như một chiếc tủ đựng
quần áo, đựng đồ trang sức của một ông vua hay một quan đại thần, dù có chứa
đầy những loại phục sức nhiều màu sắc đi nữa, khi được sử dụng nhà vua hay một
quan công thần sống có thứ tự cũng ăn mặc hợp thời, hợp cách theo từng mỗi
khung cảnh, mỗi thời gian của nó. Những hạng vua chúa hay vương thần hằng giữ
đúng phong ngoại của mình như thế thường được mọi người chiêm ngưỡng và có mãi
vẻ uy nghi.
Với một Sa-môn, khi đã kiểm soát
được tâm tính rồi, không còn bị lệ thuộc dưới sự thống trị của ái dục nữa, thì
mọi hành vi, cử chỉ cũng điều độ như thế. Nghĩa là tâm nào phải bền vững, tâm
nào tự phát sinh mọi biến chuyển được nhiếp nhận một cách thuần thục, thoải
mái, không dư sót, đúng thời điểm chắc chắn.
- Này đạo huynh Moggallàna. Một
Sa-môn như thế thì chỉ có Ngài, vị có thể ban cho khu rừng Sàla Gosinga này sự
trong sáng đó.
Sau đó các Ngài cùng đến đức
Phật bạch lại mọi việc. Và đức Thế Tôn đã tán dương đồng ý hết thảy những lời
đàm luận của họ.
Ngài còn tiếp:
- Các ông có thể nhận thấy trong
lời nói của ông Sàrìputta: Với tất cả sức thông minh và địa vị của ông trong
hàng Tăng lữ. Ông đã dẹp bỏ được những khuôn mẫu độc tôn của kẻ thường cố gắng
đặt kiến thức của mình lên trên những kẻ khác. Làm thế nào mà ông đã hiểu một
cách dễ dàng phương pháp tiêm nhiễm những ý thức riêng của ông vào những bậc
đồng đạo trong một nghệ thuật tự nhiên và huyền dịu đem đến cho họ một sự thấm
nhuần lồng trong một khung cảnh vui tươi như vậy.
- Ðây quả thực là bản thức của
ông đã phản ảnh ra, và đã lôi cuốn những người đồng đạo với ông hưởng ứng để
đối đáp một cách tương tự.
Ngoài các vị Ðại Ðức vừa kể trên
ra, Ðại Ðức Sàrìputta còn luận đạo với những vị Tôn giả khác nữa. Chẳng hạn như
các Ngài Kotthita, Upavàna, Samiddhi, Savittha, Bhùmija và một số vị nữa.
Riêng đức Phật, theo kinh điển
chúng ta thấy Ngài rất thường đích thân nói chuyện với Ðại Ðức Sàrìputta. Và
ngược lại có khá nhiều bài pháp mà đức Bổn Sư thuyết cho những đệ tử thông luật
của Ngài nghe, đã được Ðại Ðức Sàrìputta dùng làm đề tài để học hỏi...
Có một lần, Ðại Ðức Sàrìputta đã
lập lại những lời dạy mà đức Phật thuyết cho Ngài Ànanda nghe vào một dịp nọ:
"Những đối xử làm cho đời sống trong sạch (Brahmacariyà) gọi là tình bằng
hữu, tình đồng đạo và tình đoàn thể cao đẹp" (theo Kinh Magga SAMYUTTA
Khandha -No. 2).
Không có gì hoàn hảo hơn là
những thí dụ cắt nghĩa về giáo lý mà chính một Ðại đệ tử của một bậc Tôn Sư đã
thể hiện được.
MỘT KẺ ÐỠ ÐẦU TĂNG LỮ
Sự nổi bật của Ðại Ðức Sàrìputta
trong hàng môn đồ của đức Phật là đức tính chăm lo giúp đỡ những vị khác. Chúng
ta tìm thấy thuật sự này trong kinh Devadaha Sutta:
"Những vị khách Tăng khi
sắp trở về chốn cũ của họ, đến từ giã đức Phật, Ngài thường khuyên các Tỳ-khưu
ấy đến chia tay với Ðại Ðức Sàrìputta. Phật bảo:
- Này các đệ tử! Sa-môn
Sàrìputta thật không những là một người thông thái hằng giúp đỡ huynh đệ trên
phương diện tinh thần, mà ông còn có khả năng cung ứng những nhu cầu vật chất
cho đồng đạo nữa". (Kinh gọi hai sự giúp đỡ đó là Àmisànuggaha: Vật dụng
và Dhammà nuggaha: Pháp dụng).
Chú giải còn nói: Vị Trưởng lão
này không đi khất thực trong lúc sáng sớm như những vị Tỳ-khưu khác. Thay vì
thế, khi các vị đã đi rồi, Ngài bèn thả bước xung quanh tịnh xá. Và bất cứ ở
đâu nếu Ngài tìm thấy đồ đạc không thu xếp, chỗ ngụ không sạch sẽ, Ngài liền
dọn dẹp quét hốt mọi rác rưới, và sửa soạn ngay cả giường chiếu, bàn ghế, chén
bát, bình nước, thứ tự và sẵn sàng để cho những vị kia đi về sẽ dùng. Ngài làm
như thế, ngoài đức tính chăm sóc chư Tăng, còn nghĩ rằng: "Những đạo sĩ
khác, không phải người trong Phật giáo khi viếng thăm tịnh xá, có thể thấy được
sự vô trật tự rồi chỉ trích chư Tỳ-khưu hoặc coi rẻ Tăng chúng".
Sau đó Ngài thường đi đến bệnh
xá và an ủi những bệnh nhân bằng cách tìm hiểu xem họ cần những gì. Ðể đáp ứng
các nhu cầu của họ, Ngài đã dắt các vị Sa Di cùng đi với Ngài để tìm thuốc men
dưới hình thức đi khất thực như thường lệ. Hay Ngài dẫn họ đến những nơi thích
hợp (tức thí chủ đã yêu cầu Ngài trước) để kêu gọi thuốc men. Khi đã được
thuốc, Ngài bèn giao lại cho các vị Sa Di và bảo:
- Này các ông! Chăm sóc cho
những người bệnh là một điều mà đức Bổn Sư hằng khen ngợi. Bây giờ các ông hãy
trở về và phải luôn luôn làm việc hết lòng.
Rồi Ngài tiếp tục khất thực hoặc
đến dùng bữa tại một nhà thí chủ. Ðây là một thói quen của Ngài trong khi ở
chung với cộng đồng Tăng chúng.
Nhưng khi Ngài có một cuộc hành
trình cùng với đức Thế Tôn, Ngài thường không đi chung với những vị dẫn đầu,
hay không tỏ ra kiểu cách cho người ta biết Ngài là một Ðại đệ tử. Trái lại
Ngài chỉ giao y bát cho các vị Sa Di mang hộ, rồi đích thân trước tiên chăm sóc
những Tăng sĩ già yếu, thứ đến là những vị không được khỏe mạnh và những vị mới
xuất gia hay những đệ tử mới bước chân vào đường đạo. Trong nhiều trường hợp
Ngài phải ở cạnh họ trong nhiều giờ, tự tay thoa bóp vào những chỗ đau đớn trên
thân thể bệnh nhân và phân lượng thuốc uống cho từng người một. Chỉ khi nào
Ngài thấy họ thuyên giảm Ngài mới từ giã đi săn sóc chỗ khác.
Có một lần, khi cũng vì những lý
do như vậy mà Ðại Ðức Sàrìputta đã đến nơi rất trễ, lúc đó những vị kia đã ngơi
nghỉ. Ngài không tìm được một chỗ vừa phải để nghỉ lưng qua một đêm. Ngài phải
ngồi dưới một mái lều làm bằng những lá y. đức Bổn Sư rõ như vậy, nên ngày hôm
sau Ngài triệu tập Tăng Chúng và thuật cho họ nghe câu chuyện đối xử của một
con voi, một con lừa và một con chim đa đa. Phật kể: "Ba con thú này cảm
thấy muốn được an ninh phải sống nương dựa lẫn nhau. Chúng quyết định tôn một
con lên làm anh cả để tạo trật tự rồi từ đó sống chung hòa thuận: nhỏ kính lớn,
lớn thương nhỏ" (Truyện số 67, ghi trong Tittira Jàtaka).
Sau đó đức Phật chế ra điều luật
rằng: "Chỗ nghỉ ngơi phải được sắp đặt theo thứ bậc". (Theo Vinaya
Cùlavagga, Senàsanà Khandhaka).
Còn về việc tiếp độ các hàng
Tăng lữ trên phương diện tinh thần, Ðại Ðức Sàrìputta cũng tích cực không kém.
Căn cứ Kinh Thera Gathà và chú giải thì khi Ngài đến thăm ông Samittigutta,
người đang bịnh cùi hoành hành trong một bịnh xá, Ngài đã thân mật giảng cho
ông Samittigutta nghe rằng:
- Này bạn! Ðã lâu lắm rồi, pháp
tập hợp (Khandha) hằng tiếp diễn. Và cảm nghĩ chỉ là sự đau khổ. Chỉ khi nào
Ngũ uẩn không còn hoạt động liên tục nữa thì sẽ dứt khổ.
Khi nghe xong những lời này, sự
quán tưởng về những cảm nghĩ đã trở thành một đề mục cho bịnh nhân. Lúc Ðại Ðức
Sàrìputta đi rồi, ông Samittigutta theo những lời chỉ dạy của Ngài đã phát
triển được nội thức và đạt tới Lục thông (Chalabhinnà) của một bậc A-la-hán
(theo Thera Gathà.).
Lần khác khi ông Anàthapiịđika
(Cấp Cô Ðộc) đang hấp hối nằm trên giường bịnh thì Ðại Ðức Sàrìputta đã cùng
với Ðại Ðức Ànanda tới thăm, Ngài đã thuyết vào tai cho người sắp chết một phần
pháp nói về sự ra đi không dính mắc, và ông bá hộ Anàthapiịđika đã thức tỉnh do
bài pháp thâm thúy này (trong Majjhima Nikàya, Số 143.).
Có một bài pháp khác cũng do
Ngài Sàrìputta thuyết cho ông Anàthapindika (Cấp Cô Ðộc) nghe khi ông này ở
trong giường bịnh đã được ghi lại trong kinh Sotàpatti SAMYUTTA, đoạn III câu
số 6 như sau:
"Những động lực đưa đến sự
tái sinh trong trạng thái thống khổ là ba gốc chướng ngại, năm sợi dây thằng
thúc, và mười điều bất thiện".
Pháp này được thấm nhuần khi ông
Anàthapiịđika đang bước vào trong lãnh vực Thánh Lưu nên sự đau đớn thể xác
không còn lung lạc ông ta được nữa. Kết quả ông đã thấy rõ bốn uẩn như không và
bốn Quả, bốn Ðạo không còn dư sót.
Lại một lần đức Trưởng lão
Channa đang ngã bịnh, bị một nỗi đau đớn vô biên. Ðại Ðức Sàrìputta đến thăm
Ngài, cùng đi với Trưởng lão Mahà Cunda. Khi trông thấy vị Sa-môn bị bịnh hoạn
dày vò, Ðại Ðức Sàrìputta lập tức tình nguyện đi tìm thuốc men và vật thực
thích hợp cho Ngài. Nhưng Trưởng lão Channa vội cho biết Ngài quyết định chấm
dứt cuộc đời. Nên sau khi họ đã đi rồi Ngài liền nhập diệt.
Kế đó đức Phật đã giảng giải về
hành động của Trưởng lão Channa. Ngài xác nhận đó không phải là một điều quyết
định sai lầm vì Trưởng lão Channa đã đắc A-la-hán trước khi dứt khoát an nghỉ.
Nghệ thuật tiếp độ của Ðại Ðức
có thể tìm thấy trong kinh Channovàda Sutta thuộc bộ Majjhima Nikàya số 144.
Ðoạn ấy nói rõ:
"Bất cứ khi nào Ðại Ðức
Sàrìputta làm bổn phận đạo sư đến những người sắp trút hơi thở cuối cùng, Ngài
cũng luôn luôn tỏ ra là một người kiên nhẫn phi thường. Ngài cứ khuyên nhủ và
khai ngộ dồn dập cả đến trăm ngàn lần, cho đến khi nào bịnh nhân phát khởi
thiện tâm Ngài mới an lòng chấm dứt.
Nghệ thuật ấy cũng được Ðại Ðức
Sàrìputta áp dụng để dạy dỗ học trò. Bất cứ người nào mới bước chân vào đạo mà
được Ðại Ðức Sàrìputta hướng dẫn, Ngài cũng đều làm cho người ấy đắc quả Nhập
Lưu (Tu Ðà Hườn), sau đó Ngài mới chịu thả lỏng để đi dạy dỗ các vị khác.
Số Tăng lữ dưới sự dạy dỗ của
Ngài nhờ thu thập được giai đoạn căn bản vững chắc ấy đã tiếp tục thực hành đến
lúc đạt được quả vị A-la-hán nhiều vô số kể".
Trong kinh Sacca Vibhanga Sutta
thuộc bộ Majjhima Nikàya số 141, đức Phật đã nói:
"Ðại Ðức Sàrìputta như một
người mẹ nuôi nấng các con, trong khi Ðại Ðức Mahà Moggallàna như là một người
vú hằng nâng niu các con. Ðại Ðức Sàrìputta hướng dẫn cho đến quả Nhập Lưu còn
Ðại Ðức Mahà Moggallàna thì nâng đỡ hành giả đến mục tiêu cao nhất".
Ðể bổ túc về nghệ thuật dẫn đạo
của Ðại Ðức Sàrìputta, Chú giải còn nói thêm:
"Ðiểm đặc biệt của Ðại Ðức
Sàrìputta là không phân biệt học trò mình hay học trò người. Hễ ai chịu sự dạy
dỗ của Ngài, Ngài luôn luôn hướng dẫn bằng tất cả sự sốt sắng, luôn luôn giúp
đỡ trên mọi phương diện vật chất lẫn tinh thần nhất là chọn cho họ đề mục Thiền
Ðịnh cùng thường xuyên khai triển trí thông minh của họ, cho đến khi nào họ
thấu triệt được Thánh Lưu và tiến lên khỏi sự nguy hiểm của dục trần thấp thỏi.
Khi nào Ðại Ðức Sàrìputta tách rời học trò khi ấy Ngài biết chắc rằng:
"Giờ đây, với sức trưởng thành của họ, họ có thể tự tiến hóa để nhường tay
cho những vị cần hướng dẫn khác".
Nhưng Ðại Ðức Mahà Moggallàna
thì khác. Ngài cũng huấn luyện học trò cùng phương pháp như vậy, nhưng Ngài
không thả lỏng họ, dù cho họ có vững chắc trong giai đoạn đầu. Ðại Ðức Mahà
Moggallàna có vững chắc trong giai đoạn đầu. Ðại đức Mahà Moggallàna có một đức
thận trọng vô song, Ngài quan niệm như một lần Phật đã thuyết:
"Chỉ một mầm móng vi tế của
tội lỗi còn ngấm ngầm trong tâm, Như Lai cũng không khen ngợi. Dù cho hành giả
có được pháp Hữu tịnh trong một thời gian nào đó đi nữa mà gốc rễ của tội lỗi
vẫn còn thì pháp Hữu tịnh ấy có thể tan biến dễ dàng như một cái búng ngón tay".
Nhắc đến nghệ thuật huấn đạo của
Ðại Ðức Mahà Moggallàna khác với Ðại Ðức Sàrìputta như vậy không có nghĩa là
nói rằng phương pháp của Ngài Mahà Moggallàna tỏ ra chắc chắn hơn phương pháp
của Ðại Ðức Sàrìputta, mà chỉ có thể chứng minh tại sao hai vị đã theo đức Phật
cùng một lần, mà về sau học trò của Ðại Ðức Sàrìputta lại nhiều hơn học trò của
Ðại Ðức Mahà Moggallàna.
Mặt khác, Chú giải ghi lại những
lần Ðại Ðức Sàrìputta đã dắt dẫn nhiều huynh đệ đạt đến đạo quả A-la-hán không
phải là ít.
Chẳng hạn như có một đoạn nói:
"Vào lúc ấy có chư Tỳ-khưu trong giai đoạn huấn luyện tâm thức bậc cao
(Sekhà) thường đến gần Ðại Ðức Sàrìputta để nhờ chọn đề mục Thiền Ðịnh. Trong
số đó có Sa-môn Trưởng lão tên Lakuntika Bhaddiya đã đắc được quả A-la-hán nhờ
sự hỗ trợ của Ðại Ðức Sàrìputta" (Theo Kinh Udana VII-1).
Với những đóng góp như vậy, Ðại
Ðức Sàrìputta đã có công trong việc phát triển Pháp Bảo rất nhiều. Ngài là một
bậc lãnh đạo vĩ đại của Tăng Già, và là một tấm gương sáng trong hàng Tứ chúng.
Những bài học mà Ngài đã lưu lại cho ta sau này không những chỉ bén nhọn và cho
ta sau này không những chỉ bén nhọn và sáng tỏ, thức tỉnh được tâm tánh của con
người mà còn là một sự lợi ích thiết thực, trong đó cái tên Sàrìputta giống như
một bàn tay nâng niu, một bóng mát vĩ đại cho những ai ngưỡng mộ muốn bước theo
dấu chân của Ngài.
Lại nữa, trong kinh còn ghi nhận
những tiểu tiết về cách thưởng thức Pháp bảo của Ðại Ðức Sàrìputta trước những
Sa-môn mà Ngài chưa có dịp thân cận. Chẳng hạn như chuyện Ngài Punna Mantàniputta,
một Cao Tăng mà Ðại Ðức Sàrìputta chỉ nghe danh chứ chưa được làm quen. Khi hay
tin Trưởng lão này muốn đến thăm, Ngài đã vui vẻ tiếp đón và chăm chú thưởng
thức một bài pháp của vị khách Tăng một cách kính phục khi bài pháp chấm dứt,
Ngài đã vô cùng khen ngợi (theo Trung A Hàm ( Majjhima Nikàya) số 24.).
Sự làm chủ được thể xác cũng như
đối với những nhu cầu tinh thần của chư Tỳ-khưu dưới sự đảm trách của Ngài.
Ngài đã không kềm chế họ bằng những lời quở dạy hiền từ, và làm cho họ trở nên
quả cảm bởi sự khen ngợi về những cố gắng xứng đáng, hướng dẫn họ trên con
đường tiến hóa, cùng chỉ cho họ tất cả những gì mà họ cần làm để xứng đáng là
đệ tử của Phật. Những gì Ngài nói ra tự Ngài đã thực hành được. Ðó là mãnh lực
lôi kéo và làm biểu lộ những đức tánh tốt nhất của các hàng học trò.
Ðại Ðức Sàrìputta đã hòa hợp
những phẩm tính của một ông thầy hoàn toàn với đức hạnh của một người bạn trọn
vẹn. Ngài như một ánh đèn, vừa là một vật dụng hằng ngày, cần thiết của Giáo
Hội Tăng Già vào thời đức Phật.
Vị đã được trọn đủ những đức
tánh của một kiếp sống đầy phẩm Thánh của chính mình nên Ngài rất tinh tường
trong khi nhận thấy giới đức nơi những vị khác. Ngài là chuyên viên để phát
triển nó trong những ai đang ngấm ngầm chứa đựng nó. Và trong số những người ca
ngợi khi giới đức của một vị nào bộc lộ ra ngoài như một cánh hoa đến kỳ khai
nở thì Ngài là người đầu tiên làm việc đó. Sự ca ngợi của Ngài là một sức mạnh
che chở cho đóa hoa tiếp tục nở rộ, chứ không phải gây kinh động cho nó dừng
lại ở đó. Ðức tính hoàn toàn riêng biệt này của Ngài không phải vô tình hay giả
tạo, mà là một sự hòa hợp súc tích bên trong, về sự tán dương tinh thần với
những phẩm tính tốt nhất và huyền dịu nhất của một Thánh nhân.
SỰ ÐẠT TỚI MỤC ÐÍCH
Trong Theragàthà có hai bài kệ
số 995 và 996 là những câu mà nhờ đó Ðại Ðức Sàrìputta khi nghe đã đắc quả
A-la-hán.
Ngài đã thuật lại rằng: "Có
một lần nọ, đức Phật thuyết pháp cho một vị Tỳ-khưu khác nghe, bần đạo đã chú
tâm theo dõi bài pháp ấy để tìm sự lợi ích thiết thực cho mình. Kết quả thật vô
cùng xứng đáng, vì nhờ nó bần đạo đã thoát khỏi những dục tâm, bần đạo đã tẩy
trừ được phiền não".
Trong hai bài kệ nối tiếp số 996
và 997 Ðại Ðức Sàrìputta đã nói lên rằng: "Ngài không gặp một chút trở
ngại nào trong việc phát triển năm sức mạnh phi thường (Abhinnà)". Còn căn
cứ theo kệ ngôn Iddhividha, trong kinh Patisamhbidà Magga thì khi ấy Ngài đã
đại tín thắng thức và nắm vững sự định tâm trong các bậc Thiền. Sức thuần thục
ấy gọi là Lực an trụ (Samàdhi Vipphàriddhi), nó có khả năng hộ trì tâm lý khỏi
những biến hiện tự nhiên và bất thần của Nội ma lẫn Ngoại ma. Ðiều này được
diễn tả do một mẫu chuyện chép trong kinh như sau:
"Một lần nọ, khi Ðại Ðức
Sàrìputta đang hành đạo với Trưởng lão Mahà Moggallàna tại miền Kapotakandarà. Lúc
ấy Ngài đang tham thiền ngoài chỗ trống với cái đầu vừa cạo. Khi đó có một hung
thần xuất hiện và đánh lên đầu Ngài một cái như trời giáng. Cú đánh thực là ác
nghiệt. Nhưng ngay lúc bị đánh, đức Sàrìputta đã hoàn toàn nhập định. Kết quả
Ngài cũng chẳng hay biết chi cả".
Câu chuyện này rút từ kinh
Udàna, cuốn số 15, đoạn 4. Kinh ấy còn tiếp tục câu chuyện như sau:
Ðại Ðức Mahà Moggallàna đã trông
thấy việc bất ngờ đó và lại gần Trưởng lão Sàrìputta hỏi xem Ngài có làm sao
không. Ðại Ðức hỏi:
- Này đạo huynh! Ngài có an tịnh
không? Và chẳng có việc gì làm rầy Ngài chứ?
- Tôi rất thoải mái, phỉ lạc,
này pháp đệ Mahà Moggallàna. Tôi tham thiền nhiều tiến triển lắm. Chỉ khi xả
thiền thì cái đầu của tôi làm trở ngại chút ít thôi.
Ðại Ðức Mahà Moggallàna liền tán
thán lên ngay nơi ấy:
- Này đạo huynh Sàrìputta! Thực
là kỳ diệu. Thật là một trạng thái kỳ lạ. Này đạo huynh Sàrìputta! Sức mạnh thể
xác và năng lực của Ngài thực là vô địch. Vì vừa đây đạo huynh Sàrìputta. Có
một hung thần đã giáng cho Ngài một cái đánh trên đầu, và là một cú đánh đầy
sức mạnh. Với một cái đánh như thế, người ta có thể hạ nổi một con voi cao bảy
tám do tuần. Hoặc giả một người có thể dùng sức mạnh đó thì xẻ đôi được một quả
núi. Thế mà Ðại Ðức Sàrìputta chỉ nói: "Tôi cảm thấy phỉ lạc lắm này đệ
Mahà Moggallàna. Tôi tham thiền khá tiến hóa, chỉ có cái đầu tôi làm trở ngại
chút ít thôi".
Sau đó Ðại Ðức Sàrìputta trả
lời:
- Ôi! Thực là tuyệt diệu, này đệ
Mahà Moggallàna! Thực là một kỳ lực, này đệ Mahà Moggallàna! Sự bén nhạy thể
chất và năng lực tinh thần của Ngài vĩ đại làm sao đến nỗi Ngài có thể trông
thấy một hung thần tức khắc. Về phần tôi, tôi đã không trông thấy kịp như đôi
mắt siêu tốc của Ngài.
Kinh Anupada (Trong Majjhima
Nikàya No III) còn chứa phần mô tả sự đạt được đạo quả của Ðại Ðức Sàrìputta,
do chính đức Thế Tôn thuyết. Trong đó đức Phật nói rằng: "Ðại Ðức
Sàrìputta ta đã thành công và thông hiểu chín bậc thiền, nghĩa là bốn thể chất
thiền và bốn siêu thể chất thiền (Jhàna) đồng thời với sự Không thức và Không
nghĩ".
Trong kinh Sàrìputta Samyutta,
phần Khandha Vagga, chính đức Trưởng lão đã xác nhận sự thật như thế khi nói
chuyện với Ðại Ðức Ànanda. Ngài phân tích:
"Xuyên qua các bậc Thánh mà
Ngài đã vững chắc tiến lên là nhờ những TUỆ DIỆT TƯ THỨC như": Tôi chẳng
bao giờ quan niệm là tôi đang tiến vào bậc thiền này hay vượt khỏi bậc thiền
kia, cho dù thực tế tôi đang tiến hành trong đó".
Và trong một dịp khác, Ngài đã
diễn tả cho Ðại Ðức Ànanda nghe về sự đạt được an trụ để phát triển nội trí như
thế nào. Nhất là làm sao để thoát khỏi sự lôi cuốn của Tứ đại gồm đất, nước,
lửa và gió. Thí dụ như Ngài nói "Hãy niệm đất như đất mà không cần biết
đất đó nằm trong Tứ đại. Và tương tự như thế, đối với ba đại kia cũng
vậy".
Theo đó, đối với bốn bậc thiền,
Lạc Trụ Siêu Thế (hay còn gọi là Lạc Trụ Vô Sắc), Ngài cũng không để cho Lực
Tri Giác xuất hiện.
Ðiều này mới nghe qua ta có cảm
tưởng như lúc ấy Ngài đã hoàn toàn biến thành một người Vô thức. Nhưng kỳ thật
Ngài vẫn còn một thức. Ðó là Thức hướng về Niết Bàn, thức tách rời mọi sự ràng
buộc từ bất cứ pháp thể nào (Bhava Nirodha).
Thái độ tách rời này đối với các
bậc Thiền là những công lực sẵn sàng để duy trì an tịnh trong trạng thái trống
rỗng (Sunnata Vihàra), mà Ðại Ðức Sàrìputta hằng nuôi dưỡng.
Chúng ta đọc trong Kinh
Pindapàta Pàrisuddhi, số 151 (thuộc bộ Majjhima Nikàya Trung A Hàm) thấy rằng:
Có một lần đức Phật đã khen ngợi về những nét tươi tỉnh của Ðại Ðức Sàrìputta,
và Ngài dạy Ðại Ðức hãy nói ra cho chư Tăng biết nhờ trạng thái tư tưởng nào mà
có được những nét tươi tỉnh này. Ðại Ðức Sàrìputta vâng lời đáp:
- Ðệ tử thường tập tánh pháp bền
chịu trong sự trống rỗng".
Do đó đức Phật đã tán thán:
"Ðây chính là nơi cư trú của những hàng vĩ nhân".
Tiếp theo là Ðại Ðức Sàrìputta
đã mô tả pháp trạng ấy bằng chi tiết. Kinh Udàna còn ghi rõ "Chính đức Thế
Tôn đã ba lần trông thấy Ðại Ðức Sàrìputta khi ngồi thiền phía ngoài tịnh xá đã
ngâm những câu kệ (Udàna) để làm vững chắc cho tâm con yên tĩnh".
Chúng ta hãy đọc lại và thử
tưởng tượng theo kinh Devadaha, trong SAMYUTTA Khandhaka No 2, một khung cảnh
ngồi thiền của Ðại Ðức Sàrìputta thật ngoạn mục như sau:
"Một lần nọ, đức Thế Tôn
ngụ trong nước Sakya, tại thành Devadaha, Ngài đã tìm thấy Ðại Ðức Sàrìputta
nhập sâu trong Thiền cảnh dưới một vòm cây Elagalà. Giống cây này chỉ mọc ở chỗ
nào luôn luôn có một dòng nước chảy qua. Người ta đã làm cái vòm cây ấy bằng
bốn cây trụ trên đó để bụi cây đan nhau tạo thành một mái nhà. Bên dưới, mặt
đất được trải cát bằng phẳng và ở chính giữa có lót những viên gạch để ngồi.
Thật là một chỗ mát mẻ, yên lặng với những luồng gió nhẹ, trong sạch từ dưới
nước thổi lên.
Và đức Thế Tôn đã tán thán cái
khung cảnh ấy.
Còn nói về sự đạt được Tuệ Phân
Biệt (Patisambhidanàna) của Ngài, Ðại Ðức Sàrìputta đã diễn tả trong kinh
Anguttara Nikàya số 172 như sau:
"Này các đạo huynh. Sau khi
bần Tăng xuất gia được nửa tháng, bần Tăng đã trực nhận được ý nghĩa của Pháp
Thân, trong sáng của ngôn ngữ, an tịnh của ý thức do Tuệ Phân Biệt từ thể phần
chi tiết. Những điều này bần Tăng đã nhiều lần đem trình bày cho chư huynh đệ
và giảng giải cho quí vị hiểu một cách tận tường về bản chất của nó. Nếu vị nào
bị phân vân hoặc không nắm vững trong khi bần Tăng đã tận lực thì chỉ có đức
Bổn Sư là người có khả năng làm sáng tỏ tất cả".
Căn cứ theo đó thì Ðại Ðức
Sàrìputta là người rất am tường về mọi trạng thái chứng đạt đạo quả. Ngay cả
trí tuệ là vấn đề phức tạp nhất mà Ðại Ðức Sàrìputta cũng thông đạt, nên đức
Phật đã nói:
- Nếu có một kẻ hằng nói về mình
rằng họ đã vững chắc và hoàn toàn trong đức hạnh, an trụ trong thanh tịnh, giải
thoát trong cao thượng thì người ấy chính là Sàrìputta, một Sa-môn có thể nói
được một cách trung thực.
Rồi Phật còn xác nhận:
- Nếu có một kẻ hằng nói về mình
rằng họ là đứa con thật sự của đức Thế Tôn thấu hiểu được giáo lý của Ngài,
thông suốt và thực hành được Pháp bảo, xứng đáng làm người thừa tự Pháp bảo và
không thừa hưởng những nguồn lợi ở đời thì người đó chính là Sa-môn Sàrìputta
mới có thể nói đúng.
- Này chư Tỳ-khưu! Ngoài Như Lai
ra, Sàrìputta sẽ là người có thể lăn được bánh xe tối thượng Pháp bảo một cách
đúng đắn gần giống như Như Lai đã lăn. (theo Majjhima Nikàya III, Anupada
Sutta).
ÐẠI ÐỨC SÀRÌPUTTA, NGƯỜI XỨNG
ÐÁNG LĂN BÁNH XE PHÁP BẢO
Những bài pháp của Ðại Ðức
Sàrìputta và những mô tả của đức Phật hay của các vị Tôn túc khác về Ngài đã
chứng tỏ Ðại Ðức Sàrìputta đóng một vai trò hàng đầu trong việc chuyển lăn bánh
xe pháp.
Chúng ta thấy điều này đã được
chứng minh bằng hai thời pháp cổ điển trong kinh Sammàditthi No 9, thuộc bộ
Majjhima Nikàya (Trung A Hàm) và một phần trong kinh nói về "Sự so sánh
những bước chân voi".
Ðoạn nói về "Sự so sánh
những bước chân voi" này quả là một kiệt tác trị tâm bịnh một cách rất
khoa học. Nó bắt đầu bằng sự nhắc lại bốn Pháp Diệu Ðế. Tiếp theo nó phân tích
từng sự thực về mỗi hoạt động của Ngũ uẩn, của bản chất con người, từ sự kết
hợp thân thể tính đến sự kết hợp ý thức tính. Nó còn nói rõ sự cấu tạo của Tứ
Ðại mà mỗi đại trong đó cái nào được gọi là Nội thể hay cái nào được gọi là
Ngoại thể. Những bộ phận và những động tác thân thể nào được ý thức chỉ huy và
những cái nào bị ngoại cảnh chi phối. Nó còn nói rõ cái mà người ta gọi là bản
ngã vốn chỉ là nội tâm bám chặt vào ngoại cảnh. Khi đã nhận thức như vậy thì sẽ
thấy rõ xác thân tứ đại hẳn là một ngoại cảnh. Tuy cả hai nội tâm và ngoại cảnh
đều có bản chất vô thường, nhưng cái vô thường của nội tâm ta có thể dùng thiền
định chỉ huy, còn cái vô thường của ngoại cảnh ta chỉ biết có khổ.
Rồi bài pháp lại tiếp:
"Vô thường là một định
luật, không phải là nguyên nhân của khổ, chỉ vì sự bám chặt vào những sắc thái
vô thường mới là mầm móng của muôn điều khổ não. Sự bấn loạn khi ý thức không
bắt kịp hay không biết rõ mọi biến đổi của sắc thân chính là khởi điểm của một
chuỗi huân tập và làm nẩy sinh ra cái mà ta gọi là bản ngã (tức Ngũ uẩn) đau
khổ".
Khi một Sa-môn có được sự nhận
thức như thế rồi, đồng thời với sự thanh tịnh sáng suốt đã được phát triển
trong tâm, Sa-môn ấy khi đương đầu với những chướng ngại như mất mát, chê trách
hoặc thù hận, họ sẽ không khó chịu hay bấn loạn tư tưởng. Trái lại, họ sẽ rất
sáng suốt thấy rõ phiền não nổi lên ở nơi nào liền diệt ngay tại nơi ấy. Chẳng
hạn như phiền não nổi lên ở nhãn căn thì diệt ngay nhĩ thức, phiền não nổi lên
ở thiệt căn thì diệt ngay thiệt thức, phiền não nổi lên ở thân căn thì diệt
ngay thân thức, phiền não nổi lên ở ý căn thì diệt ngay ở ý thức, phiền não nổi
lên ở tâm sơ định thì diệt ngay ở sơ định thức, phiền não nổi lên ở tâm cận
định thì diệt ngay ở cận định thức v.v...
Cứ như thế, Sa-môn trong Phật
giáo khi đã an tịnh và nhập lưu (kể từ đạo quả Tu Ðà Hườn) thì họ chỉ tiến chứ
không có thối. Dù trong khi tiến hóa, sắc thân tứ đại của họ có bị đánh ngã,
tâm trí họ cũng vẫn không bị tổn thương. Ðối với họ, sau khi đã dẹp bỏ mọi
phiền não, mọi vướng mắc, mọi câu chấp rồi tâm trí chỉ còn một việc duy nhất là
đề mục Thiền Ðịnh.
Những hạng Sa-môn này khi nghe
được Pháp bảo của chư Phật thì trạng thái an tịnh nơi họ liền trở nên tinh
khiết, trong suốt, ý niệm vô lượng liền lập tức phát sinh. Họ tưởng nhớ đến đức
Phật, đức Pháp và đức Tăng cùng một lúc tỏa ra tâm đại xả trước vạn pháp vui
cũng như khổ".
Còn đối với những ai chưa đạt
được quả Thánh, thời pháp tiếp:
"Khi hành giả hướng tới đức
Phật, đức Pháp và đức Tăng, sự bình thản của họ nếu không được bền vững, họ
cũng vẫn tiếp thụ kinh cảm để tinh tấn gầy dựng thanh tịnh. Và sự tiếp thụ kinh
cảm ấy chính là tia sáng hướng dẫn hành giả trở về với đề mục cao thượng. Mặc
khác, nếu sự an tịnh luôn luôn bền vững hành giả chắc chắn sẽ tăng trưởng phỉ
lạc. Và họ chỉ cần kéo dài tình trạng phỉ lạc này để bước đến ngưỡng cửa Thánh
nhân không còn xa mấy".
Trên đây là tất cả những Yếu
pháp được coi như do Ðại Ðức Sàrìputta đã khám phá và thuyết ra. Phần hậu luận
dành cho phàm nhân được trình bày bằng cách so sánh toàn bộ một con người với
một ngôi nhà có năm cửa ván xung quanh và một cửa kính chính giữa. Cửa ván thì
khi đóng, che mắt được đạo tặc, song cửa kính thì dù đóng hay mở, đạo tặc cũng
nhìn thấy rõ bên trong. Cửa ván có thể bị những ngoại vật ô uế làm hư mục,
nhưng cửa kính chỉ bị các vật ấy làm mờ đục mà thôi. Người chủ nhà khôn ngoan
là người chỉ mở cửa ván bên ngoài cho bạn lành bước vào và luôn luôn lau chùi
cửa kính bên trong cho thật trong sáng để thấy rõ mọi phía xung quanh hầu tìm
bắt ngoại tặc lẻn vô ẩn núp đâu đấy mà đuổi ra, không cho xâm nhập tận trung
tâm.
Tương tự như thế, một con người
có năm giác quan (Ngũ căn) ví như năm cửa ván bên ngoài, và ý căn ví như cửa
kính bên trong. Bạn xấu ví như đạo tặc, ngoại vật ô uế ví như ác pháp. Bạn lành
ví như giới đức. Việc lau chùi cửa kính ví như thiền định. Sự trong sáng ví như
thiện pháp. Và sau cùng, người chủ nhà ví như con tâm.
Người thiện trí thức là người
không phải chỉ biết lo gìn giữ ngôi nhà cho được tốt đẹp trong khi nó còn vững
chắc, mà một cách thấy xa hơn, người ấy còn phải lo kết nạp bạn lành chuẩn bị
vật liệu để khi ngôi nhà cũ xiêu, sụp đổ, họ có thể dựng lại một ngôi nhà mới
khang trang hơn.
Tương tự như thế, bậc hữu học là
người luôn luôn cảnh giác Ngũ căn, ngăn ngừa Ngũ trần gìn giữ giới đức và thanh
lọc nội tâm cho được trong sạch. Cao thượng hơn nữa là những hàng hữu học ấy
tình nguyện xuất gia khép mình vào đời sống Sa-môn để thường xuyên thực hành
thiền định. Nếu giới luật là khuôn thước để huấn luyện Ngũ căn, thì thiền định
là phương pháp để thuần thục ý thức.
Các Sa-môn khi đã vững chắc
trong thiền định rồi thì sự ham muốn, sự buồn rầu, sự ràng buộc chỉ là những
nhiễu nhương cố hữu của Ngũ uẩn. Loại trừ những phiền não ấy bằng tâm vô lượng
không cảm thấy vui sướng rằng mình đã tiêu diệt được nó là đạt đến Thánh quả
giải thoát.
Do đó, nội dung của bài pháp nói
trên đã diễn tả trọn vẹn bốn chân lý hằng có (Tứ Diệu Ðế). Trong khi thuyết
giảng bài pháp ấy, Ðại Ðức Sàrìputta đã khéo léo như một nhạc trưởng kỳ tài,
biết sử dụng nghệ thuật phối hợp âm thanh ở mức độ toàn hảo nhất, khiến cho ban
nhạc vang lên một cách uy nghiêm và hùng tráng. Còn trong bài pháp kia, kinh
Sammà Ditthi (nói về Chánh kiến), Ðại Ðức Sàrìputta quả thật là một người cầm
đuốc soi đường. Vì giữa rừng sinh tử vô minh, ai muốn được giải thoát phải bước
chân vào hẳn Bát Chánh Ðạo của chư Phật, và cửa ngõ đầu tiên mà hành giả phải
đi xuyên qua là Chánh kiến, tức thấy hiểu chân chánh.
Ðề pháp này khi được Ðại Ðức
Sàrìputta phân tích đã trở thành một kiệt tác giáo lý. Ngài còn chứng minh cho
thính giả thấy rằng Chánh kiến là cái chìa khóa để mở cổng đi vào Thánh đạo. Ai
không có Chánh kiến là người ấy không có tất cả.
Theo Ngài Chánh kiến không phải
chỉ đơn giản là khả năng nhận thức đứng đắn, khách quan như quan niệm của thế
gian, mà một cách khác hẳn "Chánh kiến là thanh tịnh hiểu biết", hay
"không có một câu chấp nào hết trong khi nhận thức vấn đề'. Vì câu chấp
(tức thành kiến) thường rơi vào một trong hai trạng thái là khách quan hay chủ
quan, sẽ làm cho tâm trí của con người vẩn đục. Hoặc nói một cách khác Chánh
kiến trong Phật giáo không phải là nguyên nhân của Chánh tín như nhiều người
lầm tưởng, mà nó chính là thành quả của Thiền định.
Mặt khác, nếu chúng ta chịu khó
đọc lại năm bộ A Hàm (Nikàya) (Năm bộ A Hàm ấy là: 1/ Trường A Hàm (Dìgha
Nikàya). 2/Trung A Hàm (Majjhima Nikàya). 3/Tạp A Hàm (SAMYUTTA
Nikàya). 4/Tăng Nhất A Hàm (Anguttara Nikàya). 5/Tiểu A Hàm
(Khuddaka Nikàya).) của Tạng Kinh (Sutta Pitaka), chúng ta sẽ thấy Chánh kiến
như một đề tài chính, luôn luôn được nhắc đến.
Chú giải còn ghi rõ: Nói đến
Chánh kiến là nói đến Bát Chánh Ðạo. Hay nói đến Chánh kiến là nói đến Tứ Diệu
Ðế. Nơi nào có Chánh kiến là nơi đó có hạt giống thánh thiện đã được gieo.
Trong Tạng Kinh, Chánh kiến và Tứ Diệu Ðế được nhắc đến ba mươi hai lần, và tất
cả ba mươi hai lần ấy đều liên hệ đến Thánh quả.
Một bài pháp khác của Ðại Ðức
Sàrìputta trong bộ Tăng Nhất A Hàm (Anguttara Nikàya Quyển I 63) là kinh Samma
Citta (Chánh Tâm) đã được thuyết cho chư Thiên và Thánh nhân từ Tư Ðà Hàm trở
lên nghe. Trong bài pháp này, Ðại Ðức Sàrìputta đã nói đến những kiếp sau cùng
của "vài hàng chúng sanh sắp bước chân ra khỏi rừng sanh tử luân
hồi".
Ðây là một bài pháp phân tích
thật rõ ràng về các Thiên cảnh, Siêu thức cảnh, Vô lượng thọ cảnh v.v... mà Ðại
Ðức Sàrìputta đã làm cho chư Thiên tụ hội nhiều vô số kể.
Có một đoạn thuật lại rằng:
"Khi ấy rất đông chư Thiên từ quả Thánh thấp đã đắc lên quả Thánh cao, và
một số chư Thiên khác nhờ nghe Pháp mà bước được vào đạo Thánh Lưu (tức Tu Ðà
Hườn). Căn cứ theo kinh điển thì ấy là bài pháp đưa đến kết quả đạt Thánh cao
nhất trong đời Ðại Ðức Sàrìputta".
Mặc dù đó chỉ là một bài pháp
tóm tắt, có vẻ như huyền hoặc, vì không có một chứng minh thực tế nào, không có
một chú giải thí dụ nào cho phàm nhân hiểu được, nhưng nó là những Thánh ngôn
mà các Ðại Thiền Sư từ xưa đến nay hằng tôn tụng và trì chú.
Lịch sử Phật giáo Tích Lan cũng
chép:
"Thánh Tăng Mahinda, con
trai Hoàng đế Asoka (A Dục), khi truyền Phật giáo vô nước Tích Lan, một buổi
chiều nọ đã thuyết lại hai bài pháp Samma Citta và Mahà Vamsa
(XIV-34ff.)".
Quốc Sử ấy còn nhấn mạnh:
"Khi nghe pháp có vô số chư Thiên và các hàng đại trí thức đã thấm nhuần
Pháp bảo".
Kết quả của hai bài pháp này sở
dĩ vĩ đại như vậy là vì Ðại Ðức Sàrìputta đã cung cấp một cách rành mạch những
sự gợi thức cho các hàng chư Thiên và đại trí thức về những cảnh kế tiếp sau
kiếp hiện hữu của họ. Chẳng hạn như có một số chư Thiên khi đang phát triển để
đắc lên những bực Thánh cao hơn, thời gian cần thiết phải còn dài, mà tuổi thọ
đang có lại ngắn ngủi, nên họ đâm ra lo lắng cho tuổi trời của mình, và nhất là
không muốn bị tái sinh vào cõi Ngũ uẩn (người) như trường hợp lắm lúc đã xảy
ra. Bài pháp của đức Trưởng lão đã cắt nghĩa đến họ một cách đầy đủ để cho họ
có thể xét đoán nổi vị trí của mình, vì thói thường khi còn ở ngoài Thánh đạo,
muốn được tiến hóa, cần phải có một sự định hướng giá trị mới có thể dắt dẫn
hành giả tiến cao hơn được.
Kinh Sangiti và Dasuttara là hai
bài pháp khác nữa trong những bài pháp của Ðại Ðức Sàrìputta. Ðó là hai phần
sau cùng của bộ Digha Nikàya, một bộ kinh bao gồm những bài pháp dài. Cả hai
phần này có thể xem như là bảng mục lục của bộ Digha Nikàya hay Trường A Hàm,
vì nó liệt kê toàn những đề pháp được đánh số từ một tới mười. Lý do của sự
đánh số là để giúp trí nhớ cho những người muốn nắm vững nội dung bộ kinh này.
Về sau các Phật Học Viện đã gọi bảng mục lục ấy là bảng kê khai Pháp Số, và
toàn thể học Tăng sẽ tùy theo trình độ mà phải học thuộc lòng những Pháp Số ấy
trước khi trở thành Giảng Sư để đăng đàn thuyết pháp.
Kinh Sangiti đã được Ðại Ðức Sàrìputta
nói ra dưới sự chứng minh của đức Phật. Do đó chúng ta có thể kết luận rằng đức
Bổn Sư đã hoàn toàn chuẩn y bảng danh mục Pháp bảo do Ðại Ðức Sàrìputta thiết
lập. Trong khi kinh Sangiti ghi lại những Ðề Pháp có trật tự từ thấp tới cao,
thì kinh Dasuttara nêu rõ các chi của từng Ðề Pháp một. Như vậy hễ nói đến pháp
số một là Ðề Pháp ấy chỉ có một chi, và khi nói đến pháp số hai là Ðề Pháp ấy
có hai chi, pháp số ba có ba chi, pháp số bốn có bốn chi v.v...
Kỹ thuật chương mục hóa Pháp bảo
này trong Tạng Kinh của Ðại Ðức Sàrìputta rõ ràng là sự đóng góp sau cùng của
cuộc đời Ngài cho Phật giáo. Vì trước khi nhập diệt Ðại Ðức Sàrìputta đã nghĩ:
"Pháp bảo ví như một kho tàng châu báu. Muốn sử dụng một cách đủ giá trị
và có hiệu lực, toàn bộ châu báu ấy phải được sắp xếp có hệ thống".
Hơn nữa, khi ấy lại nhắm vào lúc
Giáo chủ Nigantha Nàtaputta, một người cầm đầu tôn giáo cùng thời với đức Phật,
qua đời. Các đệ tử của ông ta đã chia rẽ và y cứ theo những lời dạy hoàn toàn
vô trật tự. Ðại Ðức Sàrìputta e sợ nguy cơ ấy có thể xảy đến cho Phật giáo, nên
đích thân tự làm công tác này.
Mặt khác, ngay sau khi đức Bổn
Sư tịch diệt, hiển nhiên hơn câu chuyện của ông Nigantha Nàtaputta, còn có câu
chuyện của Giáo chủ Mahà Vìra (Ðạo lõa thể). Ðiều này đã chứng minh rằng Ðại
Ðức Sàrìputta đã có một cái nhìn thật xa. Bằng có là trong các thời pháp sau
cùng của Ngài, Ngài luôn luôn lập lại:
"Hỡi chư huynh đệ! Ðạo pháp
này phải được tất cả học thuộc lòng, hòa hợp với nhau mà không có sự xích mích.
Chỉ như thế, đời sống Tăng lữ mới duy trì vững bền để phục vụ cho sự an vui và
hạnh phúc của chư Thiên và Nhân loại".
Chú giải còn cho biết rằng: Mục
đích của kinh Sangiti là đem đến sự ưa thích ở pháp hòa thuận (Samaggisasa)
trong giáo lý giải thoát bằng sự tiên đoán để di huấn đầy đủ (Desanà Kusalatà).
Riêng Kinh Desuttara, Ðại Ðức
Sàrìputta đã mở đầu bằng câu:
"Dasuttaraô pavakkhàmi
Dhammaô nibbànappattiyà. Dukkhassantà kiriyàya sabba ganthapamoca raô...".
Nghĩa là: Bài pháp mang tên
Dasuttara mà bần Tăng sắp nói ra đây là một giáo lý để đạt đến Niết Bàn và chấm
dứt phiền não, cắt đứt sợi dây ràng buộc nô lệ".
Rồi trong đoạn sau, Ngài đã nhấn
mạnh: "Pháp bảo khi đã kết tập và ghi nhớ có hệ thống, sẽ được truyền bá
nguyên vẹn đủ chi tiết của nó. Ðây chính là lý do khiến bần Tăng thuyết ra hai
bài Yếu Lục ấy".
Trong cuốn sách này, chúng ta
chỉ có thể nhắc đến một vài "đóng góp độc đáo" vào kho tàng Pháp bảo
của Ðại Ðức Sàrìputta mà thôi, vì hãy còn rất nhiều những bài pháp của Ngài nằm
rải rác trong Tam Tạng kinh điển mà chúng ta không có dịp bàn kỹ.
Một bảng tóm tắt về những bài
pháp khác của Ðại Ðức Sàrìputta đã thuyết, được trình bày ở phần cuối cuốn sách
này để giúp cho những ai muốn tra cứu có thêm một số tài liệu.
Bây giờ chúng ta thử tìm hiểu
khả năng Chú Giải (Atthakathà) của Ðại Ðức Sàrìputta trong Tam Tạng Pàli. Trước
hết hãy nói về quyển Niddesa, thuộc bộ Khuddaka Nikàya (Tiểu A Hàm). Ðây là
quyển Chú Giải duy nhất được lưu truyền kể từ thời đức Phật. Kinh này chia làm
hai phần là Mahà Niddesa (Ðại Chú Giải) và Cùla Niddesa (Tiểu Chú Giải). Mahà
Niddesa bàn về Atthaka Vagga ở trong kinh Nipàta. Còn Cùla Niddesa thì dẫn giải
đoạn Paràyana Vagga trong Khagga Visàna nằm ở phần cuối kinh này.
Nhiều học giả khi nghiên cứu
Phật giáo đã xác nhận cuốn Niddesa là quyển sách xưa nhất. Có thể nó đã xuất
hiện vào thời kỳ đầu tiên có Tăng bảo trong giáo pháp của đức Phật Thích Ca.
Bằng chứng là trong kinh Udàna có ghi rõ sự thuộc nằm lòng đoạn Atthaka Vagga
của Ðại Ðức Sona. Kinh Anguttara Nikàya cũng ghi lại sự thuộc nằm lòng đoạn
Paràyana Vagga của một tín nữ là bà Nanda Màtà.
Vẫn biết kinh Phật là do chính
đức Phật thuyết ra, nhưng sự chú giải lại do các Ðại Sa-môn đảm nhận. Và Ðại
Ðức Sàrìputta là một Ðại môn đồ đã làm công tác đó trước nhất. Nghĩa là Ngài đã
làm ngay trong thời kỳ Phật giáo mới bắt đầu có Tăng bảo.
Có ít nhất là năm trường hợp
trong kinh Nipàta, chính đức Phật đã tuyên dương công tác này của Ðại Ðức
Sàrìputta.
Cũng có vài thuyết cho rằng cuốn
Niddesa là do công lao của nhiều vị Ðại tông đồ của đức Phật hợp lại mà thành.
Tuy nhiên, căn cứ theo chú giải trong kinh Thera Gathà do Ðại Ðức Bhadantà
Cariva Dhammapàla biên soạn thì tác giả của kinh Niddesa là Ðại Ðức Sàrìputta
(Dhamma Enapati). Còn theo Giáo sư E. J. Thomas trong "Nguyên Sử Phật
giáo" thì hầu hết nội dung của Niddesa là đóng góp của Ðại Ðức Sàrìputta.
Ngoài ra, Giáo sư E. J. Thomas
còn viết:
"Nét đặc biệt nhất của kinh
Niddesa là gồm có một bảng kê khai đồng ngữ đã được bình giải rõ ràng. Những
giảng luận như thế không phải dùng để cắt nghĩa từng tiếng hay từ đoạn riêng
biệt, mà trái lại có thể áp dụng chung cho bất cứ chỗ nào có một câu pháp tương
tự. Do đó người ta có thể gọi nó là một "Bình Luận Tự Ðiển". Những
bình luận như thế rất hữu ích trong việc nghiên cứu Vi Diệu Pháp (Abhidhamma),
nhất là để y cứ theo thánh nghĩa hơn là cứ suy giải theo sức hiểu biết của
mình".
Ðiều này chỉ cho chúng ta thấy
rằng: Một hệ thống học hỏi từ ngữ và ngôn lý trong Phật giáo đã được thành hình
tối cổ. Hệ thống này chỉ có một điểm bất tiện là không có những qui tắc tự vựng
như văn phạm ngày nay... Thay vào đó Niddesa lại có một lối phân tích
(Patisambhidà) khá đầy đủ, chẳng hạn như phân tích Nghĩa lý (Attha), phân tích
Ðiều kiện (Dhammà), phân tích Tự căn (Nirutti), phân tích Ứng đối (Patibhàna)
v.v... Riêng cách phân tích Tự căn lại được chia ra làm bốn phần nhỏ đã rất
thịnh hành trong thời gian tiếng Pàli còn là một sinh ngữ.
Ngày nay, mặc dù tiếng Pàli
không được đàm thoại trong đời sống hằng ngày, nhưng các hệ thống phân tích ấy
vẫn giúp ích cho nhiều học giả muốn nghiên cứu Phật giáo không ít.
Theo kinh điển chúng ta được
biết thì Ðại Ðức Sàrìputta đã đạt được bốn Tuệ phân biệt (Catu Patisambhidà
Ĩàna) hai tuần lễ sau khi xuất gia, nghĩa là lúc đạt được đạo quả A-la-hán. Và
căn cứ theo nghệ thuật phân tích văn pháp (Nirutti Patisambhidà) trong
Patisambhidà Magga thì chúng ta có thể tin rằng Ðại Ðức Sàrìputta không những
là tác giả của bộ Niddesa mà Ngài còn là tác giả của Patisambhidà Magga
nữa.Trong Mahà Niddesa, có một đoạn kinh mang tên Sàrìputta (còn gọi là kinh
Thera Panhà) được chú giải. Ðây là phần sau cùng của Attaka Vagga. Mở đầu chú
giải này là những kệ ngôn ca ngợi ân đức của đức Bổn Sư và những câu hỏi đặt ra
cho Ngài, nhưng Ngài đã ủy thác cho Ðại Ðức Sàrìputta giải đáp. Riêng bài kệ mở
đầu trong kinh Mahà Niddesa là bài kệ tán dương oai lực của đức Phật sau khi
Ngài đã lên cõi trời Tavatiôsa nói về Vi Diệu Pháp (Abhidhammà) rồi trở về.
Ngoài ra trong kinh Thera Panhà,
mặc dù mang tên Sàrìputta, nhưng cũng có nhiều chỗ ghi các câu hỏi của Ðại Ðức
Sàrìputta đặt ra và được đức Phật trả lời.
Nhiều học giả còn cho rằng kinh
Patisambhidà Magga là thiên khảo luận của Ðại Ðức Sàrìputta, vì họ nhận thấy
nội dung của nó hoàn toàn là khả năng phân tích và tầm tư tưởng thâm sâu của vị
Thánh Tăng uyên bác này.
Ở đoạn mở đầu, Patisambhidà
Magga trình bày những bài khái luận về bảy mươi hai thứ hiểu biết (Nàna) và về
những loại kiến thức sai lầm, mà xuyên qua đó chúng ta có thể chiêm ngưỡng được
cái trí tuệ vô song của Ðại Ðức Sàrìputta. Trong bài kinh khai thuyết về sự
hiểu biết cũng như trong những chương khác của tác phẩm, người ta đã tìm thấy
một số lớn những danh từ giáo lý xuất hiện lần đầu tiên, và chỉ trong
Patisambhidà Magga mà thôi. Tác phẩm cũng chứa đựng những lời cắt nghĩa tỉ mỉ
về các thuật ngữ và các giáo thuyết đã được giới thiệu tóm tắt trong nhiều phần
pháp và trong những bộ xưa hơn nữa của Tam Tạng Kinh (Tipitaka Sutta).
Một học giả Cao Tăng Tích Lan,
Ðại Ðức Mahà Nàma người đã viết bài Saddhammappakàsini, chú giải cho tác phẩm,
đã không ngần ngại phát biểu:
- Nói đến Patisambhidà Magga là
nói đến Ðại Ðức Sàrìputta, vì trong đó nhân vật của Ngài được nhắc đến hai lần:
Lần thứ nhất (trong Iddhi Viddha Kathà) như là một bậc đã làm chủ được phép tỏa
rộng thanh tịnh (Samàdhivipphàra Iddhi). Lần thứ hai (trong Mahà Pannà Kathà)
Ngài như là bậc duy nhất hiểu thấu chiều sâu trí tuệ của đức Phật (Solasa Pannà
Niddesa)".
Cho nên, chúng ta cũng không lấy
gì làm ngạc nhiên khi đọc trong kinh Atthasàlini thấy ghi rằng: "Thuở ấy
đức Phật thuyết Vi Diệu Pháp (Abhidhamma) trong vòng ba tháng ở cõi trời
Tàvatiôsa cho mẹ Ngài, Hoàng hậu Màyà, người đã được sanh làm chư Thiên nơi cõi
trời ấy nghe. Cứ mỗi ngày, khi trở về thế gian độ ngọ, Ngài hằng thuyết lại cho
Ðại Ðức Sàrìputta về các pháp thâm diệu vi tế.
Kinh Atthasàlini còn ghi rõ:
"Trí tuệ của đức Thế Tôn
dồi dào như nước trong lòng biển cả thì sức hiểu biết của Ðại Ðức Sàrìputta
nhiều như những lượn sóng. Hễ nước chảy đến đâu thì sóng gợn đến đó. Nước bốc
thành hơi thì sóng cũng biến thành hơi. Và dưới sức nóng của ánh sáng mặt trời,
người lữ hành mệt mỏi trên sa mạc đã nhìn thấy hơi nước bằng những lượn
sóng".
Có điều là Ðại Ðức Sàrìputta,
sau khi đã thấm nhuần Vi Diệu Pháp bảo của đức Phật rồi, chỉ đem truyền lại cho
chư huynh đệ và đệ tử những pháp mà Ngài nhận thấy cần thiết, thực tế và hợp
với trình độ hiểu biết của họ. Ngài cũng không quên hệ thống hóa Vi Diệu Pháp
ấy cho dễ học, dễ nhớ.
Nhiều học giả còn cho rằng: Tất
cả Vi Diệu Pháp đều bắt nguồn từ Ðại Ðức Sàrìputta và ngay cả bộ sách vĩ đại
Patthàna cũng là công trình của vị Ðại Thánh Tăng này.
Về nghệ thuật sắp xếp và thừa
truyền lại Vi Diệu Pháp của Ðại Ðức Sàrìputta, theo Attha sàlinì, chú giải của
đoạn Dhamma Sangani, thì Ngài đã tác văn những phần như sau:
1/ Ðoạn bốn mươi hai Song Liên
Kệ (Duka) trong Suttanta Màtikà sau Abhidhamma Màtikà. Cả hai phần này dẫn đầu
bảy cuốn Vi Diệu Pháp, và được giảng giải trong kinh Dhammasanganì.
2/ Kinh thứ tư và cũng là phần
sau cùng trong Dhammasanganì là Atthuddhàrakanda đã dùng đề cập về sự cương yếu
(hay tóm tắt).
3/ Ðặt ra cách giúp trí nhớ để
dễ học nằm lòng (Vàcana Magga).
4/ Ðánh số cho đoạn Patthàna
trong kinh Anupada (thuộc Majjhima Nikàya No III) vì đây là một phần kinh mà
đức Phật đã nói về các chiều biến thiện của Tâm thức thiền và những trạng thái
đồng sinh tâm mà chính Ðại Ðức Sàrìputta cũng đã từng trải qua sau khi tiến lên
khỏi mỗi giai đoạn của sự đạt thiền. Phương pháp đánh số này là cả một nghệ
thuật, vì nhờ đó mà người ta có thể rút ngắn được những phép phân tích qua chi
tiết có thể gây lầm lẫn trong ý thức thiền định.
Kinh Dhamma Sanganì còn nhắc lại
lời khen ngợi của đức Phật:
- Ðại Ðức Sàrìputta quả thật là
một bậc am hiểu Pháp bảo rốt ráo. Ông ta không những đủ sức trả lời một số câu
hỏi của Như Lai trong vòng một ngày hay một ngày một đêm một cách trong sáng, mà
ông ta còn thừa sức để luận đạo với Như Lai cả đến bảy ngày bảy đêm đem về tất
cả mọi vấn đề.
- Này chư Tỳ-khưu. Có năm tuyệt
phẩm mà một trưởng tử của vị vua cai trị toàn thế giới có thể lãnh đạo thiên hạ
vững chắc như vua cha, không bị bất cứ một kẻ thù nghịch nào làm đảo lộn.
- Vậy năm tuyệt phẩm ấy là gì?
Ðó là người kế vị bậc Thế giới vương biết rõ thế nào là nhân thế nào là quả,
thế nào là điều kiện thiên nhiên, thế nào là điều kiện xã hội và thế nào là
trình độ con người.
- Này chư Tỳ-khưu. Tương tự như
thế. Khi Sa-môn Sàrìputta tròn đủ năm tuyệt phẩm này rồi thì ông sẽ có thể quay
bánh xe tối thượng Pháp bảo một cách đúng đắn như Như Lai đã từng lăn. Bánh xe
này không thể bị làm đảo lộn bởi những kẻ ngoại đạo, bởi chư Thiên hay
Bà-la-môn giáo, cũng không bởi bất cứ kẻ nào trên cõi đời này.
- Này chư Tỳ-khưu. Năm tuyệt
phẩm ấy là gì?
Là Sàrìputta trong vô lượng kiếp
trước đã gieo trồng hạnh trí tuệ, ý thức thế nào là lợi ích cao thượng (Nhân),
biết phương pháp giáo huấn (Quả), dùng những biện pháp đúng đắn (Ðiều kiện
thiên nhiên), hiểu rõ lúc nào hợp thời (Ðiều kiện xã hội), và tùy theo đề tài
hội họp (Trình độ) mà ông sẽ nói Pháp. (Anguttara Nikàya V. 132).
Ngoài đức Phật ra, những vị Tôn
túc khác cũng đã tán dương khả năng của Ðại Ðức Sàrìputta. Chẳng hạn như Ðại
Ðức Sangìsa (về các kệ ngôn số I. 231-I. 233), Trưởng lão Mahà Kassapa (theo
các câu kệ số 1082-1086) và nhất là Tôn giả Mahà Moggallàna (Mục Kiền Liên) khi
nghe Ðại Ðức Sàrìputta thuyết xong bài Pháp "Nói về sự vô tội", Ngài
đã ngâm mấy câu sau đây để ca ngợi công đức của bậc Thánh Tăng ấy:
"Này chư Tỳ-khưu huynh đệ.
Thật là kỳ diệu. Thính giác của tôi, khi nghe được Pháp bảo của đạo huynh
Sàrìputta thì nó tự nhiên thanh tịnh, ý tưởng tự nhiên no đủ" (Theo
Majjhima Nikàya No 5).
Nói tóm lại, đức hạnh và khả
năng của Ðại Ðức Sàrìputta đã vô cùng vĩ đại. Vĩ đại không những ngay trong lúc
đức Phật còn tại tiền, mà sự vĩ đại ấy cho mãi đến ba trăm năm sau vẫn còn được
các bậc Thánh nhân ca tụng. Chúng ta thử đọc lại kinh Milinda Panhà (Mi Lan Ðà
vấn đạo để xác nhận điều ấy là một sự thực).
Kinh Milinda Panhà chép:
"Vua Mi Lan Ðà đã so sánh
Ðại Ðức Nàgàsena (Na Tiên) với Thánh Tăng Sàrìputta và nói: "Trong rừng
Pháp bảo của chư Phật, không có một nhân vật nào khác như Ngài để có thể trả
lời những câu hỏi của trẫm, ngoại trừ đức Trưởng lão Sàrìputta, một vị đứng đầu
về vạn pháp". Và uy tín vĩ đại đó vẫn còn sống mãi cho đến ngày nay, tạo
ra một sự khích lệ người đời bởi những giáo lý đáng ôm ấp của một vị Ðại đệ tử
Phật. Tiếng vang ấy được bảo tồn phát triển lẫn tàng trữ trong một số những
cuốn sách quí nhất của Phật giáo.
THÂN QUYẾN CỦA ÐẠI ÐỨC SÀRÌPUTTA
Như chúng ta đã biết, Ðại Ðức
Sàrìputta sinh trưởng trong một gia đình Bà-la-môn giáo (Brahmin) thuộc làng
Upatissa (còn gọi là Nàlaka) gần thành Ràjagaha (Vương Xá). Thân sinh Ngài là
ông Vaganta và thân mẫu Ngài là bà Sàrì. Ngài còn ba người em trai tên là
Cunda, Upasena, Revata và ba chị em gái là các nàng Càlà, Upacàlà và
Sìsupacàlà.
Cả sáu người này đều lần lượt
xuất gia và đắc quả A-la-hán.
Ông Cunda sau này có tên là
Samanuddesa có nghĩa là "Môn đồ non nớt" trong hàng chư Tăng, mặc dù
đã thụ Tỳ-khưu giới. Lúc ấy Tăng chúng gọi như thế là để phân biệt ông với đức
Trưởng lão Mahà Cunda.
Khi Ðại Ðức Sàrìputta tịch diệt,
Cunda là vị làm chủ táng, và cũng là người đi thông báo cho đức Phật biết, đồng
thời dâng cốt thể đến Phật vì đó là Thánh tích của một vị Ðại tôn đồ.
Câu chuyện được ghi lại trong
kinh Cunda. Phần tóm lược của nó sẽ được trình bày thêm trong cuốn sách này.
Ông Upasena sau được gọi là
Vagantaputta, hay "Con trai nhà Vaganta" (cũng như Ðại Ðức Sàrìputta
có nghĩa là con trai của bà Sàrì) đã được đức Phật khen ngợi như là một trong
những Tỳ-khưu gương mẫu, luôn luôn giữ một thói sống thanh tịnh bằng pháp Tri
túc (Samantap Pàsàdika). Theo bộ Salàyatana SAMYUTTA, chương 7, kinh số 7 thuật
lại thì ông ta đã tịch vì bị rắn cắn.
Revata là người em trai nhỏ tuổi
nhất, và chính mẹ ông đã muốn ngăn cản việc xuất gia bằng cách cưới vợ cho ông
khi ông còn là một thiếu niên. Nhưng ngay vào ngày đám cưới, ông đã trông thấy
bà nội của người vợ tương lai, một cụ già một trăm hai mươi tuổi, tàn tạ với
nét già yếu. Ông lập tức trở nên ghê sợ cuộc sống ở đời, bèn lìa khỏi hôn lễ và
trốn vào một ngôi chùa để xin xuất gia.
Vào những năm sau, trên đường
đến thăm đức Phật, ông đã dừng chân tạm ngụ tại một khu rừng đầy cây xiêm gai
(Khadìvà vana) và trong thời gian nhập hạ ở đó, ông đắc quả A-la-hán. Sau đó,
người ta gọi ông là Ðại Ðức Revata Khàdìravaniya (Ngài Revata trong rừng Xiêm
gai). Ðức Phật đã xem Ngài như là người đứng đầu những vị cư ngụ trong rừng ấy.
Còn ba người chị em gái của Ðại
Ðức Sàrìputta là Càlà, Upacàlà và Sisupacàlà, vì muốn noi gương những người
anh, cũng đã trở thành những Tỳ-khưu Ni sau khi họ đã lập gia đình. Trong thời
gian sống với chồng mỗi người đều có một đứa con trai, và chúng được đặt tên có
nghĩa là "theo chân người mẹ". Các cậu ấy cũng lần lượt "theo
chân" như thế. Ba người này lại được Ðại Ðức Revata Khàdìravaniya cho xuất
gia làm Sa Di. Hạnh kiểm tốt của họ đã được Ðại Ðức Sàrìputta khen ngợi khi
Ngài đến thăm thầy họ bị bệnh. Ðiều này có ghi trong đoạn chú giải của kinh
Theragàthà (Phần V, kệ 42).
Riêng ba nàng Càlà, Upacàlà và
Sìsupacàlà là những Tỳ-khưu Ni được người đời tán tụng rằng họ đã từng bị Ma
vương (Màra) đến gần cám dỗ rồi không thành thì chất vấn sỉ vả. Nhưng cả ba
Tỳ-khưu Ni đã đối phó một cách rất tuyệt diệu. Những chuyện này được ghi lại
trong kệ ngôn Therìgàthà và kinh Bhikhùnì SAMYUTTA.
Trái ngược với những nàng này,
bà mẹ của Ðại Ðức Sàrìputta lại là một người rất đố kỵ Phật giáo, chỉ trung
thành với đạo Bà-la-môn. Do đó bà đã thường xuyên phỉ báng Tăng chúng. Trong
chú giải kinh Dhammapàda, có một đoạn thuật lại rằng:
"Một lần nọ, khi Ðại Ðức
Sàrìputta còn ở trong làng cũ Nàlaka của Ngài với một số lớn chư Tỳ-khưu theo
tu học. Ngài bèn về nhà mẹ trong một dịp đi khất thực. Với Ngài bà đã không thể
từ chối, nên mời vào để lo dâng vật thực, nhưng trong lúc làm như vậy, bà không
ngớt tuôn ra những lời quá khích. Bà nói:
- Ai lại đi ăn những đồ người ta
bố thí. Nhỡ khi ông không được những thứ cháo chua mà người ta cho, chắc ông
phải đi từ nhà này qua nhà khác mà kiếm những đồ còn lại trên vá trên chén chứ!
Ði xin được chỉ có vậy mà ông
dám bỏ cả gia tài hàng tám chín trăm triệu để làm một ông thầy tu. Ông đã làm
cho tôi mắc cỡ với hàng xóm. Thôi, bây giờ ông hãy ăn đi.
Và khi bà cho những vật thực đến
các vị Tỳ-khưu khác cùng đến với con bà, bà cũng làm như thế, bà liền bảo:
Lại mấy ông nữa. Mấy ông là
những kẻ đã theo cái nhóm bắt thằng con trai của tôi đi làm mọi. Thôi, ăn đi
các ông ơi.
Cứ như vậy, bà tiếp tục lăng
nhục chư Tăng. Nhưng Ðại Ðức Sàrìputta chẳng nói một lời Ngài nhận vật thực rồi
dùng và im lặng trở lại tịnh xá.
Ðức Phật biết được chuyện này do
Ðại Ðức Ràhula, người trước đó là một trong những vị Tỳ-khưu bị bà lăng nhục,
thuật lại. Còn tất cả Tăng Chúng khi được nghe chuyện đó đều ngạc nhiên về sự
nhẫn nại không tưởng tượng nổi của đức Trưởng lão. Sau đó, đức Phật đã khen
ngợi Ngài giữa Tăng chúng bằng cách ngâm bài kệ:
"Kẻ đã trừ bỏ được sự nóng
giận là người có thể làm tròn phận sự của mình một cách chính đáng. Kẻ biết giữ
gìn những lời giáo huấn là người thoát khỏi dục vọng. Kẻ biết tự chỉ huy lấy
mình là biết tạo cho mình một kiếp sinh sau cùng. Trong Pháp bảo giải thoát,
Như Lai gọi kẻ ấy là một vị Phạm Thiên (Brahma) vậy".
Nhưng đến khi cuộc đời của Ðại
Ðức Sàrìputta gần chấm dứt, chuyện lăng nhục ấy không còn nữa. Ngài đã cảm hóa
được người mẹ. Câu chuyện sẽ được kể sau này. Và mục đích thuật lại chuyện ấy
là cốt đưa chúng ta đến một sự suy gẫm về những đặc tính tự thắng của một
Trưởng lão vĩ đại. Ấy là ba đức tính khiêm tốn, nhẫn nại và hỷ xả của Ngài.
LỬA SÂN HẬN ÐÃ HOÀN TOÀN DẬP TẮT
Nhắc lại vùng xung quanh Kỳ Viên
tịnh xá nơi đức Phật đang cư ngụ, có một nhóm rất nhiều người bàn tán với nhau
về những phẩm tính cao thượng của Ðại Ðức Sàrìputta. Họ nói rằng:
- Với một đức nhẫn nại như thế,
Sa-môn Sàrìputta đã trở nên bậc Vô Ngại. Dù khi có ai lừa dối hay đánh đập
Ngài. Ngài cũng không cảm thấy một ý nghĩ oán hận.
Có một ông Bà-la-môn là người cố
chấp cái thiện kiến sai lạc của mình, đã hỏi:
- Ai là người không nóng giận
đâu?
- Ðó là Ðại Ðức Sàrìputta.
Ông bèn xuyên tạc: "Ông ấy
không nóng giận bởi vì chẳng có ai khiêu thích ông ta. Và chính tôi rất rành
cách làm cho kẻ khác giận mình".
Một hôm, khi đi khất thực, Ðại
Ðức Sàrìputta đã vào trong thành phố, nơi ông Bà-la-môn có mặt. Lão Bà-la-môn
ác ý này liền tiến gần phía sau Ngài và bất thần đánh lên lưng Ngài một cái như
trời giáng. Ðại Ðức Sàrìputta vẫn tiếp tục chầm chậm bước đi, mặt cũng không
quay lại. Ngài chỉ thản nhiên nói: "Cái gì vậy kìa?".
Ông Bà-la-môn vừa hổ thẹn vừa
hối hận, ông bèn quì mọp người xuống dưới chân đức Trưởng lão để tạ tội. Ðại
Ðức Sàrìputta tỏ vẻ ngạc nhiên, hiền từ hỏi: "Ông làm như thế để chi
vậy?".
Người Bà-la-môn ngượng ngập trả
lời:
"Thưa Ngài! Vì muốn thử
lòng nhẫn nhục của Ngài nên tôi đã đánh lén Ngài một cái rất tàn nhẫn. Bây giờ
tôi hiểu ra sự thật, xin Ngài tha lỗi cho tôi.
Rồi ông Bà-la-môn tiếp:
"Bạch Ngài. Nếu Ngài sẵn sàng tha thứ lỗi lầm của tôi, tôi xin thỉnh Ngài
từ nay về sau chỉ đến khất thực trước nhà tôi để tôi được chuộc tội bằng cách
dâng cúng".
Trong khi yêu cầu như vậy, ông
đã cung kính nâng lấy bình bát của đức Trưởng lão. Ngài đã dịu dàng trao bát
lại cho ông và ra dấu bảo ông ta hãy đưa mình về nhà để dâng hiến vật thực.
Nhưng những người khác khi thấy
ông ta xúc phạm một vị Ðại Sa-môn như vậy, họ trở nên tức giận, tay cầm gậy gộc
tập trung trước nhà ông Bà-la-môn với mục đích trừng phạt lão già hung ác này.
Khi Ðại Ðức Sàrìputta nhận vật
thực xong bước ra và ông Bà-la-môn theo sau, hai tay bưng bình bát của Ngài.
Thấy vậy họ đồng la lên:
- Bạch Ngài! Xin Ngài hãy bảo
ông Bà-la-môn này quay lại.
Ðức Trưởng lão hỏi: "Này
các đạo hữu tại gia! Tại sao các người làm như vậy?".
Họ đồng trả lời: "Người này
đã vô lý đánh lén Ngài. Và chúng tôi đến đây cốt để trả lại cho ông cái hành
động bất nhân đó".
Ðức Trưởng lão mỉm cười nói:
"Cám ơn các đạo hữu đã có lòng che chở cho bần đạo, và những kẻ bất bình
trước mọi hành động bất thiện là những người tốt. Nhưng này quí vị thiện tâm!
Ông ấy đã đánh quí vị hay đánh bần đạo?".
Tất cả đều trả lời: "Bạch
Ngài! Chính Ngài bị đánh".
Nghe thế đức Trưởng lão bèn
tuyên bố: "Ðược rồi! Nếu chuyện đó xảy ra đến bần đạo thì ông ta đã sám
hối với bần đạo rồi. Bây giờ quí đạo hữu hãy vui vẻ giải tán".
Sau khi đức Trưởng lão đã khuyên
nhủ đám người trở về xong, Ngài bèn cho phép ông Bà-la-môn quay vào, rồi im
lặng tìm đường trở về tịnh xá. Chuyện này xảy ra đúng vào lúc đức Phật đang
thuyết những câu Pháp Cú Kinh số 389 và 390 (Theo chú giải Dhammapada). Những
câu ấy đã nói lên sự giảng nghĩa của đức Phật về bản chất của ông Bà-la-môn,
tức là chỉ rõ tính thực thà hơn là nghiệp thức do tái sinh. Ngoài ra, Phật cũng
gián tiếp dạy rằng: "Chính tư tưởng phân chia giai cấp đã khiến cho một số
người có hành động ngông cuồng như vậy".
Ðức Phật còn dạy tiếp:
- Ðừng để ai đánh đập kẻ lầm lỗi
ấy. Người có sự hổ thẹn là người sẽ nhận sự trừng phạt xứng đáng nhất. Chính sự
hổ thẹn sẽ làm cho ông bị cắn rứt còn hơn là nhận lại trăm ngàn cái đánh.
- Thu phục được ông Bà-la-môn
như thế không phải là chuyện dễ. Người nào đã kềm giữ được tư tưởng của mình
khỏi những gì thương yêu trìu mến càng nhanh thì sự đau đớn sẽ không dày vò
thân xác được. Và như vậy sự bực tức trong nội tâm cũng dần dần biến mất đi.
Tính hướng thiện của Ðại Ðức
Sàrìputta cũng vĩ đại như đức nhẫn nhục của Ngài. Ngài sẵn sàng ghi nhận mọi sự
khuyên bảo của bất cứ ai không những bằng sự thành thật mà còn với lòng biết ơn
nữa.
Trong chú giải kinh Devaputta
SAMYUTTA Susimo có một đoạn thuật rằng:
"Một lần nọ vì vô ý mà chéo
y nội của Ngài lệch đụng xuống đất. Một ông Sa Di bảy tuổi đã trông thấy và chỉ
cho Ngài. Ðại Ðức Sàrìputta liền bước sang một bên và sửa lại y phục với một
thái độ vâng lời và vui vẻ. Sau đó Ngài tiến đến trước mắt vị Sa Di và đưa tay
nói rằng:
- Giờ thì y phục của tôi đã
chỉnh tề rồi Sư ạ.
Ðể ám chỉ đức tính này, trong
kinh Vua Mi Lan Ðà Vấn Ðạo (Milinda Panhà Sutta) còn có mấy dòng kệ nói về Ðại
Ðức Sàrìputta như sau:
"Người nào dù chỉ là bảy
tuổi, nếu nhìn thấy hình thức dễ duôi trước tôi, và chỉ rõ cho tôi, tôi sẽ sẵn
sàng hoan hỷ nhận. Tôi luôn luôn mong mỏi được nhắc nhở một cách ham thích và
nhiệt thành. Tôi còn biết ơn những người ấy mãi mãi và kính trọng họ như những
ông thầy".
Có một lần đức Phật hiền từ
khiển trách Ðại Ðức Sàrìputta vì đã không tiếp độ một kẻ hữu duyên đến nơi đến
chốn. Ðó là câu chuyện liên quan đến người Bà-la-môn tên Dhànanjàni. Ðại Ðức
Sàrìputta ngẫu nhiên đến viếng nhằm lúc ông này đang đau nặng và thoi thóp trên
giường bịnh. Ðức Trưởng lão vì biết những người Bà-la-môn hằng ngưỡng mộ cõi
trời Phạm Thiên, nên Ngài đã chỉ dẫn cho ông Bà-la-môn sắp chết ấy con đường
đạt tới cõi trời đó bằng những giới hạnh của chư Phạm Thiên.
Kết quả ông Bà-la-môn đã được
sinh lên cõi trời Phạm Thiên thực sự.
Nhưng khi Ðại Ðức Sàrìputta thăm
viếng xong trở về, đức Bổn Sư đã bèn dạy:
- Này Sàrìputta! Trong khi có
nhiều Pháp đẻ đạt được những quả vị cao hơn, sao ông không cống hiến mà chỉ
gieo vào tư tưởng của bịnh nhân chỉ có pháp lành tới cõi trời Phạm Thiên rồi
ông ra về?
Ðại Ðức Sàrìputta trả lời:
- Bạch đức Thế Tôn! Ðệ tử nghĩ:
"Vì những người Bà-la-môn này luôn luôn ngưỡng mộ cõi trời Phạm Thiên, nên
đệ tử đã không hướng dẫn cho ông Bà-la-môn Dhànanjàni ấy con đường đạt tới cảnh
Phạm Thiên là gì?".
Ðức Phật bảo:
- Nếu nghe được Pháp bảo cao hơn
thì ông ấy có thể đắc vào Thánh đạo. Nhưng bây giờ là quá muộn vì Dhànanjàni đã
chết và đã trở thành một trong những Phạm Thiên rồi.
Chúng ta tìm thấy câu chuyện này
trong kinh Dhànanjàni, thuộc bộ Majjhima Nikàya như một sự mô tả rất thâm diệu
về thật tính không ưa thích tái sinh của đức Phật, cho dù đó là sự tái sinh
trong cõi trời cao nhất.
Riêng ông Dhànanjàni, đức Phật
xét thấy nếu được tiếp độ đúng mức ông có thể đạt đến quả A Na Hàm trước khi
chết, nghĩa là chỉ tái sinh lại một lần nữa mà thôi.
Bàn về trường hợp ông
Dhànaĩjàni, đây không phải là điều sơ hở của Ðại Ðức Sàrìputta, mà vì lúc đó
đức Trưởng lão chưa đắc được pháp Quán Thế Tâm (Lokiya Abhinnà) như đức Phật,
nên Ngài đã không phân biệt được sự thật đó. Kết quả, ông Bà-la-môn Dhànaĩjàni
ấy phải tốn một thời gian vô lượng nữa trong cõi trời Phạm Thiên, và sẽ phải
sinh làm người trước khi ông đạt được đạo quả cứu cánh.
(Còn trong kinh Tevijjà có thuật
một vài lần đức Phật đã tiếp độ một số người tới cõi Phạm Thiên là bởi duyên
năng của họ không thể tiến cao hơn được nữa, chứ không phải đức Thế Tôn đã làm
một việc giống như Ðại Ðức Sàrìputta).
Và Ðại Ðức Sàrìputta cũng đã
nhận một sự khiển trách hiền từ khác nữa của đức Phật lúc Ngài bạch hỏi đức Bổn
Sư tại sao có một số chư Phật trong quá khứ đã không để cho giáo lý của các
Ngài tồn tại lâu dài. Và Ðức Phật đã trả lời rằng:
- Ðiều ấy là bởi những vị Toàn
Giác đó không thuyết nhiều Pháp bảo, không đặt ra nhiều Giới luật cho các hàng
đệ tử, cũng không tạo nên sự tuyên đọc Biệt Biệt Giải Thoát Pháp (Pàtimokkha).
Ðại Ðức Sàrìputta lại bạch tiếp:
- Giờ đây chắc đức Thế Tôn có
nhiều thời gian hơn để ban bố những điều luật và tuyên hạnh chú đọc Biệt Biệt
Giải Thoát Pháp Pàtimokkha để cho đời sống của Giáo Hội sẽ tồn tại lâu dài?
Ðức Phật bèn dạy:
- Này Sàrìputta! Việc đó hãy để
cho chính đức Tathàgata, bậc có trách nhiệm biết rõ về thời gian tính ấy. Ðức
Thế Tôn sẽ không chế định giáo điều cho các hàng đệ tử, cũng không khuyên đọc
Biệt Biệt Giải Thoát Pháp nữa khi nào không thấy có những dấu hiệu hư hoại
trong hàng Tăng lữ (Theo Pàràjika Pàli chương mở đầu).
Ðiều quan tâm của vị Ðại đệ tử
ấy chính là Ngài mong mỏi cho Giáo pháp Giải thoát được bền vững càng lâu càng
tốt. Và đó cũng là điềm "Huyền Cơ Khả Mật" của một vị Phật.
Bất cứ một đấng Toàn Giác nào
cũng vậy: Giáo pháp của Ngài luôn luôn có một tuổi thọ và tuổi thọ ấy chỉ có
đấng Toàn Giác thuyết ra nó rõ mà thôi. Ðức Phật ấy phải biết trước thời mạt
pháp, và Ngài sẽ không để lại bất cứ một lời dạy nào khi trên thế gian không
còn lấy một người có thiện tâm.
Rồi đức Thế Tôn giảng giải tiếp
cho Ðại Ðức Sàrìputta nghe:
- Vào thời mạt pháp đó, người
hành đạo cầu tiến sẽ vô cùng ít ỏi. Và vị Tỳ-khưu sau chót trong Tăng Già của
Như Lai sẽ là ông Sotàpàna. Do đó, thật là tội nghiệp nếu sau ông Sotàpàna mà
còn Phật ngôn để cho người đời đem ra chế giễu".
ÐẠI ÐỨC SÀRÌPUTTA BỊ KHIỂN TRÁCH
VÌ NHÓM HỌC TRÒ
Theo Càtuma Sutta, tức kinh số
67 trong Majjhima Nikàya, thì có một lần đức Phật đã khéo léo khiển trách Trưởng
lão Sàrìputta như sau:
"Lúc ấy có một số đông
Tỳ-khưu mới nhập môn, là những đệ tử của hai Ðại Ðức Sàrìputta và Mahà
Moggallàna. Lần đầu tiên họ kéo đến để xin ra mắt đức Phật, nhưng khi đến nơi
lại chia ra làm nhiều nhóm nói lời nhảm nhí với những Tỳ-khưu đang ngụ trong
tịnh xá Càtuma.
Nghe có sự ồn ào, đức Phật liền
tập trung Tăng chúng để hỏi nguyên do. Ngài được biết đó là sự hỗn loạn bởi
những vị Tỳ-khưu mới đến gây ra. Trong kinh không nói rõ là các vị Tỳ-khưu thăm
viếng có mặt lúc Phật hỏi hay không. Nhưng chắc chắn là họ phải có mặt, vì đức
Phật đã nghiêm khắc thốt ra những lời dạy như sau:
- Này các Tỳ-khưu! Các ông hãy
đi ngay. Như Lai muốn các ông ra khỏi chỗ này lập tức. Các ông không thể đến
gần một vị Phật bằng đức hạnh như vậy.
Bị quở phạt, có một số Tỳ-khưu
kinh sợ bỏ đi, còn một số chỉ có mặt trong đám chứ không gây ra sự ồn ào đuợc
phép ở lại.
Sau đó đức Phật nói với Ðại Ðức
Sàrìputta:
- Này Sàrìputta! Ông nghĩ như
thế nào khi Như Lai đuổi nhóm Tỳ-khưu ấy?
- Bạch đức Thế Tôn! Ðệ tử nghĩ: "Ðức
Thế Tôn muốn giữ mãi sự trang nghiêm thanh tịnh trong lúc này". Do đó
chúng đệ tử phải tôn trọng và vâng lời, rút lui một cách có trật tự.
Ðức Phật dạy:
- Này Sàrìputta! Dừng lại! Ðừng
để cho những ý nghĩ như thế phát sanh trong ông nữa.
Và đức Phật quay sang Ðại Ðức
Mahà Moggallàna cũng hỏi một câu tương tự.
Ðại Ðức Mahà Moggallàna trả lời:
- Bạch đức Thế Tôn! Khi đức Thế
Tôn đuổi những vị Tỳ-khưu ấy đi, đệ tử nghĩ rằng: "Ðức Thế Tôn vì muốn giữ
lại sự trang nghiêm thanh tịnh để làm gương giải thoát cho tất cả nhân
loại". Do đó đệ tử và đạo huynh Sàrìputta giờ đây phải trở về chăm lo Tăng
chúng.
Ðức Thế Tôn nói:
- Này Mahà Moggallàna! Ðúng thế!
Ông trả lời đúng đấy! Việc cần thiết hoặc là chính Như Lai, hoặc là Sàrìputta
hoặc là Mahà Moggallàna phải đích thân khuyên giáo chúng Tăng.
Phần kết thúc, tuy bài kinh
không nêu rõ nhưng chắc chắn là hai Ðại Ðức Sàrìputta và Mahà Moggallàna đã trở
về giáo huấn những học trò của mình một cách nghiêm khắc và kỹ lưỡng.
ÐẠI ÐỨC SÀRIPUTTA BỊ VU CÁO
Có một lần đức Phật ngụ tại Kỳ
Viên tịnh xá cùng với đông đảo chúng Tăng, Ðại Ðức Sàrìputta là nạn nhân của
một sự kết tội sai lầm. Chuyện xảy ra như sau:
Lúc ấy là thời gian ra hạ, mùa
mưa cũng vừa chấm dứt. Chư Tăng phương xa đến nhập tại Kỳ Viên tịnh xá đang lần
lượt kiếu từ đức Phật và những vị Tôn túc để trở về.
Vì Tăng chúng quá đông nên khi
tạm biệt nhau, Ðại Ðức Sàrìputta đã thành thật tuyên bố một câu: "Bần đạo
chỉ quen nhớ những vị nào theo tên ám chỉ giới hạnh hơn là tên của gia đình đặt
cho họ".
Trong số đó có một vị Tỳ-khưu,
không ai biết tên gọi căn cứ theo giới hạnh của ông là gì hoặc tên của gia đình
đặt cho ông ra sao. Nhưng vì ông hằng mong muốn Ðại Ðức Sàrìputta gọi ông bằng
một cái tên ám chỉ ông là người Ðức Hạnh, ít nhất cũng trong khi cáo từ nhau.
Tuy nhiên, giữa đám đông Tăng
chúng, Ðại Ðức Trưởng lão đã không cho ông ta sự phân biệt này. Và vị Tỳ-khưu
ấy đã trở nên bất mãn, ông bèn suy nghĩ: "Ngài không tiếp độ mình như tiếp
độ những vị khác?".
Rồi ông ta có mặc cảm Ðại Ðức
Sàrìputta đối xử bất công. Lúc ấy, nhân việc đức Trưởng lão đi ngang, chéo y
của Ngài bị gió phất quét nhẹ lên mình ông, khiến ông càng bực tức hơn nữa. Ông
liền đến gần đức Phật phàn nàn:
- Bạch đức Thế Tôn! Chắc Ðại Ðức
Sàrìputta đang hãnh diện mình là một Ðại đệ tử nên đã đánh con một tát tay đến
nỗi tai con gần như bị hỏng. Sau khi làm như vậy, Ngài đã không tỏ ra vẻ người
hối lỗi với con mà còn bỏ đi không đếm xỉa gì đến con cả.
Ðức Phật bèn gọi Ðại Ðức
Sàrìputta vào và truyền lệnh đại hội Tăng chúng.
Trong khi chờ đợi, Ðại Ðức Mahà
Moggallàna và Ðại Ðức Ànanda dọ biết rõ có một sự cáo oan xảy ra, vội gặp gỡ
tất cả các nhóm Tỳ-khưu và nói lên rằng:
- Bạch chư huynh đệ! Xin các
Ngài hãy tới dự Tăng hội. Khi Ðại Ðức Sàrìputta đối diện trước đức Bổn Sư rồi,
Ngài chỉ thốt ra những sự thật. Sự thật ấy sẽ vang rền như tiếng gầm của một
con sư tử.
(Câu này dịch sát theo chữ Pàlì
là "Sìhanada" có nghĩa là một giọng nói tự nhiên lẫn trầm hùng, đảm
bảo chắc chắn ấy là sự thật).
Và đúng như điều vừa nói! Khi
đức Bổn Sư chất vấn Trưởng lão Sàrìputta, thay vì Ngài vạch rõ sự vu cáo, Ngài
lại nói:
- Bạch đức Thế Tôn! Khi một
người đã được vững chắc trong đạo quả, làm chủ được bản tâm rồi, người ấy có
thể nào làm đau đớn một đồng đạo của mình mà bỏ đi không một lời sám hối?
- Bạch đức Thế Tôn! Ðệ tử của
đấng Siêu Xuất tam giới khi đã thuần thục trong Thánh đạo thì không còn trạng
thái sân hận hoặc thù nghịch nữa, trái lại chỉ có một phẩm tính hỷ xả vô biên
như quả đất. Ðại cầu này có bao giờ phản đối bất cứ vật gì dù dơ hay sạch, dù
đẹp hay xấu, dù thuận hay nghịch mà thế gian vất lên mình nó đâu?
Mặt khác, đệ tử của đấng Toàn
Giác khi đã chứng quả Bất Lai (A-la-hán) thì tham dục không còn nữa, dù chỉ vi
tế trong một sát na thời gian hay trong một tế bào vật chất.
Theo chú giải kinh Sìhanada thì
lúc Ðại Ðức Sàrìputta thốt ra những lời như vậy, quả địa cầu đã rung chuyển đến
chín lần để xác minh sự thật. Và toàn thể đại hội đã giải tán với tấm lòng kinh
cảm. Riêng vị Tỳ-khưu vu khống thật vô cùng hối hận. Ông xấu hổ quỳ mọp dưới
chân đức Thế Tôn để xin nhận tội nói xấu của mình.
Kế đó đức Phật liền khuyên:
- Này Sàrìputta. Hãy tha lỗi cho
vị Tỳ-khưu ngu dại này đi, kẻo không cái đầu của ông ấy sẽ vỡ làm bảy miếng.
Ðại Ðức Sàrìputta cung kính đáp
lời:
- Bạch đức Bổn Sư. Tự nhiên là
đệ tử đã tha thứ cho vị Tỳ-khưu này rồi.
Và với hai bàn tay chắp lại, đức
Trưởng lão tiếp: "Ngoài ra, đệ tử cũng xin Sư ấy tha lỗi cho đệ tử nếu vì
vô tình mà đệ tử làm bất cứ điều gì mích lòng".
Ðoạn cả hai được đức Phật xử
hòa.
Chư Tăng vô cùng thán phục. Họ
đều nói: "Ðại Ðức Sàrìputta quả thật là một tấm gương tốt. Ngài đã tỏ ra
thân mến đối với vị Tỳ-khưu vu khống kia. Hành động của Ngài chính là một hành
động đại xá. Lẽ ra ông ta phải tỏ vẻ hạ mình biết lỗi trước Ngài mới phải, đằng
này Ngài lại đưa hai tay với vẻ cung kính xin lỗi ông ta nữa".
Nghe Tăng chúng bình phẩm, đức
Phật còn giải thích thêm:
- Này chư Tỳ-khưu! Ðối với ông
Sàrìputta thì việc nuôi dưỡng lòng sân hận và oán thù không thể nào có được.
Tâm hồn của Sa-môn Sàrìputta giống như quả đất vĩ đại hay vững chắc như trụ
thành môn và yên lặng như một hồ nước trong.
Rồi Ngài ngâm kệ:
"Chỉ có quả đất và những
cột trụ chống đỡ cửa thành trì mới là những vật không bao giờ biết sân hận. Với
một tâm hồn trong sáng như một bể nước yên lặng thì một Sa-môn có giới đức như
thế, vòng sinh tử luân hồi sẽ không còn xoay tròn họ nữa".
Có một câu chuyện khác cũng nói
về đức tính này của Ðại Ðức Sàrìputta. Ngay trong thời gian Tăng Già mới thành
lập, một Tỳ-khưu tên Kolàlika, nhận thấy sự sốt sắng chăm lo tổ chức Giáo Hội
của hai Ðại Ðức Sàrìputta và Mahà Moggallàna, sinh lòng ganh tị và hiểu lầm hai
vị Ðại đệ tử này có dụng ý gì đây, rồi đến bạch với Ðức Thế Tôn về "những
ham muốn tội lỗi của hai vị ấy".
Ðức Bổn Sư liền khuyên dạy:
- Này Kolàlika! Ðừng nên nói như
vậy. Ông nên có những ý nghĩ thân thiện và tin tưởng nơi Ðại Ðức Sàrìputta và
Mahà Moggallàna thì hơn vì họ là những người có hạnh kiểm rất tốt và đầy lòng
từ bi".
Nhưng ông Tỳ-khưu lầm lạc không
vâng lời đức Phật. Ông cứ khăng khăng với sự kết tội sai lầm của mình. Chẳng
bao lâu sau khắp thân thể ông mọc đầy mụn nhọt, và cứ tiếp tục như thế cho đến
khi ông chết vì cái bịnh này.
Chuyện đó được khá nhiều chỗ
trong kinh nhắc đến. Chẳng hạn như trong các kinh Brahma SAMYUTTA No 10, kinh
Nipàta Mahà Vanga No 10, kinh Anguttara Nikàya V-170 và kinh Takkàriya Jàtaka
No 481.
Chính sự so sánh về hai câu
chuyện vu cáo nói trên đã cho ta biết tầm quan trọng của tính ăn năn tội lỗi.
Không phải vấn đề hai Ðại Ðức Sàrìputta và Mahà Moggallàna chịu nhận hay không
chịu nhận sự sám hối của Tỳ-khưu Kolàlika, mà chính là đương sự có thấy rõ ác
tâm của mình hay không. Những lời sám hối của ông ta nếu có đến các Ngài cũng
sẽ chẳng làm thay đổi gì thái độ của nhị vị Ðại đệ tử ấy, vì hai Trưởng lão này
lúc nào cũng hỷ xả cho vị Tỳ-khưu tội lỗi nói trên vì hai Ngài không muốn cho
ông ta phải nhận hậu quả của nghiệp ác.