PHẦN HAI
I- ÐỀ-LÊ-PHÚ-BÀ VÀ
BẠT-LÊ-CA
Ðức Phật ngồi kiết già an nhiên
bất động dưới cây đại giác. Ngài tận hưởng nguồn hỷ lạc mà Ngài vừa chứng ngộ
hoàn toàn. Ngài suy gẫm: "Ta đã tìm ra sự giải thoát." Suốt tuần Ngài
kiết già bất động dưới cội bồ đề.
Tuần thứ hai, Ngài làm một cuộc
hành trình thật xa, ngài dạo khắp tam thiên đại thiên thế giới.
Tuần thứ ba, Ngài lại an nhiên
bất động dưới cội bồ đề và chưa một lần nào chớp mắt.
Tuần thứ tư, Ngài thực hiện một
cuộc hành trình tương đối gần, chỉ từ biển đông sang biển tây.
Thế rồi Ma-vương, tên ác quỉ đại
bại, đã tủi nhục bỏ đi lại đến gặp Phật và thốt lên những lời quái đãn:
"Bạch Ðức Thế Tôn, Ngài ở
lại đây làm gì, Ngài biết đường đến giải thoát rồi? Hãy tắt đèn, dập lửa; bạch đức
Thế Tôn, hãy vào niết bàn đi, đến giờ rồi."
Ðức Thế Tôn đáp:
"Không, này Ma vương, ta sẽ
không dập lửa, ta sẽ không vào niết bàn. Trước hết là ta phải thâu nhận nhiều
đệ tử để rồi đến lượt họ đem giáo pháp của ta ra hóa độ người khác. Bằng ngôn
ngữ và hành động, ta phải khuất phục kẻ thù của ta. Không, này Ma-vương, ta sẽ
không vào niết bàn cho đến khi Ðức Phật được tôn vinh khắp thế giới, đến khi
giáo pháp từ bi của Ngài được công nhận khắp thế giới.
Ma-vương bỏ đi, Hắn chán nản, và
hình như hắn thoáng nghe trên không có tiếng thiên thần trêu tức:
"Này Ma-vương, mi đã bị
thất bại rồi. Mi đứng co ro tư lự như một con cò già. Ma-vương, mi bất lực như
một con voi già bị sa lầy. Mi tưởng mi là một anh hùng cái thế, mi còn hèn yếu
hơn cả một bịnh nhân bị lạc lõng trong rừng. Lời lẽ hỗn xược của mi có ích gì
chăng? Chúng léo nhéo như tiếng quạ kêu, chả có lợi gì cả!"
Hắn nhặt một miếng gỗ khô và vẽ
những hình người lên cát. Ba ái nữ: Ra-ti (Rati), A-ra-ti (Arati) và Trí-na
(Trishna) của hắn nhìn thấy hắn. Chúng được triệu về để hiểu rõ nỗi khổ đau tê
tái của phụ vương chúng.
Ra-ti thưa: "Tâu phụ vương,
sao phụ vương trông khốn khổ thế?"
Ma-vương đáp: "Cha đã bị
một thánh nhân đánh bại. Hắn đã bẻ gãy năng lực và quỉ kế của cha."
Trí-na nói: "Tâu phụ vương,
chúng con đẹp lắm. Chúng con có cách quyến rũ."
A-ra-ti tiếp lời: "Chúng
con sẽ đến gặp hắn; chúng con sẽ trói gọn hắn bằng những mắc xích ái ân. Chúng
con sẽ mang hắn về cho phụ vương, đồ đốn mạt, hèn hạ!"
Chúng đến gặp Phật và cất tiếng
hát:
"Bạn ơi, mùa xuân đến rồi,
mùa của tình tự yêu đương, của phấn hương tú lệ. Thảo mộc đang bừng rộ nở hoa;
chúng ta phải vui lên nào. Ðôi mắt của bạn đẹp làm sao, chúng lung linh như ánh
đèn huyền diệu; bạn có nhiều biểu hiện vạn năng. Hãy ngắm chúng em: chúng em
được sinh ra đời để mang lại nguồn vui, nguồn hạnh phúc cho cả nhân loại và chư
thiên. Bạn ơi, hãy đứng lên, hãy cùng với chúng em tô điểm tuổi xuân rực rỡ
nhất cho bạn. Hãy loại hết mọi ý tưởng nghiêm nghị ra khỏi tâm tư của bạn. Hãy
nhìn mái tóc của chúng em, chúng mềm mại làm sao; chúng thoang thoảng hương hoa
từ những sợi đen huyền óng mượt. Hãy ngắm đôi mắt của chúng em, nơi ấp ủ nồng
nàn của những giấc ngủ say ngọt ngào tình ái. Hãy ngắm làn môi ấm áp của chúng
em, chúng đỏ mọng như trái chín trên cây dưới ánh mặt trời. Hãy ngắm những bộ
ngực căng tròn của chúng em. Chúng em múa những vũ điệu uyển chuyển nhịp nhàng
như chim thiên nga; chúng em biết hát những khúc nhạc tình đê mê say đắm, và
khi chúng em vũ, nhịp tim và mạch máu lại đập mạnh nhanh hơn. Bạn ơi, xin đừng
ruồng rẫy chúng em; chỉ có kẻ ngu si đần độn, thật vậy, mới ruồng bỏ một kho
tàng hiếm có. Hỡi người yêu dấu, hãy nhìn ngắm chúng em; chúng em đều là nô lệ
hầu thiếp của người."
Ðức Thế Tôn chả hề xúc động theo
lời hát. Ngài quắc mắt nhìn các thiếu nữ và chúng liền biến thành những mụ phù
thủy gớm guốc.
Thất vọng ê chề, chúng quay về
gặp phụ vương.
Ra-ti than khóc: "Tâu phụ
vương, hắn đã mạt sát tuổi trẻ và sắc đẹp của chúng con."
Trí-na nói: "Ái ân sẽ không
bao giờ làm xiêu lòng hắn, vì hắn có thể cự tuyệt hương sắc của chúng
con."
A-ra-ti thở dài: "Ồ, hắn đã
hành hạ chúng con một cách tàn nhẫn."
Trí-na cầu khẩn: "Tâu phụ
vương, xin phụ vương chữa cho chúng con khỏi cái vóc dáng già nua xấu xí
này."
Ra-ti kêu khóc: "Trả lại
tuổi xuân cho chúng con."
A-ra-ti cũng kêu khóc: "Trả
lại tuổi xuân cho chúng con."
Ma-vương đáp: "Các con khốn
nạn của cha, cha vô cùng đau đớn cho các con. Vâng, Người ấy đã dập tắt ái ân,
Người ấy đã hàng phục uy lực của cha, cha đau buồn lắm! Các con bắt cha trả lại
tuổi xuân và sắc đẹp cho các con, nhưng làm sao cha có thể trả lại điều đó? Chỉ
có Phật là có thể tẩy xóa những gì mà Phật đã làm. Các con hãy quay lại gặp
ngài; hãy thú nhận với Ngài là các con thật có tội đáng trách; các con hãy ăn
năn sám hối người ấy, và có lẽ nhờ thế mà người ấy sẽ trả lại sắc đẹp cho các
con."
Chúng đến cầu Phật:
"Bạch Ðức Thế Tôn, xin tha
tội cho chúng con. Chúng con có mắt mà không thấy ánh hào quang rực rỡ. Chúng
con đần độn lắm, xin tha tội cho chúng con!"
Ðức Thế Tôn đáp: "Vâng, các
ngươi ngu xuẩn lắm, các ngươi dùng móng tay mà ra sức phá vỡ núi rừng, các
ngươi dùng răng mà cố cắn nát gang sắt. Nhưng các ngươi đã nhận ra lỗi lầm, đó
là biểu hiện của trí tuệ. Này các thiếu nữ, ta hỷ xả cho các ngươi."
Ba ái nữ của Ma-vương xin tạ
Phật ra về và đẹp hơn bao giờ hết.
Tuần thứ năm, Ðức Thế tôn vẫn
ngồi dưới cội bồ đề. Nhưng, bỗng nhiên, một cơn gió thê lương thổi lên và một
trận mưa buốt giá đổ xuống. Thế là Mu-xi-linh-đa (Mucilinda), một mãn xà vương,
bạch Ngài: "Ðức Thế Tôn không hề bị gió mưa buốt giá đâu."
Mãn xà rời tổ ấm, bò đến quấn
quanh đức Phật bảy vòng rồi phùng mang che trên đầu Ngài. Ðức Phật nhờ thế
không bị gì cả trong suốt thời gian mưa gió tơi bời.
Tuần thứ sáu, Ngài đến chỗ có
cây sung, nơi bọn chăn dê thường tới lui gặp gỡ. Tất cả đều cung kính cúi đầu
khi Ngài đến gần. Ngài nói:
"Hỷ xả là sự tươi mát cho
ai hiểu biết giáo pháp; từ bi là sự tươi mát cho ai thấy rõ giáo pháp; hỷ xả là
sự tươi mát cho tất cả chúng sanh; từ bi là sự tươi mát cho tất cả chúng sanh.
Ở đời ai không dục vọng là có hạnh phúc; ai hàng phục được tội lỗi là có hạnh
phúc; ai thoát khỏi sự dày vò ray rứt của cảm giác là có hạnh phúc; ai hết khao
khát sinh tồn là có hạnh phúc!"
Tuần thứ bảy, Ngài lại kiết già
bất động dưới cây đại giác.
Hai anh em Ðề-lê-phú-bà (Trapusha)
và Ðạt-lê-ca (Bhalika) đang trở về các nước phương bắc. Họ là những thương gia
đem theo 500 cổ xe ngựa. Khi họ đến gần cây bồ-đê, các cổ xe đều dừng lại. Bọn
phu xe cố thúc ngựa kéo xe tiến lên, nhưng vô ích, chúng không thể tiến thêm
một bước. Các bánh xe đều lún sâu đến giữa trục. Ðề lê-phú-bà và Bạt-lê-ca
hoảng hốt, một lão ông từ đâu xuất hiện và ôn tồn trấn an họ:
"Này các thương gia, hãy đi
tới tí nữa là các ngươi sẽ gặp một đạo sư mà các ngươi phải kính lễ, tôn
thờ."
Ðề-lê-phú-bà và Bạt-lê-ca nhìn
thấy Ðức Thế Tôn, mặt Ngài rực lên ánh hào quang sáng chói.
Họ tự hỏi: "Ðó là thần sông
hay thần núi? Có thể là đấng Phạm-thiên không chừng?"
Nhưng khi nhìn kỹ y phục, họ lại
nghĩ:
"Ngài ấy hẳn là một đạo sĩ.
Có lẽ Ngài muốn có gì để ăn."
Ðề-lê-phú-bà và Bạt-lê-ca đến xe
chở lương thực, họ lấy bột, mật ong và bánh đựng trong một cái bát đem dâng
Phật.
Họ vừa dâng bánh vừa thưa:
"Bạch thánh nhân, xin Ngài dùng bánh và độ chúng con."
Ngài nhận bánh của các thương
gia cúng dường. Khi dùng xong, Ngài nói:
"Này các thương gia, nguyện
cầu chư thiên gia hộ cho các ngươi được phát đạt hạnh phúc!"
Ðề-lê-phú-bà và Bạt-lê-ca cúi
đầu đảnh lễ, và nghe trên không có tiếng thiên thần vọng xuống:
"Ngài ngồi trước mặt các
ngươi đã đạt đến tri kiến tối thượng. Ðây là bữa ăn đầu tiên kể từ khi ngài mở
đường đi đến giải thoát, và niềm vinh dự cúng dường đặc thù này đã dành hẳn cho
các ngươi. Giờ đây Ngài sẽ lên đường thuyết giảng chánh pháp qua khắp thế
giới."
Ðề-lê-phú-bà và Bạt-lê-ca cảm
thấy hân hoan sung sướng, họ là những tín đồ qui y Phật qui y Pháp đầu tiên.
II- PHẬT CHUẨN BỊ THUYẾT PHÁP
Ðức Phật bắt đầu phân vân không
biết làm sao truyền bá tri kiến. Ngài tự nhủ:
"Ta đã khám phá một sự thật
vô cùng thậm thâm vi diệu. Ðây là một sự thật khó nhận, khó hiểu; chỉ có bậc
trí giả mới lãnh hội được. Trong một thế giới tràn đầy hỗn loạn, cuộc sống con
người luôn luôn bất an xao xuyến, nhưng họ lại thích sống như vậy! Làm sao họ
có thể hiểu nổi vòng xích nhân quả? Làm sao họ có thể hiểu nổi giáo pháp? Họ sẽ
không bao giờ chế ngự được dục vọng của họ; họ sẽ không bao giờ vất bỏ lạc thú
trần gian; họ sẽ không bao giờ thể nhập niết bàn. Nếu ta thuyết pháp, họ sẽ
không hiểu ta; có lẽ họ không thèm nghe ta nữa là khác. Công bố cho nhân loại
biết sự thật mà ta phải chiến đấu mới đạt được thì có ích gì? Sự thật không
dính dáng đến những ai bị dục vọng và hận thù sai khiến. Sự thật khó thấy lắm.
Chân lý vẫn còn là một sự huyền diệu. Tâm tính phàm phu ô trược sẽ không bao
giờ nắm bắt được chân lý. Kẻ nào đầu óc chìm ngập trong vô minh đen tối, kẻ nào
tâm trí khổ đau ray rứt vì dục vọng trần gian, người ấy sẽ không bao giờ hiểu
được sự thật."
Ðức Thế Tôn không dự định truyền
bá giáo pháp.
Thế rồi, nhờ thần thông diệu
lực, hiểu được những hoài nghi đang vây hãm đức Thế Tôn, Phạm-thiên lo sợ tự
nhủ: "Thế giới sẽ bị tiêu ma, thế giới sẽ bị hủy diệt nếu đức Phật, đấng
Ðại Giác Thế Tôn đứng riêng lẻ một mình, không chịu cùng giữa dòng nhân thế để
thuyết giảng giáo pháp, truyền bá tri kiến."
Phạm-thiên rời khỏi cung trời,
tức tốc giáng trần, xuất hiện trước mặt Thế Tôn nhanh như cánh tay co dãn của
một lực sĩ. Ðể tỏ lòng tôn kính sâu sắc, Phạm-thiên trịch một vai áo, rồi quì
gối, chấp tay, cúi đầu đảnh lễ Ðức Thế Tôn, bạch rằng:
"Bạch Ðức Thế Tôn, xin Ngài
thuyết minh giáo pháp; bạch Ðức Thế Tôn, xin Ngài truyền đạt tri kiến. Ở đời có
những người rất thanh tịnh trang nghiêm, những người chưa từng bị nhiễm ô phiền
não, nhưng nếu họ không được trao truyền tri kiến, làm sao họ có thể tự thấy
giải thoát? Những người này phải được cứu độ; bạch Ngài, xin Ngài hãy cứu họ!
Họ sẽ nghe theo Ngài; họ sẽ là môn đệ của Ngài."
Phạm-thiên tác bạch như thế
nhưng Ðức Thế Tôn vẫn im lặng. Phạm-thiên thưa tiếp:
"Ác pháp hiện nay đang dọc
ngang thắng thế trên đời. Ác pháp đã lôi kéo nhiều người vào vòng tội lỗi. Sứ
mạng của Ngài là tiêu diệt ác pháp. Bạch Ðấng Ðại Giác, xin Ngài hãy mở cửa bất
diệt cho chúng con; xin cho chúng con biết Ngài đã tìm ra những gì, hỡi Ðấng
cứu tinh của nhân loại! Ngài là người leo núi, Ngài đứng trên đỉnh đá tuyệt
vời. Ngài thấy rõ nhân loại cùng khắp. Bạch Ðấng cứu độ, xin thương xót chúng
con; xin nghĩ đến những kẻ bất hạnh thống khổ vì sinh tồn già lão tác hại. Hỡi
tráng sĩ chiến thắng, hãy lên đường, lên đường đi thôi! Hãy đi khắp thế giới,
hãy là ngọn đèn sáng, hãy là đấng Ðạo Sư. Hãy thuyết giảng, hãy truyền đạt; sẽ
có nhiều người lãnh hội ngôn ngữ của Ngài."
Ðức Thế Tôn đáp:
"Giáo pháp mà ta đạt được
thì vô cùng thậm thâm hy hữu, vi diệu khó hiểu và siêu việt hẳn các luận lý
thông thường. Thế gian không hiểu sẽ nhạo báng; chỉ có một vài trí giả nào đó
may ra nắm được ý nghĩa và dốc lòng qui ngưỡng mà thôi. Nếu ta lên đường, nếu
ta thuyết giảng và rồi không ai hiểu ta, thế là ta tự chuốc lấy sự thất bại
nhục nhã. Này Phạm-thiên, ta sẽ ở lại đây, nhân loại ham vui lười dốt lắm."
Phạm-thiên lại bạch:
"Hỡi vầng thái dương lồng
lộng, Ngài đã đạt đến trí tuệ siêu việt; ánh hào quang rực rỡ của Ngài tỏa sáng
khắp vũ trụ, vậy mà Ngài vẫn thờ ơ lãnh đạm! Không, thái độ như thế không phù
hợp với Ngài; sự im lặng của Ngài là điều thật đáng trách; Ngài phải nói lên
mới được. Xin Ngài hãy đứng lên! Hãy đánh trống dộng chuông! hãy làm cho giáo
pháp huy hoàng như ngọn đuốc sáng ngời, như cơn mưa ngọt ngào tắm gội mặt đất
cằn khô. Hãy cứu độ những ai bị khổ đau hành hạ; hãy mang lại hòa bình cho những
ai bị lửa dữ đốt thiêu! Ngài là vì sao giữa dòng nhân thế; Ngài, chỉ có Ngài là
nhổ sạch gốc rễ tử sinh. Ngài hãy xem, nhân danh Phạm-thiên, ta quì lạy dưới
chân Ngài, xin nguyện cầu Ngài thương nhận lời ta!"
Ðức Thế Tôn Ngẫm nghĩ:
"Giữa đám hoa sen xanh
trắng bừng nở trong hồ, có số thì còn ở dưới nước, có số thì trồi hẳn lên trên
mặt nước, có số thì vươn cao đến độ cành hoa không còn dính nước. Trên đời cũng
thế, ta thấy có kẻ ác, người hiền; người thì tâm trí sắc sảo, kẻ thì đầu óc đần
độn; người thì cao sang, kẻ thì hèn mọn; có số sẽ không hiểu; nhưng ta sẽ xót
thương tất cả. Ta sẽ coi sen nở dưới nước và sen nở tươi đẹp trên cao như
nhau."
Ngài nói với Phạm-thiên:
"Nguyện cầu cánh cửa bất
diệt mở ra cho tất cả chúng sanh! Nguyện cầu những ai có tai nghe được âm hưởng
và tín nhận. Ta đang lo ngại là sự cố gắng của ta sẽ không được gì, chỉ nhọc
xác vô ích; nhưng lòng từ bi của ta có giá trị hơn những đắn đo suy tính đó.
Này Phạm-thiên, ta đứng lên đây, ta sẽ trao truyền giáo pháp cho tất cả chúng
sanh."
III- PHẬT ÐẾN BA-LA-NẠI
Ðức Thế Tôn phân vân không biết
ai là người đầu tiên đáng được tiếp nhận ngôn ngữ giải thoát.
Ngài tự hỏi: "Ở đâu có
người đức hạnh thông minh, nghị lực, tính tình hiền thục, dứt hẳn hận thù, tâm
trí thanh tịnh, không bo bo ôm giữ tri kiến như khư khư ôm ấp một âm mưu đen
tối nào đó để ta có thể trao truyền giáo pháp?"
Ngài nghĩ đến Uất-đầu-lam-phất,
con trai của Ra-ma. Ngài nhớ Uất-đầu-lam-phất không còn hận thù và đã cố gắng
hướng dẫn một cuộc sống đức hạnh; Uất-đầu-lam-phất không phải là hạng người vẽ
vời tô điểm sự bí mật của tri kiến. Ngài định trao truyền giáo pháp cho
Uất-đầu-lam-phất. Ngài tự hỏi: "Uất-đầu-lam-phất hiện giờ ở đâu?" Sau
đó Ngài biết Uất-đầu-lam-phất, con trai của Ra-na, đã qua đời cách đó bảy ngày.
Ngài nói:
"Thương thay!
Uất-đầu-lam-phất, con trai của Ra-ma, chưa nghe được giáo pháp thì đã qua đời.
Uất-đầu-lam-phất có thể lãnh hội giáo pháp và rồi có thể truyền đạt giáo
pháp."
Ngài nghĩ đến A-la-lam. Ngài nhớ
lại trí óc minh mẫn và cuộc sống đức hạnh của người. Ngài đinh ninh là A-la-lam
sẽ hân hoan truyền bá giáo pháp. Ngài lại tự hỏi: "A-la-lam hiện giờ ở
đâu? Sau đó Ngài biết A-la-lam đã qua đời cách đó ba ngày. Ngài nói:
"A-la-lam chưa nghe được
giáo pháp thì đã qua đời; A-la-lam mất đi là một sự thiệt hại to lớn."
Ngài suy đi nghĩ lại và nhớ ra
năm đệ tử của Uất-đầu-lam-phất, những vị đã một thời xin theo Ngài thọ giáo. Họ
có đức hạnh; họ có nghị lực; họ chắc chắn sẽ thông hiểu giáo pháp. Ðức thế Tôn,
nhờ trí tuệ, biết năm môn đệ của Uất-đầu-lam-phất đang sinh sống trong vườn
lộc-uyển tại thành Ba-la-nại. Thế là Ngài lên đường thẳng đến Ba-la-nại.
Tại núi Dà-da (Gaya), Ngài gặp
đạo sĩ U-ba-ca (Upaka). Vừa trông thấy Ðức Thế Tôn, U-ba-ca liền tỏ lời thán
phục.
U-ba-ca nói: "Ngài kỳ diệu
làm sao! Khuôn mặt của Ngài ôi rạng rỡ! Trái cây đã chín mộng dưới ánh mặt trời
thì hoa nụ hẳn phải thưa dần. Ngài là vẻ đẹp của cả một mùa thu trong sáng.
Bạch Ngài, cho con xin hỏi đạo sư của Ngài là ai?"
Ðức Thế Tôn đáp: "Ta không
có đạo sư. Không ai như ta cả. Chỉ có ta là trí tuệ, tịch tịnh, bất hoại."
U-ba-ca nói: "Ngài hẳn là
một đạo sư tôn quí tuyệt vời!"
"Vâng, ta là đạo sư duy
nhất trên cõi đời này; không thể tìm đâu ra người như ta trên trái đất này hoặc
ngay trên thiên giới."
U-ba-ca hỏi: "Ngài định đi
đâu?"
Ðức Thế Tôn đáp: "Ðến
Ba-la-nại. Ta sẽ đốt lên ngọn đèn tại đó và nó sẽ tỏa sáng khắp nhân gian, nó
sẽ mang lại nguồn sáng ngay cho những ai bị mù mắt. Ta sẽ đến Ba-la-nại, tại
đó, ta sẽ gióng lên những hồi trống thức tỉnh nhân loại, những hồi trống rềnh
vang khai thông thính giác cho cả những người điếc tai. Ta sẽ đến Ba-la-nại, ta
sẽ thuyết giảng giáo pháp tại đó."
Ngài tiếp tục lên đường và đến
bờ sông Hằng (Gange). Nước sông dâng cao, Ðức Thế Tôn tìm đò qua sông. Vừa thấy
ông đò, Ngài nói:
"Này bạn, cho ta sang sông
được chăng?"
Ông đò đáp: "Ðược chứ,
nhưng phải trả tiền trước."
Ðức Thế Tôn đáp: "Ta không
có tiền." và rồi Ngài lội qua bờ bên kia như đi trên mặt đất.
Ông đò đau khổ, kêu gào:
"Ta không đưa Ngài sang sông. Ngài đúng là bậc thánh mà! Ồ, ta ân hận
quá!" Ông đò lăn nhào xuống đất với cõi lòng ray rứt dày vò.
IV- PHẬT GẶP LẠI CÁC ÐỆ TỬ TRƯỚC KIA
Ðức Thế Tôn vào đại thành
Ba-la-nại. Ngài khất thực qua các đường phố, và sau khi thọ trai xong, Ngài
thẳng đến vườn lộc-uyển. Ngài biết là Ngài sẽ tìm ra các đệ tử trước kia của
Uất-đầu-lam-phất.
Năm môn đệ thấy Ngài từ xa đi
lại, họ nhận ra Ngài và nói với nhau:
"Chúng ta không biết người
đang đi về hướng chúng ta kia là ai sao? Người ấy không phải là vị đạo sư khổ
hạnh mà xưa kia từng làm ta sửng sốt để rồi một hôm dứt khoát chống lại pháp
môn cực kỳ khắc khổ ấy sao? Nếu sự khổ tu của người ấy không phải là đường
hướng đích thực cho người ấy đi đến vô thượng bồ đề thì làm sao ngày nay tư
tưởng của người ấy có thể giúp ích chúng ta trong khi người ấy vẫn bị tham dục,
hèn nhát tác động? Chúng ta không cần phải ra đón người ấy hoặc đứng lên khi
người ấy đến; chúng ta không cần phải ôm y bát cho người ấy; chúng ta không cần
phải nhường chỗ cho người ấy. Chúng ta sẽ nói với người ấy: "Ở đây hết chỗ
rồi'. Chúng ta sẽ không mời người ấy ăn uống gì cả."
Họ quyết định như vậy. Nhưng Ðức
Thế Tôn mỗi lúc một tiến đến gần, Ngài đến gần bao nhiêu thì họ lại càng nao
nao bấy nhiêu. Họ tự nhiên muốn đứng lên. Họ quýnh quáng như bầy chim cố thoát
khỏi lồng đang bị lửa đốt bên dưới. Họ cảm thấy bất an; họ bồn chồn như thể họ
bị ngã bịnh. Cuối cùng, họ từ bỏ ý định, họ đồng loạt đứng lên và ùa chạy đến
Ðức Thế Tôn. Người thì cầm bình bát, người thì ôm y phục, người thì bày chỗ
ngồi. Họ đem nước đến rửa chân Ngài và đồng thanh cất tiếng chào mừng:
"Xin hân hạnh chào bạn. Xin
mời bạn ngồi giữa anh em chúng tôi."
Ðức Thế Tôn ngồi xuống rửa chân.
Sau đó Ngài ngỏ lời với năm ẩn sĩ:
"Này các đạo sĩ, đừng gọi
ta bằng bạn. Ta là Thánh Nhân, là đấng Toàn Giác, là Phật Ðà vô thượng. Này các
đạo sĩ, hãy lắng nghe, ta đã tìm ra đường dẫn đến giải thoát. Ta sẽ chỉ đường
cho các ngươi. Hãy lắng nghe, các ngươi sẽ giác ngộ sự thật cao quí."
Họ đáp"
"Xưa kia dù tu khổ hạnh đến
đâu Ngài cũng không đạt đến quả vị toàn giác, nay sống buông lung phóng dật,
làm sao Ngài có thể chứng đắc vô thượng bồ đề?"
Ðức Thế Tôn đáp: "Này các
đạo sĩ, ta không sống buông lung phóng dật; ta chưa hề từ bỏ một công đức nào
mà ta khao khát. Ta là Thánh Nhân, là Ðấng Toàn Giác, là Phật Ðà vô thượng. Này
các đạo sĩ, hãy lắng nghe, ta đã tìm ra đường dẫn đến giải thoát. Ta sẽ chỉ
đường cho các ngươi; ta sẽ truyền đạt giáo pháp cho các ngươi. Hãy lắng nghe,
các ngươi sẽ giác ngộ sự thật cao quí."
Ngài dạy tiếp: "Này các đạo
sĩ, các ngươi có nhận thấy là trước đây ta chưa bao giờ nói với các ngươi như
vậy phải không?"
"Bạch đạo sư, chúng tôi
nhận thấy điều đó."
"Ta nói với các ngươi: ta
là Thánh Nhân là Ðấng Toàn Giác, là Phật Ðà vô thượng. Này các đạo sĩ, hãy lắng
nghe, ta đã tìm ra đường dẫn đến giải thoát. Hãy lắng nghe."
Năm đạo sĩ lắng nghe, Ngài dạy:
"Có hai thái cực mà người
khôn ngoan trí tuệ phải tránh. Một hạng người đắm say dục lạc; cuộc sống của họ
là cả một vòng tròn say sưa phóng đãng; họ chỉ tìm thú vui để thõa mãn cảm
giác. Hạng người đó bần tiện lắm; phẩm hạnh của họ đê hèn, lếu láo; người như
thế không làm sao có được khôn ngoan trí tuệ. Hạng người khác thì dấn thân vào
khổ hạnh, họ từ bỏ các thứ; phẩm hạnh của họ ưu sầu, vô dụng; người như thế
cũng không làm sao có được khôn ngoan trí tuệ. Này các đạo sĩ, Ðấng Toàn Giác
vượt ngoài hai thái cực đó. Ngài đã khám phá ra con đường Trung Ðạo, con đường
khai tâm mở mắt, con đường dẫn đến tịch tịnh, giác ngộ, niết bàn. Này các đạo
sĩ, con đường cao quí này có tám nhánh: Chánh Tín, Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ,
Chánh Nghiệp, Chánh Mạng, Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm, Chánh Ðịnh. Này các đạo
sĩ, đây là con đường Trung Ðạo. Con đường mà ta, Ðấng Toàn Giác, đã khám phá;
con đường dẫn đến tịch tịnh, giác ngộ, Niết bàn."
Năm môn đệ như nín thở hân hoan
theo dõi Ngài. Ngài dừng lại giây lát rồi giảng tiếp:
"Này các đạo sĩ, ta sẽ
truyền đạt cho các ngươi sự thật về khổ. Sanh là khổ, già là khổ, bịnh là khổ,
tử là khổ, bị ràng buộc vào những gì các ngươi không ưa là khổ, bị tách biệt
với những gì các ngươi yêu quí là khổ, không đạt được điều các ngươi mong ước
là khổ, bám trụ vào sắc, thọ, tưởng, hành thức là khổ khổ.
Này các đạo sĩ, ta sẽ truyền đạt
cho các ngươi sự thật về nguồn gốc của khổ. Khao khát sinh tồn là mãi mãi luân
hồi sanh tử; dục vọng, lạc thú cũng theo đó mà ra. Chỉ có uy quyền là thỏa mãn
dục vọng. Khao khát uy quyền, khao khát lạc thú, khao khát sinh tồn; này các
đạo sĩ, đó là nguồn gốc của khổ.
Này các đạo sĩ, ta sẽ truyền đạt
cho các ngươi sự thật về sự diệt khổ. Hãy dập tắt tham dục bằng cách tiêu trừ
dục vọng. Hãy loại bỏ dục vọng. Hãy triệt tiêu dục vọng. Hãy hủy diệt dục vọng.
Hãy giết sạch dục vọng.
Này các đạo sĩ, ta sẽ truyền đạt
cho các ngươi sự thật về con đường dẫn đến sự diệt khổ. Ðó là Thánh Ðạo, là Bát
Chánh Ðạo: Chánh Tín, Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng, Chánh
Tinh Tấn, Chánh Niệm, Chánh Ðịnh.
Này các đạo sĩ, các ngươi đã
biết sự thật cao quí về khổ. Chưa có ai trước ta khám phá ra nó; mắt ta mở ra
là thấy khổ liền. Ta đã hiểu rõ sự thật về khổ; này các đạo sĩ, các ngươi giờ
đây phải nhận ra nó.
Này các đạo sĩ, các ngươi đã
biết sự thật cao quí về nguồn gốc của khổ; chưa có ai trước ta khám phá ra nó;
mắt ta mở ra là thấy ngay nguồn gốc của khổ. Ta đã hiểu rõ sự thật về nguồn gốc
của khổ; này các đạo sĩ, các ngươi giờ đây phải nhận ra nó.
Này các đạo sĩ, các ngươi đã
biết sự thật cao quí về sự diệt khổ; chưa có ai trước ta khám phá ra nó; mắt ta
mở ra là thấy ngay sự diệt khổ. Ta đã hiểu rõ sự thật về sự diệt khổ; này các
đạo sĩ, các ngươi giờ đây phải nhận ra nó.
Này các đạo sĩ, các ngươi đã
hiểu sự thật cao quí về con đường dẫn đến sự diệt khổ; chưa có ai trước ta khám
phá ra nó; mắt ta mở ra là thấy ngay con đường dẫn đến sự diệt khổ. Ta đã hiểu
rõ sự thật về con đường dẫn đến sự diệt khổ; này các đạo sĩ, các ngươi giờ đây
phải nhận ra nó.
Năm đệ tử hân hoan lắng nghe lời
dạy của Ðức Thế Tôn. Ngài tiếp:
"Này các đạo sĩ, trong khi
ta chưa giác ngộ hoàn toàn về bốn sự thật này, ta biết rằng không phải ở tại
nhân gian hay ở thế giới của chư thiên, thế giới của Ma-vương, thế giới của
Phạm-thiên; ta biết rằng giữa chúng sanh, nhân loại, thiên thần, ẩn sĩ hay
bà-la-môn, ta chưa đạt đến quả vị vô thượng Phật Ðà. Nhưng, này các đạo sĩ, giờ
thì ta có được sự giác ngộ hoàn toàn về bốn sự thật này, ta biết rằng trên cõi
đời này cũng như ở thế giới của chư thiên, thế giới của ma-vương, thế giới của
phạm-thiên; ta biết rằng giữa chúng sanh, nhân loại, thiên thần, ẩn sĩ hay
bà-la-môn, ta đã đạt đến quả vị vô thượng Phật Ðà. Ta vĩnh viễn giải thoát: ta
không còn sinh tử luân hồi nữa."
Ðức Thế Tôn thuyết giảng như thế
và năm đạo sĩ hoan hỷ tín nhận, tôn vinh kính lễ Ngài.
V- TRUYỆN ẨN SĨ VÀ THỎ RỪNG
Kiều-trần-như (Kaundinya) là một
trong năm vị đạo sĩ đầu tiên đến gần Ðức Thế Tôn và bạch rằng:
"Bạch Ðức Thế Tôn, con xin
lắng nghe, nếu Ngài thấy con có ít nhiều duyên phước, con xin làm đệ tử
Ngài."
Ðức thế Tôn hỏi:
"Kiều-trần-như, ngươi đã hiểu ta chưa?"
Kiều-trần-như đáp: "Con xin
qui y Phật, con xin nương theo Phật. Con xin nương theo Ðức Thánh, Ngài đã giác
ngộ hoàn toàn, đã quán triệt tam thiên đại thiên thế giới; con xin nương theo
Ngài có khả năng giáo hóa chúng sanh như người ta giáo hóa bò mộng ở rừng
hoang, ngôn ngữ của Ngài được cả chư thiên và loài người tiếp nhận; con xin
nương theo Ngài vì Ngài là Ðấng Phật Ðà vô thượng. Con xin qui y pháp, con xin
nương theo giáo pháp. Ðức thế Tôn đã truyền đạt giáo pháp, đã thuyết giảng giáo
pháp một cách rõ ràng; chánh pháp dẫn đến giải thoát, bậc hiền trí phải nhận ra
năng lực từ bi hỷ xả của giáo pháp. Con sẽ sống theo giáo pháp của Ngài, giáo
pháp tôn quí mà các bậc hiền trí phải theo đó tu tập."
Ðức Thế Tôn nói: "Ngươi đã
thông đạt rồi đó; Kiều-trần-như, hãy đến gần ta thêm tí nữa. Ta đã thuyết giảng
giáo pháp rõ ràng. Hãy sống đời thánh thiện và chịu đựng khổ đau."
Sau đó, Thập-lực-ca-diếp,
Bạt-đề, Ma-ha-nam-câu-lỵ, và Át-bệ cùng đến bày tỏ đức tin và xin qui y theo
Phật. Thế là bấy giờ có sáu thánh giả trên đời.
Trong khi Ðức Thế Tôn ở an tịnh
tại vườn lộc-uyển thì một thanh niên tên Da-xá (Yasas) đến. Da-xá là con trai
của một thương gia giàu có tại thành Ba-la-nại. Anh đã sống một cuộc sống trần
tục, nhưng anh cũng đã ý thức được sự trống rỗng vô vị của các lạc thú trần
gian, anh đang tìm kiếm sự an tịnh thiêng liêng giữa cảnh núi rừng u tịch. Gặp
Da-xá, Ðức Thế Tôn thuyết giảng giáo pháp cho anh nghe và anh tuyên bố là anh
quyết định đi theo đường hướng thánh thiện.
Phụ thân của Da-xá đến vườn
lộc-uyển để tìm con. Ông muốn làm con xiêu lòng, muốn bắt con từ bỏ đường hướng
thánh thiện. Nhưng khi nghe Phật giảng giải, ngôn từ của Ngài đã làm ông cảm
kích và xin qui y theo Ngài. Mẹ và vợ của Da-xá cũng xin tỏ lòng thâm tín sự
thật của giáo pháp, nhưng khi Da-xá xin xuất gia với các sa môn thì phụ thân,
mẫu thân và vợ của anh lại trở về nhà ở Ba-la-nại.
Bốn người bạn của Da-xá là
Tỳ-ma-la (Vimala), Tu-bà-hầu (Subahu), Phù-lan-na ca (Purnajit) và
Già-bà-bạt-đế (Gavampati) đều lấy làm buồn cười cho bước chân lên đường của
anh. Họ nói:
"Chúng ta hãy đến vườn
lộc-uyển tìm Da-xá. Chúng ta sẽ vạch trần lỗi lầm cho cậu ấy thấy và cậu ấy sẽ
về lại với chúng ta."
Vào đến tận rừng, họ thấy Phật
đang thuyết giảng cho các đệ tử. Ngài kể:
"Ngày xưa, có một ẩn sĩ lưu
trú tại một thung lũng bé nhỏ hiu hắt trong rừng. Ngài sống kham khổ một mình.
Y phục của ngài làm bằng vỏ cây, ngài chỉ uống nước lã, ăn toàn rễ cây và trái
rừng. Người bạn tâm phúc của ngài là một chú thỏ. Chú thỏ này có thể nói được
tiếng người và thích trò chuyện với ngài ẩn sĩ lắm. Chú học hỏi được nhiều điều
lợi ích ở những lời huấn thị của ngài, chú tích cực phấn đấu để đạt đến trí
tuệ. Rồi, vào một năm nọ, đại hạn khủng khiếp xảy ra; các dòng suối ở rừng đều
khô cạn, cây cành chả còn hoa trái gì cả.
Vị ẩn sĩ không thể tìm đâu ra
thức ăn nước uống; ngài đâm ra chán ngán cho cảnh ẩn dật núi rừng, và, một hôm,
ngài đành vất bỏ y phục ẩn sĩ. Chú thỏ thấy thế hỏi: "Này bạn, bạn đang
làm gì vậy?' vị ẩn sĩ đáp: "Bạn thấy đó, ta không còn dùng y phục này
nữa'. Chú thỏ nói: "Ơ kìa! bạn sắp rời khỏi thung lũng này sao?'
"Vâng, ta sẽ đi giữa dòng nhân thế. Ta sẽ khất thực và họ sẽ cho ta thức
ăn chứ không phải rễ cây và trái rừng như thế này nữa'.
Nghe qua, chú thỏ giật mình
hoảng hốt như thể một em bé bị cha mẹ bỏ rơi, chú kêu khóc: "Bạn ơi, đừng
đi đâu nữa! Ðừng bỏ ta một mình! Hơn nữa, biết bao người phải tan hoang khi đến
sinh sống ở thị thành! Chỉ có cuộc sống u tịch ở núi rừng là đáng quí.' Nhưng
vị ẩn sĩ đã dứt khoát, ngài quyết tâm ra đi, ngài muốn đi. Chú thỏ van xin:
"Ngài từ bỏ núi rừng thật sao? Thế thì đi! Nhưng xin ngày ban cho ta một
ân huệ: hãy nán lại đây một ngày nữa, chỉ một ngày nữa thôi. Hãy ở lại đây hôm
nay, ngày mai bạn có thể tha hồ lên đường.' Vị ẩn sĩ suy nghi: "Thỏ là
loài giỏi tìm kiếm thức ăn; chúng có kho lương thực giấu kín đâu đây. Ngày mai
có lẽ thỏ mang cho ta chút gì để ăn.' Thế là vị ẩn sĩ hứa ở lại cho đến ngày
hôm sau, chú thỏ sung sướng vọt chạy mất. Vị ẩn sĩ là một trong những tín đồ
thờ lửa (Agni), ngài cẩn thận, luôn luôn giữ lửa cháy đều trong thung lũng.
Ngài tự nhủ: "ta không có gì để ăn, nhưng ít ra ta có thể sưởi ấm cho đến
khi bạn thỏ trở về.'
Tảng sáng hôm sau, chú thỏ lại
về với hai bàn tay trắng. Khuôn mặt của vị ẩn sĩ lộ hẳn vẻ thất vọng chán nản.
Chú thỏ cuối đầu lạy tạ thưa rằng: "Súc vật chúng tôi không có tri thức
hay khả năng nhận định gì cả; bạch ẩn sĩ tôn quí, nếu ta có gì lỗi lầm, xin
ngài hỷ xả cho.' Chú thỏ nói xong đột nhiêu nhảy bổ vào lửa. Vị ẩn sĩ thét lên:
"Bạn làm gì thế?' Ngài cũng nhảy đại vào lửa để cứu thỏ. Sau đó chú thỏ
tâm sự với ngài: "Ta không muốn ngài từ bỏ nghĩa vụ; ta không muốn ngài
rời khỏi nơi đây. Không còn gì để ăn cả. Ta nguyện hiến thân vào lửa; bạn ơi,
hãy ăn ta, hãy dùng tạm thịt ta và ở lại nơi thung lũng này'. Vị ẩn sĩ vô cùng
xúc động. Ngài đáp: "Ta sẽ không lên đường trở về phố thị; ta sẽ ở lại đây
dù ta phải chết đói'. Chú thỏ sung sướng, ngước mắt nhìn trời, miệng lâm râm cầu
nguyện: "Hỡi thần sấm, ta luôn luôn yêu quí cuộc sống cô tịch. Xin tưởng
đến ta mà mưa đổ xuống'. Thế là mưa tuôn ào ào, không mấy chốc, vị ẩn sĩ và ông
bạn của ngài thấy đầy đủ thức ăn cần thiết cho họ ở thung lũng.
Sau giây phút yên lặng, đức Thế
tôn tiếp:
"Này các thầy tỳ kheo, chú
thỏ lúc đó chính là ta đây. Còn vị ẩn sĩ chính là một trong những thanh niên ác
ý vừa vào vườn lộc uyển. Vâng, người ấy chính là Tỳ-ma-la đó!"
Ngài từ chỗ ngồi đứng lên.
"Này Tỳ-ma-la, ngay khi còn
là một chú thỏ rừng trong thung lũng, ta đã ngăn chận ngươi chạy theo ác đạo,
ta còn chỉ đường cho ngươi đi đến thánh thiện huống hồ là nay ta đã đạt đến quả
vị vô thượng Phật Ðà, tai mắt của ngươi đều nghe thấy điều đó. Vậy mà ngươi vẫn
nỡ ra sức ngăn cản người bạn tâm phúc của ngươi đi tìm giải thoát!"
Tỳ-ma-la sụp lại dưới chân Ðức
Thế Tôn, anh xin qui y theo Ngài và được Ngài chấp thuận xuất gia tu tập với
các đệ tử. Sau đó, Tu-bà-hầu, Phù-lan-na-ca và Già-bà-bạt-đế cũng quyết tâm noi
theo thánh giáo của Ngài.
Số đệ tử mỗi ngày một gia tăng,
chẳng mấy chốc Ðức Thế Tôn đã có sáu mươi vị sa môn sẵn sàng truyền bá giáo
pháp. Ngài khuyên các đệ tử:
"Này các đệ tử, ta đã giải
thoát hết mọi ràng buộc nhơn thiên. Các ngươi ngày nay cũng thế. Này các đệ tử,
các ngươi hãy khởi sự lên đường, hãy đi đi, hãy vì lòng xót thương nhân thế,
hãy vì nguồn hạnh phúc của nhân gian, hãy đi đi! Chính nhờ các ngươi mà nhân
loại và chư thiên sẽ được an vui hạnh phúc. Hãy đơn độc lên đường. Này các đệ
tử, hãy thuyết giảng, hãy truyền bá giáo pháp rực rỡ huy hoàng: giáo pháp huy
hoàng khi bắt đầu, huy hoàng ngay ở giữa, huy hoàng lúc sau cùng. Hãy truyền
đạt tinh thần của giáo pháp; hãy thuyết giảng văn tự của giáo pháp; hãy phổ
biến nếp sống hoàn hảo, thanh tịnh, thánh thiện cho những ai muốn nghe. Có
những người không bị bụi phấn trần gian làm mù quáng, nhưng họ sẽ không thấy
giải thoát nếu họ không được nghe giáo pháp. Vì thế, này các đệ tử, hãy lên
đường, hãy truyền đạt giáo pháp cho họ."
Các đệ tử lên đường du hóa mỗi
người một phương, Ðức Thế Tôn một mình thẳng đến Ưu-lâu-tần-loa (Uruvilva).
VI- TRUYỆN BÁCH-MA-CA
Ðức Thế Tôn đi được một hồi lâu
thì mệt mỏi.
Ngài vào một cánh rừng nhỏ và
ngồi nghỉ dưới một gốc cây. Ngài vừa thiu thiu ngủ thì thấy một đám ba mươi
thanh niên vào rừng Ngài chăm chú quan sát họ.
Theo ngôn ngữ và cử chỉ của họ
thì rõ ràng là họ đang tìm một người nào. Cuối cùng họ hỏi Phật:
"Ngài có thấy một phụ nữ đi
qua đây không?"
"Không, các anh là
ai?"
"Chúng tôi là những nhạc
công. Chúng tôi lưu diễn từ thành phố này đến thành phố khác. Chúng tôi thường
trình tấu trước sự hiện diện của các quốc vương, tài nghệ của chúng tôi được
nhiều người hâm mộ lắm. Hôm nay chúng tôi có đem theo một thanh nữ để giúp vui,
nhưng trong lúc chúng tôi ngủ say ở bên kia vệ đường thì hắn vơ hết đồ đạc của
chúng tôi và trốn mất. Chúng tôi đang truy tìm con nhỏ đó.
Ðức Phật hỏi: "Việc làm nào
tốt đẹp hơn, các anh đi tìm cô phụ nữ đó hay các anh đi tìm chính các
anh?"
Các nhạc công cười ngoặt ngoẹo,
ra vẻ châm biếm Ðức Thế Tôn.
Ngài nói với người cười to nhất:
"Anh chơi đàn của anh xem nào."
Nhạc công khoe tài ngay. Anh
chơi hay thật; thảo nào anh dễ dàng tin tưởng là các vua chúa đều say mê lời ca
điệu nhạc của anh. Khi anh diễn xong, Ðức Thế Tôn nói:
"Cho ta mượn cây đàn của
anh."
Ngài dạo qua một bản, các nhạc
công lắng nghe sửng sốt. Họ chưa bao giờ nghe thấy âm điệu ngọt ngào từ cung
đàn của họ phát ra như vậy. Ngay cả gió cũng im lặng phăng phắc, mọi người
dường như nín thở lắng nghe tiếng đàn kỳ diệu của Ngài.
Ðức Thế Tôn ngừng dạo đàn.
Nhạc công thưa: "Bạch Ðức
Thế Tôn, chúng con nghĩ là chúng con đã điêu luyện về nghệ thuật, nhưng thật ra
chúng con chưa hiểu tí gì về nguyên tắc căn bản của nó. Xin Ngài thương tình
dạy cho chúng con những điều mà Ngài đã quán triệt."
Ðức Thế Tôn đáp: "Ðến giờ
phút này các anh mới thấy kiến thức âm nhạc của các anh còn nông cạn, nhưng
trước đây các anh cho là các anh đã bát lãm về nghệ thuật. Vì thế cho nên các
anh tưởng là các anh hiểu được các anh, thật ra sự hiểu biết của các anh còn
hời hợt lắm. Các anh cầu ta dạy cho các anh nhưng các anh lại cười đùa ngạo
nghễ khi ta khuyên các anh đi tìm lại chính các anh!"
Các nhạc công hết dám cười đùa
nữa.
Họ thưa: "Bạch Ðức Thế Tôn,
chúng con hiểu Ngài, chúng con hiểu Ngài! Chúng con sẽ đi tìm lại chính chúng
con."
Ðức Phật nói: "Tốt lắm, các
ngươi sẽ thông đạt giáo pháp của ta. Rồi đây, như quốc vương Bách-ma-ca
(Padmaca), người đã hy sinh thân mạng để cứu sống quốc dân, các ngươi cũng sẽ
truyền đạt trí tuệ các ngươi để cứu vớt nhân loại."
Ngài kể lại câu chuyện về vua
Bách-ma-ca và các nhạc công chăm chú lắng nghe.
"Xưa kia có một quốc vương
công minh, uy dũng, tên là Bách-ma-ca, trị vì tại thành Ba-la-nại. Bấy giờ có
một bịnh dịch kỳ dị bỗng nhiên lan tràn khắp thành phố. Những ai nhiễm bịnh đều
vàng cả người, và, dù phơi dưới ánh mặt trời, họ vẫn bị sốt run cầm cập. Quốc
vương vô cùng xót thương dân chúng, ngài cố tìm phương cách để cứu chữa họ.
Ngài hội ý với các y sĩ lừng danh nhất, ngài phân phát thuốc men và đích thân
giúp đỡ, chăm sóc người bịnh. Nhưng hết hy vọng, bịnh dịch cứ tiếp tục hoành
hành. Bách-ma-ca vô cùng đau đớn.
Một hôm, có một trưởng lão y sĩ
đến tâu vua: "Tâu quốc vương, hạ thần biết một thứ thuốc có thể cứu chữa
dân Ba-la-nại!' Quốc vương hỏi: "Thuốc gì thế' "Ðó là con cá mập
Rô-hy-ta (Rohita). Hãy cho người bắt nó và phát cho bịnh nhân mỗi người một
miếng, dù nhỏ thế nào chăng nữa, thì bịnh dịch tan biến ngay.' Quốc vương cuống
quít cảm ơn vị trưởng lão y sĩ đó; ngài ra lệnh cho mọi người giăng sông chài
biển để bắt cá Rô-hy-ta, nhưng họ không tìm đâu ra nó. Quốc vương đau buồn chán
nản. Sáng hoặc tối, thỉnh thoảng ngài nghe có tiếng khóc than ai oán bên ngoài
hoàng cung: "Quốc vương ơi, chúng tôi khốn khổ lắm. Xin cứu vớt chúng tôi
với!' Ngài khóc nức nở.
Cuối cùng, ngài suy nghĩ:
"Giàu sang quyền thế để mà chi, cuộc sống có ích gì nếu ta không cứu giúp
những ai bị khổ đau hành hạ?' Ngài cho gọi người con trưởng nam của ngài đến,
ngài nói: "Con ơi, cha để lại cho con tài sản và vương quốc này.' Ðoạn
ngài đi thẳng lên sân thượng hoàng cung, ngài dâng cúng hương hoa đến chư vị
thiên thần và khấn nguyện: "Ta hân hạnh hy sinh mạng sống mà ta cho là vô
dụng này. Nguyện cầu sự hy sinh này mang lại lợi ích cho những ai bị khổ đau
vây hãm! Ta xin nguyện làm cá Rô-hy-ta theo sông trôi qua thành này!' Ngài từ
sân thượng gieo mình xuống đất và biến ngay thành cá Rô-hy-ta bơi theo dòng
sông. Cá bị bắt, nó vẫn còn sống khi họ cắt nó thành những mảnh nhỏ để phân
phát cho người bịnh, nó chả thấy bị dao búa cắt xẻ gì cả, nó run run cử động
với lòng thương yêu tất cả chúng sanh.
Chẳng mấy chốc bệnh dịch biến
mất, khắp thành Ba-la-nại, đâu đâu cũng vang lên lời ca tiếng nhạc: "Chính
nhờ Bách-ma-ca, đấng minh quân thánh đức cứu vớt các ngươi! Hãy vui lên nào!'
hầu hết dân cư trong thành đều tôn kính, tưởng nhớ đến Bách-ma-ca."
Các nhạc công lắng nghe Ðức Thế
Tôn, họ hứa qui y theo Ngài để thọ trì giáo pháp.
Tại Ưu-lâu-tần-loa, Ðức Thế Tôn
gặp ba anh em của Ca-diếp (Kasyapa). Ba đạo sĩ bà-la-môn đức hạnh này có một
ngàn đệ tử. Họ thường bị một con rắn độc nhiễu hại, quấy phá các cuộc tế lễ của
họ, họ đem sự phiền toái đó đến trình Phật. Ðức Phật mỉm cười; Ngài đón gặp rắn
độc và bảo nó từ đó về sau hãy để cho họ an ổn tu hành. Rắn độc vâng lời, thế
là các cuộc tế lễ của họ không bị gián đoạn nữa.
Ba anh em Ca-diếp mời Phật ở lại
với họ vài hôm. Ngài nhận lời. Ngài muốn tạo sự ngạc nhiên cho các chủ nhân
bằng cách phóng ra vô số phép màu kỳ diệu, bấy giờ hết thảy mọi người đều xin
nương theo giáo pháp của Ngài. Chỉ có người anh cả của ba anh em Ca-diếp là
không chịu theo Phật. Người ấy suy nghĩ:
"Ðúng, đạo sĩ có nhiều thần
lực, Ngài phóng ra vô số thần thông diệu dụng, nhưng ngài chưa thánh thiện bằng
ta."
Ðọc được tư tưởng của Ca-diếp,
Ðức Thế Tôn nói:
"Này Ca-diếp, ngươi cho
ngươi là người thánh thiện, nhưng ngươi chưa ở trên đường dẫn đến thánh
thiện."
Thấy Phật đoán được ý nghĩ thầm
kín của mình, Ca-diếp vô cùng kinh ngạc. Ðức Thế Tôn nói tiếp:
"Ngươi không biết làm sao
tìm ra đường hướng dẫn đến thánh thiện. Này Ca-diếp, hãy nghe theo lời ta nếu
ngươi muốn xua tan màn đêm vây hãm cuộc sống của ngươi."
Ca-diếp suy nghĩ trong giây lát
rồi sụp lạy dưới chân Ðức Thế Tôn và bạch rằng:
"Bạch Ðức Thế Tôn, xin Ngài
truyền thọ giáo pháp cho con! Xin cứu con ra khỏi màn đêm tăm tối."
Sau đó Ðức Thế Tôn lên núi
thuyết giảng giáo pháp cho ba anh em Ca-diếp và môn đệ của họ
Ngài dạy: "Này các thầy tỳ
kheo, các pháp ở thế gian đều đang bừng cháy, nhãn quan đang bừng cháy, tất cả
những gì chúng ta nhìn thấy trên đời đều đang bừng cháy. Vì sao thế? vì ngọn
lửa yêu ghét chưa được dập tắt. Các ngươi si mê mù quáng là vì thứ lửa này, các
người chịu khổ đau, sanh già bịnh chết cũng vì thứ lửa này. Này các thầy tỳ
kheo, mọi vật ở thế gian đều đang bừng cháy! Hiểu ta thì ngọn lửa đó sẽ được
dập tắt cho các ngươi; mắt các ngươi sẽ hết bị thứ lửa đó làm mù quáng, và các
ngươi sẽ hết ham thích cảnh tượng bừng cháy mà các ngươi đang say đắm hiện nay.
Hiểu ta, các ngươi sẽ thấy hết luân hồi sanh tử, các ngươi sẽ thấy chúng ta
không bao giờ trở lại trên trái đất này."
VII- PHẬT TẠI RỪNG TRÚC-LÂM
Ðức Thế Tôn nhớ rằng quốc vương
Tần-bà-sa-la xưa kia đã bày tỏ ý định học hỏi giáo pháp, Ngài quyết định đến
thành Vương-xá (Rajagriha). Ngài lên đường với trưởng tử Ca-diếp và một vài môn
đệ mới khác. Ngài đến trú tại một khu rừng gần thành.
Chẳng mấy chốc, quốc vương
Tần-bà-sa-la hay tin các thầy tỳ kheo đã đến. Vua quyết định đến viếng các
ngài. Cùng với đoàn cận vệ theo sau hộ tống, quốc vương đi thẳng đến cánh rừng.
Nhận ra Ðức Thế Tôn, quốc vương thưa:
"Bạch Ðức Thế Tôn, Ngài
không quên ước nguyện của con chứ; con xin vô vàn biết ơn và kính lễ
Ngài."
Quốc vương sụp lạy, Ðức Thế Tôn
đỡ vua đứng lên và người đứng cách một khoảnh để tỏ lòng tôn kính của mình.
Nhưng trong đám tùy tùng có
người nhận ra Ca diếp và coi ngài là bậc thánh đức tuyệt vời. Họ chưa bao giờ
thấy Phật nên họ rất đỗi ngạc nhiên thấy quốc vương trọng vọng Ngài đến thế.
Một người bà-la-môn nói:
"Quốc vương lạy như vậy hẳn là có lỗi; lẽ ra kính lễ Ca-diếp mới
phải."
Một người khác nói: "Ðúng,
Ca-diếp là bậc đạo sư vĩ đại."
Người thứ ba tiếp: "Quốc
vương đã phạm phải một lỗi lầm kỳ dị, đã nhầm môn đệ là đạo sư."
Họ thì thầm với nhau như thế
nhưng Ðức Thế Tôn đã nghe hết, bởi vì có gì qua nổi sự nhận xét của Ngài? Ngài
hỏi Ca-diếp:
"Này người xứ
Ưu-lâu-tần-loa, ai xúi giục ngươi từ giã nơi ẩn cư của ngươi? Ai bắt ngươi phải
chấp nhận sự nhu nhược của ngươi? Này Ca-diếp, trả lời xem, làm sao ngươi từ
giã được nơi ẩn cư quen thuộc của ngươi?"
Hiểu Ðức Thế Tôn muốn nói gì,
Ca-diếp đáp:
"Ngày nay con mới biết các
pháp môn khổ hạnh của con xưa kia đi đến đâu; con nhận thấy tất cả những gì con
truyền đạt đều rỗng tuếch. Lời giảng của con là ác pháp, con bắt đầu chán ghét
lối sống trước kia của con."
Ðáp xong, Ca-diếp sụp lạy dưới
chân Ðức Thế Tôn, ngài bạch tiếp:
"Con là đệ tử thuần thành
của Ngài. Cho con được phép quì lạy dưới chân Ngài! Ngài là Ðấng Thế Tôn, là
đạo sư hướng dẫn chúng con. Con là môn đệ của Ngài, là thị giả của Ngài. Con sẽ
nhứt tâm vâng phục theo Ngài."
Ca-diếp đảnh lễ Ðức Thế Tôn bảy
lần, cả đám tùy tùng đều lên tiếng thán phục:
"Phi thường thay, đấng đã
giáo hóa Ca-diếp thấy rõ vô minh! Ca-diếp coi Ngài là một trong những đạo sư
tôn quí nhất, xem Ca-diếp quì lễ trước mặt người khác kìa! Ồ, phi thường thay,
đấng đạo sư của Ca-diếp."
Sau đó Ðức Thế Tôn thuyết giảng
cho họ về bốn sự thật cao quí. Khi Ngài thuyết xong, quốc vương Tần-bà-sa-la
tiến đến gần Ngài, và, trước mặt mọi người, dũng mãnh tuyên thệ:
"Con xin qui y Phật, con
xin qui y Pháp, con xin qui y Tăng."
Ðức Thế Tôn cho phép quốc vương
ngồi bên cạnh Ngài, vua lại tác bạch:
"Trong đời con, con có năm
ước vọng to lớn: ước rằng một ngày nào đó con sẽ là quốc vương; ước rằng một
ngày nào đó Phật sẽ quang lâm đến đất nước con; ước rằng một ngày nào đó Ngài
sẽ truyền thọ giáo pháp cho con; ước rằng một ngày nào đó con sẽ dốc lòng tín
cẩn theo Ngài. Ngày nay, tất cả những ước vọng đó đều được thành tựu. Bạch Ðức
Thế Tôn, con xin qui y Phật, con xin qui y Pháp, con xin qui y Tăng."
Quốc vương đứng lên.
"Bạch Ðức Thế Tôn, ngày
mai, xin mời Ngài hoan hỷ đến hoàng cung của con thọ trai."
Ðức Thế Tôn nhận lời. Quốc vương
xin ra về với cõi lòng hân hoan vô bờ bến.
Nhiều người trong đám tùy tùng
theo gương quốc vương, họ cũng xin phát tâm qui y Phật, qui y Pháp, qui y Tăng.
Ngày hôm sau, tất cả dân cư tại
thành Vương-xá đều bỏ nhà để đến rừng, họ trông mong thấy được dung nhan của
Ðức Thế Tôn. Tất cả đều thán phục, ca ngợi vẻ huy hoàng uy lực của Ngài.
Ðã đến giờ Ðức Thế Tôn đến vương
cung, đường sá đông nghẹt người xem đến độ không thể nhích thêm một bước. Bỗng
nhiên, một tanh niên bà-la-môn xuất hiện trước Ðức Thế Tôn. Không ai biết anh
từ đâu đến. Anh nói:
"Ðức Thế Tôn cao cả giữa
đoàn người quí tộc, Ngài đem đến sự giải thoát. Ngài tỏa hào quang sáng ngời
như vàng ròng đã đến thành Vương-xá."
Với giọng nói vui vẻ, anh kêu
gọi dám đông tránh đường, họ nhất tề vâng phục. Anh cất tiếng hát:
"Ðức thế Tôn đã xua tan
bóng tối; màn đêm sẽ không bao giờ trở lại; Ngài chứng đắc vô thượng bồ đề đã
đến thành Vương- xá.
Dân chúng tự hỏi: "Anh
thanh niên bà-la-môn có giọng nói ngọt ngào trong sáng kia từ đâu tới?
Anh tiếp tục cất tiếng hát:
"Ngài đã đến rồi, Ngài là
Ðức Thế Tôn toàn năng cao cả, là Phật Ðà vô thượng. Ngài là đấng toàn giác siêu
việt trên đời; ta sung sướng được hầu hạ Ngài. Không phải hầu hạ kẻ thất phu
ngu muội mà là cung kính hầu hạ bậc hiền giả thánh trí, là kính lễ các bậc tôn
túc đức hạnh: có nguồn vui nào trên đời thánh thiện hơn thế? Có tài nghệ kiến
thức, quí nghĩa cử bao dung, bước trên đường công lý: có nguồn vui nào trên đời
thánh thiện hơn thế?"
Anh thanh niên bà la môn tìm
cách chen qua đám đông, đưa Ðức Thế Tôn đến tận cung vua Tần-bà-sa-la rồi đi
mất. Dân chúng tại thành Vương-xá tin đó là một thiên thần hân hạnh hầu Phật và
tán dương đức hạnh cao cả của Ngài.
Vua Tần-ba-sa-la tiếp đón Ðức
Thế Tôn rất trọng hậu. Sau bữa ngọ trai, quốc vương tâm sự với Ngài:
"Bạch Ðức Thế Tôn, con vô
cùng sung sướng trước sự hiện diện của Ngài. Con phải thường hầu thăm Ngài,
thường lắng nghe những lời cao quí từ kim khẩu Ngài. Giờ đây, xin Ngài nhận cho
một phẩm vật cúng dường. Gần thành Vương- xá hơn cánh rừng Ngài ở, có một khu
rừng mệnh danh là rừng Trúc-lâm. Nó rộng lắm, Ngài và đồ chúng có thể trụ xứ ở
đó thoải mái. Bạch Ðức Thế Tôn, con xin dâng Ngài khu rừng Trúc-lâm đó; nếu
Ngài nhận lời thế là Ngài sẽ ban cho con một ân huệ cao cả."
Ðức Phật vui cười hoan hỷ. Một
chiếc thau vàng đựng đầy nước hoa thơm ngát được bê tới. Quốc vương bê thau
nước hoa rót lên tay Ðức Thế Tôn. Ngài nói:
"Bạch Ðức Thế Tôn, khi nước
từ tay con đổ qua tay Ngài, tương tự như thế, bạch Ðức Thế Tôn, nguyện cho khu
rừng Trúc-lâm này cũng từ tay con chuyển qua tay Ngài."
Cả trái đất rung chuyển: giáo
pháp ngày nay đã có đất cắm rễ. Cùng ngày hôm đó, Ðức Thế Tôn và cả đồ chúng
đến trụ tại rừng Trúc-lâm.
VIII- XÁ-LỢI-PHẤT VÀ MỤC-KIỀN-LIÊN
Hai thanh niên bà-la-môn,
Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên (Sariputra, Maudgalyayana) bấy giờ cũng đang cư
ngụ tại thành Vương-xá. Họ là bạn tâm giao và cũng là đồ đệ của ẩn sĩ San-xa-dạ
(Sanjaya). Họ đã hứa với nhau: "Ai đắc đạo trước thì thông báo ngay cho
người kia cùng biết."
Một hôm, Xá-lợi-phất thấy Át-bệ
đang khất thực trong thành Vương-xá. Ông rất đỗi ngạc nhiên về vẻ mặt phúc hậu
hoan hỷ, phong thái cao quí hiền hòa, cốt cách điềm tĩnh uy nghiêm của Át-bệ.
Ông tự nhủ:
"Ðúng rồi, có một đạo sĩ đã
xuất hiện trên đời và đã tìm ra chánh đạo dẫn đến thánh quả. Ta phải đến gặp
ngài ấy, ta phải hỏi xem đạo sư của ngài ấy là ai và ngài ấy qui ngưỡng theo
giáo pháp nào"
Nhưng rồi ông ngẫm nghĩ:
"Giờ này chưa phải lúc để
hỏi ngài. Ngài đang khất thực; ta không nên làm phiền ngài. Ta sẽ theo ngài,
đợi ngài khất thực xong, ta sẽ đến hầu chuyện với ngài."
Tôn giả Át-bệ bấy giờ nghỉ khất
thực. Xá-lợi-phất đến gặp ngài và chào hỏi ngài rất thân mật. Át-bệ cũng khiêm
tốn đáp lại lời chào hỏi của Xá-lợi-phất.
Xá-lợi-phất hỏi: "Này bạn,
dung mạo của bạn trầm tĩnh làm sao! Ánh mắt của bạn sao mà trong sáng thế! Ai
đã thuyết phục bạn xuất gia? Bổn sư của bạn là ai? Bạn qui phục theo giáo pháp
nào?"
Át-bệ đáp: "Thưa bạn, đức
Ðại sa môn, con trai của dòng tộc Thích-ca, là bổn sư của tôi"
"Này bạn, bổn sư của bạn
nói gì, Ngài dạy những gì?"
"Thưa bạn, tôi mới xuất gia
học đạo, tôi mới lãnh hội giáo pháp chỉ trong một thời gian ngắn; tôi chưa thể
luận giải dài dòng, nhưng tôi có thể cho bạn biết tóm lược tinh thần của giáo
pháp."
Xá-lợi-phất nói: "Này bạn,
xin bạn nói ít nhiều gì cũng được, miễn là bạn cho tôi biết tinh thần của giáo
pháp. Ðối với tôi, chỉ có tinh thần của giáo pháp là quan trọng."
Tôn giả Át-bệ đọc câu:
"Ðấng Toàn Giác thuyết
giảng nguyên nhân, Ðấng Toàn Giác thuyết giảng cứu cánh."
Xá-lợi-phất vô cùng hoan hỷ.
Hình như sự thật đã hiển lộ trọn vẹn trước mắt người. Người suy nghĩ: "Các
pháp do duyên sanh ắt phải do duyên diệt."Người cảm ơn Át-bệ, và, với niềm
hy vọng tràn đầy, người đi tìm Mục-kiền-Liên.
Trông thấy Xá-lợi-phất,
Mục-kiền-liên hỏi: "Này bạn, dung mạo của bạn trầm tĩnh làm sao! Ánh mắt
của bạn sao mà trong sáng thế! Bạn đắc đạo rồi chăng?"
"Vâng, thưa bạn. Gần thành
Vương-xá có một đạo sĩ thuyết giảng về sự giải thoát sanh tử."
Xá-lợi-phất tường thuật lại cuộc
hội ngộ của mình và cả hai đều quyết tâm đến gặp Ðức Thế Tôn. San-xa-dạ, vị đạo
sư của họ, hết lòng khuyên can họ.
Ông nói: "Hãy ở lại đây với
ta, ta sẽ ban cho các ngươi một địa vị cao sang giữa hàng môn đệ. Các người sẽ
là đạo sư như ta."
"Tại sao anh em chúng tôi
cần phải ngang hàng với ngài? Tại sao chúng tôi phải gieo rắc vô minh? Chúng
tôi hiểu giả trị của giáo pháp ngài. Nó chỉ biến chúng tôi thành những đạo sư
ngu muội."
San-xa-dạ tiếp tục khuyên nhủ
họ; bỗng nhiên, máu nóng từ trong miệng ông vọt ra, Xá-lợi-phất và
Mục-kiền-liên hoảng sợ, rút lui.
Họ cùng nhau lên đường đến gặp
Phật.
"Ðây rồi, Ðức Thế Tôn nói
khi Ngài thấy họ tiến đến gần, đây là hai vị kiệt hiệt nhất trong hàng đệ tử
của ta."
Ngài hoan hỷ đón nhận họ vào
Tăng đoàn.
IX- PHẬT HÓA GIẢI CÁC CUỘC XUNG ÐỘT
CỦA DÂN THÀNH VƯƠNG-XÁ
Tín đồ mỗi lúc một gia tăng,
quốc vương Tần-bà-sa-la lại bày tỏ đức tin và tình bạn sâu sắc của mình với Ðức
Thế Tôn. Vua thường thỉnh Phật đến hoàng cung và mời Ngài ngự tại ngai vàng.
Mỗi lần thỉnh Phật như thế, vua lại hạ lệnh trang hoàng kinh thành sao cho ra
vẻ vui tươi. Hoa giăng khắp phố, cờ bay rợp nhà, hương thơm ngào ngạt, ai ai
cũng chưng diện y phục sặc sỡ. Quốc vương đích thân cầm lọng vàng đi đầu nghênh
đón và che nắng Ðức Thế Tôn.
Nhiều thanh niên quí tộc nghe
Ðức Thế Tôn thuyết pháp và nguyện xin qui y. Họ muốn làm thánh, họ từ bỏ gia
đình tài sản, và chẳng mấy chốc, khu rừng Trúc-lâm đầy ắp những môn đệ thuần
thành.
Nhưng cũng có nhiều người tại
thành Vương-xá bực tức thấy Phật hóa độ số người xuất gia quá đông, họ lên
tiếng phẫn uất khắp kinh thành.
Họ tra hỏi: "Tại sao hoàng
tử dòng Thích-ca lại có mặt trên đất nước chúng ta? Chưa đủ đạo sĩ thuyết giảng
đạo đức cho chúng ta sao? Họ không quyến rủ thanh niên chúng ta bỏ nhà bỏ cửa
như vị đạo sư đó. Ừa, ngay cả con cái chúng ta cũng đang từ bỏ chúng ta. Vì
hoàng tử dòng Thích-ca mà biết bao phụ nữ phải lâm cảnh góa bụa! Vì hoàng tử
dòng Thích-ca mà biết bao gia đình phải mất con mất cháu! Chỉ vì đạo sư đó có
mặt trên đất nước chúng ta mà đau khổ sẽ xảy đến cho vương quốc này!"
Ðức Thế Tôn sau đó gặp rất nhiều
kẻ thù trong số dân cư trong thành. Mỗi khi gặp môn đệ của Ngài, họ tấn công
hoặc hủy báng thậm tệ.
Một người đi qua nói: "Vị
đại sa môn đó đến thành Vương-xá và chiếm trọn khu rừng Trúc-lâm; vị ấy sẽ
chiếm cả vương quốc Ma-kiệt-đà (Magada) này không chừng?"
Một người khác nói: "Vị đại
sa môn đó đến thành Vương-xá và đoạt cả môn đệ của Sa-xa-dạ; ngày nay vị ấy sẽ
còn quyến rủ ai nữa đây?"
Người thứ ba nói: "Một tai
họa dịch hạch còn ít nguy hại hơn là vị đại sa môn đó, bịnh dịch hạch sát hại
trẻ em ít hơn."
Một phụ nữ thở dài nói:
"Bịnh dịch hạch gây cảnh góa phụ là bao!"
Các môn đệ im lặng. Họ cảm thấy
lòng phẫn uất của quần chúng đang dâng cao, họ thuật lại những lời thóa mạ mà
họ đã nghe thấy cho Ðức Thế Tôn rõ. Ðức Thế Tôn đáp: "Này các đệ tử, đừng
bận tâm về điều đó. Họ sẽ sớm chấm dứt thôi. Ðối với những ai theo hủy báng
lăng nhục các ngươi, các ngươi hãy nhẹ nhàng từ tốn nói với họ: "Bởi vì họ
hiểu biết sự thật, sự thật chân chính mà các tráng sĩ tin theo, sự thật chân chính
mà các đấng toàn thiện giáo hóa. Ai dám xúc phạm đến Phật, bậc thánh giả hóa độ
bằng uy lực của sự thật?' Thế là họ sẽ in ngay, và chỉ vài ngày sau đó, khi dạo
qua kinh thành, các ngươi sẽ thấy được tán dương cung kính."
Ðúng như lời Phật dạy. Lời lẽ
hủy báng không còn nữa, mọi người ở thành Vương-xá đều tôn vinh môn đệ của Ðức
Thế Tôn.
X- TỊNH-PHẠN PHÁI SỨ THẦN ÐẾN GẶP CON
MÌNH
Vua Tịnh-Phạn hay tin con mình
đã chứng đắc vô thượng bồ đề và ở trong rừng Trúc-lâm, tại thành Vương-xá. Quốc
vương mong gặp lại Ngài. Vua phái một sứ giả đến bạch Phật như vầy: "Bạch
Ðức Thế Tôn, phụ vương của Ngài, vua Tịnh-Phạn, mong gặp Ngài."
Khi đến rừng Trúc-lâm, sứ giả
thấy Ðức Thế Tôn đang giảng dạy các môn đệ:
"Có một cánh rừng nối liền
với một sườn núi và dưới chân núi là một khu hồ rộng, sâu. Dã thú sinh sống
trên bờ hồ đó. Có một kẻ từ đâu xuất hiện, hắn muốn hãm hại các loài dã thú đó,
muốn làm cho chúng đau khổ, muốn làm hại chúng. Hắn rào bít con đường thông
thương ra khỏi hồ, con đường lui tới an toàn, và hắn mở ra một đoạn đường ngụy
tạo dẫn vào một cánh đầm lầy khủng khiếp. Dã thú gặp nạn; chúng sẽ chết từng
con một. Trái lại, có một người nào đó xuất hiện để tìm ra sự an lạc, hạnh
phúc, phồn vinh cho dã thú đó. Người ấy sẽ hủy bỏ lối đi ngụy tạo dẫn vào đầm
lầy và mở ra một lộ trình an toàn dẫn tới đỉnh núi êm đềm. Thế là dã thú sẽ
thoát khỏi nguy khốn, chúng sẽ được phồn vinh phát đạt. Này các đệ tử, hãy nhận
ra những gì ta muốn nói với các ngươi. Ai sống gần lạc thú trần gian, người ấy
như đã thú sống trên bờ hồ sâu rộng đó. Kẻ hãm hại ta, bức bách ta, tiêu diệt
ta, ấy chính là tên ác quỉ Ma-vương. Cánh đầm lầy mà tất cả chúng sanh tự trầm
mình trong đó là ái dục, là vô minh. Người mưu cầu hạnh phúc, an lạc và thịnh
vượng cho chúng sanh là Ðấng Toàn giác, là Bậc Thánh Giả, là Ðức Phật từ bi.
Này các đệ tử, Người ấy là ta vậy. Ta mở đường an lành; chính ta phá hủy lộ
trình ngụy tạo. Các ngươi sẽ không vào đầm lầy; các ngươi sẽ lên núi, các ngươi
sẽ đạt đến đỉnh cao rực rỡ tuyệt vời. Tất cả những gì Ðức Thế Tôn làm đều là
thể hiện lòng từ bi và mưu tìm hạnh phúc cho môn đệ. Này các đệ tử, ta đã tìm
kiếm sự an lạc cho các ngươi.
Sứ giả sung sướng lắng nghe và
rồi sụp lạy dưới chân Ðức Thế Tôn, bạch rằng!
"Bạch Ðức Thế Tôn, xin nhận
con vào hàng đệ tử của Ngài."
Ðức Thế Tôn dang tay nói:
"Này sa môn, hãy đến
đây."
Sứ giả đứng lên, và, bỗng nhiên,
y phục cá nhân biến thành hình dạng và màu sắc y phục của một sa môn. Sứ giả
quên hết mọi việc, quên cả thư tín của Tịnh-Phạn truyền đi.
Quốc vương mệt mỏi đợi chờ sứ
giả trở về. Mỗi ngày, lòng mong mỏi gặp con lại gia tăng. Vua phái một sứ thần
khác đến rừng Trúc-lâm. Nhưng rồi quốc vương cũng hoài công chờ đợi người ấy
trở về. Quốc vương chín lần phái sứ thần đến gặp Ðức Thế Tôn, chín lần được
nghe thánh ngôn của Phật, các sứ thần quyết tâm ở lại và xin xuất gia làm sa
môn.
Vua Tịnh-Phạn cuối cùng gọi
Ưu-đà-di (Udayin) đến.
Quốc vương nói: "Này
Ưu-đà-di, như khanh biết, chín sứ giả lên đường đến rừng Trúc-lâm không một ai
trở về, không ai cho trẫm biết thư tín của trẫm được đón nhận thế nào. Trẫm chả
biết họ có tiếp xúc được với con trẫm không, họ có gặp con trẫm không.
Ưu-đà-di, trẫm sốt ruột lắm! Trẫm già rồi, cái chết đang mai phục trẫm đó. Trẫm
có lẽ chỉ sống đến ngày mai, nhưng khó mà lường được những ngày sau đó. Này
Ưu-đà-di, trước khi nhắm mắt buông tay, trẫm muốn gặp mặt con trẫm. Khanh xưa
kia là bạn tâm giao của con trẫm; Giờ đây, mong khanh hãy đến gặp mặt con trẫm.
Trẫm nghĩ không ai có thể được tiếp đón trọng vọng như khanh. Hãy nói cho con
trẫm biết nỗi khổ đau của trẫm; hãy nói cho con trẫm biết niềm ước vọng của
trẫm, nguyện cầu sao con trẫm đừng thờ ơ lạnh nhạt!"
Ưu-đà-di đáp: "Tâu bệ hạ,
hạ thần sẽ đi."
Ưu-đà-di lên đường. Vừa đến rừng
Trúc-lâm, Ưu-đà-di đã quyết tâm làm sa môn, nhưng lời lẽ tâm sự của vua
Tịnh-Phạn quá khắc sâu vào tâm khảm, Ưu-đà-di suy nghĩ: "Ta sẽ báo cho Ðức
Thế Tôn biết nỗi đau khổ của phụ vương Ngài. Ngài sẽ xúc động thương cảm mà về
thăm phụ vương."
Ðức Thế Tôn sung sướng thấy
Ưu-đà-di thành một trong những đệ tử của Ngài.
Mùa đông hầu như đã qua. Một
hôm, thấy thời tiết thuận tiện, Ưu-đà-di bạch Phật:
"Cỏ cây đang bừng rộ nở
hoa, mai đây chúng sẽ đâm chồi nảy lộc. Hãy xem những tia nắng mặt trời lung
linh qua các cành lá. Bạch Ðức Thế Tôn, đây là lúc thời tiết thuận tiện để lên
đường. Khí hậu không lạnh, không nóng; và khắp mặt đất bao phủ một màu xanh mơn
mởn. Chúng ta sẽ khỏi bận tâm khất thực dọc đường. Bạch Ðức Thế Tôn, đây là lúc
thời tiết thuận tiện để lên đường."
Ðức Thế Tôn mỉm cười hỏi
Ưu-đà-di:
"Tại sao ngươi giục ta lên
đường, Ưu-đà-di?"
"Bạch Ðúc Thế Tôn, phụ
vương Ngài, vua Tịnh-Phạn, sẽ sung sướng gặp lại Ngài."
Ðức Phật suy nghĩ trong giây lát
rồi nói:
"Ta sẽ đến thành
Ca-tỳ-la-vệ, ta sẽ về thăm phụ vương ta."
XI- TRUYỆN CÒ VÀ CÁ
Khi vua Tần-bà-sa-la hay tin Ðức
Thế Tôn sắp rời rừng Trúc-lâm để lên đường vào dịp nào đó, quốc vương cùng con
trai của mình là hoàng tử A-xà-thế (Ajatasatru) đến viếng Ngài.
Ðức thế Tôn nhìn hoàng tử trẻ
tuổi, rồi quay sang quốc vương nói:
"Thưa quốc vương, nguyện
cầu A-xà-thế xứng hợp với lòng tin yêu của ngài."
Ðức Thế Tôn lại chăm chú nhìn
hoàng tử, Ngài nói:
"Này A-xà-thế, hãy lắng
nghe và suy nghĩ kỹ những lời ta nói. Mưu mẹo không bao giờ thành công, độc ác
không bao giờ thắng thế. Có một câu chuyện sẽ chứng minh điều đó, một câu
chuyện đã xảy ra cách đây rất lâu, một câu chuyện mà chính ta tai nghe mắt
thấy.
Thuở nọ, ta đang cư ngụ trong
một khu rừng; ta là mộc thần. Cây đó mọc giữa hai hồ nước, một hồ nhỏ bé, tầm
thường; hồ kia rộng lớn, xinh đẹp. Hồ nhỏ có nhiều cá; hồ lớn sen mọc đầy. Suốt
cả mùa hè oai bức năm đó, hồ nhỏ hầu như bị khô cạn hoàn toàn, còn hồ lớn, nhờ
bóng sen che nắng, luôn luôn đầy nước và mát mẻ êm đềm. Một con cò băng ngang
giữa hai hồ, thấy cá và dừng lại. Ðứng một chân, hắn bắt đầu suy nghĩ:
"Bọn cá này là một phần thưởng hợp pháp. Nhưng chúng lanh lắm; nếu ta tấn
công ồ ạt, chúng sẽ trốn hết. Ta phải dùng mưu. Bọn cá khốn nạn thật! Chúng bị
khủng hoảng trầm trọng trong khu hồ cạn nước này! Ðằng kia có một khu hồ khác,
nước sâu và mát, chúng có thể nhởn nhơ bơi lội, mặc sức vẫy vùng!'.
Một cậu cá thấy cò đứng tư lự,
trông nghiêm trang như một ẩn sĩ, cá hỏi: "Bác đang làm gì đó, thưa bác
cò? Dường như bác đang suy nghĩ gì thì phải.' Cò đáp: "Này cá, ta đang suy
nghĩ, vâng, thật vậy, ta đang suy nghĩ. Ta đang tự hỏi làm sao các cậu và bạn
bè các cậu có thể thoát khỏi phận số đau buồn.' "Bác nói sao? Phận số đau
buồn của chúng cháu ư?' "Này cậu cá khốn nạn! Các cậu đành chịu chết thê
thảm trong hồ nước cạn này. Mỗi ngày, độ nóng càng tăng bao nhiêu thì mực nước
lại càng giảm bấy nhiêu, và rồi việc gì sẽ xảy đến cho các cậu? Bỡi vì rồi đây
nước hồ sẽ khô hết, các cậu sẽ chết sạch! Bọn các cậu khốn nạn khốn nạn lắm! Ta
khóc giùm cho các cậu đó.'
Nghe cò nói như vậy, bọn cá thất
kinh, chúng than: "Việc gì sẽ xảy đến cho chúng cháu? Khi nào hơi nóng sẽ
bốc cạn hồ nước?' Chúng quay sang cò: "Bác cò, bác cò, bác không thể cứu
chúng cháu sao?' Cò lại giả vờ tư lự; cuối cùng, cò đáp: "Ta tin là ta có
cách giải cứu khốn khổ cho các cậu.' Bọn cá chăm chú lắng nghe. Cò tiếp:
"Gần đây có một khu hồ tuyệt diệu. Nó lớn hơn nhiều so với khu hồ mà các
cậu đang sống, lá sen phủ kín mặt hồ, làm cho nước hồ mùa hè không bao giờ cạn.
Hãy theo lời ta, hãy sang sống ở hồ đó. Ta có thể cắp các ngươi trong mỏ của
ta, mỗi lần cắp một cậu, và rồi mang hết đến đó. Thế là tất cả các cậu sẽ được
cứu thoát.'
Bọn cá sung sướng. Chúng sắp
thuận theo lời đề nghị của cò thì tôm càng lên tiếng: "Ta không bao giờ
nghe theo điều gì quái lạ.' Cá hỏi tôm: "Có gì làm cậu kinh ngạc thế?' Tôm
nói: "Kể từ lúc khai thiên lập địa, ta biết không bao giờ cò quan tâm đến
cá trừ phi hắn định xơi thịt.' Cò tỏ vẻ bất bình nói: "Cái gì! Mày là loài
tôm càng ác độc, mày nghi tao cố tình đánh lừa bọn cá khốn nạn sắp lâm vào cõi
chết này sao! Này cá, ta muốn cứu các cậu; ta muốn tìm hạnh phúc cho các cậu.
Hãy xem lòng chân thật của ta, nếu các cậu muốn. Hãy chọn đại một cậu cá nào
đó, ta sẽ dùng mỏ cắp nó đến hồ sen. Hắn sẽ thấy mọi việc; hắn sẽ nhởn nhơ bơi
lội một lát rồi ta sẽ đưa nó về đây.' Cá nói: "Ðược thế thì hay quá!' Và để
thực hiện cuộc hành trình sang hồ sen, chúng chọn một cậu cá lớn tuổi, dù mờ
mắt nhưng được coi là khôn ngoan hơn cả. Cò mang cá đến hồ, thả cá xuống nước,
và để cho cá tha hồ bơi lội. Cá già khoái lắm, khi về gặp lại bạn bè, cá hết
lời ca ngợi cò.
Bọn cá giờ đây hoàn toàn tin
tưởng và dâng cả mạng sống cho cò. Chúng nói: "Xin bác cứu chúng cháu, xin
đưa chúng cháu đến hồ sen'. "Chiều ý các cậu' cò nói. Thế là cò liền dùng
mỏ gắp lại cậu cá già mờ mắt; lần này thay vì mang cá đến hồ, cò lại thả cá
trên mặt đất và dùng mỏ xé xác nó ra; sau đó cò ăn hết thịt cá, bỏ lai bộ xương
tại một gốc cây, gốc cây mà ta là mộc thần trên đó. Làm xong công việc, cò trở
lại hồ nhỏ nói: "Bây giờ cậu nào sẽ đi với ta?' Bọn cá nóng lòng muốn thấy
căn nhà mới, và thế là cò ta tha hồ chọn cá ngon miệng. Sau đó, từng con từng
con cò xơi sạch hồ cá, chỉ còn lại tôm càng. Tôm càng đã bày tỏ thái độ không
tin cò, giờ đây tôm tự nhủ: "Ta không tin là các bạn cá có thể sống được ở
hồ sen đó. Ta e rằng cò đã lợi dụng lòng tin của cá. Nhưng, điều may mắn cho ta
là ta sẽ giã biệt khu hồ khốn khổ này để đến một khu hồ khác rộng rãi hơn,
thoải mái hơn. Cò phải chở ta, nhưng ta không được liều lĩnh. Nếu cò lừa đảo kẻ
khác thì ta phải trả thù cho chúng' Cò đến gần tôm nói: "Nào, đến lượt cậu.'
Tôm nói: "Bác sẽ chở cháu bằng cách nào?' "Trong miệng bác, như các
cậu khác.' Cò đáp. Tôm nói: "Không, không; vỏ cháu trơn lắm; cháu rất có
thể tuột khỏi miệng bác. Tốt hơn hết là cháu bám chặt chân cháu vào cổ bác;
cháu sẽ cẩn thận, không làm đau bác đâu.' Cò chấp thuận.
Cò đáp xuống một gốc cây. Tôm
hỏi: "Bác định làm gì thế? Chúng ta mới đi được nửa đường. Bác mệt rồi
sao? Khoảng cách giữa hai hồ đâu có rộng lắm!' Cò lúng túng không đáp được. Hơn
nữa, tôm bắt đầu siết chặt cổ cò và gằn giọng nói: "Thứ gì đây! Ðống xương
cá tại gốc cây này là bằng chứng hiển nhiên lòng dạ phản phúc của mi. Mi sẽ
không gạt được ta như đã từng gạt nhiều kẻ khác. Ta sẽ giết mi, dù ta phải chết
trong cuộc đọ sức này.' Tôm siết chặt râu càng. Cò đau quá; nước mắt ràn rụa; cò
van xin: "Cậu tôm ơi, xin đừng siết cổ tôi nữa. Tôi sẽ không ăn thịt cậu.
Tôi sẽ chở cậu đến hồ!' "Thế thì đi' Tôm nói. Cò đi đến bờ hồ và vương cổ
dài trên mặt nước. Thay vì rơi tỏm xuống hồ, tôm siết chặt cổ cò, râu càng siết
mạnh đến độ cổ cò phải đứt ra. Mộc thần không thể không lên tiếng: "Hay
thay, tôm càng!' ". Ðức Thế Tôn tiếp: "Mưu mẹo không bao giờ thành
công. Ðộc ác không bao giờ thắng thế. Không sớm thì chầy, cò gian phải gặp tôm
càng. Hoàng tử A-xà-thế, hãy luôn luôn ghi nhớ điều đó!"
Cảm hơn Ðức Thế Tôn đã dạy cho
con mình một bài học quí giá, vua Tần bà sa la nói:
"Bạch Ðức Thế Tôn, con xin
nguyện một điều.
"Cho biết xem" Ðức Thế
Tôn nói.
"Bạch Ðức Thế Tôn, khi Ngài
đi rồi, con sẽ không thể nào kính lễ Ngài, con sẽ không thể nào thường xuyên
cúng dường Ngài, và điều đó làm con buồn lắm. Xin Ngài cho con một lọn tóc, xin
Ngài cho con vài cộng móng tay, con sẽ tôn trí tất cả trong tháp giữa hoàng
cung của con. Thế là con sẽ giữ được chút gì gọi là một phần thân thể của Ngài,
và mỗi ngày, con sẽ kết hoa tươi, đốt hương quí để trang hoàng lễ bái trong
tháp."
Ðức Thế Tôn biếu tất cả những gì
mà Tần-bà-sa-la cầu xin, Ngài nói:
"Hãy tôn trí tóc và móng
tay này trong tháp, nhưng trông tâm con, hãy ghi nhớ những gì thầy dạy."
Vua Tần-bà-sa-la hoan hỷ trở lại
hoàng cung, Ðức Thế Tôn lên đường sang thành Ca-tỳ-la-vệ.
XII- TRUYỆN VÍT-VAN-TA-RA
Ðức Thế Tôn chậm rãi tiến bước
trên đoạn đường dài từ thành Vương-xá đến thành Ca-tỳ-la-vệ. Ưu-đà-di đi trước
để báo tin cho vua Tịnh-Phạn biết là con trai của ngài đang trên đường về thăm
ngài, như vậy quốc vương sẽ an tâm và hết đau buồn.
Về đến hoàng cung, thấy quốc
vương đang vô vàn buồn khổ, Ưu-đà-di nói:
"Tâu bệ hạ, xin bệ hạ hãy
lau sạch nước mắt. Lát nữa đây con trai của bệ hạ sẽ có mặt tại kinh thành
Ca-tỳ-la-vệ."
Quốc vương kêu lên: "Ồ,
Ưu-đà-di đó à! Trẫm tưởng là khanh cũng quên đệ trình thư tín của trẫm nên trẫm
cũng hết hy vọng gặp lại người con yêu quí của trẫm. Nay khanh lại mang tin vui
về, trẫm sẽ không khóc nữa; trẫm sẽ vững tâm chờ đợi phút giây hạnh phúc mà
chính mắt này gặp lại con trẫm.
Quốc vương ra lệnh cúng dường
Ưu-đà-di một bữa ngọ trai thịnh soạn.
Ưu-đà-di nói: "Tâu bệ hạ,
bần đạo sẽ không thọ trai ở đây. Trước khi thọ dụng bất cứ một thực phẩm nào,
bần đạo phải biết là Thầy của bần đạo đã được cúng dường đúng pháp chưa. Bần
đạo sẽ trở lại gặp Bổn Sư của bần đạo."
Quốc vương cả quyết:
"Này Ưu-đà-di, chính lòng
trẫm muốn cùng đường vật thực cho khanh mỗi ngày; và cũng chính lòng trẫm muốn
cùng dường vật thực cho con trẫm mỗi ngày trong suốt cuộc hành trình mà con
trẫm phải trải qua để làm vui lòng trẫm. Xin thỉnh ngài thọ trai, và trẫm sẽ
dâng thực phẩm cho ngài mang đến cúng dường Ðức Thế Tôn."
Ưu-đà-di thọ trai xong, ngài
nhận một bát cơm hảo hạng đem cúng dường con trai của quốc vương. Ưu-đà-di ôm
bát, phóng người lên như bay, và chỉ trong chốc lát ngài đã đến gặp đức Bổn Sư.
Mỗi ngài sau đó, Ưu-đà-di lại đến hoàng cung của vua Tịnh-Phạn để nhận thức ăn
cho Ðức Thế Tôn, Ngài rất lấy làm hoan hỷ cho tấm lòng hầu hạ chân thành của đệ
tử Ngài.
Cuối cùng, Ngài đến thành
Ca-tỳ-la-vệ. Ðể đón rước Ngài, cả dòng tộc Thích-ca tập trung đông đủ tại một
hoa viên rực rỡ. Nhiều người có mặt hôm đó lại tỏ vẻ hiu hiu tự đắc. Họ nghĩ:
"Ở đây có nhiều người lớn tuổi hơn Tất-đạt-đa! Tại sao họ phải đảnh lễ Ngài?
Trẻ em và nam nữ thanh niên lễ Ngài được rồi; người lớn khỏi phải lễ!"
Ðức Thế Tôn vào công viên. Hào
quang rực rỡ từ thân Ngài tỏa ra làm cho mọi người chói lòa cả mắt. Vô cùng xúc
động, vua Tịnh-Phạn bước tới vài bước, kêu lớn: "Con ơi!" Giọng vua
run run; những giọt nước mắt sung sướng chảy dài xuống hai gò má, quốc vương từ
từ cuối đầu đảnh lễ.
Thấy phụ vương đảnh lễ con mình,
cả dòng tộc Thích-ca cũng tự động cung kính hạ mình thi lễ.
Một chỗ ngồi lộng lẫy đã được
chuẩn bị sẵn cho Ðức Thế Tôn. Ngài ngồi xuống. Bầu trời quang đãng mở ra, những
cánh hoa hồng từ trên không lửng lờ rơi xuống khắp cả hoa viên. Hương thơm ngào
ngạt theo gió vươn xa, vươn khắp cả sơn hà đại địa. Quốc vương và cả dòng
Thích-ca đều trố mắt ngạc nhiên. Ðức Thế Tôn nói:
"Trong một kiếp xa xưa nào
đó, ta đã chứng kiến cảnh gia đình quay quần chung quanh ta và đồng thanh lên
tiếng ca ngợi. Lúc đó, quốc vương Xan-gia-da (Sanjaya) đang trị vì tại thành
Gia-da-tua-ra (Jayatura). Phu nhân của ngài là Phu-Xa-ti (Phusati). Họ sanh được
một trai tên là Vít-van-ta-ra (visvantara). Khi lớn lên, Vít-vanta-ra kết hôn
với Mát-ri (Madri), một công chúa cực kỳ kiều diễm. Nàng sanh cho Vít-van-ta-ra
hai người con: một trai là Gia-linh (Jalin) và một gái là Cờ-rít-na-gia-na
(Krishnajana). Vít-van-ta-ra có một con voi trắng đầy đủ phép màu kêu mưa gọi
gió theo ý muốn.
Bây giờ, vương quốc Ca-linh-ga
(Kalinga) xa xôi kia đang gặp nạn hạn hán khủng khiếp. Cỏ khô, cây héo; người
vật chết đói chết khát. Quốc vương Ca-linh-ga nghe tin con voi của Vít-van-ta-ra
có phép màu kỳ lạ. Vua phái tám đạo sĩ bà-la-môn đến Gia-da-tua-ra thỉnh voi về
xứ hoạn nạn của họ. Các đạo sĩ Bà-la-môn đến nhằm dịp lễ. Ngồi trên lưng voi,
hoàng tử đang trên đường đến đền thần để phát phẩm vật bố thí. Thấy sứ giả của
nước ngoài, hoàng tử hỏi: "Các ngươi đến đây có việc gì?' Các đạo sĩ
Bà-la-môn đáp: "Kính thưa hoàng tử, quê hương của chúng tôi, vương quốc
Ca-linh-ga, đang bị hạn hán đói khát. Con voi của hoàng tử có thể mang nước mưa
đến cứu sống chúng tôi; chúng tôi xin mượn voi của hoàng tử ít hôm được chăng?'
Vít-van-ta-ra nói: "Chuyện nhỏ mọn đáng gì, các ngươi có thể mượn cả mắt
lẫn thịt của ta nữa kìa! Vâng, các ngươi cứ tự nhiên dẫn voi đi, cầu nguyện mưa
lành sẽ tưới khắp vườn ruộng các ngươi!' Hoàng tử trao voi cho các đạo sĩ
bà-la-môn, họ hoan hỷ đưa voi về Ca-linh-ga.
Nhưng dân cư Gia-da-tua-ra lại
lo lắng đau buồn; họ sợ hạn hán xảy ra trên chính quê hương của họ. Họ than
phiền với quốc vương Xan-gia-da: "Tâu bệ hạ, việc làm của con ngài đáng
trách lắm. Con voi của hoàng tử che chở thần dân khỏi chết đói. Nếu trời không
mưa thì giờ đây việc gì sẽ xảy đến cho dân chúng? Tâu bệ hạ, hãy mặc xác hoàng
tử; hãy để Vít-van-ta-ra đem cả thân mạng ra đền đáp sự ngu xuẩn này.' Quốc
vương khóc rống lên. Vua cố né tránh họ bằng những lời hứa hẹn; lúc đầu họ
không nghe, nhưng rồi họ cũng nguôi dần và buộc đày hoàng tử đến một sa mạc sỏi
đá xa xôi nào đó. Quốc vương ép phải nhận lợi. Xan-gia-da nghĩ: "Khi hay
tin bị lưu đày, con ta sẽ đau khổ biết chừng nào.' Nhưng đây không phải là trường
hợp đáng kể. Vít-van-ta-ra khiêm tốn nói: "Tâu phụ vương, con sẽ ra đi
ngày mai, con sẽ không mang theo một bảo vật nào cả." Sau đó, hoàng tử đi
tìm Mát-ri, vợ chàng. Chàng nói: "Mát-ri, anh phải rời khỏi kinh thành
này; phụ vương đã đày anh đến một sa mạc độc địa nào đó, một sa mạc khó bề sống
được. Em yêu quí của anh, đừng theo anh làm gì; em sẽ phải gánh chịu nhọc nhằn
thê thảm; em sẽ phải bỏ lại con thơ; em sẽ phải chết mòn vì cô đơn hiu hắt. Hãy
ở lại đây với các con; hãy ngự trên ngai vàng của em; phụ vương đày anh chứ đâu
phải đày em." Công chúa đáp: "Hoàng tử, nếu hoàng tử bỏ em lại đây,
em sẽ tự sát, và tội ác sẽ nằm tại ngưỡng cửa ra vào của hoàng tử."
Vít-van-ta-ra không biết nói sao. Ðưa mắt nhìn Mát-ri, chàng ôm chặt lấy nàng,
nói: "Vậy thì chúng ta cùng đi" Mát-ri cảm ơn hoàng tử, nàng tiếp:
"Em sẽ đưa các cơn theo em; em không thể bỏ các con lại đây để chết dần
trong hiu quạnh."
Ngày hôm sau, Vít-van-ta-ra đưa
Mát-ri, Gia-linh và Cờ-rít-na-gia-na lên một chiếc xe ngựa dọn sẵn, họ giong xe
ra khỏi thành, quốc vương Xan-gia-da và hoàng hậu Phu-xa-ti khóc than thống
thiết. Hoàng tử, vợ và các con đi cách kinh thành rất xa thì gặp một đạo sĩ
bà-la-môn đến gần nói: "Thưa du khách, đây là đường đi
Gia-da-tua-ra?" Vít-van-ta-ra đáp: "Vâng, thế ngài đến Gia-da-tua-ra
để làm gì?" Ðạo sĩ bà-la-môn nói: "Ta từ một nước xa xôi đến đây, ta
nghe tại Gia-da-tua-ra có một hoàng tử độ lượng tên là Vít-van-ta-ra. Hoàng tử
trước kia có một con voi kỳ diệu mà chàng đã tặng cho quốc vương Ca-linh-ga. Người
ta bảo hoàng tử từ ái lắm. Ta muốn viếng thăm con người nhân từ độ lượng đó; ta
muốn hỏi xin hoàng tử một điều. Ta biết không ai kêu cầu hoàng tử trong vô
vọng". Vít-van-ta-ra nói với Ðạo sĩ bà-la-môn : "Ta là người mà ngài
muốn đi tìm; ta là Vít-van-ta-ra, con trai của vua Xan-gia-da-đây. Vì ta tặng
con voi của ta cho quốc vương Ca-linh-ga nên phụ vương ta lưu đày ta. Này đạo
sĩ bà-la-môn, ta có thể giúp ngài được gì?" Nghe qua moị việc , đạo sĩ
bà-la-môn than phiền cay đắng. Ðạo sĩ nghẹn ngào nói: "Thế là họ đánh lừa
ta! Ta đã từ nhà ra đi, mang theo biết bao hy vọng, giờ đây chả được gì, ta
phải trở về chứ biết làm sao!" Vít-van-ta-ra ngắt lời đạo sĩ: "Này
đạo sĩ bà-la-môn, hãy bình tĩnh, ngài không bao giờ kêu cầu hoàng tử
Vít-van-ta-ra trong vô vọng đâu". Hoàng tử mở ngựa trao cho đạo sĩ. Ðạo sĩ
bà-la-môn cảm ơn vị ân nhân và ra đi.
Vít-van-ta-ra tiếp tục lên
đường. Bấy giờ hoàng tử đích thân kéo xe. Sau đó chàng thấy một đạo sĩ
bà-la-môn khác từ xa đi tơi, trông người nhỏ bé, lụ khụ, đầu tóc bạc phơ, miệng
răng vàng khè. Ðạo sĩ hỏi hoàng tử: "Thưa du khách, đây là đường đi
Gia-da-tua-ra?" Hoàng tử đáp: "Vâng, thế ngài đến Gia-da-tua-ra để
làm gì?" Ðạo sĩ Bà-la-môn nói: "Ta nghe nói quốc vương của thành đó
có một hoàng tử tên là Vít-van-ta-ra, chàng nhân từ lắm; chàng đã cứu vương
quốc Ca-linh-ga khỏi chết đói, và bất cứ ai cầu xin chàng điều gì, chàng cũng
không bao giờ từ chối. Ta sẽ đến gặp Vít-van-ta-ra, và ta tin là chàng sẽ không
từ chối lời thỉnh nguyện của ta." Hoàng tử nói: "Nếu ngài đến Gia-da-tua-ra,
ngài sẽ không gặp Vít-van-ta-ra; phụ vương chàng đã đày chàng ra sa mạc."
Ðạo sĩ bà-la-môn rú lên: "Ðau buồn cho ta rồi! Ai sẽ giúp ta trong tuổi
già sức yếu này? vậy là bao nhiêu hy vọng đều tan biến cả, ta sẽ về lại căn nhà
nghèo khổ như khi cất bước ra đi!" Ðạo sĩ khóc sướt mướt. Vít-van-ta-ra
nói: "Ðừng khóc nữa, ta là người mà ngài muốn tìm. Ngài không gặp ta trong
vô vọng. Mát-ri, Gia-linh, Cờ-rít-na-gia-na, hãy xuống xe! Nó không phải là của
ta nữa. ta đã biếu nó cho cụ ông này." Ðạo sĩ bà-la-môn vô cùng sung
sướng.
Bốn người lưu đày lại tiếp tục
cuộc hành trình. Giờ đây họ phải đi bộ, và khi các con thấm mệt, Vít-van-ta-na
cõng Gia-linh. Mát-ri bế Cờ-rít-na-gia-na. Một vài ngày sau, họ lại gặp một đạo
sĩ bà-la-môn thứ ba. Ðạo sĩ cũng đang trên đường đến Gia-da-tua-ra để gặp hoàng
tử Vít-van-ta-ra và xin của bố thí. Hoàng tử cởi hết y phục biếu đạo sĩ để đạo
sĩ khỏi phải ra về với hai bàn tay trắng. Hoàng tử lại tiếp tục đi. Một đạo sĩ
bà-la-môn thứ tư đến, người ngợm đen nám, gương mặt trông hách dịch, dữ tợn.
Hắn gắt gỏng nói: "Ðây là đường đến Gia-da-tua-ra phải không?" Hoàng
tử đáp: "Vâng, thế ngài đến Gia-da-tua-ra để làm gì?" Vị đạo sĩ
bà-la-môn muốn gặp Vít-van-ta-ra, chàng chắc chắn sẽ bố thí cho đạo sĩ một phẩm
vật tuyệt diệu. Khi biết là mình đang đứng trước mặt hoàng tử bị lưu đày khốn
khổ, chả khóc than kể lễ, đạo sĩ cất giọng giận dữ nói: "Ta từ xa lặn lội
đến đây, điều đó hẳn không phải là vô ích. Ngươi hẳn đã mang theo nhiều châu
báu, hãy đưa hết cho ta." Mát-ri đang đeo một chiếc vòng vàng,
Vít-van-ta-ra hỏi xin nàng chiếc vòng; nàng tươi cười đưa chàng chiếc vòng, tên
đạo sĩ bà la môn chụp lấy và đi mất.
Vít-van-ta-ra, Mát-ri, Gia-linh
và Cờ-rít-na-gia-na tiếp tục lên đường. Họ vượt qua biết bao ghềnh thác tuôn
tràn khủng khiếp; họ bám xuống những vực sâu phủ đầy bụi gai chằng chịt; họ
băng qua những gò hoang sỏi đá nắng cháy chang chang. Ðôi chân của Mát-ri bị đá
sỏi cắt xẻ tan tành; hai gót của Vít-van-ta-ra mòn loét tới xương, họ đi đến
đâu là để lại một lằn máu đến đó. Một hôm, vít-van-ta-ra đi đầu, nghe tiếng
người sụt sùi nức nở; chàng quay lại và thấy Mát-ri đang ngồi bệt xuống đất,
khóc than thương tủi cho thân phận nàng. Bắt gặp cảnh thống khổ, chàng nói:
"Em yêu quí của anh, anh đã van xin em đừng theo anh đi đày, nhưng em không
nghe. Ði, đứng dậy; dù mệt mỏi đến đâu chúng mình cũng đừng để cho các con phải
khổ; đừng bận tâm đến những vết thương của chúng mình làm gì". Mát-ri thấy
chân của chàng chảy máu, nàng rú lên: "Ồ, anh đau đớn hơn em nhiều! Em sẽ
khắc phục đau khổ. Nàng cố đứng lên nhưng tay chân nàng bủn rủn, một lần nữa,
nàng lại bật khóc trong nghẹn nghèo ai oán." Tất cả sức lực trong ta đã
hao mòn hết rồi, ngay cả tình thương ấp ủ của chồng con ta cũng không đủ giúp
ta can đảm. Ta sẽ chết đói chết khát trên mảnh đất khủng khiếp này; con ta sẽ
chết, và có lẽ chồng ta cũng sẽ chết.
Từ thiên giới, Ðế-thích luôn
luôn theo dõi Vít-van-ta-ra và gia đình chàng. Vô cùng xúc động trước cảnh khốn
khổ của Mát-ri, Ðế-thích quyết định giáng trần, cải dạng thành một ông lão vui
tính và ngồi trên lưng con tuấn mã phi như bay đến gặp hoàng tử. Ông lão tới
gần Vít-van-ta-ra và ôn tồn nói: "Kính thưa hoàng tử, theo vóc dáng của
ngài thì rõ ràng là ngài đã trải qua nhiều gian khổ. Cách đây không xa có một
thành phố. Lão sẽ chỉ đường cho hoàng tử. Gia đình hoàng tử phải đến trọ nhà
lão và có thể ở lại bao lâu cũng được." Ông lão hoan hỷ giục bốn kẻ lưu
đày lên ngựa. Vít-van-ta-ra tỏ vẻ do dự, ông lão nói: "Ngựa này khỏe lắm,
quí vị nặng là bao! Phần lão, lão sẽ đi bộ chả hề gì, chúng ta đâu phải đi
xa." Vít-van-ta-ra ngạc nhiên nghe nói thành phố được xây dựng trên sa mạc
tàn nhẫn này; hơn nữa, chàng chưa bao giờ nghe nói đến thành phố. Nhưng giọng
nói của cụ ngọt ngào và Mát-ri yếu đến nỗi chàng phải quyết định đưa cả vợ con
lên ngựa theo lời cụ.
Họ đi khoảng ba trăm bước thì
thấy một thành phố huy hoàng xuất hiện trước mặt. Thành phố rộng bao la. Một
con sông lớn chảy qua thành phố với nhiều vườn hoa xinh đẹp và nhiều vườn cây
trái chín đầy cành. Ông lão đưa du khách đến các cổng chính của một tòa lâu đài
lộng lẫy và nói: "Ðây là nhà lão; ở đây, nếu quí vị muốn, quí vị có thể
lưu lại suốt đời. Xin mời vào." Trong một căn phòng nguy nga rộng lớn.
Vít-van-ta-ra và Mát-ri ngồi trên ngai vàng; dưới chân, các con đang nô đùa
trên những tấm thảm dày sặc sỡ, ông lão biếu họ rất nhiều xiêm y xinh đẹp. Sau
đó, những thức ăn thịnh soạn được dọn lên, cơn đói của họ nhờ thế mà dịu dần.
Nhưng Vít-van-ta-ra cứ trầm tư suy nghĩ mãi. Bỗng nhiên, chàng đứng phắt dậy,
ngõ lời với ông lão: "Thưa cụ, thế này là cháu bất tuân mệnh lệnh của phụ
vương cháu. Phụ vương trục xuất cháu ra khỏi vương quốc Gia-da-tua-ra, bắt cháu
sống trọn đời trên sa mạc, không được thọ dụng những tiện nghi thoải mái này,
cháu không được phép. Thưa cụ, cho phép cháu rời khỏi nhà cụ." Ông lão cố
thuyết phục chàng, nhưng vô ích; Vít-van-ta-ra, theo sau là Mát-ri và các con
lên đường giã từ thành phố.
Ra ngoài cổng thành, chàng quay
lại nhìn thành phố lần cuối, nhưng thành phố đã biến mất; nơi đó bấy giờ chỉ
còn là bãi sa mạc nóng cháy. Vít-van-ta-ra sung sướng thấy mình không còn ở lại
lâu hơn nữa. Chàng đến một ngọn núi, chung quanh toàn là rừng đồi bao la, chàng
bắt gặp một túp lều của một ẩn sĩ nào đó xưa kia cư ngụ. Bằng lá cây, chàng làm
một chiếc giường con nho nhỏ cho cả gia đình; sau cùng, không còn gì ân hận dày
vò, chàng đã tìm thấy cảnh an lạc tại đó. Hằng ngày, Mát ri vào rừng hái trái,
họ ăn toàn trái rừng, họ uống toàn nước suối, một con suối tuôn chảy trong veo
mà họ đã khám phá bên cạnh túp lều của họ.
Bảy tháng trôi qua, họ chả gặp
một người nào; rồi một hôm, một đạo sĩ bà-la-môn đi ngang qua. Mát-ri đã vào
rừng hái trái, Vít-van-ta-ra ở nhà chăm sóc các con đang đùa nghịch trước lều.
Vị đạo sĩ bà-la-môn dừng lại quan sát họ rất kỹ. Ðạo sĩ nói với người cha:
"Thưa bạn, bạn vui lòng cho ta xin các cháu được chăng?" Vít
van-ta-ra kinh ngạc đến nỗi không nói nên lời. Chàng lo sợ, đưa mắt nhìn đạo sĩ
và rồi tiếp chuyện với người: "Vâng, bạn vui lòng cho ta xin các cháu được
chứ? Ta có một cô vợ trẻ hơn ta nhiều, đúng ra nàng là một người đàn bà hách
dịch. Nàng lười làm công việc gia đình, nàng bắt ta tìm cho nàng hai em nhỏ có
thể làm nô lệ cho nàng. Bạn không cho ta xin các cháu thì để làm gì? Hình như
bạn nghèo khổ lắm; bạn phải vất vả lắm mới nuôi nổi chúng. Ở nhà ta, chúng sẽ
có nhiều thức ăn, và ta sẽ cố thuyết phục vợ ta đối xử tử tế với chúng được
chừng nào hay chừng đó." Vít-van-ta-ra ngẫm nghĩ: "Ta đang bị đòi hỏi
một sự hy sinh vô cùng đau đớn. Ta biết làm sao bây giờ? Dù vị đạo sĩ có nói gì
đi nữa thì con mình cũng sẽ chịu nhiều đau khổ ở nhà họ; vợ của hắn độc ác lắm,
mụ ấy sẽ đánh đập con mình, mụ sẽ thí cho con mình những thức ăn thừa thãi.
Nhưng vì ngài đã hỏi xin con mình, ta có quyền từ chối không?" Suy nghĩ kỹ
trong giây lát, cuối cùng chàng nói: "Này đạo sĩ bà-la-môn, hãy đem các
cháu đi; hãy đưa các cháu đi; hãy đưa các cháu về làm nô lệ cho vợ ngài."
Gia-linh và Cờ-rít-na-gia-na òa lên khóc, mếu máo theo vị bà-la-môn ra đi.
Mát-ri trong lúc đó đang hái
lựu, nhưng cứ mỗi lần hái được một trái thì nó lại tuột khỏi tay nàng. Ðiều này
làm nàng lo sợ, nàng hối hả trở về. Nàng thương nhớ các con; nàng quay sang
chồng hỏi: "Các con đâu?" Vít-van-ta-ra đang nghẹn ngào nức nở.
"Các con đâu?" Vẫn không trả lời. Nàng hỏi lại lần thứ ba: "Các
con đâu?" Nàng nói tiếp: "Trả lời, trả lời mau. Sự im lặng của anh là
giết chế em đó." Bằng một giọng đau thương, Vít-van-ta-ra nói: "Có
một đạo sĩ bà la môn đến, ngài muốn xin các con về làm nô lệ! Anh đã cho các
con theo ngài rồi!" Mát-ri kêu lên : "Em có thể từ chối được
không?" Mát-ri té xỉu, nàng bất tỉnh. Một hồi lâu, sau khi tỉnh lại, nàng
kêu khóc nghe não nuột vô vàn. Nàng nhớ thương kể lể: "Con ơi, con sẽ làm
mẹ đêm đêm giật mình thức giấc; mẹ đã chọn hái cho con những trái ngon đặc
biệt, tên ác độc đó đã đem con đi rồi! Con vừa lững chững biết đi thì mẹ thấy
họ bắt con phải chạy. Ở nhà họ, các con sẽ đói khát, các con sẽ bị đánh đập tàn
nhẫn. Các con sẽ phục dịch trong nhà của một kẻ xa lạ. Các con sẽ lén nhìn ra
đường nhưng không bao giờ gặp lại mẹ cha. Môi các con sẽ bị khô héo, chân các
con sẽ bị đau tê vì đá nhọn cắt xẻ; sức nóng của mặt trời sẽ làm nám cả mặt mũi
các con. Con ơi, mẹ cha lúc nào cũng chịu đựng gian khổ cho con. Cha mẹ đã mang
con qua vùng sa mạc hãi hùng này, lúc đó các con đâu có khổ đau, nhưng giờ đây,
việc gì sẽ làm cho các con đau khổ?"
Trong khi nàng đang vật vã than
khóc thì có một đạo sĩ bà-la-môn khác ngang qua rừng, một cụ ông đi đứng quờ
quạng. Ðạo sĩ giương đôi mắt lèm nhèm nhìn công chúa rồi quay sang bắt chuyện
với hoàng tử Vít-van-ta-ra; "Thưa hoàng tử, như ngài thấy, lão già nua yếu
đuối; lão không có ai ở nhà để sớm hôm giúp lão; lão thức ngủ một mình; lão chả
có con trai con gái gì chăm sóc lão. Nào, cô này còn trẻ, nàng trông khỏe mạnh
lắm, cho lão xin cô này về làm nàng hầu. Nàng sẽ đỡ lão thức dậy; nàng sẽ dìu
lão đi ngủ; nàng sẽ canh chừng giấc ngủ cho lão. Thưa hoàng tử, cho lão xin cô
này, và như vậy là hoàng tử sẽ làm được một việc từ thiện, một việc thánh
thiện, một nghĩa cử sẽ được mọi người ca ngợi khắp thế giới".
Vít-van-ta-ra chăm chú lắng nghe; chàng đắn đo suy nghĩ. Chàng nhìn sang
Mát-ri: "Em yêu quí, em nghe đạo sĩ bà-la-môn nói chứ? Em tính sao?"
Nàng đáp: "Anh đã cho đứt hai con Gia-linh và Cờ-rít-na-gia-na yêu quí
rồi, anh có thể bố thí nốt em cho vị đạo sĩ này; em sẽ không than phiền gì
cả."
Vít-van-ta-ra cầm tay Mát-ri đặt
vào tay của vị đạo sĩ bà-la-môn. Chàng không thấy một chút gì ân hận. Chàng chả
hề rơi một giọt nước mắt. Ðưa tay đón nhận người phụ nữ, đạo sẽ bà-la-môn cảm
ơn hoàng tử và nói: "Này Vít-van-ta-ra, nguyện cầu ngài sớm tỏ ngộ sự huy
hoàng cao quí; nguyện cầu ngày kia ngài sẽ thành Phật!" Ðạo sĩ bà-là-môn
ra đi, nhưng đột nhiên ngài quay trở lại nói: "Ta sẽ tìm nàng hầu ở một xứ
khác; ta sẽ gởi cô này ở lại đây với các thiên thần thánh nữ của núi rừng sông
suối; từ nay về sau, ngài không được biếu nàng cho ai nhé!" Trong khi ông
lão bà-la-môn nói như vậy thì sắc diện dần dần biến đổi và đẹp hẳn ra, khuôn
mặt của ông lão giờ đây hiện rõ nét hân hoan rạng rỡ.
Vít-van-ta-ra và Mát-ri nhận ra
thiên chủ Ðế-thích. Họ sụp lạy dưới chân ngài; Thiên-chủ nói với họ: "Các
ngươi có thể cầu xin ta mỗi người một điều, ta sẽ ban ân huệ cho các
ngươi". Vít-van-ta-ra nói: "Ồ, nguyện cầu ngày kia con có thể thành
Phật để mang sự giải thoát đến cho những ai bị tử sinh thống khổ trong chốn núi
rừng!" Thiên-chủ đáp: "Nguyện cầu ngươi sớm được huy hoàng, nguyện
cầu ngày kia ngươi sẽ thành Phật!" Mát-ri tiếp lời: "Bạch ngài, xin
ban cho con ân huệ này: Nguyện cầu đạo sĩ bà-la-môn, người đã xin con chúng
con, quyết định bán chúng thay vì giữ chúng trong nhà, nguyện cầu đạo sĩ tìm
được người mua ở xứ Gia-da-tua-ra, và nguyện cầu ngươi mua chính là
Xan-gia-da." Thiên-chủ đáp: "Ðược rồi!" Thiên-chủ thăng thiên.
Mát-ri thì thầm: "Ồ, nguyện cầu quốc vương Xan-gia-da ân xá cho con trai
ngài!" Nàng nghe thiên thần nói: "Ðược rồi!"
Ngay lúc đó. Gia-linh và
Cờ-rít-na-gia-na về đến căn nhà mới của chúng. Vợ của đạo sĩ bà la môn rất hài
lòng với hai em bé nô lệ này. Mụ bắt chúng làm việc ngay. Mụ hí hửng ra lệnh.
Các em phải vâng theo tính khí bất thường không đâu vào đâu của mụ, nhưng mụ là
mụ chủ khắt nghiệt đến nỗi mới đó mà chúng chả còn một chút thiện chí nào làm
hài lòng mụ. Mụ thường xuyên chửi mắng đánh đập chúng. Mụ càng đối xử chúng tàn
tệ bao nhiêu thì chúng càng cảm thấy chán nản vô vọng bấy nhiêu, cuối cùng mụ
nói với đạo sĩ: "Tôi không cần hai đứa nhỏ này nữa. Hãy bán chúng đi và
kiếm cho tôi vài đứa khác, những tên nô lệ biết cách làm việc và vâng lời
kìa". Ðạo sĩ bà-la-môn dẫn hai đứa nhỏ đi lang thang từ thành phố này đến
thành phố khác, cố bán cho được chúng, nhưng chả ai chịu mua: giá cao quá.
Sau cùng, vị ấy đến
Gia-da-tua-ra. Một trong các quan ngự sử của quốc vương thấy họ lang thang trên
đường phố, ông chăm chú nhìn hai em bé, nhìn thân hình tìu tụy và mặt mày rám
nắng của chúng, bỗng nhiên, nhờ hai đôi mắt mà ông nhận ra chúng. Ông chận vị
đạo sĩ bà-la-môn lại hỏi: "Ngài được hai em bé này ở đâu?" Ðạo sĩ
đáp: "Thưa ngài, tôi được chúng trong một khu rừng. Người ta biếu chúng
cho tôi đem về làm nô lệ; chúng ngỗ ngáo lắm, tôi đang đem bán chúng đó."
Quan ngự sự đâm ra lo nghĩ, quay nhìn hai em bé, quan hỏi: "Cha các cháu
mất rồi sao mà các cháu phải chịu cảnh nô lệ thế này?" Gia-linh đáp:
"Thưa không ạ! Cha mẹ chúng cháu còn sống, nhưng cha bố thí chúng cháu cho
đạo sĩ bà-la-môn này." Quan ngự sử kêu to lên: "Quốc vương ơi,
Vít-van-ta-ra đã cho đứt cháu nội của ngài, Gia-linh và Cờ-rít-na-gia-na, cho
một đạo sĩ bà-la-môn rồi. Chúng làm nô lệ cho y. Y không hài lòng với công việc
hầu hạ của chúng nên đem chúng dạo bán từ thành phố này đến thành phố
khác." Quốc vương Xan-gia-da-ra lệnh đưa đạo sĩ bà-la-môn và hai em nhỏ
đến gặp ngài ngay. Chúng được nhận diện liền.
Thấy cảnh khốn khổ của hai em bé
thuộc dòng tộc mình, quốc vương khóc than thê thảm. Gia-linh ngõ lời van xin:
"Tâu quốc vương, xin mua giùm chúng cháu, chúng cháu vô vàn cực khổ trong
nhà của đạo sĩ bà-la-môn, chúng cháu muốn ở với ngài, ngài sẽ thương yêu chúng
cháu. Nhưng xin đừng bắt chúng cháu bằng quyền lực; cha cháu biếu chúng cháu
cho đạo sĩ bà-la-môn và mong rằng nhờ sự hy sinh đó mà cha chúng cháu sẽ được
nhiều phước đức cho bản thân và cho cả chúng sanh." Quốc vương hỏi đạo sĩ
bà-la-môn: "Ngươi muốn bán hai em bé này bao nhiêu?" Ðạo sĩ bà-la-môn
đáp: "Với chúng thì xin quốc vương cho một ngàn đầu bò". "Tốt
lắm". Quốc vương quay sang quan ngự sử nói: "Giờ đây khanh sẽ là
người đứng sau trẫm ở vương quốc này, hãy biếu đạo sĩ bà-la-môn này một ngàn
đầu bò và trả thêm cho y một ngàn nén vàng." Sau đó quốc vương, theo sau
là Gia-linh và Cờ-rít-na-gia-na, đến gặp hoàng hậu Phu-xa-ti. Vừa trông thấy
cháu nội, bà sung sướng đến khóc cười lẫn lộn. Bà mặc y phục sang trọng cho
chúng và đeo cho chúng nhiều vòng nhẫn xinh đẹp. Bà hỏi cha mẹ chúng. Gia linh
đáp: "Cha mẹ chúng cháu sống trong rừng, ở trong một túp lều sơ sài trên
một sườn núi. Cha mẹ chúng cháu bố thí hết sạch tài sản rồi. Cha mẹ chúng cháu
sống nhờ trái cây và nước suối, bạn bè thân thích toàn là dã thú trong
rừng." Phu-xa-ti kêu lên: "Hoàng thượng ơi, sao hoàng thượng không
gọi con của hoàng thượng bị lưu đày về!" Vua Xan-gia-da phái một sứ thần
đến gặp hoàng tử Vít-van-ta-ra; quốc vương xin lỗi hoàng tử và lệnh cho hoàng
tử về Gia-da-tua-ra gấp.
Khi về gần đến thành, hoàng tử
nhìn thấy phụ vương, mẫu hậu và các con ra đón chàng; theo sau là một đám đông
dân chúng đã nghe nói đến cảnh khốn khổ tột cùng và đức hạnh kỳ diệu của
Vít-van-ta-ra, họ hỷ xả tất cả và ca ngợi chàng hết lời. Quốc vương nói với
hoàng tử: "Con yêu quí của cha, cha đã làm một việc bất công nghiêm trọng
với con; mong con hiểu cho cha sự ân hận này; mong con thương cha: hãy quên đi
lỗi lầm nông nổi của cha; mong con cảm thương dân chúng kinh thành: hãy quên đi
lối cư xử tệ bạc của họ với con. Những nghĩa cử từ ái của con sẽ không bao giờ
làm phiền lòng cha và dân chúng nữa." Vít-van-ta-ra sung sướng ôm lấy phụ
vương, trong khi Mát ri ôm chặt lấy Gia Linh và cờ- rít-na-gia-na, còn
Phu-xa-ti vui mừng đến bật khóc. Khi hoàng tử ngang qua các cổng hoàng thành,
chàng được mọi người đồng thanh ca ngợi. Này bà con dòng tộc Thích-ca, ta là
Vít-van-ta-ra đây! Quí vị vẫn tán thán ta như ngày nào. Hãy lên đường đi đến
giải thoát."
Ðức Thế Tôn im lặng. Cả dòng tộc
Thích-ca chăm chú lắng nghe. Họ đảnh lễ Ngài và xin cáo lui. Nhưng chả ai nghĩ
đến việc cúng dường ngọ trai ngày mai cho Ngài.
XIII- TRUYỆN ÐẠT-MA-BA-LA
Ngày hôm sau, Ðức Thế Tôn vào
thành khất thực từng nhà. Dân chúng kinh thành Ca-tỳ-la-vệ nhận ra Ngài và cùng
nhau ca ngợi:
"Lạ thay! Hoàng tử
Tất-đạt-đa xưa kia ăn mặc sang trọng, dong xe qua kinh thành này, nay lại quấn
y sa môn bình dị, đó đây khất thực từng nhà."
Họ đổ xô đến các cửa sổ, leo lên
các sân thượng, trầm trồ thán phục người khất sĩ.
Một trong những thị nữ của Da-du
vừa ra khỏi hoàng cung thì nghe lời tán thán xôn xao. Nàng hỏi nguyên do và
được mọi người cho biết. Nàng tức tốc trở về báo tin cho công chúa.
Nàng nói: "Tâu công nương,
phu quân của công nương, hoàng tử Tất-đạt-da, đang ung dung đây đó trong thành
như một sa môn khất thực!"
Giật mình, Da-du suy nghĩ:
"Xưa kia chàng lộng lẫy trong ánh châu báu ngọc ngà, nay chàng lại khiêm
tốn trong bộ y phục bình dị, nay chàng lại rực rỡ trong ánh hào quang thiêng
liêng." Nàng thì thầm: "Chàng tuyệt diệu quá!"
Nàng leo lên sân thượng hoàng
cung. Với nhiều người vây quanh, Ðức Thế Tôn đang từ từ tiến đến gần. Nét uy
nghi đường bệ từ thân Ngài tỏa ra, Da-du sung sướng đến run người, nàng cất lời
nồng nàn ca ngợi:
"Ôi mái tóc bóng ngời mềm mại,
Vầng trán kia rực ánh mặt trời,
Ðôi mắt người rạng rỡ tươi vui,
Chân nhẹ bước như sư tử giữa nắng vàng êm dịu!"
Nàng đến gần phụ vương tâu:
"Tâu phụ vương, con trai
của phụ vương đang khất thực trong thành Ca-tỳ-la-vệ. Có một đám đông người
thán phục đang lần theo Ngài, Ngài đẹp hơn bao giờ hết."
Tịnh-Phạn sửng sốt. Quốc vương
rời khỏi hoàng cung, đến gần con nói:
"Ngài đang làm gì vậy? Tại
sao Ngài phải khất thực? Hẳn Ngài phải biết là trẫm đang mong Ngài tại hoàng
cung, Ngài và cả đệ tử của Ngài."
Ðức Thế Tôn đáp: "Ta phải
khất thực; ta phải vâng theo giáo pháp."
Quốc vương nói: "Ta là dòng
Sát-đế-lợi; chưa bao giờ dòng tộc Thích-ca lại có người khất thực?"
"Phụ vương thuộc dòng họ
Thích-ca; còn ta, trong những tiền kiếp xa xưa, ta đã chứng đắc vô thượng bồ
đề; ta đã nhận ra vẻ đẹp của tâm từ bi; ta đã hiểu rõ nguồn vui cả lòng tự dâng
hiến. Khi ta là đứa bé Ðạt-ma-ba-la (Dharmapala), hoàng hậu mẹ ta, một hôm đang
cùng ta chơi đùa, quên chào phụ vương, quốc vương Bra-ma-đát-ta (Brahmadatta)
khi ngài đi qua. Ðể trừng phạt hoàng hậu, ngài ra lệnh cho một trong các vệ
binh chặt đứt hai tay ta, ngài nghĩ làm thế mẹ ta sẽ đau đớn thấy ta đau khổ
còn hơn chính bà chịu đau khổ. Mẹ ta van xin quốc vương, bà nguyện hiến hai tay
bà để thay ta, nhưng ngài vẫn khăng khăng tàn nhẫn, ngài vẫn ban lệnh thi hành.
Ta vui vẻ như thường, mẹ ta thấy thế cũng hoan hỷ theo. Thế là phụ vương ta ra
lệnh vệ binh chặt đứt hai chân ta. Chặt xong, ta vẫn tươi cười. Quốc vương nổi
giận hét lên: "Hãy cắt đầu nó ra!" Thất kinh, mẹ ta quì mọp trước mặt
phụ vương, bà van xin: "Tâu hoàng thượng, xin cắt đầu thiếp, xin tha mạng
cho con ngài!" Quốc vương sắp bác lời thì bằng giọng nói thơ ngây, ta lên
tiếng: "Mẹ ơi, chính vì sự giải thoát của mẹ mà con dâng trọn cả đầu này.
Khi con chết rồi, hãy vất xác con trên đường; hãy phơi nó trần trần ra đó; hãy
để nó làm mồi cho chim trời." Và khi tên đao phủ tóm lấy tóc ta, ta nói
tiếp: "Ồ, thế là con có thể thành Phật, con có thể giải thoát cho tất cả
những ai bị sanh tử trên đời! Và giờ đây, hỡi quốc vương Tịnh-Phạn, rốt cuộc ta
đã đạt đến trí tuệ; ta là Phật; ta biết đường dẫn đến giải thoát. Ðừng than
phiền việc làm của ta. Hãy tỉnh giấc; hãy sáng suốt; hãy noi theo con đường đức
hạnh cao quí. Ai sống đời thánh thiện, người ấy có giấc ngủ an lành, dù ngủ
trên mặt đất hay ngủ ở những thế giới đâu đâu. "
Quốc vương Tịnh-Phạn thán phục
đến rơi lệ. Ðức Phật tiếp:
"Hãy biết phân biệt đâu là
đức hạnh chân chính và đâu là đức hạnh hư ngụy. Hãy biết đâu là chánh đạo và
đâu là tà đạo. Ai sống đời thánh thiện, người ấy có giấc ngủ an lành, dù ngủ
trên mặt đất hay ngủ ở những thế giới đâu đâu!"
Sụp lạy dưới chân Phật, quốc
vương xin hết lòng tín ngưỡng theo Ngài. Ðức Thế Tôn hoan hỷ trở về hoàng cung
và ngồi vào bàn của phụ vương mình.
XIV- ÐỨC HẠNH CAO QUÍ CỦA DA-DU
Bấy giờ tất cả phụ nữ ở hoàng
cung đều đến đảnh lễ Ðức Thế Tôn. Chỉ có Da-du là vắng mặt. Quốc vương tỏ vẻ
ngạc nhiên. Ma-ha-ba-xà-ba-đề hỏi: "Thiếp đã bảo nàng cùng đi", nàng
đáp: "Con sẽ không đi với mẹ, con thiếu duyên thiếu đức; con không xứng
đáng gặp mặt chồng con. Nếu con không làm gì lầm lỗi, chồng con sẽ đích thân
đến gặp con, và rồi con sẽ kính lễ chồng con đúng phép. "
Ðức Thế Tôn rời khỏi chỗ ngồi, đi
thẳng đến phòng Da-du. Nàng đã vất hết y phục sang trọng, cởi bỏ các tấm màn
the, ném cả kiềng vòng châu báu; nàng khoác một chiếc áo choàng màu ngà may
bằng vải thô. Thấy nàng trang phục như vậy, Ðức Thế Tôn vui cười hoan hỷ. Nàng
sụp lễ dưới chân Ngài.
Nàng nói: "Ngài thấy đó,
thiếp muốn mặc y phục như Ngài mặc, thiếp muốn sống như Ngài sống. Ngài ăn một
bữa một ngày, thiếp dùng mỗi ngày một bữa. Ngài không ngủ trên giường; nhìn
quanh xem: chả có giường chiếu gì cả, thiếp ngủ trên chiếc băng này. Từ đây,
thiếp sẽ không cần hương thơm, thiếp sẽ không cài hoa lên mái tóc thiếp
nữa."
Ðức Thế Tôn đáp: "Da-du, ta
đã thấy đức hạnh cao quí của nàng, nàng không thiệt đâu, ta tán thán đức hạnh
của nàng lắm. Có bao nhiêu phụ nữ trên thế gian này đã dũng mãnh như nàng?"
Ðức Thế Tôn ngồi xuống, nói:
"Phụ nữ khó tin lắm. Trong
số hơn cả ngàn người ngu si ác độc thì may ra mới có một người thông minh đức
hạnh. Phụ nữ bí hiểm hơn cả lộ trình của cá lội dưới nước; họ tàn nhẫn như kẻ
cướp, họ lường gạt như kẻ cướp; họ ít khi nói thật, vì đối với họ, láo là thật,
và thật là láo. Ta thường khuyên đệ tử ta hãy tránh xa phụ nữ. Thấy họ tiếp
chuyện với phụ nữ là ta khó chịu rồi. Còn nàng, này Da-du, nàng không giả dối;
ta tin tưởng đức hạnh của nàng. Ðức hạnh là hoa hương không phải dễ tìm; phụ nữ
phải có đôi tay sạch để nắm giữ đức hạnh. Ma-vương che giấu tên nhọn dưới hoa;
ồ, biết bao phụ nữ yêu hoa bạc ác, hoa gây thương tích không bao giờ lành! Phụ
nữ khốn nạn thay! Hình hài chỉ là bọt bèo, họ đâu nhận ra điều đó. Họ bám chặt
vào cõi đời này, rồi ngày ấy đến thì tử thần kéo họ ra đi. Hình hài mong manh
hơn cả ảo vọng. Ai nhận ra điều đó, người ấy sẽ bẻ gãy những mũi tên hoa của
Ma-vương; ai nhận ra điều đó, người ấy sẽ không bao giờ gặp mặt tử thần. Thần
chết sẽ lôi người phụ nữ vô ý hái hoa như cơn nước lũ, do bão tố dâng lên, cuốn
phăng cả ngôi làng đang mê ngủ. Này cô, hãy hái hoa, hãy thưởng thức màu sắc
của chúng, hãy ngửi trọn hương vị của chúng; thần chết đang rình rập cô đó;
trước khi cô được thõa mãn thì thần chết đã mang cô đi rồi. Hãy như con ong
kìa; nó bay từ hoa này đến hoa khác, chỉ lấy mật ngọt chứ không làm tổn thương
hương sắc của một hoa nào.
XV- NAN-ÐÀ KHƯỚC TỪ VƯƠNG VỊ
Từ khi Tất-đạt-đa ra đi xuất
gia, vua Tịnh-Phạn đã chọn Nan-đà (Nanda), một trong những người con trai khác,
kế vị vua lên ngôi. Nan-đà sung sướng nghĩ rằng một ngày kia chàng sẽ là quốc
vương, sung sướng hơn nữa là chàng nghĩ đến cuộc hôn lễ sắp tới với công chúa
Tôn-đà-lị (Sundarika), một Tôn-đà-lị xinh đẹp mà chàng thiết tha yêu quí.
Ðức Thế Tôn lo sợ cho em mình;
Ngài sợ cho Nan-đà sẽ lạc vào ác đạo. Một hôm, Ngài đến gặp Nan-đà và nói:
"Này Nan-đà, ta đến với
ngươi vì ta biết ngươi đang sung sướng lắm. Ta muốn nghe chính miệng ngươi
trình bày nguyên do của sự sung sướng đó. Này Nan-đà, nói đi, hãy bộc lộ hết
tâm tình cho ta biết."
Nan-đà đáp: "Thưa tôn
huynh, em nói ra không biết tôn huynh có hiểu cho chăng, tôn huynh đã từ bỏ
vương vị, tôn huynh đã cắt đứt ái ân với Da-du!"
"Này Nan-đà, ngươi mong
ngày kia ngươi sẽ là quốc vương, thì ra nguyên do sung sướng là thế!"
"Vâng, điều sung sướng hơn
nữa là em yêu Tôn-đà-lị, Tôn-đà-lị mai đây sẽ là hôn thê của em."
Ðức Thế Tôn kêu lên: "Khốn
nạn thay! sống trong đen tối mà ngươi có thể sung sướng được sao? Ngươi sẽ thấy
được ánh sáng sao? Trước hết ngươi hãy loại bỏ niềm hạnh phúc đó đi: Lo sợ phát
sanh từ hạnh phúc, kinh hãi và đau khổ. Ai hết lo sợ, hết đau khổ; người ấy
không còn biết đến hạnh phúc. Hãy loại bỏ tình yêu đó đi: Lo sợ phát sanh từ
tình yêu, kinh hãi và đau khổ. Ai hết lo sợ, hết đau khổ; người ấy không còn
biết đến tình yêu. Nếu như ngươi tìm kiếm hạnh phúc trên cõi đời này thì những
nổ lực của ngươi sẽ trở thành vô ích, lạc thú của ngươi sẽ biến thành đau khổ,
cái chết luôn luôn có mặt, sẵn sàng vồ lấy những kẻ khốn cùng bất hạnh mà khúc
hát nụ cười vẫn còn bừng nở trên môi. Thế gian toàn là lửa khói, mọi việc trên
đời phải chịu cảnh sanh lão tử vong. Kể từ lúc ngươi mới bắt đầu lang thang thê
thảm trong kiếp luân hồi, nước mắt của ngươi đã đổ nhiều còn hơn là nước của
sông biển đại dương. Ngươi đã gánh chịu khổ đau, ngươi đã tiếc thương cho những
ước vọng không thành, ngươi đã oán than đau đớn khi thấy điều kinh hãi xảy ra.
Cái chết của một người mẹ, cái chết của một người cha, cái chết của một người
anh, cái chết của người chị, cái chết của một đứa con trai, cái chết của một
người con gái; ồ, qua biết bao lần, trải bao thời đại, những cảnh tượng đó chưa
làm ngươi đau lòng sao? Biết bao lần ngươi chưa tốn hao tài vật? Và mỗi lần đối
diện với đau khổ thì ngươi lại khóc, khóc và khóc; ngươi đã đổ nhiều nước mắt
còn hơn là nước của sông biển đại dương!"
Nan-đà, lúc đầu, ít chú tâm đến
những gì Ðức Phật dạy, nhưng khi bắt đầu lắng nghe, lời lẽ của Ngài đã làm cho
chàng xúc động, sâu sắc. Ðức Thế Tôn tiếp:
"Hãy coi thế gian như bọt
bèo; thế gian là mộng huyển, tử thần rồi sẽ bốc ngươi đi."
Ngài dừng lại.
Nàn-đà thưa: "Bạch Ðức Thế
Tôn, bạch Ðức Thế Tôn, con xin nguyện làm đệ tử Ngài! Xin cho con theo
Ngài."
Ðức Thế Tôn dắt tay Nan-đà rời
khỏi hoàng cung. Nhưng Nan-đà lộ vẻ đăm chiêu suy nghĩ; chàng e rằng mình hấp
tấp quá. Có lẽ chàng đau đớn ân hận điều chàng đã làm. Vì có nói gì đi nữa thì
nắm giữ vương quyền vẫn là điều thú vị, cao quí. Còn Tôn-đà-lị? chàng nghĩ:
"Nàng đẹp biết bao" Chàng thở dài, nói: "Ta sẽ bao giờ gặp lại
nàng?"
Nhưng rồi chàng vẫn theo sau Ðức
Thế Tôn. Chàng không dám tâm sự với Ngài. Chàng sợ ngài khiển trách, chàng sợ
Ngài khinh miệt.
Bỗng nhiên, khi Ðức Thế Tôn và
Nan-đà quẹo qua một góc đừờng, chàng bắt gặp một thiếu nữ đi tới. Nàng tươi
cười. Nhận ra Tôn-đà-lị, chàng cúi mặt không dám nhìn.
Nàng nói: "Anh đi đâu
thế?"
Nan-đà không trả lời. Nàng quay
sang Ðức Thế Tôn.
"Ngài dẫn Nan-đà theo Ngài
sao?"
"Vâng", Ðức Thế tôn
đáp.
"Ngày mai chàng sẽ về
chứ?"
Nan-đà muốn đáp lại: "Vâng,
anh sẽ về sớm, Tôn-đà-lị! Nhưng chàng lại e ngại, không nói nên lời; mắt nhìn
xuống, chàng lặng lẽ theo sau Ðức Thế Tôn.
Vậy là Tôn-đà-lị biết Nan-đà
không còn của nàng nữa, nàng nức nở khóc.
XVI- PHẬT RỜI THÀNH CA-TỲ-LA-VỆ
Một hôm, Da-du đôn hậu đứng nhìn
con trai La-hầu-la (Rahula) của nàng.
Nàng ca ngợi: "Con trai của
mẹ đẹp làm sao! Ðôi mắt của con long lanh quá! Cha của con còn nợ con một di
sản hiếu đạo; con phải đi đòi nó lại."
Mẹ con dắt nhau lên sân thượng
của hoàng cung. Ðức Thế Tôn từ hòa nhẹ bước trên đường phố bên dưới. Da-du nói
với La-hầu-la:
"La-hầu-la, con thấy vị sa
môn kia không?" Cậu bé đáp: "Vâng, thưa mẹ, thân Ngài đầy cả
vàng."
"Ngài đẹp như thiên thần!
Chính hào quang thánh thiện từ trong da thịt Ngài tỏa ra như vàng. Con ơi, hãy
quí Ngài, hãy yêu quí Ngài, vì Ngài là cha của con. Xưa kia Ngài có những bảo
vật quí giá. Ngài có nhiều vàng bạc ngọc ngà rực rỡ; giờ đây, Ngài lại đi khất
thực từng nhà. Nhưng Ngài đã có được một kho tàng tuyệt diệu: Ngài đã chứng đắc
vô thượng bồ đề. Con ơi, hãy đến gặp Ngài; hãy nói cho Ngài biết con là ai, và
đòi lại di sản của con."
La-hầu-la vâng lời mẹ. Cậu đến
đứng ngay trước mặt Phật. Cảm thấy một niềm sung sướng kỳ lạ, cậu nói:
"Bạch Ngài sa môn, thật là
hân hạnh cho con được đứng đây, đứng trong bóng mát của Ngài."
Ðức Thế Tôn ngắm cậu bằng ánh
mắt yêu thương, từ ái; La-hầu-la bạo dạn chạy đến bên Ngài. Nhớ lời mẹ dặn, cậu
nói:
"Thưa cha, con là con của
cha. Con biết cha có nhiều bảo vật quí giá nhất đời. Xin cha trả lại di sản đó
cho con."
Ðức Thế Tôn mỉm cười. Ngài không
trả lời. Ngài tiếp tục khất thực. La-hầu-la lẻo đẻo theo sau Ngài, cậu lập lại:
"Thưa cha, xin cha trả lại
di sản đó cho con."
Cuối cùng đức Thế Tôn nói;
"Này con, con chưa biết gì
về cái kho tàng mà con đã nghe nhiều người ca ngợi. Khi con đòi lại di sản của
con, con nghĩ là con đang đòi hỏi những đồ vật mang tính chất suy hoại. Những
bảo vật duy nhất theo con là những bảo vật thân thiết với sự trống không hư ảo
của loài người, những bảo vật mà cái chết tham tàn cướp đoạt của những người
giàu có giả tạm. Này La-hầu-la, con có quyền đòi hỏi di sản của con. Con sẽ
được chia phần châu báu; con sẽ thấy bảy loại đức hạnh, con sẽ biết giá trị
đích thực của đức tin và thanh khiết, khiêm tốn và cẩn trọng, vâng phục, hy
sinh và trí tuệ. Ði, cha sẽ giao con cho tôn giả Xá-lợi-phất; tôn giả sẽ giáo
dục con."
La-hầu-la lặng lẽ theo cha,
Da-du cảm thấy lâng lâng sung sướng. Chỉ có quốc vương Tịnh-Phạn là đau buồn;
gia đình quốc vương đang từ biệt quốc vương! Ngài không thể không bộc lộ tâm
tình với Ðức Thế Tôn.
Ðức Thế Tôn đáp: "Ðừng đau
buồn gì cả, những ai nghe theo ta sẽ có được kho tàng cao quí! Không có gì phải
đau buồn; hãy như thớt voi lâm trận bị trúng tên độc của kẻ thù: không ai nghe
voi than phiền bao giờ. Quốc vương khéo điều voi ra trận thế nào thì bậc vĩ nhân
trên đời cũng khéo tự điều phục mình thế đó, người ấy dằn được đau khổ. Ai thật
tình khiêm tốn, ai chế ngự tham dục như chúng ta điều khiển ngựa hoang, người
ấy sẽ bị thiên thần đố kỵ. Người ấy không bao giờ làm ác. Không phải trong hang
động của núi rừng, không phải dưới vực sâu của biển cả, quốc vương không thể
trốn đâu được những hậu quả tai hại của một ác nghiệp; chúng theo Ngài mãi mãi;
chúng in vết trong ngài; chúng bắt ngài điên loạn; chúng cho ngài hưởng được
một chút thanh bình! Nhưng nếu ngài làm việc thiện, khi ngài giã biệt trần
gian, ngài sẽ được thiện nghiệp của ngài đón chào, giống như những người bạn
thân đón ngài từ xa về. Chúng ta sống trong hoàn toàn hạnh phúc, chúng ta không
hận thù giữa một thế giới tràn ngập hận thù. Chúng ta sống trong hoàn toàn hạnh
phúc, chúng ta không tật bệnh giữa một thế giới dẫy đầy tật bệnh. Chúng ta sống
trong hoàn toàn hạnh phúc, chúng ta không lao nhọc giữa một thế giới dẫy đầy
lao nhọc. Chúng ta sống trong hoàn toàn hạnh phúc, chúng ta không có gì cả.
Nguồn vui là lương thực của chúng ta, chúng ta như những thiên thần rạng rỡ. Vị
sa môn nào sống trong cô đơn, thầy ấy sẽ duy trì được một tâm hồn tròn đầy an
tịnh, thầy ấy sẽ thấy rõ sự thật bằng một cái nhìn sáng suốt vững vàng, thầy ấy
sẽ hưởng được một nguồn hạnh phúc mà thế nhân không sao hiểu nổi."
An ủi quốc vương Tịnh-Phạn được
đôi lời, Ðức Thế Tôn rời thành Ca-tỳ-la-vệ, Ngài lên đường trở lại thành
Vương-xá.
XVII- CẤP-CÔ-ÐỘC CÚNG DƯỜNG
Trong khi Ðức Thế Tôn ở tại
thành Vương-xá thì Cấp-cô-độc (Anathapindika), một trưởng giả giàu có, từ Xá-vệ
(Cravasti) đến. Cấp-cô-độc là một tín đồ sùng đạo. Khi được tin Ðức Thế Tôn trú
tại rừng Trúc-lâm, ông nóng lòng muốn đếp gặp Ngài.
Cấp-cô-độc lên đường vào một
buổi sáng, và khi ông vào rừng Trúc-lâm, một giọng nói thiêng liêng đã đưa ông
đến gặp Ðức Thế Tôn. Ông được đón chào niềm nỡ; ông cúng dường đại chúng một
phẩm vật tuyệt vời, và Ðức Thế Tôn hứa đến gặp ông tại thành Xá-vệ.
Khi về đến thành, Cấp-cô-độc bắt
đầu phân vân không biết tiếp đón Ðức Thế Tôn tại đâu. Vườn tược của ông hình
như không tương xứng cho việc đón tiếp một thượng khách như vậy. Vườn cây đẹp
nhất trong thành là của thái tử Kỳ-đà (Jeta), Cấp-cô-độc quyết định mua đứt khu
vườn đó.
Kỳ-đà nói với ông: "Ta sẽ
bán vườn cây nếu ngươi trải vàng khắp mặt đất."
Cấp-cô-độc chấp nhận điều kiện
giao ước. Ông cho xe chở vàng đến vườn, và bấy giờ chỉ còn một dãy đất nhỏ còn
trống. Kỳ-đà hoan hỷ ca ngợi:
"Này trưởng giả, vườn cây
là của ngươi: Phần ta, ta xin hân hạnh biếu ngươi dãy đất còn lại đó."
Cấp-cô-độc cho trang hoàng vườn
cây, chuẩn bị đón tiếp Ðức Thế Tôn. Ông phái một gia nhân trung tín nhất đến
rừng Trúc-lâm báo tin cho Ðức Thế Tôn biết là ông sẵn sàng đón tiếp Ngài tại
thành Xá-vệ.
Sứ giả nói: "Bạch Ðức Thế
Tôn, chủ nhân con xin đảnh lễ Ngài. Người hy vọng Ngài đã thoát khỏi khổ đau,
bệnh tật; người hy vọng Ngài không quên ước hẹn với người. Bạch Ðức Thế tôn, họ
đang chờ đón Ngài tại thành Xá-vệ."
Ðức Thế Tôn không quên lời hứa
với trưởng giả Cấp-cô-độc; Ngài muốn giữ hẹn, Ngài nói với sứ giả: "Ta sẽ
đi."
Ngài hoãn lại một vài hôm; rồi
Ngài khoác áo, ôm bình, theo sau là một số đệ tử, Ngài lên đường đi Xá-vệ. Vị
sứ giả đi trước để báo cho trưởng giả biết là Ðức Thế Tôn sắp tới.
Cấp-cô-độc quyết định đi đón Ðức
Thế Tôn, vợ con ông xin cùng đi, những người giàu có nhất thành thấy thế cũng
xin tháp tùng theo họ. Và khi họ nhìn thấy Ðức Thế Tôn, hào quang rực rỡ của
Ngài làm họ chói lòa cả mắt; Ngài hình như đi trên một đoạn đường toàn vàng.
Họ theo hầu Ngài đến vườn cây
của thái tử Kỳ-đà, Cấp-cô-độc thưa với Ngài:
"Bạch Ðức Thế Tôn, con sẽ
làm gì với vườn cây này?"
Ðức Thế Tôn đáp: "Hãy cúng
dường cho đại chúng, từ nay và mãi mãi về sau."
Cấp-cô-độc sai gia nhân bê đến
một bát vàng đầy nước. Ông rửa tay Ðức Thế Tôn và Bạch rằng:
"Từ nay mãi mãi về sau, con
xin cúng dường vườn cây này cho đại chúng, những vị sa môn tu tập dưới sự hóa
độ của Ðức Thế Tôn."
Ðức Thế Tôn nói: "Lành
thay! Ta ghi nhận lễ vật. Vườn cây này sẽ là nơi an trú tuyệt vời; tại đây,
chúng ta sẽ sống êm đềm, chúng ta sẽ tránh được cảnh oai bức, buốt giá. Không
có ác thú vào đây: không có cả một cánh muỗi vo ve quấy rầt sự yên tịnh; ở đây
tránh được mưa dầm gió rét hay nắng hạn kinh hồn. Vườn cây này thơ mộng lắm.
Tại đây ta sẽ thiền định hằng giờ. Cúng dường đại chúng những lễ vật như thế
thật là đúng pháp. Người thông minh trí tuệ không nên thờ ơ lạnh nhạt, hãy nên
cúng dường nhà cửa, thức ăn, nước uống, y phục cho các thầy sa môn. Trái lại,
các thầy sa môn sẽ giáo hóa chánh pháp cho họ. Ai giác ngộ chánh pháp, người ấy
sẽ giải thoát khổ đau và đạt đến niết bàn."
Ðức Phật và đồ chúng của Ngài tự
ra sức xây dựng nền tảng tại vườn Kỳ-viên.
Cấp-cô-độc rất lấy làm sung
sướng; nhưng, một hôm, một ý nghĩ nghiêm trọng lại hiện ra trong đầu óc ông.
Ông tự nhủ: "Ta đang được
mọi người hết lời ca ngợi, nhưng đối với những việc làm của ta, việc nào đáng
được khâm phục như thế? Ta dâng lễ vật, cúng dường Phật và cúng dường các thầy
sa môn, điều đó, trong tương lai, ta sẽ được quả phúc; nhưng đức hạnh của ta
chỉ có lợi cho ta! Ta phải giúp người khác cùng chia xẻ cái đặc quyền đó. Ta sẽ
đi khắp kinh thành, ta sẽ quyên góp lễ vật của những ai ta gặp đem cúng dường
Phật và các thầy sa môn. Thế là nhiều người sẽ tham gia vào công việc phước đức
mà ta sắp làm."
Ông đến yết kiến Ba-tư-nặc
(Prasenajit), vua nước Xá-vệ, một quốc vương cương trực, sáng suốt. Ông tâu với
quốc vương về những điều mà ông đã quyết định làm, quốc vương hoan hỷ chấp
thuận. Một phái viên được lệnh đi khắp kinh thành để phổ biến thông báo của
hoàng triều:
"Ðồng bào Xá-vệ nghe rõ!
bảy ngày nữa, trưởng giả Cấp-cô-độc sẽ cỡi voi qua khắp kinh thành. Ông sẽ
quyên góp lễ vật của tất cả mọi người, sau đó ông đem cúng dường Phật và đồ
chúng của Ngài. Vậy mong các ngươi hãy dâng những gì mà ông có thể chấp
nhận."
Ðúng ngày ấn định, Cấp-cô-độc
ngồi trên lưng voi đẹp nhất qua khắp kinh thành, ông quyên góp lễ vật từng
người để cúng dường Ðức Thế Tôn và đại chúng. Dân chúng vây quanh ông: người
thì dâng vàng, kẻ thì biếu bạc; cô này cởi kiềng, o kia cởi xuyến, chị nọ cởi
còng; ngay cả những phẩm vật tầm thường nhất cũng được thâu nhận.
Bấy giờ, tại thành Xá-vệ có một
thiếu nữ quá nghèo. Nàng phải mất ba tháng trời dành dụm mới đủ tiền mua được
một mảnh vải thô mà nàng vừa may xong cho nàng một tấm áo. Thấy đám người vây
quanh Cấp-cô-độc, nàng nói với một người đứng xem:
"Trưởng giả Cấp-cô-độc hình
như đi xin thì phải."
"Vâng, ông đang đi
xin," có giọng đáp.
"Nhưng người ta bảo ông là
một trưởng giả giàu nhất thành Xá-vệ. Tại sao ông phải đi xin thế này?"
"Cô không nghe thông báo
của hoàng triều được phổ biến khắp thành cách đây bảy ngày sao?"
"Chả nghe gì cả."
"Cấp-cô-độc không phải
quyên góp phẩm vật cho chính ông. Ông muốn mọi người cùng tham gia vào công
việc phước đức mà ông đang làm, ông đang quyên góp phẩm vật để cúng dường Phật
và đồ chúng của Ngài. Tất cả những ai cúng dường đều sẽ được quả phúc mai
hậu."
Thiếu nữ tự nhủ: "Mình chưa
bao giờ làm được điều gì đáng khen. Ðiều hay nhất là sắm một lễ vật để cúng
dường Phật. Nhưng mình nghèo quá. Mình phải làm gì bây giờ?" Nàng bỏ đi,
chán nản. Nàng nhìn xuống chiếc áo mới may: "Mình chỉ cúng dường Ngài được
chiếc áo này. Nhưng mình không thể lõa lồ ra đường."
Nàng về nhà cởi áo. Nàng ngồi
tại cửa sổ đợi Cấp-cô-độc đến, và khi ông đi qua trước nhà, nàng ném chiếc áo
cho ông. Ông cầm lấy và đưa nó cho những người giúp việc.
Ông nói: "Người phụ nữ ném
chiếc áo này cho ta có lẽ không còn gì khác để cúng dường. Nàng phải chịu lõe
lồ thôi nếu nàng ở nhà và cúng dường lễ vật theo kiểu này. Ði, hãy cố tìm cho
ra nàng và xem nàng là ai?"
Bọn gia nhân phải gặp rất nhiều
khó khăn trong lúc tìm kiếm cô thiếu nữ. Cuối cùng họ tìm ra nàng và thấy rằng
chủ nhân của họ đã đoán đúng: Chiếc áo vất ra ngoài cửa sổ là toàn bộ tài sản
của một cô bé nghèo. Cấp-cô-độc vô cùng xúc đông; ông bảo gia nhân đem những bộ
y phục sang trọng, xinh đẹp tặng cho cô thiếu nữ thuần thành đã hiến ông chiếc
áo giản dị của nàng.
XVIII- NHỮNG MÔN ÐỆ MỚI
Ðức Thế Tôn lưu lại ở Xá-vệ ít
lâu rồi Ngài lên đường đến thành Vương-xá, nơi mà Tần-bà-sa-la đang đợi Ngài.
Ði được nửa đường, Ngài dừng lại
để nghỉ tại một ngôi làng, lúc đó có bảy người đến. Ngài nhận ra họ. Sáu người
là bà con, họ là những người giàu có và quyền lực nhứt dòng Thích-ca. Ðó là
A-nậu-lâu-đà (Anuruddha), Bạt-đề (Bhadrika), Bờ-ri-gu (Bhrigu), Kim-tỳ-la
(Kimbala), Ðề-bà-đạt-đa (Devadatta) và A-nan (Ananda). Người thứ bảy là
Ưu-ba-ly (Upali), một gã hớt tóc.
Một hôm, A-nậu-lâu-đà tự nhủ
rằng mình là dòng họ Thích-ca mà không ý thức theo Phật thì thật là điều xấu
hổ. Chàng quyết định làm gương, và vì không một nguyên do nào ngăn cách được ý định
của chàng nên chàng bày tỏ tâm sự trước tiên với người bạn chí cốt của chàng là
Bạt-đề. Bạt-đề suy nghĩ trong giây lát rồi tán đồng ý kiến và quyết tâm noi
theo. Sau đó, cả hai thuyết phục A-nan, Bờ-ri-gu, Kim-tỳ-la và Ðề-bà-đạt-đa
thấy rằng không có tiếng gọi nào cao hơn tiếng gọi xuất gia làm sa môn.
Thế là sáu hoàng tử lên đường
theo Phật. Họ khó mà từ giã thành Ca-tỳ-la-vệ khi A-nan, liếc nhìn Bạt-đề,
than:
"Bạt đề, anh sống đời thánh
thiện mà còn giữ châu báu làm gì?"
Bạt đề e thẹn, nhưng thấy A-nan
cũng đeo châu báu, chàng cười đáp:
"A-nan, anh nhìn lại anh
xem".
A-nan bẽn lẽn, đỏ cả mặt.
Bấy giờ họ nhìn nhau, thấy ai
cũng đeo châu báu. Họ cả thẹn; họ đang lặng lẽ cúi mặt đi thì gặp ngay gã hớt
tóc Ưu-ba-ly.
A-nan nói: "Này anh hớt
tóc, lấy đồ châu báu của ta không, ta biếu hết cho anh đó".
Bạt-đề nói: "Lấy đồ của ta
luôn".
Những vị khác cũng trao hết châu
báu cho Ưu-ba-ly. Anh sửng sốt không biết trả lời thế nào. Tại sao những vị
hoàng tử này chưa bao giờ gặp anh lại biếu hết bảo vật cho anh thế? Anh phải
làm sao đây, chấp nhận hay từ chối?
Hiểu được lòng do dự của gã hớt
tóc, A-nậu-lâu-đà nói:
"Ðừng ngại nhận những châu
báu này. Chúng tôi đang trên đường theo bậc đại sĩ dòng thích ca. Chúng tôi
đang trên đường theo Tất-đạt-đa, người đã thành Phật. Ngài sẽ thuyết giảng giáo
pháp cho chúng tôi, chúng tôi sẽ qui y theo giáo pháp của Ngài".
Gã hớt tóc hỏi: "Thưa các
hoàng tử, các ngài sẽ làm sa môn?"
"Vâng," họ đáp.
Anh lấy hết đồ châu báu và bắt
đầu tiến về thành phố. Nhưng, bỗng nhiên, anh suy nghĩ: "Ta đang làm công
việc như một thằng khùng. Ai sẽ tin là các hoàng tử ép ta nhận những châu báu
này? Ta sẽ bị bắt vì tội trộm cướp hay tội giết người không chừng. Tội nhỏ nhất
có thể xảy ra cho ta là ta sẽ gánh chịu sự phẫn uất sâu đậm của dòng tộc Thích-
ca. Ta sẽ không giữ những châu báu này. Anh máng chúng trên một cành cây bên vệ
đường. Anh suy nghĩ: "Các hoàng tử đó đang nêu gương cao thượng. Họ can
đảm vất bỏ hoàng cung, còn ta, chả có gì, ta không dám vất bỏ quán hớt tóc của
ta sao? Không. Ta sẽ theo họ. Ta sẽ gặp Phật, và biết đâu Ngài lại nhận ta vào
đại chúng! ".
Ưu-ba-ly theo sau các hoàng tử
cách một khoảng xa. Anh xấu hổ không dám tháp tùng theo họ. Bạt-đề chợt quay
lại, thấy Ưu-ba-ly, chàng gọi lớn:
"Anh thợ cạo kia, sao anh
vất hết đồ châu báu của chúng tôi?"
Gã thợ cạo đáp: "Tôi cũng
muốn làm sa môn".
"Thế thì cùng đi với anh em
chúng tôi", Bạt-đề nói.
Ưu-ba-ly vẫn lúc thúc theo sau.
A-nậu-lâu-đà tiếp lời:
"Anh thợ cạo, hãy đi cạnh
chúng tôi. Là sa môn thì đâu còn phân biệt, trừ tuổi tác và đức hạnh. Khi chúng
ta đứng trước mặt Phật, anh phải là người đầu tiên bạch Ngài, anh phải là người
đầu tiên xin Ngài nhận anh vào đại chúng. Vì anh, các hoàng tử sẽ chứng tỏ cho
mọi người thấy rằng họ bỏ hết tính kiêu mạn về dòng tộc Thích-ca của họ".
Họ tiếp tục lên đường, bỗng
nhiên, một con diều hâu từ đâu đáp xuống đầu của Ðề-bà-đạt-đa và tha đi viên
ngọc kim cương mà chàng đã dấu kín trong búi tóc của chàng. Nó đã vạch trần
tính giả dối của chàng và làm cho các hoàng tử cười òa. Ðề-bà-đạt-đa bấy giờ không
còn một bảo vật nào khác nhưng bạn đồng hành của chàng, trong thâm tâm, vẫn còn
hoài nghi về lòng chân thành trung tín của chàng.
XIX- TÍNH KIÊU MẠN CỦA NAN-ÐÀ
Ðức Thế Tôn hoan hỷ thấy một số
bà con thân thích cùng ở trong hàng môn đệ, Ngài đưa hết đến Trúc-Lâm.
Tại đó, chỉ có Nan-đà đáng
thương là đau khổ. Chàng lúc nào cũng nghĩ đến Tôn-đà-lỵ; nàng lúc nào cũng vấn
vương trong tâm tư mộng tưởng của chàng, chàng ân hận là đã từ giã nàng. Ðức
Phật hiểu được nỗi khổ đau dằng vặt của Nan-đà, Ngài quyết định chữa trị cho
chàng.
Một hôm, ngài dắt tay chàng đến
một gốc cây có một con khỉ gớm guốc ngồi trên đó.
Ngài nói: "Hãy nhìn con khỉ
kìa, nó chả đẹp gì cả phải không?"
Nan-đà đáp: "Con ít khi
thấy con khỉ nào xấu xí như thế."
Ðức Thế Tôn nói: "Thật sao?
Nhưng nó giống hệt Tôn-đà-lỵ, vị hôn thê trước kia của ngươi".
Nan-đà thét lên: "Ngài nói
sao? Ngài muốn nói con khỉ này giống Tôn-đà-lỵ, một công chúa duyên dáng, xinh
đẹp sao?"
"Chứ khác gì, Tôn-đà-lỵ
khác gì? Cả hai không phải là giống cái? Cả hai không phải là khơi dậy lòng dục
vọng của giống đực? Ta tin là ngươi sẽ sẵn sàng từ bỏ con đường thánh thiện để
chạy vào vòng tay siết chặt của Tôn-đà-lỵ, cũng như trong khu rừng này, tại một
nơi nào đó, có một con khỉ đực bị dục tình mãnh liệt của con khỉ cái này khêu
gợi đến độ mê mẫn điên cuồng. Cả hai rồi sẽ già nua, lụ khụ; còn ngươi cũng như
con khỉ đực nào đó, sẽ tự thắc mắc không biết điều gì đã làm mình điên rồ ngu
dại như thế. Cả hai rồi sẽ chết, riêng ngươi và con khỉ đực nào đó có lẽ rồi sẽ
nhận ra sự trống rỗng vô vị của lòng ái dục. Tôn-đà-lỵ chả khác gì con khỉ cái
này".
Nhưng Nan-đà không nghe. Chàng
thở dài. Chàng mơ thấy Tôn-đà-lỵ mảnh mai, duyên dáng đang thư thả dạo quanh
trong một khu vườn đầy hoa rực rỡ.
Ðức thế tôn lên giọng sai khiến:
"Hãy cầm lấy chéo y của ta!".
Nan-đà vâng lời. Chàng cảm thấy
mặt đất ở dưới chàng bỗng nhiên sụp xuống, một trận cuồng phong quét chàng lên
tận trời xanh. Khi rút chân lên, chàng thấy mình đang ở trong một công viên
tuyệt diệu. Chàng đang dạo bước trên một con đường vàng ròng, hoa lá toàn là
các thứ châu báu làm bằng hồng ngọc và bích ngọc thơm ngát.
Ðức Thế Tôn nói: "Ngươi
đang ở trên cung trời Ðao-lợi, hãy mở mắt u tối ra mà xem".
Nan-đà thấy một căn nhà bằng bạc
sáng choang được vây quanh bởi một cánh đồng lưu ly rực rỡ. Một tiên nữ kiều
diễm hơn Tôn-đà-lỵ đang đứng tại cửa. Nàng mỉm cười. Ngây ngất vì dục vọng,
Nan-đà chạy bổ đến nàng, nhưng nàng bất thần hoa tay chận chàng lại.
Nàng nói: "Nan-đà, hãy
thanh tịnh trên cõi đời này, hãy giữ lời thệ nguyện. Sau khi qua đời, ngươi sẽ
được tái sanh tại đây, rồi ngươi sẽ đến trong vòng tay ân ái của ta".
Tiên nữ biến mất, Nan-đà và đức
Thế Tôn trở lại trần gian.
Nan-đà quên hẳn Tôn-đà-lỵ. Chàng
bị ám ảnh bởi một cảnh trí thơ mộng mà chàng đã nhìn thấy trên vườn thiên đàng,
và cũng chính vì yêu thương tiên nữ mà giờ đây chàng quyết tâm sống đời phạm
hạnh"!.
Tuy thế, các thầy sa môn vẫn
nhìn chàng bằng cái nhìn rẻ rúng. Họ mặc tẩn chàng; nhưng mỗi khi gặp chàng
trong rừng Trúc-lâm, họ thường biểu môi khinh bỉ chàng. Chàng cảm thấy đau
buồn. Chàng nghĩ: "Các thầy hình như có ác cảm với ta; ta thử hỏi tại
sao?" Một hôm, thấy A-nan đi ngang qua, chàng lại hỏi:
"Tại sao các thầy sa môn
lẩn tránh ta? Tại sao ngươi không hỏi han trò chuyện gì với ta nữa? Trước kia,
tại thành Ca-tỳ-la-vệ, chúng mình là bạn và cũng là bà con thân thích. Ta đã
làm gì xúc phạm đến các người?"
A-nan đáp: "Anh tệ lắm!
Chúng tôi luôn luôn trầm tư về những sự thật cao quí, còn anh lúc nào cũng tơ
tưởng đến vẻ đẹp của một tiên nữ, Ðức Thế Tôn không cho chúng tôi tiếp xúc với
anh".
A-nan bỏ đi.
Nan-đà vô cùng ân hận. Chàng
chạy đến Ðức Thế Tôn, quì mọp dưới chân Ngài khóc nức nở. Ðức Thế Tôn nói:
"Này Nan-đà, những ý nghĩ
của con tồi tệ lắm. Con là kẻ nô lệ của tình cảm con. Trước kia là nô lệ cho
Tôn-đà-lỵ, bây giờ là nô lệ cho một tiên nữ, kẻ đã làm cho đầu óc con xoay
chiều. Con sẽ bị luân hồi. Con muốn tái sanh giữa cảnh chư thiên sao? Ngu xuẩn
lắm! Phù phiếm lắm! Này Nan-đà, hãy nổ lực đạt đến trí tuệ; hãy nghe theo lời
dạy của thầy, hãy diệt trừ những đam mê cuồng loạn đó đi".
Suy tư nghiền ngẫm về những lời
dạy của Phật, Nan-đà trở thành một đệ tử thuần phác nhất, dần dần chàng thanh
tẩy được tâm hồn. Tôn-đà-lỵ không còn lảng vảng trong tâm tưởng của chàng nữa,
và giờ đây, mỗi khi nghĩ đến tiên nữ, chàng lại buồn cười cho cái ý niệm muốn
làm thần thánh chỉ vì nàng. Một hôm, chàng thấy trên ngọn cây có một con khỉ
gớm guốc đang nhìn chàng, chàng lên giọng hãnh diện nói:
"Ê, Tôn-đà-lỵ không duyên
dáng bằng ngươi; ê, so với tiên nữ kiều diễm nhất thì ngươi còn xinh hơn nữa
kìa!".
Chàng tự hào là đã chế ngự được
lòng ái dục của mình. Chàng tự nhủ: "Ta là thánh thật rồi, về đức hạnh, ta
sẽ không còn thua kém gì với sư huynh của ta nữa".
Chàng tự may cho chàng một chiếc
y cùng kích thước như y của Ðức Thế Tôn. Thấy chàng đi từ xa, các thầy sa môn
nói:
"Ðức Thế Tôn đến kìa, chúng
ta đứng lên chào Ngài".
Nhưng khi Nan-đà đến gần, họ
thấy là họ lầm. Họ ngượng ngùng ngồi xuống và nói:
"Trong khi chúng ta ở đây
thì cậu ấy đâu có ở trong hàng đại chúng; tại sao chúng ta phải đứng lên chào
cậu ấy?"
Nan-đà hý hửng thấy các sa môn
đứng lên khi mình đến gần; nhưng chàng chưng hửng thấy họ ngồi xuống lại. Chàng
không dám than phiền; chàng sợ các thầy khiển trách. Vả lại đó chưa phải là bài
học cho chàng, chàng tiếp tục rảo qua rừng Trúc-lâm, trên mình khoác chiếc y
giống như y Phật. Từ xa, lầm chàng là Ðức Thế Tôn, các thầy sa môn từ chỗ ngồi
đứng dậy, nhưng khi chàng đến gần, các thầy cười òa và ngồi xuống lại.
Cuối cùng, một sa môn đến bạch
Phật. Ngài than phiền lắm. Ngài họp các thầy sa môn lại, và trước mặt mọi
người, Ngài hỏi Nan-đà:
"Này Nan-đà, con đã thật sự
được đắp y cùng kích thước như y của Phật chưa?"
Nan-đà đáp: "Dạ được, bạch
Ðức Thế Tôn, con được đắp y cùng kích thước như y của Ngài".
Ðức Thế Tôn nói: "Lạ nhỉ!
Một đệ tử dám đắp y cùng kích thước như y Phật! Con nghĩ gì với việc làm táo
bạo như thế? Hành động đó không thể khơi dậy đức tin của người ngoại đạo, cũng
không thể củng cố đức tin của hàng tín đồ. Nan đà, con phải thu ngắn y của con
lại và trong tương lai, bất cứ thầy sa môn nào may y cho mình cùng kích thước
như y Phật, hoặc rộng hơn y Phật, đều phạm phải trọng tội, thầy ấy sẽ bị nghiêm
phạt".
Nan-đà tự nhận thấy lỗi lầm,
chàng ý thức rằng đã là một thánh giả chân chính thì phải hàng phục được tính kiêu
mạn của mình.
XX- VUA TỊNH PHẠN THĂNG HÀ
Gần thành Tỳ-xá-lỵ (Vaisali) có
một khu rừng rộng bao la mà người ta đã cúng dường cho Ðức Thế Tôn. Trong khi
Ngài lưu ngụ tại đó thì có tin báo là phụ hoàng của Ngài, quốc vương Tịnh Phạn,
ngã bịnh. Quốc vương già lắm, bịnh tình nguy ngập, rằng quốc vương sắp qua đời.
Ðức Thế Tôn quyết định về thăm phụ hoàng. Ngài lên đường về thành Ca-tỳ-la-vệ.
Quốc vương nằm buồn hiu trên
giường bệnh. Ngài thở thoi thóp, cái chết sắp cận kề. Nhưng khi nhìn thấy con
mình, ngài hoan hỷ vui cười. Ðức Thế Tôn nói:
"Tâu hoàng thượng, hoàng
thượng đã đi được một đoạn đường dài, hoàng thượng lúc nào cũng nổ lực làm việc
thiện. Hoàng thượng chưa từng để tâm đến những ham muốn đê hèn, lòng dạ của
hoàng thượng không bao giờ cưu mang thù hận và sân nhuế cũng không bao giờ làm
đen tối được đầu óc của ngài. Hạnh phúc thay cho ai ra đời để làm việc thiện!
Hạnh phúc thay cho ai nhìn xuống hồ nước trong xanh và thấy được dung nhan tinh
khiết của mình. Nhưng hạnh phúc hơn nữa là ai tự quán sát tâm trí và thấy nó
thanh tịnh hoàn toàn! Tâu hoàng thượng, tâm trí của hoàng thượng thanh tịnh
lắm, việc ra đi của hoàng thượng cũng bình thản êm đềm như buổi chiều tàn của
một ngày nắng đẹp".
Quốc vương nói: "Bạch Ðức
Thế Tôn, ta đã nhận ra lẽ vô thường của thế gian. Ta đã quét sạch mọi dục vọng,
ta đã giải thoát hết mọi xiềng xích của cuộc đời".
Một lần nữa, quốc vương đảnh lễ
Phật. Rồi ngài quay sang đám trung thần đã có mặt đầy đủ trong điện, ngài nói:
"Các bạn, hẳn ta đã nhiều
lần làm phiền các bạn, nhưng các bạn chưa bao giờ tỏ vẻ ác cảm với ta. Các bạn
nhân từ tốt bụng lắm. Trước khi ta vĩnh biệt các bạn, mong các bạn hãy tha thứ
cho ta. Những gì ta hành xử sai lầm, mong các bạn bỏ qua cho; hỷ xả cho ta nghe
các bạn!".
Ðám quần thần khóc rống lên, họ
thì thào:
"Không, tâu bệ hạ, bệ hạ
không bao giờ làm phiền lòng hạ thần!".
Tịnh Phạn vương nói tiếp:
"Còn khanh, hỡi
Ma-ha-ba-xà-ba-đề, ái khanh đã là bạn hiền trăm năm của ta, ta đã thấy ái khanh
khổ lụy nhiều rồi, ái khanh hãy trấn tỉnh đau buồn. Việc ra đi của ta là một sự
giã biệt hạnh phúc. Hãy nghĩ đến sự vinh quang cao quí của người con mà ái
khanh đã dày công nuôi nấng này; hãy sung sướng ngắm nhìn ánh hào quang rực rỡ
của Ngài".
Quốc vương thăng hà, Mặt trời
tắt hẳn.
Ðức Thế Tôn nói:
"Hãy nhìn thi thể của phụ
hoàng ta xem. Ngài không còn là ngài nữa. Chưa có ai chinh phục được cái chết.
Có sinh ắt có tử, hãy đem hết tâm tư tình cảm ra làm việc thiện; hãy đi trên lộ
trình dẫn đến trí tuệ. Hãy làm một ngọn đèn trí tuệ, và bóng tối sẽ tan biến
vào ánh sáng của nó. Ðừng chạy theo ác pháp, đừng vun trồng gốc rễ độc hại;
đừng tạo thêm ác trược trên cõi đời này. Kẻ ngu muội lẫn tránh giáo pháp, một
khi rời vào hang động của tử thần thì kêu gào than khóc; cũng như phu xe từ bỏ
đường quang, chạy vào hiểm lộ gồ ghề, thấy trục gãy bánh rơi mà đấm đầu mếu
máo. Người trí là ngọn đuốc soi sáng cho người ngu; người trí dẫn đường cho
nhân loại, bởi vì người trí có mắt thấy xa, người khác chả thấy gì cả".
Thi thể của quốc vương được đưa
đến một đống củi hỏa táng khổng lồ. Ðức Thế Tôn châm lửa, và trong lúc những
ngọn lửa hồng phủ kín lên thi thể của phụ hoàng, trong lúc thần dân ở
Ca-tỳ-la-vệ đang khóc than thương tiếc, thì Ngài lập lại những sự thật cao quí
này:
"Sanh là khổ, già là khổ,
bịnh là khổ, chết là khổ. Ồ, khát vọng là mãi mãi sanh tử luân hồi! Khát vọng
quyền lực, khát vọng lạc thú, khát vọng sinh tồn, khát vọng là nguồn gốc của
mọi đau khổ! Ồ, mọi khát vọng ác trược thánh nhân thấy rõ, các ngươi chưa thấy,
thánh nhân dập tắt hết mọi dục vọng, thánh nhân chỉ biết có con đường Bát
Chánh".