PHẦN BA
I- MA-HA BA-XÀ-BA-ÐỀ ÐƯỢC VÀO GIÁO
HỘI
Ma-ha Ba-xà-ba-đề mãi trầm tư
suy nghĩ. Bà nhận thấy sự vô vị trống rỗng của cõi đời này. Bà muốn thoát khỏi
hoàng cung, thoát khỏi kinh thành Ca-tỳ-la-vệ, và sống một cuộc đời thánh
thiện.
Bà nghĩ: "Ðức Thế Tôn hạnh
phúc biết bao! Ðồ chúng của Ngài hạnh phúc biết bao! Tại sao không thể làm như
họ? Tại sao ta không thể sống như họ? Nhưng họ lại khước từ phụ nữ. Chúng ta
không được chấp nhận vào giáo hội, ta phải lưu lại kinh thành ảm đạm này, ta
phải lưu lại hoàng cung thê lương này; ta bơ vơ lạc lõng, dưới mắt ta, tất cả
đều trống rỗng!".
Bà đau khổ. Bà vất hết xiêm y
sang trọng; bà phân phát châu báu ngọc ngà cho các thị nữ, bà khiêm tốn giản dị
trước mặt mọi loài.
Một hôm, bà tự nhủ:
"Ðức Thế Tôn từ bi lắm,
Ngài sẽ thương xót ta. Ta sẽ đến gặp Ngài, và biết đâu Ngài sẽ tiếp nhận ta vào
giáo hội".
Ðức Thế Tôn đang trú tại một
cánh rừng gần thành Ca-tỳ-la-vệ. Ma-ha-ba-xà-ba-đề đến gặp Ngài, bà rụt rè
thưa:
"Bạch Ðức Thế Tôn, chỉ có
Ngài và môn đệ của Ngài là thật sự hạnh phúc. Còn con, giống như Ngài và mọi
người theo Ngài, con muốn đi trên con đường giải thoát. Bạch Ðức Thế Tôn, xin
Ngài hoan hỷ cho con được vào giáo hội."
Ðức Thế Tôn im lặng. Bà tiếp:
"Làm sao con có thể an vui
hạnh phúc trong một thế giới mà con ngao ngán ê chề? Con đã thấy rõ những hoan
lạc hào nhoáng của nó. Con muốn đi trên con đường giải thoát. Bạch Ðức Thế Tôn,
xin Ngài hoan hỷ cho con được vào giáo hội. Con biết có nhiều phụ nữ cũng muốn
theo gương con. Bạch Ðức Thế Tôn, xin Ngài hoan hỷ cho chúng con được vào giáo
hội."
Ðức Thế tôn vẫn im lặng. Bà
tiếp:
"Hoàng cung của con nay tẻ
nhạt u buồn lắm. Kinh thành bị bao trùm trong một màn đen tối. Những tấm vải
thêu sặc sỡ chỉ đè nặng lên vầng trán con; vương miện, vòng kiềng chỉ làm con
thêm đau nhói. Con phải đi trên con đường giải thoát. Biết bao phụ nữ nhiệt
tình, biết bao phụ nữ thuần thành đang sẵn sàng nối gót con. Bạch Ðức Thế Tôn,
xin Ngài hoan hỷ cho phụ nữ được vào giáo hôi."
Ðến lần thứ ba, Ðức Thế Tôn vẫn
im lặng.
Ma-ha-ba-xà-ba-đề trở về hoàng
cung u tối với hai hàng nước mắt ròng ròng.
Nhưng bà không bỏ cuộc. Bà quyết
tâm đến gặp Ðức Thế Tôn một lần nữa để van xin Ngài.
Bấy giờ Ngài an trú trong một
khu rừng rộng bao la gần thành Tỳ-xá-ly. Ma-ha-ba-xà-ba-đề tự cắt tóc, khoác
lên mình một chiếc y thô sơ màu ngà, bà lên đường đến thành Tỳ-xá-lỵ.
Bà làm cuộc hành trình bằng chân
không; bà không hề than phiền mỏi mệt. Bụi bám đầy người, cuối cùng bà đến ngay
tịnh xá Ðức Thế tôn đang nhập định. Bà không dám vào; bà đúng khóc sướt muớt
ngoài ngõ. A-nan chợt đi ngang qua, nhìn thấy bà và hỏi:
"Thưa hoàng hậu, vì sao
hoàng hậu đến đây; lại ăn mặc như thế này? Tại sao hoàng hậu lại đứng trước của
tịnh xá của Ðức Thế Tôn?"
"Ta không dám vào diện kiến
Ngài. Ðã ba lần Ngài từ chối lời thỉnh nguyện của ta, hôm nay ta đến cầu xin
Ngài một lần nữa: Xin Ngài hoan hỷ cho ta, cho giới phụ nữ được vào giáo
hội."
A-nan vào tịnh xá, gặp Ðức Thế
Tôn, bạch rằng:
"Bạch Ðức Thế Tôn,
Ma-ha-ba-xà-ba-đề, hoàng hậu kính yêu của chúng ta, đang đứng trước cổng tịnh
xá của Ngài. Bà không dám gặp Ngài, bà sợ Ngài sẽ khước từ lời thỉnh nguyện của
bà một lần nữa. Bạch Ðức Thế Tôn, đó đâu phải là lời thỉnh nguyện của một phụ
nữ điên rồ, bà không đáng cho Ngài ban ân huệ sao? Hoàng hậu đã một thời là di
mẫu của Ngài; lúc nào bà cũng thương yêu chăm sóc Ngài; bà thật xứng đáng được
Ngài chiếu cố. Vì sao Ngài dứt khoát không chấp nhận phụ nữ vào giáo hội? Có
nhiều phụ nữ rất mực thuần thành, có nhiều phụ nữ can đảm nghiêm trì đường
hướng thánh thiện lắm chứ."
Ðức Thế Tôn nói: "Này
A-nan, đừng cầu xin ta cho phép phụ nữ vào giáo hội."
A-nan cáo lui. Hoàng hậu đang
mong gặp A-nan.
Bà lo lắng hỏi: "Ðức Thế
Tôn nói sao?"
"Ngài khước từ lời thỉnh
nguyện của hoàng hậu. Nhưng đừng thất vọng."
Ngày hôm sau, đến gặp Ðức Thế
Tôn, A-nan thưa:
"Ma-ha-ba-xà-ba-đề không
chịu ra về. Bà đang nghĩ đến những ngày dài hạnh phúc của thời bà còn son trẻ.
Lúc đó Ma-da còn sống; Ma-da, người phụ nữ diễm kiều nhất; Ma-da, người đã hạ
sanh một bé trai. Em gái của Ma-da là người rất cao thượng; bà không hề ganh
tị: bà yêu thương ngay cả trước khi bé mở mắt chào đời. Ðến khi bé ra đời, mang
nguồn vui đến cho tất cả chúng sanh thì hoàng hậu khuất núi. Ma-ha-ba-xà-ba-đề
đã sớm hôm chăm sóc đứa bé mồ côi mẹ đó: bé hình như non nớt lắm. Bà đùm bọc
che chở bé; bà tận tụy nuôi dưỡng bé, bà bồng bế bảo hộ bé khỏi bị ảnh hưởng
của bọn tỳ nữ ác tâm; bà hết lòng trông nom chiều chuộng bé. Ðến khi bé lớn
lên, bà vẫn không rời bé. Bà đoán biết những sở thích vụn vặt nhất của bé; bà tôn
thờ bé, người đã đạt đến nguồn hạnh phúc tối thượng. Người là cây đại thọ che
mát các bậc hiền đức cao minh; và giờ đây, khi bà muốn tìm một nơi an trú khiêm
tốn dưới bóng cây đại thọ của người thì ước vọng bình dị an lành đó lại bị từ
chối. Bạch Ðức Thế Tôn, xin Ngài độ lượng, xin Ngài hoan hỷ thâu nhận
Ma-ha-ba-xà-ba-đề vào giáo hội."
Ðức Thế Tôn đắn đo suy nghĩ, rồi
trịnh trọng phán rằng:
"Này A-nan, hãy lắng nghe.
Hãy đi gặp Ma-ha-ba-xà-ba-đề và nói với bà rằng ta sẵn lòng đón nhận bà vào
giáo hội, nhưng với điều kiện là bà phải chấp nhận một số giới luật nghiêm
khắc. Ðây là giới luật mà ta buộc giới phụ nữ phải vâng giữ khi vào giáo hội;
một tỳ kheo ni, dù đã trải qua trăm hạ, cũng phải đứng dậy cung kính trước sự
hiện diện của một tỳ kheo tăng, dù cho vị ấy mới vào đạo được một ngày; tỳ kheo
ni phải đến gặp tỳ kheo tăng để phát lồ sám hối những điều lỗi lầm và để cầu
xin giáo thọ; tỳ kheo ni phạm trọng tội, trước mặt đại chúng tỳ kheo tăng và tỳ
kheo ni, phải được xử phạt thích đáng trong vòng mười lăm ngày; trước khi tỳ
kheo ni được nhận vào giáo hội, đức hạnh và chí hướng của họ phải được thử
thách trong một giai đoạn là hai năm; tỳ kheo ni không được khích động tỳ kheo
tăng. Ðây là giới luật buộc tỳ kheo ni phải giữ cùng với những giới luật đã được
áp dụng cho tỳ kheo tăng."
Ma-ha-ba-xà-ba-đề sung sướng
tuyên hứa nghiêm giữ giới luật. Bà gia nhập giáo hội, và chỉ trong vài tháng
sau, nhiều phụ nữ đã nối tiếp theo gương bà.
Nhưng rồi, một hôm, Ðức Thế Tôn
nói với A-nan:
"Này A-nan, nếu không chấp
nhận phụ nữ vào giáo hội, chúng ta có thể duy trì sự tinh khiết trong một thời
gian dài, và chánh tín có thể tồn tại, vững mạnh, thanh tịnh cả ngàn năm.
Nhưng, này A-nan, nay chấp nhận phụ nữ vào giáo hội, sự tinh khiết đó rồi sẽ bị
hoen ố và chánh tín, dù vững mạnh tới đâu, cũng sẽ chỉ tồn tại trong khoảng 500
năm."
II- PHẬT ÐIỂM MẶT BỌN GIẢ DỐI
Từ Tỳ-xá-li, Ðức Thế Tôn đến
Xá-vệ, rồi Ngài đến Kỳ-viên. Một hôm, vua Ba-tư-nặc đến hầu thăm Ngài.
Quốc vương nói: "Bạch Ðức
Thế Tôn, mới đây có sáu ẩn sĩ đến Xá-vệ. Họ không tin giáo pháp của Ngài. Họ
cho rằng tri kiến của Ngài không bằng họ, và họ ra sức làm con ngạc nhiên bằng
những phép mầu kỳ lạ. Con nghĩ là lời lẽ của họ không đúng, nhưng, bạch Ðức Thế
Tôn, nếu như Ngài dẹp được tính táo bạo liều lĩnh của họ thì hay lắm. Việc giải
thoát thế nhân tùy thuộc vào ánh vinh quang rực rỡ của Ngài. Xin Ngài hãy đối
diện với bọn gian manh lường gạt đó và bắt chúng phải im ngay."
Ðức Phật đáp: "Này quốc
vương, hãy cho xây một tòa đại sảnh gần kinh thành. Hãy hoàn tất trong bảy
ngày. Ta sẽ đến. Hãy triệu tập đông đủ các ẩn sĩ bịp bợm đó lại, và rồi quốc
vương sẽ chứng kiến ai là người làm được những phép màu cao quí nhất, họ hay
ta."
Quốc vương Ba-tư-nặc hạ lệnh xây
gấp một đại sảnh đường.
Trong khi đợi đến ngày so tài,
bọn ẩn sĩ láo khoét tìm cách đánh lừa các Phật tử thuần thành của Ðức Thế Tôn,
và những ai không nghe theo lời lẽ quái đãn của chúng thì phải chuốc lấy những
hận thù cay nghiệt. Bấy giờ, Ðức Thế Tôn không có người bạn thân nào ở Tỳ-xá-li
hơn là hoàng tử Ca-la (Kala), em ruột của vua Ba-tư-nặc. Ca-la ra mặt khinh hẳn
bọn ẩn sĩ, và chúng quyết định phục thù.
Ca-la là một hoàng tử hào hoa
phong nhã. Một hôm, khi dạo qua vườn ngự uyển, chàng gặp một trong những vương
phi của vua Ba-tư-nặc, nàng tinh nghịch ném vào người chàng một tràng hoa. Bọn
ẩn sĩ hay tin đó, chúng báo với quốc vương là em trai của quốc vương đã cố tình
quyến rũ một trong những vương phi của ngài. Quốc vương đùng đùng nổi giận,
không để cho Ca-la có dịp phân bua, quốc vương hạ lệnh chặt hết tay chân của
Ca-la.
Ca-la khốn nạn đau đớn vô vàn.
Bạn bè thân thích vây quanh giường của chàng khóc than thê thảm. Một trong
những tên ẩn sĩ quái ác chợt đi ngang qua.
Họ gọi hắn nói: "Mời ngài
đến đây, xin ngài phóng rọi quyền năng. Ngài biết Ca-la vô tội chứ. Xin ngài
cứu Ca-la với:"
Tên ẩn sĩ đáp: "Hắn tin
tưởng thằng con của dòng Thích-ca thì bảo thằng con của dòng Thích-ca cứu
nó."
Thế là Ca-la cất tiếng hát:
"Sao Ðức Thế Tôn của nhân
thế không thấy nỗi đau khổ của con? Chúng con xin kính lễ Ngài, người đoạn trừ
hết mọi dục vọng: Chúng con xin tôn thờ Ngài, người xót thương vạn loại hữu
tình."
A-nan bỗng nhiên hiện ra trước
mặt chàng.
Tôn giả nói: "Này Ca-la,
Ðức Thế Tôn đã dạy ta những lời có thể hàn gắn vết thương của ngươi".
Tôn giả đọc vài câu kệ, tay chân
của hoàng tử hoạt động lại như thường.
Chàng tán thán: "Từ nay về
sau, ta sẽ hầu hạ Ðức Thế Tôn! Dầu Ngài sai ta làm những việc hèn hạ đến đâu,
ta cũng sẽ hoan hỷ làm đẹp lòng Ngài."
Chàng theo A-nan đến Kỳ-viên.
Ðức Thế Tôn niềm nở đón nhận
chàng vào giáo hội.
Ðã đến ngày Ðức Thế Tôn định so
tài với các ẩn sĩ. Từ sáng sớm, quốc vương Ba-tư-nặc đã đến đại sảnh đường. Sáu
ẩn sĩ đều có mặt tại đó. Họ trao đổi cho nhau bằng những ánh mắt và nụ cười hý
hửng.
Một ẩn sĩ nói: "Tâu quốc
vương, chúng tôi là những người đầu tiên đến nơi dự hội."
Một tên khác nói: "Ngài
thiết tưởng kẻ mà chúng tôi đang mong đợi có thật sự đến không?"
Quốc vương nói: "Này các ẩn
sĩ, không nên khinh suất người ấy. Quí vị biết là Ngài đã phái một trong các
môn đệ của Ngài đến chữa cho em ta như thế nào, người mà ta đã trừng phạt bất
công đó. Ngài sẽ đến. Có lẽ Ngài đến đây rồi, trước mặt mọi người mà chả ai hay
biết."
Quốc vương vừa nói xong, một
vầng mây trắng bao phủ cả nhà. Ðám mây càng lúc càng trắng, và dần dần tan biến
thành ánh sáng ban ngày, Ðức Phật xuất hiện trong ánh hào quang rực rỡ; phía
sau Ngài là A-nan và Ca-la. A-nan trên tay cầm một hoa hồng, Ca-la cầm một hoa
vàng, và trong khắp các hoa viên ở Tỳ-xá-li, chưa ai thấy hai đóa hoa kỳ diệu
như thế bao giờ.
Vua Ba-tư-nặc thán phục vô vàn.
Bọn ẩn sĩ lếu láo không dám cười đùa nữa.
Ðức Thế Tôn nói:
"Ðom đóm tỏa ánh sáng cho
mọi người thấy chỉ khi nào mặt trời lặn, nhưng khi ánh sao vằng vặc xuất hiện
thì đom đóm khốn nạn kia liền dập tắt ánh sáng hiu hắt của nó ngay. Bọn giả dối
chỉ ồn ào trong lúc Phật im lặng, nhưng khi Phật lên tiếng thì chúng lại sợ
khóc và im ngay."
Bọn ẩn sĩ bị báo động. Thấy quốc
vương nhìn chúng bằng ánh mắt khinh bỉ, chúng cả thẹn cúi đầu.
Bỗng nhiên, mái tòa đại sảnh
biến mất,trên vòm trời cao, Ðức Thế Tôn vạch một đường dài từ đông sang tây,
Ngài đi trên đó. Thấy pháp màu huyền diệu này, tên đối thủ hỗn láo nhất của
Ngài sợ hãi trốn mất. Hắn tưởng tượng một bầy chó săn đang gào thét đuổi theo
hắn, hắn cắm đầu chạy riết đến một bờ hồ. Tại đó, hắn cột một hòn đá vào cổ và
gieo mình xuống nước. Một ngư phủ thấy xác hắn ngày hôm sau.
Trong lúc đó, Ðức Thế Tôn tự
phân thân ra hai hình ảnh giống nhau và cùng đi song song với nhau trên đoạn
đường thiên giới. Người ta nghe thấy âm vang của Ngài vọng xuống.
"Hỡi các đệ tử của ta, ta
sắp lên đến quốc độ của chư thiên. Ma-da, mẫu hậu của ta đã gọi ta; ta phải
thuyết giảng giáo pháp cho người. Ta sẽ ở lại với người trong ba tháng. Nhưng,
ngày ngày, ta sẽ xuống lại trần gian, và chỉ có Xá-lợi-phất là biết ta ở đâu.
Xá-lợi-phất sẽ hướng dẫn đại chúng tu tập theo giáo pháp của ta. Trong khi ta
vắng bóng ở bầu trời, tức là ta sẽ đi với mẫu thân ta, ta sẽ thuyết giảng giáo
pháp cho người; đây là hình ảnh phân thân của ta."
III- KIỀU NỮ XU-BỜ-RA-BA
Ba tháng trôi qua, Ðức Thế Tôn
xuống trần gian và đi thẳng đến thành Tỳ-xá-li. Khi gần đến Kỳ-viên, Ngài gặp
một thiếu nữ. Nàng là tỳ nữ của một phú hộ trong thành, hôm đó ông làm việc ở
ngoài đồng. Nàng đang bê một thố cơm cho ông dùng bữa. Thấy Phật, nàng cảm thấy
sung sướng lạ lùng.
Nàng nghĩ: "Ðức Thế Tôn,
đúng Ðức Thế Tôn rồi. Ta được ngắm Ngài tận mắt; có lẽ ta được sờ Ngài tận tay,
Ngài đến gần lắm rồi. Ồ, cúng dường lễ vật cho Ngài là nguồn vui thánh thiện
biết bao! Nhưng ta chả có gì là của ta cả."
Nàng thở dài. Nàng đưa mắt nhìn
xuống thố cơm:
"Cơm này. Phần ăn của chủ
ta... Không một người chủ nào có thể bắt làm nô lệ kẻ đã là nô lệ. Ông có thể
đánh đập ta, không hề gì! Ông có thể xiềng xích ta, cũng chả sao! ta sẽ nhẹ
nhàng mang chịu tất cả. Ta sẽ cúng dường phần cơm này cho Ðức Thế Tôn."
Nàng dâng thố cơm cho Phật. Ngài
nhận cơm và tiếp tục lên đường đến Kỳ-viên. Thiếu nữ, mắt long lanh niềm sung
sướng, đến gặp chủ của nàng.
Vừa thấy nàng, người chủ hỏi:
"Cơm ông đâu?"
"Con cúng dường cho Phật
rồi. Hãy phạt con nếu ông muốn, con sẽ không khóc; con rất sung sướng về điều
mà con đã làm."
Ông không phạt nàng, ông cúi đầu
nói:
"Không, ông sẽ không phạt
con. Ông còn ngủ mê thì mắt con đã mở . Hãy đi đi! Con không còn là con bé nô
lệ nữa."
Thiếu nữ cúi đầu thi lễ.
Nàng nói: "Ông đã cho phép,
con sẽ đến Kỳ-viên, con sẽ xin Ðức Thế Tôn thuyết giảng giáo pháp cho
con."
Ông nói: "Hãy đi đi!"
Ðến Kỳ-viên, nàng ngồi dưới chân
Phật, và nàng đã trở thành một trong những nữ tu thánh thiện nhất trong hàng
đại chúng.
Trong số những người cầu Phật
thuyết pháp cùng lúc với thiếu nữ nô lệ này có Xu-bờ-ra-ba (Suprabha), ái nữ
của một danh gia vọng tộc trong thành Tỳ-xá-li. Xu-bờ-ra-ba đẹp lắm. Thấy nàng
là mê ngay, bao nhiêu thanh niên hào hoa phong nhã trong thành đều đeo đuổi
nàng. Cha nàng thấy thế không ít lo ngại. Ông tự hỏi đi hỏi lại: "Ta sẽ gả
ái nữ của ta cho ai? Kẻ nào ta từ chối, người ấy sẽ là kẻ thù cay nghiệt của
ta."
Và mỗi lần tự hỏi như thế, ông
lại trầm tư suy nghĩ hằng giờ.
Một hôm, Xu-bờ-ra-ba nói với
ông:
"Thưa cha, hình như cha
đang bực tâm bực trí điều gì. Có chuyện gì vậy thưa cha?"
Ông đáp: "Con à, chính con
là mối lo ngại của cha. Có quá nhiều người ở thành Tỳ-xá-li muốn hỏi cưới
con:"
Xu-bờ-ra-ba nói: "Cha đang
lo chọn người cầu hôn cho con. Họ đáng thương lắm! Nếu họ biết rõ tâm tư của
con! Thưa cha, đừng lo nữa. Cha bảo họ họp lại và cứ theo tập tục cổ truyền,
con sẽ đi giữa họ, con sẽ tự chọn lấy một người chồng cho con."
"Con à, cha sẽ làm theo ý
con."
Cha của Xu-bờ-ra-ba đến gặp quốc
vương Ba-tư-nặc và được phép bảo sứ giả đi thông báo khắp thành.
"Trong bảy ngày nữa, sẽ tổ
chức một cuộc họp mặt các thanh niên muốn cưới Xu-bờ-ra-ba. Thiếu nữ sẽ đích
thân chọn chồng trong số thanh niên đó."
Ðến ngày thứ bảy, nhiều kẻ cầu
hôn tập trung trong một khu vườn lộng lẫy của phụ thân Xu-bờ-ra-ba. Nàng xuất
hiện trong một cổ xe, trên tay cầm một lá cờ màu vàng có vẽ chân dung Ðức Thế
Tôn. Nàng đang cất tiếng hát ca ngợi Ngài. Họ ngạc nhiên nhìn nàng và tự hỏi:
"Nàng sẽ nói gì với chúng
ta?"
Cuối cùng nàng bộc lộ tâm tình với
các thanh niên:
"Ta không thể yêu ai trong
các ngươi, nhưng đừng cho rằng ta cự tuyệt các ngươi. Ái ân không phải là mục
tiêu trong lẽ sống của ta; ta muốn qui y Phật. Ta sẽ đến vườn Ngài cư ngụ, và
Ngài sẽ thuyết giảng giáo pháp cho ta."
Ðau buồn, các thanh niên lặng lẽ
ra về, Xu-bờ-ra-ba đến kỳ viên. Nàng nghe Ðức Thế Tôn giảng dạy, nàng được nhận
vào giáo hội, và nàng trở thành một tỳ kheo ni tâm thành nhất.
IV- CÔNG CHÚA VI-RU-BA
Quốc vương Ba-tư-nặc có một ái
nữ tên là Vi-ru-ba (Virupa). Nàng đã đến tuổi kết hôn. Không may, nàng xấu tệ;
không một hoàng tử võ tướng nào chịu hỏi nàng làm vợ, ngay cả bọn thương gia
cũng khinh rẻ nàng.
Bấy giờ có một khách lạ giàu có
đến ngụ tại Tỳ-xá-li. Tên hắn là Găng-ga (Ganga).
Quốc vương nghĩ: "Găng-ga chưa bao giờ thấy con gái ta. Có lẽ hắn sẽ không
từ chối kết hôn với nàng". Vua triệu hắn đến hoàng cung.
Găng-ga được Ba-tư-nặc khen
ngợi, ban tặng đủ thứ. Hắn thuộc dòng thứ dân, và tuy hắn là thương gia, hắn đã
tích lũy được một tài sản kết sù, nhưng hắn chưa bao giờ mơ đến việc kết hôn
với một công chúa. Vì thế, hắn sung sướng nhận lời.
Quốc vương nói: "Thế thì
ngay tối nay, khanh hãy đến hoàng cung đưa ái nữ ta về nhà khanh".
Hắn vâng lời. Ðêm tối như mực,
hôn lễ diễn ra mà Găng-ga chả nhìn thấy dung nhan của vị hôn thê mình. Vi-ru-ba
theo chồng về nhà.
Ngày hôm sau, Găng-ga nhìn vợ,
vóc dáng xấu xí của nàng làm hắn giật mình. Hắn muốn tống cổ nàng ra khỏi nhà,
nhưng hắn không dám, hắn sợ quốc vương trả thù. Hắn giữ nàng trong nhà, nhưng
thật sự nàng là một tù nhân không hơn không kém; nàng không được phép ra ngoài
dù bất cứ lý do gì.
Nàng đau khổ lắm. Nàng luôn luôn
bày tỏ lòng thương yêu chân thành của nàng với chồng, nhưng vô ích; hắn ra mặt
gớm guốc khinh bỉ nàng. Hắn không bao giờ nhìn nàng. Hắn không bao giờ động đến
nàng nửa lời. Vi-ru-ba cảm thấy cô đơn lạc lõng.
Một hôm, Găng-ga được một số bạn
bè mời dự tiệc. Hắn được báo là: "Ai đến mà không đưa vợ theo đều sẽ bị
phạt 500 nén vàng."
Găng-ga quyết định tham dự; bữa
tiệc sẽ làm dịu bớt phần nào cuộc sống tẻ nhạt buồn chán của hắn. Nhưng hắn
không muốn trình diện Vi-ru-Ba với bạn bè; hắn sợ bị chế nhạo. Hắn nghĩ:
"Thà trả 500 nén vàng còn hơn là chúng chế riễu ta."
Ngày hôm đó, Vi-ru-ba âu sầu hơn
thường lệ. Nàng khóc, nàng biết chồng nàng đã đi đâu. Nàng tự nhủ:
"Tốt đẹp gì một cuộc sống ê
chề như ta? Ta chưa bao giờ có được một niềm an ủi. Chồng ta ruồng rẫy ta. Ta
nào có than phiền gì được chàng; ta xấu xí mà, ai ai cũng bảo ta xấu xí mà! Ta
chả mang được niềm an vui gì đến cho ai. Ồ, ta tự hận lắm! chết còn sướng hơn
là sống như thế này; chết được ngọt ngào hơn. Ta sẽ tự vận. "
Nàng lấy một sợi dây và tự treo
cổ.
Ngay lúc đó, tại Kỳ-viên, Ðức
Thế Tôn thắc mắc: "Trong thành Tỳ-xá-li hôm nay có ai đau khổ thế? Ta có
thể cứu khổ cho ai? Ta có thể giúp một tay cho kẻ nào bất hạnh?"
Nhờ oai lực nhiệm màu của Ngài,
Ngài biết Vi-ru-ba đang đau khổ. Ngài đến nhà Găng-ga và vào nhà. Vi-ru-ba còn
sống. Ðức Thế Tôn mở sợi dây mà nàng đã tự buộc chặt vào cổ. Nàng thở mạnh và
nhìn quanh. Nhận ra Ðức Thế Tôn, nàng gieo mình đảnh lễ dưới chân Ngài. Ngài
dạy:
"Này Vi-ru-ba, hãy nhìn vào
gương xem."
Vâng lời, nàng nhìn vào gương.
Nàng ngạc nhiên và sung sướng reo lên. Nàng đẹp như ngọc nữ của thiên thần.
Nàng muốn đảnh lễ Phật một lần nữa, nhưng Ngài đã ra đi.
Trong lúc đó, Găng-ga đã sai lời
giao hẹn khôi hài của bạn.
Họ hỏi hắn: "Tại sao cậu
đến mà không đưa vợ theo? Bộ cậu sợ bọn này biết mặt vợ cậu sao? Nàng hẳn là
đẹp lắm. Mày là thằng chồng ghen đáo để!"
Găng-ga lúng túng không biết trả
lời thế nào. Bữa tiệc đã làm hắn phiền muộn. Một trong những người bạn đưa cho
hắn một cốc rượu mạnh và nói:
"Găng-ga, uống đi mày! Bọn
tao thì vui cười ha hả, còn mày thì lệ tuôn tầm tã. Ðến đây mày! Hãy cười với
bọn tao. Dzô! Rượu này sẽ dạy mày biết cười."
Ðưa tay nâng cốc rượu, Găng-ga
cạn chén. Hắn trở nên tươi vui linh hoạt hẳn ra. Hắn uống nữa. Bấy giờ hơi
chuếnh choáng, hắn tiếp tục nâng cốc cho đến lúc ngủ vùi.
Bạn hắn bàn: "Trong khi nó
đang ngủ, chúng ta hãy vội sang nhà nó. Chúng ta sẽ gặp vợ nó, chúng ta sẽ khám
phá lý do tại sao nó không dám cho ai nhìn thấy mặt nàng."
Chúng vào nhà Găng-ga. Vi-ru-ba
trên tay còn cầm chiếc gương; nàng đang say sưa ngắm nghía dung nhan của nàng.
Mắt nàng sáng lên niềm hạnh phúc. Bọn khách thán phục nàng; chúng lặng lẽ trở
ra; giờ thì chúng mình biết rõ máu ghen của Găng-ga rồi ".
Găng-ga vẫn còn ngủ. Chúng đánh
thức dậy và nói:
"Bạn ơi, bạn có phúc nhỉ!
Bạn đã làm gì mà chư vị thiên thần hoan hỷ ban cho bạn một cô vợ xinh đẹp hy
hữu thế?"
Găng-ga thét lên: "Quá lắm
rồi nghe! Ông đã làm gì chúng bay mà chúng bay nhục mạ ông ác thế?"
Hắn nổi giận bỏ đi ngay. Hắn tức
chúng cành hông. Về đến nhà, hắn đạp tung cửa; hắn vừa đi vừa nguyền rủa ôm sòm
qua các phòng; nhưng, đôi môi đang văng tục chửi thề của hắn bỗng nhiên khép
lại. Hắn kinh ngạc, tái mét. Trước mặt hắn là một phụ nữ xinh đẹp tuyệt vời.
Nàng đang đon đả tươi cười. Hắn từ từ hoàn hồn; rồi hắn cũng tươi cười hỏi:
"Ồ, em đứng trước mặt anh
mà anh cứ tưởng là một nữ thần rực rỡ nào đó vừa từ hoa viên hiện đến, hỡi em
yêu quí, ai đã làm em xinh đẹp như thế?"
Vi-ru-ba kể lại sự tình cho
chồng nghe. Từ đó, nàng và chồng nàng nhận ra niềm hạnh phúc thật sự, họ tìm
mọi cơ duyên để xin qui y Phật và bày tỏ lòng biết ơn của họ đối với Ngài.
V- QUỈ KẾ CỦA CHIẾN-GIÀ
Trong lúc đó, quần chúng ra mặt
khinh bỉ hẳn bọn ẩn sĩ gian ác mà Ðức Phật đã vạch trần âm mưu lường gạt của
chúng, ý định báo thù của chúng do đó mỗi ngày một thêm căng thẳng. Chúng cùng
nhau xây dựng cơ sở gần Kỳ-viên, chúng ra sức ngày đêm rình rập, theo dõi các
hoạt động của Phật và đồ chúng của Ngài. Nhưng tất cả đều vô ích; chúng không
tìm đâu ra một kẻ hở tầm thường nhất để bôi nhọ giáo hội.
Cuối cùng, một ẩn sĩ nói với
đồng bọn hắn:
"Chúng ta đã từ lâu quan
sát hành vi của các sa môn này. Ðạo hạnh của họ không thể phủ nhận được. Tuy nhiên,
chúng ta phải xúi giục quần chúng chống lại họ, ta đã có cách. Ta quen
Chiến-già (Sinca), một thiếu nữ hấp dẫn lắm. Nàng rất có tài thực hiện quỉ kế.
Nàng sẽ không từ chối giúp ta, uy danh Thích-Ca nay mai sẽ bị tan biến.
Bọn ẩn sĩ cho mời Chiến-Già đến.
Nàng hỏi: "Các Thầy gọi con
có việc chi?"
"Con biết tên sa môn ở
Ca-tỳ-la-vệ chứ, người được quần chúng Tôn thờ là Phật đó?"
"Chưa biết, nhưng con nghe
nói tiếng tăm Ngài lừng lẫy lắm. Người ta bảo Ngài làm được vô số phép màu
huyền diệu."
"Chiến-già, hắn là kẻ thù
cay nghiệt nhất của các thầy. Hắn hạ nhục các thầy, hắn muốn tiêu diệt quyền
năng của các thầy. Nào, con tin các thầy; hãy đến đây, hãy đứng về phía các
thầy. Cô nào hàng phục được người chinh phục, cô ấy sẽ được vô vàn hãnh diện;
cô ấy sẽ được vang danh trong giới nữ nhi, cô ấy sẽ được cả thế giới lên tiếng
ca ngợi."
Chiến-già bị lời lẽ đường mật
của bọn ẩn sĩ lôi cuống. Nàng tin chắc là mai đây Ðức Phật sẽ bị ô nhục, tên
tuổi của Ngài sẽ bị nguyền rủa khắp mặt địa cầu.
Bấy giờ, ngày ngày nàng đến Kỳ
viên, mỗi khi thấy tín đồ nghe Ðức Thế Tôn thuyết pháp sắp ra về, nàng diện một
bộ đồ màu hồng rực rỡ, hai tay ôm một bó hoa. Và nếu có ai tình cờ hỏi nàng:
"Cô đi đâu đó!" nàng đáp: "Việc gì đến người mà người hỏi?"
Khi đến Kỳ viên, nàng chờ tới lúc vắng vẻ, chỉ còn một mình nàng; rồi thay vì
vào trú xứ của Phật, nàng lại thẳng đến nơi cư ngụ của bọn ẩn sĩ gian ác. Nàng
ngủ đêm tại đó, nhưng tảng sáng là nàng quay lại cổng Kỳ viên, đến khi gặp mặt
tín đồ dậy sớm đi lễ Phật cúng dường thì nàng mới đủng đỉnh ra về. Và có ai
hỏi: "Cô đi đâu về sớm thế?" nàng đáp: "Việc gì đến người mà
người hỏi?"
Cuối tháng, nàng đổi cách trả
lời. Chiều đến, nàng nói: "Tôi đến Kỳ-viên, nơi Ðức Thế Tôn đang chờ
tôi". Sáng ra, nàng nói: "Tôi vừa từ Kỳ-viên về, nơi tôi đã ngủ đêm
với Ðức Thế Tôn". Thế là một số người khờ khạo, nhẹ dạ tin nàng, nghi ngờ
Ðức Thế Tôn bất tịnh.
Sáu tháng sau, nàng lấy một khổ
vải quấn quanh bụng. Người ta nghĩ: "Nàng có thai". Và bọn người nông
cạn đần độn kia khăng khăng cho rằng đạo hạnh của Ðức Thế Tôn chỉ là sự giả vờ.
Chín tháng trôi qua, nàng nịt
một trái banh gỗ ngay trước bụng, nàng đi đứng ra vẻ uể oải nặng nề. Cuối cùng,
một hôm nọ, nàng vào thẳng giảng đường Ðức Thế Tôn đang thuyết pháp. Nàng bạo
dạn ngồi đối diện và cất tiếng sang sảng cắt ngang lời Ngài:
"Ngài thuyết giảng giáo
pháp cho quần chúng lời lẽ ngọt như đường mật. Còn em, mang thai với Ngài, sắp
làm mẹ trong nay mai, thì không có đến một nơi nằm chỗ! Ngay cả dầu mỡ em cần
Ngài cũng lờ luôn. Nếu Ngài sợ xấu hổ không lo cho em thì ít ra Ngài cũng có
thể gởi em cho một đệ tử nào của Ngài chứ; quốc vương Ba-tư-nặc, hay trưởng giả
Cấp-cô-độc chẳng hạn. Nhưng không! Ngài chả đếm xỉa gì đến em, và cũng chả lo
lắng gì cho đứa con sắp ra đời! Ngài chỉ biết vui hưởng ái tình mà cóc cần cưu
mang trách nhiệm!"
Ðức Thế Tôn thản nhiên hỏi:
"Này Chiến-già, ngươi nói thật hay vu khống đó? Chỉ có ta và ngươi biết
thôi."
Chiến-già gào lên: "Ngài
biết rõ quá mà, em đâu có nói láo".
Ðức Thế Tôn vẫn bình tĩnh.
Chiến-già hầm hầm đứng phắt dậy và định xông đến Ngài, nhưng vì thở mạnh quá
nên làm đứt sợi dây buộc trái banh gỗ. Trái banh rơi đạch xuống đất.
Ðức Thế Tôn cười, nói: "Ðó,
con của ngươi sanh rồi đó!".
Ðồ chúng giận dữ ùa đến
Chiến-già. Họ nguyền rủa và định khạt nhổ nước bọt vào mặt nàng thì nàng cắm
đầu chạy mất. Nàng vừa khóc, vừa đau, vừa nhục, vừa hận. Nàng cắm đầu chạy mà
không biết chạy về đâu. Bỗng nhiên, lửa dữ bừng cháy hừng hực phủ trọn lấy thân
nàng, và nàng, kẻ vu khống Phật, đã bị tàn rụi trong ngọn lửa ác nghiệt khủng
khiếp.
VI- PHẬT THUẦN PHỤC TRÂU ÐIÊN
Ðức Thế Tôn rời Kỳ-viên. Ngài
dừng chân tại các thành thị, thôn quê để thuyết giảng giáo pháp, nhiều người đã
bày tỏ lòng tín ngưỡng chân thành và xin qui y Ngài.
Một hôm, có một cặp vợ chồng già
thỉnh Ðức Thế Tôn thọ trai với họ.
Cụ ông nói: "Bạch Ðức Thế
Tôn, chúng con đã từ lâu ước mong nghe được lời Ngài. Giờ đây chúng con sung
sướng lắm, chúng con sẽ hiểu rõ những sự thật cao quí, và trong số thân hữu của
Ngài, Ngài sẽ thấy mấy ai thuần thành hơn chúng con."
Ðức Phật đáp: "Ta không lấy
gì làm ngạc nhiên, ngươi và ta đã là bà con thân thích ở nhiều đời nhiều
kiếp."
Cụ bà nói: "Bạch Ðức Thế
Tôn, chồng con và con đã sống với nhau từ thuở còn xuân; nay thì chúng con đã
đến tuổi chín mùi. Cuộc sống đã thắt chặt tình yêu nồng thắm của chúng con.
Chưa bao giờ chúng con có đến một lời to tiếng. Chúng con vẫn yêu nhau như ngày
còn son trẻ, và bóng chiều tàn của đời chúng con vẫn ngọt ngào như ánh bình
minh vừa ló dạng. Bạch Ðức Thế Tôn, xin Ngài cứu độ chúng con ở kiếp sau cũng yêu
nhau tha thiết như ở kiếp này."
Ðức Thế Tôn nói: "Ðược rồi;
chư thiên đã che chở các ngươi!"
Ngài tiếp tục lên đường. Ngài
thấy một cụ bà đang xách nước ở một cái giếng bên lề đường. Ngài đến gần bà và
nói:
"Ta khát lắm, cụ vui lòng
cho ta uống một ít nước được không?"
Cụ bà trố mắt nhìn Ngài. Bà xúc
động vô vàn. Bà rưng rưng muốn khóc. Bà muốn ôm hôn Ðức Thế Tôn, nhưng bà sợ.
Nước mắt chảy dài trên hai gò má nhăn nheo của bà.
Ðức Thế Tôn nói: "Hãy ôm
hôn ta đi!"
Cụ bà chạy ôm choàng vào hai
cánh tay của Ngài. Bà thều thào nói:
"Nay thì con có thể chết
một cách sung sướng. Con đã gặp Ðức Thế Tôn. Con đã được ôm hôn Ngài."
Ngài lại đi. Ngài đến một cánh
rừng rộng bao la, tại đó có một bầy trâu sinh sống với bọn mục đồng. Trong số
đó có một con lực lưỡng và hung hăng lắm. Nó chỉ chịu kẻ chăn nó, người lạ đến
là nó tấn công ngay. Mỗi khi người lạ đến gần, nó gằm sừng xốc tới và thường
gây thương tích trầm trọng cho người. Ðôi lúc nó còn giết chết người ấy nữa.
Bọn mục đồng thấy Ðức Thế Tôn
đang bình thản đi tới, chúng la lên:
"Ai đi đó, hãy coi chừng!
Ðừng đến gần chúng tôi, ở đây có trâu dữ".
Thình lình, con trâu ngước đầu,
khịt mũi khì khì; rồi nó gằm sừng nhào đến Ðức Thế Tôn. Bọn mục đồng run cầm
cập. Chúng kêu lên: "Bọn mình quát thế mà người ấy không nghe".
Nhưng, bỗng nhiên, con vật đứng khựng lại; nó quì mọp trước mặt Ðức Thế Tôn và
le lưỡi liếm chân Ngài, đôi mắt nó hiện rõ nét van xin cầu khẩn.
Ðức Thế Tôn âu yếm vuốt ve con
trâu, Ngài nhỏ nhẹ nói với nó:
"Con hãy tự nhủ rằng mọi
vật trên đời đều phù du ngắn ngủi, rằng an lạc êm đềm chỉ được thấy ở niết bàn.
Ðừng khóc. Hãy tin ta, hãy tin vào lòng từ bi lân mẫn của ta, rồi con sẽ hóa
kiếp. Con sẽ không còn đầu thai giữa loài súc sanh, con sẽ được sanh lên cõi
trời với các chư thiên."
Từ hôm đó, con trâu rất mực hiền
ngoan. Còn bọn mục đồng thì hết lòng thán phục, cung kính cúng dường lễ vật Ðức
Thế Tôn. Chúng được Ngài trao truyền giáo pháp và trở thành những môn đệ trung
kiên trong giới môn đệ trung kiên nhất của Ngài.
VII- SỰ RẠN NỨT GIỮA TĂNG ÐOÀN
Ðức Thế Tôn đến thành
Kiều-thưởng-di (Kausambi). Ở đó, lúc đầu, ngài rất lấy làm hoan hỷ. Dân chúng
nhiệt tình nghe theo lời Ngài, nhiều người đã trở thành sa môn. Quốc vương
Ưu-đà-diên (Udayana) là một trong số những tín đồ thuần thành, Ngài cho phép con
trai Rát-tra-ba-la (Rashtrapala) xuất gia theo đại chúng.
Tuy nhiên, cũng ngay tại thành
Kiều-thưởng-di này mà Ðức Thế Tôn đã gặp phải một trong những nỗi buồn da diết.
Ngày nọ, một sa môn bị khiển trách về tội vi phạm một lỗi lầm nho nhỏ. Thầy
không tự nhận lỗi nên bị phạt. Thầy lại không chấp nhận sự xử phạt, và vì thầy
là người vui tính, thông minh lanh lợi, học rộng nhớ nhiều, nên có nhiều người
theo phe thầy. Các thầy khác đã hoài công van xin thầy trở về chánh đạo.
Họ nói với thầy: "Ðừng tỏ
vẻ kiêu ngạo, đừng tự cho mình không vấp phải lỗi lầm. Hãy nghe lời chúng tôi.
Hãy bày tỏ tâm tình với các thầy khác, vì họ cùng chung chí hướng thầy; họ cũng
sẽ bộc lộ tâm tình với thầy, vì thầy cũng cùng một tín ngưỡng như họ. Nếu như
các thầy nghe lời nhau, giáo hội sẽ lớn mạnh, giáo hội sẽ hưng thịnh."
Thầy ấy đáp: "Tôi không cần
thầy dạy tôi những điều phải trái. Xin đừng trách tôi".
"Ðừng nói thế. Ngôn ngữ của
thầy không hợp với giáo pháp. Thầy đanh đi ngược với giới luật; thầy đang gieo
cấy mầm mống bất hòa trong giáo hội. Ði thầy, hãy sửa lại phong cách ăn ở. Hãy
sống an hòa với đại chúng. Hãy tránh cãi vã, hãy thành tín với giáo pháp".
Vô ích! Ðại chúng quyết định
trục xuất kẻ ương ngạnh, nhưng, một lần nữa, thầy ấy vẫn không nghe. Thầy ấy
vẫn còn trong giáo hội: thầy ấy ngu muội quá, khỏi cần phải xử phạt gì nữa.
Cuối cùng, Ðức Thế Tôn đã đứng
ra thu xếp. Ngài cố gắng khuyên giải các thầy sa môn; Ngài cầu mong các thầy
hãy quên đi bao nỗi bất hòa, hãy cùng nhau tu tập êm đềm như xưa, nhưng chả ai
để ý đến Ngài. Rồi một hôm, một sa môn còn bạo dạn đến bạch Phật:
"Bạch Ðức Thế Tôn, xin Ngài
hãy để yên, xin đừng nói gì cả. Ngài đã giác ngộ chánh pháp, xin Ngài hãy định
tâm vào chánh pháp. Ngài sẽ an vui trong cảnh định. Còn chúng tôi, chúng tôi sẽ
biết hướng đi của chúng tôi; chúng tôi tranh cãi nhưng không phải không tìm ra
phương hướng. Ngài hãy thiền định và xin đừng nói gì cả".
Ðức Thế-Tôn không hề nổi giận.
Ngài cố khuyên giải nhưng không được. Ngài thấy là Ngài không thể thuyết phục
được các sa môn ở Kiều thưởng di; họ hình như bị một vài cơn điên đột khởi nào
đó dẫn dắt. Ðức Thế Tôn quyết định từ giã họ, nhưng trước tiên Ngài nói với họ:
"Hạnh phúc thay cho ai có
được người bạn chân tình; hạnh phúc thay cho ai có được người bạn sáng suốt.
Chướng ngại nào mà hai bạn tài đức không thể vượt qua? Người không có bạn tâm
giao khác nào vua không có đất nước: phải lang thang phiêu bạt trong cô đơn hiu
hắt như thớt voi già trong cánh rừng hoang. Nhưng thà đi một mình còn hơn là
chung sống với kẻ ngu muội. Người trí phải một đường một bóng; người trí phải
tránh xa ác đạo; người trí phải giữ gìn thanh tịnh như thớt voi già trong cánh
rừng hoang."
Ngài ra đi. Không ai cố gắng giữ
Ngài lại. Ngài đến một ngôi làng mà Ngài biết là Ngài sẽ tìm ra Bờ-ri-gu, một
môn đệ của Ngài, Bờ -ri-gu rất sung sướng gặp lại Ngài và Ðức Thế Tôn cũng được
an ủi bội phần. Sau đó, A-nậu-lâu-đà, Nan-đà và Kim-tỳ-la cùng theo Ngài. Họ
hết lòng cung kính và an ủi Ngài, họ cùng nhau chung sống êm đềm. Ðức Thế Tôn
nghĩ: "Trong giới đệ tử của ta, ít ra cũng có một số yêu quí ta và thuận
hòa như thế."
Một hôm, nhân lúc ngồi nghỉ mát
dưới một tàng cây, Ngài chợt nhớ lại những phút giây xáo trộn ở Kiều-thưởng-di
thì có một đàn voi dừng chân để nghỉ gần đó. Voi chúa xuống sông lấy nước mang
về cho những voi khác. Chúng uống no nê; rồi thay vì cảm ơn voi chúa đã lấy
nước cho uống, chúng lại ngược đãi nó, chúng vung vòi đánh đập nó, và cuối
cùng, chúng đuổi nó đi. Ðức Thế Tôn thấy tình cảnh của Ngài chả khác gì tình
cảnh của voi chúa kia: cả hai đều là nạn nhân của sự vô ơn bạc nghĩa thô bạo.
Voi chúa nhận thấy nét buồn hiện rõ trên khuôn mặt Ngài, nó đến gần, nhìn Ngài
một cách trìu mến; rồi nó lặng lẽ bỏ đi, đi tìm thức ăn nước uống cho Ngài.
Ðức Thế Tôn sau cùng trở về
Xá-vệ và an trú tại Kỳ-viên.
Nhưng Ngài vẫn đau buồn nghĩ đến
các sa môn thô ác ở Kiều-thưởng-di. Rồi, bỗng dưng, một hôm nọ, Ngài thấy họ
vào Kỳ-viên. Trông họ âu sầu thê thảm: họ không được mọi người cúng dường, ai
ai cũng phẫn uất về sự ngược đãi Ðức Thế Tôn của họ. Họ đến để xin Ngài tha lỗi.
Vị sa môn phạm tội cũng tự sám hối lỗi lầm của mình, và hình phạt của thầy cũng
nhẹ nhàng thôi. Các bạn thân sơ của thầy đều nhận khuyết điểm. Mọi người tuyên
hứa nghiêm trì giới luật. Ðức Thế Tôn hoan hỷ lắm: giáo hội không còn ồn ào rạn
nứt nữa.
VIII- VŨ NỮ CU-VA-LA-DA
Một hôm, Ðức Thế Tôn về nước
Xá-vệ.
Ngài nhắm đến một người
Bà-la-môn tên Ba-rát-va-gia (Bharadvaja) ở trên một cánh đồng cách thành không
xa. Nhằm mùa gặt hái, người Bà-la-môn và những kẻ giúp việc của ông đang tổ
chức ăn mừng linh đình. Họ vui cười ca hát khi thấy Ðức Thế Tôn đi qua. Ngài
đưa bát khất thực, những ai nhận ra Ngài đều cung kính đón chào và cúng dường
Ngài nhiều lễ vật. Ba-rát-va-gia thấy vậy không hài lòng. Ông đi thẳng đến Ðức
Thế Tôn và lớn tiếng nói:
"Ông đạo, mời ông đi ngay
cho; ông làm gương xấu cho mọi người. Ở đây chúng tôi đang làm việc, chúng tôi
đang theo dõi, quan sát những chuyển biến của mùa màng. Ðến lúc cày, người nhà
của tôi cày; đến lúc gieo, người nhà chúng tôi gieo; tôi cùng cày gieo với họ.
Rồi đến mùa, chúng tôi thu hoạch thành quả lao động của chúng tôi. Chúng tôi tự
cung cấp lương thực cho chúng tôi; đến khi mọi việc xong xuôi, chúng tôi tha hồ
nghỉ ngơi, vui vẻ. Trong khi ông, ông lang thang khắp nẻo phố phường, ông lê la
cùng đường cùng xóm, ông chỉ mệt một chút là gặp ai ông cũng chìa bình bát ra.
Tốt hơn là ông nên lao động; ông nên cày bừa gieo hạt mà ăn".
Ðức Thế Tôn mỉm cười đáp:
"Này bạn, ta cũng cày bừa
gieo hạt như bạn, khi công việc làm xong, ta dùng bữa".
Ba-rát-va-gia nói: "Ông mà
cày bừa gieo hạt à? Làm sao ta có thể tin được chuyện đó? Trâu bò của ông đâu?
Hạt giống của ông đâu? Cày bừa của ông đâu?"
Ðức Thế Tôn đáp:
"Hiểu biết trong sạch là
hạt giống tuyệt vời mà ta gieo trỉa. Tu tập thánh thiện là mưa lành tưới trên
mặt đất phì nhiêu, hạt giống sẽ đâm chồi nảy lộc, đơm hoa kết trái và già chín
trên đó. Ta cầm cày kiên cố: lưỡi cày là trí tuệ, chuôi cày là giáo pháp, thành
tín là con bò thiến khỏe mạnh kéo cày. Ta cày đến đâu là ái dục trốc gốc như cỏ
phơi trên đồng đến đó, và sản phẩm vụ mùa ta thu hoạch chính là niết bàn".
Ngài tiếp tục lên đường. Nhưng
người Bà-la-môn Ba-rát-va-gia cứ lững thững theo sau Ngài; ông muốn nghe được
lời cao quí.
Vào thành, Ðức Thế Tôn và ông
thấy quần chúng đang chăm chú thưởng thức các tiết mục trình diễn của đoàn vũ
công tại một công viên. Ái nữ của trưởng đoàn là người hấp dẫn đặc biệt. Họ ít
khi thấy một vũ nữ nào duyên dáng xinh đẹp như thế; mỗi khi nàng xuất hiện,
những ai không dằn được lòng ham muốn dễ nổi máu chiếm đoạt nàng. Tên nàng là
Cu-va-la-da (Kuvalada).
Nàng vừa vũ xong, bao ánh mắt
nóng bỏng còn dính chặt vào người nàng. Nàng biết tài năng của nàng, nàng bạo
dạn và cao ngạo lắm, nàng lớn tiếng gọi đám ông:
"Khâm phục ta chứ, quí vị!
Trong cả thành Vương-xá, còn ai đẹp hơn ta, thậm chí có ai bằng ta?"
Người bà-la-môn Ba-rát-va-gia
đáp: "Vâng, thưa cô nương. So với vẻ đẹp của Ðức Thế Tôn thì sắc diện của
cô nương đã thấm vào đâu?"
Cu-va-la-da nói: "Ta muốn
xem vẻ đẹp của Ðức Thế Tôn mà ngươi ca ngợi, làm ơn đưa ta đến gặp Ngài."
Ðức Thế Tôn nói: "Ðây, Ngài
ấy đây."
Ðức Thế Tôn bước tới trước.
Vũ nữ trố mắt nhìn Ngài.
Sau cùng nàng nói: "Ngài
đẹp quá, con sẽ vũ cho Ngài xem."
Cu-va-la-da bắt đầu vũ, điệu vũ
khởi đầu từ từ. Nàng choàng quanh người và phủ lên mặt nàng những tấm vải the
rực rỡ, vẻ đẹp của nàng trước kia sắc sảo kiêu kỳ bấy nhiêu thì giờ đây chỉ còn
là một hứa hẹn lờ mờ. Nàng trông như mặt trăng ẩn hiện trong những ánh mây bàng
bạc trong đêm. Một áng mây trôi qua, hiện ra một tia sáng yết ớt. Ðiệu vũ mỗi
lúc một dồn dập nhanh hơn; từng tấm vải the rơi dần, hằng nga xuất hiện trong
ánh trong ngần rực rỡ của nàng. Nàng đang xoay vũ tít người thì, bỗng dưng một
tia sáng chói lòa đập vào mắt nàng, nàng dừng lại. Nàng thoát y trọn vẹn. Ðám
đông ngẹt thở, ùa tới trước.
Ðức Phật nói: "Cô ấy khốn
khổ thay!"
Ngài chăm chăm nhìn nàng. Bấy
giờ đôi má của Cu-va-la-da sệ xuống, vầng trán của nàng nhăn nheo và đôi mắt
của nàng mờ đục hẳn. Trong miệng chỉ còn lại một vài cái răng xấu xí, trên đầu
còn một vài loạn tóc lơ phơ bạc trắng, nàng già nua lụ khụ. Ðức Thế Tôn quở
nàng như xưa kia Ngài đã quở đám con gái của Ma-vương khi chúng cố quyến rũ
Ngài. Ngài đã biến ả vũ nữ diễm kiều thành một mụ già hóm hém.
Nàng thở dài:
"Bạch Ðức Thế Tôn, con đã
nhận ra những lỗi lầm nghiêm trọng của con. Sắc đẹp phù du chả giúp con được
gì. Ngài đã dạy con một bài học cay đắng, nhưng con nghĩ là ngày kia con sẽ
sung sướng đón nhận nó. Xin Ngài thuyết giảng cho con những sự thật cao quí;
con nguyện vĩnh viễn giải thoát thân này, dù nó mua vui thiên hạ đến đâu, nó cũng
chỉ là một xác thân gớm guốc".
Ðức Thế Tôn nhận lời thỉnh
nguyện của Cu-va-la-da, nàng trở thành một trong những đệ tử thuần thành nhất
trong giới môn đệ thuần thành của Phật.
IX- PHẬT ÐỘ HUNG THẦN A-LA-VA-CA
Tại thành A-ta-vi (Atavi) có một
vị vua rất ham mê săn bắn. Một hôm, vừa thấy một con nai to, ngài đuổi theo
ngay. Con nai chạy lẹ quá, và vì quyết đuổi theo con nai, nhà vua lạc xa các
tay săn khác. Cuối cùng, con mồi chạy mất. Mệt mỏi, chán nản, nhà vua ngồi tựa
vào một gốc cây, thiếp ngủ lúc nào không biết.
Bấy giờ hung thần A-la-va-ca
(Alavaka) ở trên cây hiện xuống. Hắn thích ăn thịt người, hắn sát hại và ngấu
nghiến tất cả những ai đến gần hắn. Thấy nhà vua, hắn ra mặt hớn hở; vì vua ham
mê săn bắn khốn nạn kia sắp bị một quả đấm ác liệt thì, may thay, một tiếng
động làm ngài thức dậy. Thấy mạng sống của mình bị đe dọa, nhà vua gượng đứng
lên, nhưng hung thần đã tóm cố ngài quật xuống. Nhà vua hết lòng van xin:
"Thưa ngài, xin ngài tha
mạng cho con. Nhìn vóc dáng dễ sợ của ngài, con biết ngài là một hung thần ăn
thịt người. Thưa ngài, xin ngài thương con. Con sẽ không bao giờ quên ơn ngài.
Con sẽ dâng ngài những lễ vật tuyệt diệu".
A-la-va ca đáp: "Ta không
cần lễ vật! Ta muốn ăn thịt người; ta đói lắm rồi".
Nhà vua đáp: "Thưa ngài,
cho con về A-ta-vi, con sẽ dâng ngài mỗi ngày một người để ngài xơi thịt".
"Khi ngươi về nhà, ngươi sẽ
quên lời hứa".
Nhà vua đáp: "Không, con
không bao giờ quên lời. Hơn nữa, nếu như con không dâng ngài lễ vật hằng ngày,
ngài cứ đến thẳng hoàng cung của con mà nguyền rủa, con sẽ theo ngài, ngài sẽ
ăn tươi nuốt sống con".
Hung thần tha cho, nhà vua trở
về thành A-ta-vi. Nhưng ngài mãi lo nghĩ về lời hứa ác nghiệt của mình; không
có cách nào để tránh, ngài buộc phải mang danh là một vị vua hung tàn bạo
ngược.
Ngài triệu quan tể tướng và
trình bày sự việc đã xảy ra. Suy nghĩ trong giây lát, quan tể tướng tâu vua:
"Tâu bệ hạ, trong ngục
A-ta-vi có nhiều tội nhân bị kết án tử hình. Chúng ta có thể nộp chúng cho hung
thần. Khi thấy bệ hạ giữ lời hứa với hắn, biết đâu hắn sẽ miễn giảm cho
ngài."
Vua chấp thuận lời đề nghị. Ngài
ra lệnh cho vệ binh đến khám đường nói với các tên tử tù đã được ấn định từng
ngày rằng:
"Cách thành không xa, trên
cây đại thọ có một thiên thần rất thích cơm gạo. Ai đến dâng ngài một đĩa cơm
dưới gốc cây thì sẽ được ân xá".
Sau đó, mỗi ngày, lần lượt từng
người hân hoan bê một đĩa cơm đến đặt dưới cây và không bao giờ trở lại.
Bấy giờ, không còn một tên tử tù
nào trong ngục. Quan tể tướng ra lệnh cho các biện lý án sát triệt để khiêm
khắc, không tha bất cứ một tên tù nào bị truy tố là sát nhân, trừ phi có bằng
chứng hiển nhiên là vô tội, nhưng cũng vô ích thôi; họ phải tìm ra biện pháp
khác để thõa mãn hung thần. Họ bắt đầu hy sinh những tên trộm cướp.
Dù họ ra sức kết tội thế nào thì
ngục tù cũng lại trống rỗng, nhà vua và quan tể tướng buộc phải tìm các nạn
nhân trong đám dân cư lương thiện trong thành. Các cụ già bị tóm cổ đưa tới gốc
cây trước, và nếu các vệ binh không nhanh chân thì hung thần có lúc cũng ngấu
nghiến họ như các nạn nhân.
Tình cảnh đen tối âu lo bao trùm
cả thành A-ta-vi. Các cụ già biến dần đâu hết; không ai hay biết việc gì đã xảy
đến cho họ. Và, mỗi ngày, nỗi ân hận của vua lại càng tăng thêm chua xót. Nhưng
ngài không đủ can đảm hy sinh đời mình cho quốc dân hạnh phúc. Ngài nghĩ:
"Sẽ không ai đến giúp ta
sao? Ta nghe nói, khi thì ở Xá-vệ, khi thì ở Vương-xá, có một người quyền năng
cao siêu, đó là Ðức Phật mà thần thông diệu dụng của Ngài đã được mọi người Tôn
vinh ca ngợi. Họ bảo Ngài thích vân du đây đó. Vậy sao Ngài không đến vuơng
quốc của ta?"
Nhờ uy lực nhiệm màu của Ngài,
Ðức Phật biết rõ nguyện vọng của nhà vua. Ngài đến thẳng cây đại thọ của
A-la-va-ca. Ngài ngồi yên tại đó.
Vừa thấy Ngài, hung thần tức tốc
hầm hầm đi tới, nhưng, bỗng nhiên, hắn mất hết nghị lực, hai đầu gối của hắn
run cầm cập. Hắn lên cơn thịnh nộ.
Hắn giận dữ hỏi: "Ngươi là
ai?"
Ðức Phật đáp: "Người có
quyền năng vượt hẳn ngươi."
A-la-va-ca giận tím mặt. Hắn
muốn xé người đang ngồi trên đất trước mặt hắn, người mà hắn không thể nào xúc
phạm; hắn muốn hành hạ Ngài cho đến chết. Ðức Phật vẫn ngồi an nhiên tự tại.
A-la-va-ca cuối cùng tìm cách tự
trấn tỉnh. Hắn nghĩ bạo lực không thắng nổi, quỉ kế có lẽ thành công hơn, hắn
lên giọng vui vẻ nói:
"Thưa Ngài, ta thấy Ngài là
một nhà thông thái; hân hạnh cho ta là luôn luôn được hầu chuyện với các nhà
thông thái. Ta hỏi họ bốn điều. Nếu đáp được, họ tự do ra về; nếu không đáp
được, họ phải ở lại trong ngục tù ta, và ta sẽ ngấu nghiến họ khi nào
cần".
Ðức Phật nói: "Thử hỏi ta
bốn điều xem."
A-la-va-ca nói: "Ta phải
báo cho ngươi biết là chưa có ai đáp được bốn điều đó. Ngươi sẽ thấy rải rác
quanh đây những mảnh xương người mà ta đã hỏi họ trong quá khứ".
Ðức Phật lập lại: "Hãy thử
hỏi bốn điều gì xem."
A-la-va-ca nói: "Thế thì,
làm sao nhân loại có thể tránh khỏi dòng sông ái dục? Làm sao nhân loại có thể
vượt qua biển cả sanh tử, tìm thấy bến bờ an lành? Làm sao nhân loại có thể
thoát khỏi bão tố ác trược? Làm sao nhân loại có thể không bị giông gió tham
nhiễm?"
Ðức Phật ôn tồn đáp:
"Nếu qui y Phật, qui y
Pháp, qui y Tăng thì nhân loại tránh khỏi dòng sông ái dục; nếu hiểu được việc
thiện thì nhân loại vượt qua biển cả sanh tử, tìm thấy bến bờ an lành; nếu làm
được việc thiện thì nhân loại thoát khỏi bão tố ác trược; nếu biết thánh đạo
dẫn đến giải thoát thì nhân loại không bị giông gió tham nhiễm."
Nghe lời đáp của Ðức Thế Tôn,
A-la-va-ca hết lòng Tôn kính, cuối đầu đảnh lễ dưới chân Ngài và tuyên hứa thay
đổi cách sống man rợ của y. Sau đó, Ðức Thế Tôn và A-la-va-ca cùng đến thành
A-ta-vi, đến thẳng cung điện của nhà vua.
Hung thần nói: "tâu bệ hạ,
nay ta hủy bỏ lời giao ước với ngài."
Nhà vua sung sướng hơn bao giờ
hết. Ðến lúc biết được người cứu mình, nhà vua reo lên:
"Bạch Ðức Thế Tôn, con xin
qui y Ngài, Ngài đã cứu con và cứu cả quốc dân con; con xin qui y Ngài, con sẽ
dâng hiến đời con cho việc xiển dương Tam bảo, xiển dương ánh sáng huy hoàng
rực rỡ của Phật và Thánh tăng."
X- ÐỀ-BÀ-ÐẠT-ÐA BỊ TRỤC XUẤT KHỎI
GIÁO HỘI
Sa môn Ðề-bà-đạt-đa là người
tính khí rất kiêu mạn. Y không chịu ai chi phối. Y có tham vọng thay thế Phật,
nhưng y biết các sa môn không ai muốn theo y nổi loạn. Vì thế, y cần đến sự hậu
thuẫn của vua chúa hay hoàng tử.
Một hôm, y tự bảo lòng:
"Quốc vương Tần-bà-sa-la già rồi; hoàng tử A-xà-thế trẻ trung, dũng cảm,
hằng mong thay cha lên ngôi. Ta có thể khuyên hoàng tử chiếm lấy ưu thế, và rồi
chàng có thể đến giúp ta thống lãnh giáo hội."
Y đến gặp A-xà-thế. Y tâng bốc
chàng đủ điều; y ca ngợi chàng nào là khỏe mạnh, can trường, hào hoa phong
nhã!...
Y nói: "Ồ, nếu hoàng tử là
vua, ánh vinh quang rực rỡ sẽ đến cho Vương-xá này biết bao! Hoàng tử sẽ chinh
phục các nước lân cận; tất cả vua chúa trên thế giới sẽ thần phục ngài: ngài sẽ
là đương kim hoàng đế, ngài sẽ được tôn thờ như một thiên thần."
Bằng lời lẽ đường mật,
Ðề-bà-đạt-đa đã chiếm trọn lòng tin yêu của A-xà-thế. Y nhận được nhiều bảo vật
và lên mặt kênh kiệu hẳn ra.
Mục-kiền-liên thấy Ðề-bà-đạt-đa
thường lui tới với hoàng tử. Thầy quyết định báo cho Ðức Thế Tôn biết.
Tôn giả thưa: "Bạch Ðức Thế
Tôn, Ðề-bà-đạt-đa rất thân thiện với hoàng tử A-xà-thế".
Ðức Thế Tôn ngắt lời thầy:
"Hãy mặc cho Ðề-bà-đạt-đa
làm gì tùy ý; rồi đây chúng ta sẽ biết sự thật. Ta biết A-xà-thế quí trọng
Ðề-bà-đạt-đa lắm; điều đó không giúp cho y tiến thêm bước nào trên đường đạo
hạnh. Hãy mặc cho Ðề-bà-đạt-đa tha hồ kiêu mạn! Nó sẽ đốt cháy y lúc nào không
chừng. Một khi chuối ra trái, tre lên măng, thế là chúng sắp tàn; những vinh dự
mà Ðề-bà-đạt-đa đang thọ hưởng cũng sẽ chóng tàn như thế đó."
Tính kiêu mạn của Ðề-bà-đạt-đa
không mấy chốc đã lên đến tột đỉnh. Y không thể chịu nỗi sự tôn kính dành cho
Ðức Phật, và một hôm, y đánh bạo thưa Ngài.
"Bạch Ðức Thế Tôn, ngài nay
tuổi tác khá cao, khó khăn lắm Ngài mới điều khiển nổi tăng đoàn; Ngài nên nghỉ
đi thôi. Hãy an tâm quán tưởng giáo pháp tối thượng mà Ngài đã khám phá, còn
giáo hội xin để tôi gánh vác."
Ðức Thế Tôn mỉm cười:
"Này Ðề-bà-đạt-đa, đừng bận
tâm đến ta làm gì; ngươi tử tế quá. Ta sẽ biết lúc nào ta nghỉ. Hiện nay, ta
còn điều khiển được giáo hội. Hơn nữa, khi thời điểm đến, ta còn không giáo
quyền thống lĩnh tăng đoàn cho Xá-lợi-Phất hay Mục-kiền-liên, những bậc trí tuệ
minh mẫn như ngọn đuốc sáng ngời, còn ngươi, này Ðề-bà-đạt-đa, sự hiểu biết của
ngươi tầm thường quá, trí tuệ của ngươi không sánh bằng ánh đèn leo lét trong
đêm!"
Ðề-bà-đạt-đa cung kính đảnh lễ
Ðức Thế Tôn nhưng y không thể dấu được ánh lửa sân hận đang bừng cháy trong đôi
mắt y.
Ðức Thế Tôn sau đó mời tôn giả
Xá-lợi-Phất đến.
Ngài nói: "Này Xá-lợi-Phất,
hãy đi khắp thành Vương-xá và lớn tiếng thông báo rằng: "Hãy coi chừng
Ðề-bà-đạt-đa! Y đã ra ngoài chánh đạo. Ðức Phật không chịu trách nhiệm về ngôn
ngữ và hành động của y; giáo pháp không còn nhằm nhò gì với y, giáo hội không
còn dính dáng gì với y nữa. Vì thế, Ðề-bà-đạt-đa muốn nói gì tùy ý".
Thật là khổ cho Xá-lợi-phất phải
làm một việc đau buồn; nhưng, hiểu ý Ðức Thế Tôn, tôn giả đi khắp thành công bố
điều ô nhục của Ðề-bà-đạt-đa. Dân chúng dừng lại để lắng nghe, một số suy nghĩ:
"tăng đoàn đố kỵ Ðề-bà-đạt-đa kết thân với hoàng tử A-xà-thế." Nhưng
số khác nói:
"Ðề-bà-đạt-đa đã phạm phải
một lỗi lầm nghiêm trọng nên Ðức Thế Tôn mới công khai tẫn xuất y như
vậy."
XI- MƯU ÐỒ CỦA A-XÀ-THẾ
Ðề-bà-đạt-đa đang trầm tư suy
nghĩ:
"Tất-đạt-đa muốn hạ nhục ta
bằng cách xem thường trí tuệ của ta. Ta sẽ vạch trần lỗi lầm của hắn cho hắn
thấy. Uy danh của ta rồi đây sẽ làm lu mờ ánh huy hoàng của hắn; ngọn đèn đêm
sẽ thành ánh mặt trời. Nhưng vua Tần-bà-sa-la là bạn thân của hắn; vua sẽ bao
bọc che chở hắn. Bao lâu nhà vua còn sống là ta chả làm ăn được gì. Trái lại,
hoàng tử A-xà-thế là người tôn vinh kính trọng ta, chàng đặt hết tin tưởng vào
ta, nếu chàng lên ngôi, ta sẽ muốn gì được nấy."
Y đến cung điện của A-xà-thế.
Y nói: "Thưa thái tử, chúng
ta đang sống trong một thời đại nhiễu nhương! Những bậc hiền tài đáng ngôi
thiên tử thì hình như phải sống dở chết mòn chứ không bao giờ được lên ngôi để
cứu nước. Ðời người quả thật mong manh! Thọ mạng của phụ vương ngài làm tôi lo
cho ngài không ít."
Y nói thao thao, y khuyên thái
tử làm những điều vô cùng ác độc. Thái tử nhẹ dạ nghe theo. Và không mấy chốc,
chàng đã quyết định hạ sát phụ vương chàng."
Bấy giờ, A-xà-thế ngày đêm
thường xuyên qua lại hoàng cung, chờ dịp thuận tiện để lẻn vào ám át phụ vương.
Nhưng chàng không thể qua mặt vệ binh. Sự bồn chồn xao xuyến của chàng làm họ
nghi ngờ, họ tâu vua Tần-bà-sa-la:
"Tâu bệ hạ, thái tử
A-xà-thế của ngài mới đây có những cử chỉ kỳ lạ. Có thể thái tử đang dự tính
làm một điều gì ác độc?"
Nhà vua đáp: "Im đi! Con ta
là người tính tình cao thượng. Thái tử sẽ không bao giờ làm điều tồi bại".
"Tâu bệ hạ, nên triệu thái
tử hỏi xem".
"Này quân sĩ, hãy im đi.
Ðừng vu khống con ta."
Vệ binh tiếp tục canh phòng
nghiêm mật, và sau vài ngày, họ lại tâu vua. Ðể họ thấy rõ lỗi lầm, nhà vua
triệu A-xà-thế đến.
Thái tử đứng trước phụ vương,
run sợ cầm cập thưa:
"Tâu phụ vương, phụ vương
đòi con có việc chi?"
Tần-bà-sa-la nói: "Này con,
quân sĩ nói mới đây con có những cử chỉ kỳ lạ. Chúng tâu với phụ vương là con
đang thực hiện điều gì bí mật; chúng bảo rằng con hay tránh né ánh mắt của mọi
người. Con à, chúng vu khống sao?"
A-xà-thế đáp: "Tâu phụ
vương, họ không vu khống đâu."
Lòng ân hận bỗng dưng dâng nghẹn
cả người chàng. Chàng sụp lạy dưới chân phụ vương, và vì quá tủi nhục, chàng
nức nở khóc.
"Tâu phụ vương, con muốn
giết phụ vương"
Tần-bà-sa-la giật mình. Ngài lên
giọng thống thiết hỏi:
"Tại sao con muốn giết
cha?"
"Ðể lên ngôi."
"Thế thì lên ngôi, vương vị
đáng gì để con phải hận thù" nhà vua kêu lên.
Ngày hôm sau, A-xà-thế được công
bố lên ngôi vua.
Việc làm đầu tiên của chàng là
hết lòng tôn vinh phụ hoàng. Nhưng Ðề-bà-đạt-đa vẫn lo sợ quyền lực của phụ
vương, y quyết định dùng ảnh hưởng của mình để triệt hạ ngài.
Y kích động A-xà-thế: "Bao
lâu phụ vương ngài còn tự do thì ngài vẫn còn có nguy cơ mất ngôi. Cựu hoàng
còn nhiều túc vệ lắm; ngài phải ra oai để dằn mặt bọn chúng."
Ðề-bà-đạt-đa khuyến dụ A-xà-thế
thực hiện ý đồ của mình, thế là Tần-bà-sa-la khốn nạn kia bị tống giam. Bấy giờ
A-xà-thế quyết định bỏ đói cựu hoàng cho đến chết, chàng không cho phép ai mang
thực phẩm đến ngài.
Tuy nhiên, hoàng hậu Vi-đề-hi
(Vaidehi) thỉnh thoảng được phép đến ngục thăm Tần-bà-sa-la. Bà lén đem cơm đến
và ngài dùng ngon lành. Nhưng chẳng bao lâu, A-xà-thế chận đứng việc làm đó;
chàng hạ lệnh cho vệ binh khám xét bà mỗi khi bà đến thăm tù nhân. Sau đó bà
dấu cơm trong búi tóc, đến khi sự việc vỡ lỡ, bà phải dùng mọi thiện xảo để cứu
cựu hoàng khỏi chết đói. Nhưng rồi bà cũng bị phát hiện, và A-xà-thế, cuối
cùng, không cho bà vào khám đường nữa.
Trong khi đó, chàng lại ngược
đãi môn đệ của Phật. Họ không được phép trông coi ngôi chùa mà xưa kia
Tần-bà-sa-la đã tôn trí vài lọn tóc và một ít móng tay của Ðức Thế tôn. Hương
hoa lễ vật chẳng còn, trong điện ngoài chùa chả ai lau chùi quét dọn.
Tại cung điện của A-xà-thế, có
một phụ nữ tên là Xờ-ri-ma-ti (Srimati). Nàng thuần thành lắm. Nàng thấy đau
lòng vì không làm được việc thiện. Trong những lúc đau buồn đó, nàng thắc mắc
là không biết làm sao bày tỏ tín tâm của nàng cho Ðức Thế Tôn thấy. Mỗi khi
nàng ngang qua chùa, thấy cảnh đìu hiu vắng vẻ, thấy cảnh bụi đất bám đầy, nàng
ngậm ngùi than khóc.
Xờ-ri-ma-ti nghĩ: "Rồi Ðức
Thế Tôn sẽ biết rằng trong căn nhà này vẫn còn có một tín nữ tôn kính Ngài.
Ðánh liều, nàng vào chùa quét dọn và chưng cúng một tràng hoa tươi.
Nhìn thấy tràng hoa, A-xà-thế
tức lắm, chàng muốn biết ai dám cả gan vi phạm lệnh chàng. Không cần phải che
dấu, Xờ-ri-ma-ti đích thân ra trước vua nhận tội.
A-xà-thế hỏi:
"Tại sao ngươi dám ngang
nhiên cãi lệnh ta?"
Nàng đáp: "Nếu như thần
thiếp cãi lệnh bệ hạ ấy là thần thiếp vâng lệnh phụ hoàng Tần-bà-sa-la của bệ
hạ."
A-xà-thế khỏi cần nghe thêm nửa
lời. Giận tái mặt, chàng nhào đến đâm Xờ-ri-ma-ti một dao. Bị thương nặng, nàng
ngã nhào xuống đất; nhưng mắt nàng vẫn sáng lên niềm hoan hỷ, nàng sung sướng
cất tiếng hát:
"Mắt ta đã nhìn thấy đấng
cứu tinh của nhân thế; mắt ta đã nhìn thấy ánh hào quang của nhân thế; và để
cúng dường Ngài, trong màn đêm,ta đã thắp lên vô vàn ngọn đèn. Ðể cúng dường
Ngài phá tan đêm tối, ta đã diệt trừ hắc ám vô minh. Hào quang của Ngài rực rỡ
hơn ánh sáng của mặt trời, tia sáng của Ngài tinh khiết hơn tia sáng của mặt
trời, ta đê mê nhìn ngắm hào quang rực rỡ của Ngài. Ðể cúng dường Ngài phá tan
đêm tối, ta đã diệt trừ hắc ám vô minh."
Nàng qua đời, toàn thân nàng rực
lên một màu sáng thánh thiện.
XII- CÁI CHẾT CỦA ÐỀ-BÀ-ÐẠT-ÐA
Ðề-bà-đạt-đa nóng lòng muốn thay
Phật cầm đầu giáo hội. Một hôm, y nói với A-xà-thế:
"Tâu bệ hạ, Ðức Phật khinh
miệt bệ hạ lắm. Hắn oán ghét bệ hạ lắm. Vì tiền đồ xán lạn của bệ hạ, bệ hạ hãy
trừ hắn đi. Bệ hạ hãy lệnh cho một số vệ binh đến Trúc-lâm giết quách hắn; bần
đạo sẽ dẫn đường."
A-xà-thế bị thuyết phục dễ dàng.
Những tay sát nhân đến Trúc-lâm, nhưng khi thấy Ðức Thế Tôn, chúng sụp lạy tôn
thờ dưới chân Ngài. Sự kiện đó làm cho Ðề-bà-đạt-đa càng giận thêm. Y thẳng đến
tàu voi của hoàng gia, tìm một con voi hung bạo nhất, rồi mua chuộc đám vệ binh
thả voi khi Phật đi qua để nó vung vòi quật Ngài hoặc dùng chân chà đạp Ngài.
Nhưng khi nhìn thấy Ðức Thế Tôn, con voi trở nên ngoan ngoãn, nó đi đến trước
Ngài, đưa vòi phủi những vết bụi bám trên vạt áo cà sa của Ngài. Ðức Thế Tôn
vui cười hoan hỷ nói:
"Ðây là lần thứ hai, nhờ
Ðề-bà-đạt-đa, mà một con voi đã biết kính lễ ta."
Sau đó, chính Ðề-bà-đạt-đa quyết
tâm hãm hại Ðức Thế Tôn. Thấy Ngài đang nhập định dưới bóng cây, y bạo gan ném
Ngài một cục đá nhọn, cục đá va vào chân Ngài; vết thương từ từ rỉ máu. Ðức Thế
Tôn nói:
"Ðề bà-đạt-đa, ngươi đã
phạm một trọng tội; nghiệp báo rồi đây sẽ ghê gớm lắm. Những nổ lực hãm hại
thân mạng Ðức Thế Tôn đầy tội ác của ngươi đều vô ích; Ngài sẽ không qua đời
non yếu đâu. Ngài sẽ ra đi theo hạnh nguyện của Ngài, Ngài sẽ viên tịch theo
giờ giấc Ngài chọn."
Ðề-bà-đạt-đa bỏ đi. Y dứt khoát
không theo qui luật của giáo hội nữa, y dốc lòng tìm kiếm môn đệ riêng của y.
Trong khi đó, vua Tần-bà-sa-la
đang chết dần chết mòn vì đói khát. Nhưng ngài không chết hẳn. Một năng lực
huyền nhiệm nào đó đã duy trì mạng sống của ngài. Cuối cùng, con của Ngài quyết
định hạ thủ ngài, chàng ra lệnh đốt hai lòng bàn chân của ngài, rạch hai chân
ngài rồi đổ dầu muối lên trên vết thương. Tên đao phủ y lệnh, nhưng hắn cũng
rơi lệ khi thấy cụ già bị hành hạ như vậy.
Ngày A-xà-thế hạ lệnh giết phụ
hoàng cũng là ngày chàng có một bé trai ra đời. Nhìn con, chàng cảm thấy vô vàn
sung sướng; bớt đi tính khắc nghiệt phần nào, chàng vội phái vệ binh đến ngục
ngăn cuộc hành hình. Nhưng họ đến trễ quá; vua Tần-bà-sa-la đã chết trong cảnh
thống khổ kinh hồn.
A-xà-thế bắt đầu ân hận. Một
hôm, chàng nghe hoàng hậu Vi-đề-hi bế hoàng tử tí hon tỉ tê:
"Nguyện cầu cha cháu thương
cháu như cha của cha cháu thương cha cháu. Xưa kia, khi cha cháu còn bé, cha
cháu bị một cái nhọt trên đầu ngón tay, nó hành hạ cha cháu đau đớn khóc hoài;
không có một loại thuốc nào chữa khỏi; vì thế, hoàng thượng Tần-bà-sa-la phải
dùng môi ngậm đầu ngón tay mà hút mủ ra, A-xà-thế nhờ vậy mà ăn chơi vui đùa
trở lại. Ồ, cháu ơi, hãy yêu quí cha cháu; đừng đem lòng độc ác hành hạ cha
cháu như cha cháu đã đem lòng độc ác hành hạ cựu hoàng Tần-bà-sa-la."
A-xà-thế xót xa rơi lệ. Chàng
hối hận vô vàn. Ðêm đêm, trong giấc ngủ, chàng thường thấy phụ hoàng bị thương đổ
máu, và nghe tiếng ngài than oán rợn người. Chàng bị sốt nặng, ngự y Kỳ-bà
(Jivaka) được triệu đến hoàng cung để chữa trị chàng.
Kỳ-bà nói: "Hạ thần không
thể làm gì được cho bệ hạ. Thân bệ hạ không bệnh. Hãy đến gặp Ðấng Ðại Giác,
Ðức Thế Tôn, Ðức Phật; chỉ có Phật mới an ủi và hồi phục sức khỏe cho
ngài."
A-xà-thế theo lời khuyên của
Kỳ-bà. Chàng đến gặp Ðức Thế Tôn; chàng bộc lộ hết mọi hành vi thâm độc của
chàng, chàng thấy an tâm trở lại.
Ðức Phật nói: "Phụ hoàng
của bệ hạ đã được sanh lên cõi trời Ðạo-lợi, người đã hiểu lòng ân hận của bệ
hạ và đã tha thứ cho bệ hạ tất cả. Hỡi vua A-xà-thế, hãy nghe ta; hãy đạt ngộ
giáo pháp và đoạn diệt khổ đau."
A-xà-thế ban hành một quyết định
trục xuất Ðề-bà-đạt-đa ra khỏi nước, lệnh dân chúng đóng cửa tống khứ y nếu
thấy y đến xin tá túc.
Bấy giờ Ðề-bà-đạt-đa ở gần thành
Xá-vệ, y hy vọng được vua Ba-tư-nặc đón tiếp, nhưng y cũng bị khinh miệt khước
từ và buộc phải rời khỏi nước. Không thể khuyên dụ tín đồ, y cuối cùng phải trở
về thành Ca-tỳ-la-vệ.
Y vào thành lúc màn đêm buông
xuống. Ðường phố tối nhem, kinh thành vắng ngắt; hầu như không ai nhận ra y khi
y đi qua, vì làm sao người ta có thể nhận ra một sa môn gầy gò khốn khổ, men
men theo bóng vách tường, với Ðề-bà-đạt-đa huênh hoang kiêu mạn? Y đi thẳng đến
cung điện của công chúa Da-du, nơi bà sống một mình trong cô đơn hiu quạnh.
Y được mời vào.
Da-du nói: "Thưa thầy, thầy
muốn gặp tôi có chuyện chi? Thầy mang tin vui đến cho tôi phải không? Thầy vâng
lệnh chồng tôi sai đến phải không?"
"Chồng của công chúa à!
Ngài ít khi lo cho công chúa! Hãy nghĩ lại lúc Ngài tàn nhẫn bỏ công
chúa!".
"Ngài đã bỏ tôi để giải
thoát cho nhân thế".
"Công chúa còn yêu Ngài
chứ?"
"Tình yêu của tôi sẽ làm
hoen ố sự trong sạch của đời Ngài."
"Thế thì hận Ngài muôn đời
là phải."
"Tôi hết lòng tôn kính
Ngài."
"Này bà, Ngài đã khinh bỉ
ruồng bỏ bà, bà phải báo thù Ngài mới được."
"Này sa môn, hãy im đi! Lời
lẽ của ngươi thô ác quá"
"Em không nhận ra anh sao?
Anh là Ðề-bà-đạt-đa, người yêu em tha thiết đó!"
"Ðề-bà-đạt-đa,
Ðề-bà-đạt-đa, ta biết ngươi là người điêu ngoa độc ác; ta biết ngươi là một sa
môn bất tín lọc lừa, nhưng ta không bao giờ nghi ngờ những mưu sâu hèn hạ của
ngươi".
"Da-du, Da-du, anh yêu em!
Chồng em khinh miệt em; hắn tàn nhẫn lắm! Hãy thù hắn. Hãy yêu anh!"
Da-du giận đỏ mặt. Ðôi mắt dịu
hiền của bà bỗng dưng tràn ra những giọt lệ ô nhục.
"Chính ngươi khinh miệt ta!
Tình yêu của ngươi sẽ là một sỉ nhục nếu nó chân tình, nhưng ngươi lại láo
khoét bảo rằng ngươi yêu ta. Ngươi ít khi để ý đến ta trong những ngày ta còn
son trẻ, trong những ngày ta còn xinh đẹp nõn nà! Nay ngươi gặp ta, một cụ bà
héo gầy chuyên tu khổ hạnh thì ngươi lại bày chuyện yêu đương, lại tỏ tình ái
ân tội lỗi! Ðề-bà-đạt-đa, ngươi là người đáng nguyền rủa nhất! Hãy cút đi! Cút
đi!"
Ðề-bà-đạt-đa nỗi giận nhào đến
bà. Bà đưa tay ra đỡ, y ngã nhào xuống đất, lăn tròn mấy vòng, máu trong miệng
y vọt ra xối xả.
Y lặng lẽ bỏ đi. Cả dòng tộc
Thích-ca nghe y về thành Ca-tỳ-la-vệ, họ ra lệnh vệ binh tống khứ y ra khỏi
thành, đưa y đến yết kiến Phật để Ngài quyết định số phận của y. Y giả vờ hối
hận, nhưng y đã tẩm thuốc độc vào móng tay, và khi y sụp lạy dưới chân Ðức Thế
Tôn, y cố tình cào vào mắt cá của Ngài. Ðức Thế Tôn đưa ngón chân cái đẩy nhẹ
y, mặt đất như nứt ra; lửa dữ vọt lên, phủ kín tên Ðề-bà-đạt-đa hèn hạ.
XIII- BA-TƯ-NẶC VÀ A-XÀ-THẾ
Mặc dù Phật đã uốn nắn tính tình
của A-xà-thế nhưng có lúc vua vẫn còn sân hận. Một hôm, vì sự xích mích giữa
một người ở Vương-xá và một người ở Xá-vệ mà vua tuyên chiến với quốc vương
Ba-tư-nặc.
Vua huy động một binh lực khổng
lồ: gồm bộ binh, kỵ binh, chiến xa, tượng xa, và cung tên giáo mác lấp lánh
dưới ánh mặt trời khi họ tiến quân ra trận.
Quốc vương Ba-tư-nặc cũng tập
họp quân đội với nhiều chiến xa, tượng xa và kỵ binh hùng hậu, ngài tiến tới
trước để đối mặt với vua A-xà-thế.
Ðó là một chiến trận ác liệt kéo
dài trong bốn ngày. Ngày thứ nhất, Ba-tư-nặc mất hết voi; ngày thứ hai, mất hết
ngựa; ngày thứ ba, mất hết chiến xạ; ngày thứ tư, bộ binh bị giết và bị bắt
toàn bộ; Ba-tư-nặc bị đại bại kinh hoàng, chui vào chiếc xe duy nhất được giải
cứu trong cơn ác chiến và trốn về Xá-vệ.
Tại đó, trong một căn phòng nhỏ
bé, tối om, nhà vua ném mình trên một chiếc giường con ẩm thấp. Ngài im lặng,
nghĩ đến cảnh chiến bại khốc liệt mà đau đớn ê chề, mặc cho nước mắt tuôn chảy
đầm đìa xuống hai gò má.
Một người bước vào; đó là trưởng
giả Cấp-cô-độc.
Người nói: "Tâu bệ hạ, chúc
bệ hạ vạn tuế, nguyện phen này thắng trận!"
Nhà vua than: "Quân sĩ của
ta chết hết rồi, tất cả quân sĩ của ta đều thiệt mạng hết rồi! Quân sĩ ơi! Quân
sĩ ơi!"
"Tâu bệ hạ! Ðừng đau khổ
nữa. Hãy gầy dựng đoàn quân khác".
"Ta mất quân sĩ là mất cả
sơn hà xã tắc"
Cấp-cô-độc thưa: "Tâu bệ
hạ! Hạ thần sẽ cấp vàng cho bệ hạ, bệ hạ sẽ tất thắng phen này".
Ba-tư-nặc nhảy vọt xuống giường
nói:
"Cấp-cô-độc! Khanh đã cứu
trẫm, trẫm xin cảm ơn khanh".
Nhờ vàng của Cấp-cô-độc,
Ba-tư-nặc thành lập được một binh đoàn vững mạnh. Ngài ra quân chinh phạt
A-xà-thế.
Khi hai đoàn quân giáp mặt,
tiếng hò reo vang dội kinh hồn, ma quỉ thánh thần cũng phải vỡ gan tím mật.
Ba-tư-nặc dàn binh theo thế trận của người xứ khác truyền đạt. Ngài tấn công
chớp nhoáng; không kịp phòng thủ, A-xà-thế phải thất bại và bị tóm gọn.
A-xà-thế nói với Ba-tư-nặc:
"Hãy giết ta đi!"
Ba-tư-nặc đáp: "Ta sẽ tha
mạng cho ngươi. Ta sẽ đưa ngươi đến gặp Ðức Thế Tôn, Ngài sẽ quyết định phận số
của ngươi."
Ðức Thế Tôn vừa đến Kỳ-viên được
ít lâu. Ba-tư-nặc đến bạch:
"Bạch Ðức Thế Tôn, xin Ngài
nghĩ xem! Vua A-xà-thế là tù binh của con. Con không có ác tâm ác ý gì với hắn
mà hắn vẫn oán thù con. Vì một vài nguyên do vặt vãnh, hắn cất binh tấn công và
đánh bại con lần đầu, nhưng nay con hỷ xả cho hắn. Bạch Ðức Thế Tôn, con không
muốn giết hắn. Vì phụ hoàng của hắn, quốc vương Tần-bà-sa-la, là bạn thân của
con, con muốn trả tự do cho hắn".
Ðức-Thế-Tôn nói: "Thế thì
hãy trả tự do cho A-xà-thế. Thắng thì gây hận thù; bại thì chuốc đau khổ. Những
bậc hiền giả sáng suốt không còn ôm lòng thắng bại. Hủy báng sanh hủy báng, hận
thù sanh hận thù. Những bậc hiền giả sáng suốt không còn ôm lòng thắng bại. Hại
người thì người hại. Ðoạt người thì người đoạt. Những bậc hiền giả sáng suốt
không còn ôm lòng thắng bại."
Trước sự hiện diện của Ðức Thế
Tôn, A-xà-thế nguyện hứa là bạn trung thành với Ba-tư-nặc.
"Và, chúng ta hãy còn hơn
là bạn tâm phúc nữa" người nói tiếp. "Ta có một hoàng tử như ngài
biết, ngài có một công chúa Cờ-sê-na (Kshena) chưa lấy chồng. Ngài vui lòng gả
công chúa của ngài cho hoàng tử của ta được chứ?"
Ba-tư-nặc nói: "Thế thì tốt
quá. Mong rằng cuộc tác hợp đậm đà này sẽ thắt chặt thêm tình bằng hữu thắm
thiết của chúng ta."
Ðức Thế Tôn hài lòng. Hai vị
quốc vương từ đó chung sống hòa bình với nhau. A-xà-thế về sau nổi danh là một
vì vua nhân ái.
XIV- PHẬT TRUYỀN GIÁO PHÁP
Ðức Thế Tôn mỗi lúc một già yếu
dần. Khi Ngài ở tại Vương-xá, Ngài tập họp tăng đoàn và thuyết giảng cho họ rất
lâu.
"Này các thầy tỳ kheo, đừng
quên giáo pháp mà ta đã trao truyền cho các thầy. Hãy cẩn thận giữ gìn chúng.
Các thầy hãy nhóm họp mỗi tháng hai lần, các thầy sẽ chỉ vẽ lỗi lầm cho nhau.
Nếu thầy nào thấy mình có lỗi mà không phát lồ sám hối, thầy ấy sẽ phạm tội
vọng ngữ. Hãy sám hối: sám hối tất an lạc. Như các thầy biết đó, bốn trọng tội
mà một thầy tỳ kheo có thể phạm phải là: tác hợp với phụ nữ; trộm lấy bất cứ
vật gì; giết người hay xúi người giết; giả có năng lực siêu nhân mà thật ra vốn
mình không có. Tỳ kheo nào phạm một trong bốn tội đó là phải trục xuất ra khỏi
giáo hội. Tỳ kheo không được dùng lời hoa mỹ hoặc làm hỏng đời phụ nữ. Không
được vu oan cho huynh đệ. Không được gieo mối bất hòa trong hàng tăng chúng.
Không được cố tình tránh né thiện ý phê bình. Không được vọng ngữ hoặc nhục mạ
ai. Này các thầy tỳ kheo, hãy giữ gìn cẩn thận tất cả những giáo pháp mà ta đã
truyền đạt cho các thầy."
Ngài dạy tiếp:
"Oai nghi tế hạnh là lãnh
địa của bất tử trường tồn; cẩu thả buông lung là cứ điểm của vong thân hoại
thể. Oai nghi tế hạnh thì sống; cẩu thả buông lung thì chết. Thế nên, các bậc
hiền trí lúc nào cũng điềm đạm uy nghi. Các bậc hiền trí đều đạt đến niết bàn
vô thượng. Thầy nào có nghị lực và nhớ nhiều, suy nghĩ thật thà, hành động cẩn
trọng, tiết dục tri túc, sống hợp giáo pháp, đứng đắn trang nghiêm; thầy ấy sẽ
thấy đạo hạnh của mình tăng trưởng rực rỡ. Cẩu thả buông lung là ngu ngơ đần
độn; bậc hiền trí giữ uy nghi như người hà tiện giữ vàng. Thầy nào đứng đắn
trang ngiêm, thầy ấy sẽ thấy rõ mối nguy hại của tính buông lung cẩu thả; thầy
ấy sẽ đoạn trừ ác pháp như gió thổi lá rơi; thầy ấy sẽ bẻ nát xích xiềng buộc
vào trần thế; thầy ấy sẽ gần gũi với niết bàn. Ðứng trên lầu cao trí tuệ, giải
thoát hết mọi khổ đau, bậc nghiêm túc uy nghi, người đã hàng phục thói quen
phóng dật, sẽ thấy chúng sanh khốn khổ như kẻ đứng trên núi cao nhìn xuống đám
người lố nhố dưới ruộng.
XV- ÐỨC PHẬT VÀ GÃ MỤC ÐỒNG
Trước khi Ðức Thế Tôn tịch diệt,
Ngài quyết định làm một cuộc hành trình thật xa. Ngài muốn viếng thăm một số
môn đệ và khuyên nhủ họ cẩn thận, giữ gìn giáo pháp của Ngài. Với một mình
A-nan theo hầu, Ngài lên đường rời thành Vương-xá.
Một hôm, nhân khi ngồi nghỉ trên
một bờ ruộng, Ngài nói với A-nan:
"Ðây rồi có lúc người đời
sẽ tự hỏi tại sao ta còn phải đầu thai vào dạ đàn bà. Họ sẽ thắc mắc về chuyện
đản sanh thanh tịnh tuyệt đối của ta, họ sẽ hoài nghi uy lực tối thượng nhiệm
màu của ta. Những kẻ phàm phu kém cỏi đó sẽ không bao giờ hiểu rằng ai cống
hiến đời mình cho sự nghiệp thánh thiện thì hình hài đâu còn vướng vào chu
trình cấu uế của việc hạ sanh. Ai muốn chứng đắc vô thượng bồ đề, người ấy phải
vào dạ đàn bà; vì lòng xót thương nhân thế, người ấy phải nguyện sanh vào cỏi
nhân gian. Vì nếu người ấy là thiên thần, làm sao người ấy có thể chuyển vận
bánh xe chánh pháp? Này A-nan, nếu Phật là một thiên thần, loài người e không
mấy chốc sẽ nản lòng thối chí. Họ sẽ nói: "Ðức Phật là vị thiên thần, Ngài
vốn có hạnh phúc, thánh đức và hoàn hảo tuyệt vời; còn chúng ta, làm sao chúng
ta có hy vọng đạt đến ngần ấy thứ? Họ sẽ đâm ra chán nản đau buồn. Ồ, đừng động
đến hạng người kém cỏi ấy: Ðừng để chúng trộm cắp giáo pháp của ta, chúng sẽ
làm bệnh hoạn giáo pháp đó. Hơn nữa, đừng để chúng nhận định Phật tánh là khó
hiểu, chúng sẽ không bao giờ đo lường được sự cao cả siêu việt của ta
đâu!"
Một gã chăn cừu đang băng ngang
qua ruộng. Y có sắc thái thanh tịnh của một người đang âm thầm làm việc hoan
hỷ.
Ðức Thế Tôn hỏi: "Ngươi là
ai, mục tử?"
"Tôi là Ða-ni-da
(Dhaniya)" Mục tử đáp.
"Ngươi đi đâu?" Ðức
Thế Tôn hỏi.
"Tôi về nhà với vợ con
tôi."
"Mục tử, hình như ngươi có
được niềm hạnh phúc trong sạch".
"Cơm tôi đã nấu chín,
Sữa tôi đã vắt xong,
Trên bờ sông tôi ở,
Cùng với vợ con tôi,
Mái nhà lợp kỹ rồi,
Trong nhà đèn sáng rỡ,
Mưa rơi mặc mưa rơi".
Ðức Thế Tôn nói:
"Ta đoạn trừ sân hận,
Ta đốn phá mê lầm,
Một đêm ta chờ đợi,
Trên bờ sông mênh mông,
Nhà ta không có mái,
Lửa dục ta tắt rồi,
Mưa rơi mặc mưa rơi."
Mục tử nói:
"Dê tôi không bị muỗi mòng,
Cừu tôi mặc sức thong dong,
Bò tôi đầy đồng gặm cỏ,
Mặc cho mưa gió phũ phàng."
Ðức Thế Tôn nói:
"Ta đã làm bè kiên cố,
Chống chèo đến cảnh niết bàn,
Băng qua thác ghềnh tham dục,
Ðến được bến bờ thênh thang,
Thuyền bè ta không cần nữa,
Mặc cho mưa gió phũ phàng."
Mục tử nói:
"Vợ tôi ngoan ngoãn vâng lời,
Tiết trinh đức hạnh mấy đời phôi pha,
Bao năm chung sống hài hòa,
Nhân từ vui tính ấy là vợ tôi,
Gần xa ai cũng mến người,
Mưa rơi thì mặc mưa rơi sá gì."
Ðức Thế Tôn nói:
"Tâm ta ngoan ngoãn vâng lời,
Si mê ràng buộc nhiều đời gỡ xong,
Bao năm tu tập tinh ròng,
Hiền hòa nhu nhuyến tâm ta sáng ngời,
Khổ đau ác trược đoạn rồi,
Mưa rơi thì mặc mưa rơi sá gì."
Mục tử nói:
"Tôi tự trả lương người giúp việc,
Khẩu phần con cháu nhận nơi tôi,
Không ai lên tiếng than hơn kém,
Mặc sức mưa giăng ngập cả trời."
Ðức Thế Tôn nói:
"Ta không nô lệ cho ai cả,
Ðất trời lồng lộng ta thênh thang,
Với ta không cần người nô lệ,
Mặc sức mưa giăng trải hàng hàng."
Mục tử nói:
"Tôi có bò sữa, nghé tơ và bê con,
Lại thêm một chó theo chăn chúng,
Mưa gió hề chi mưa cứ mưa ."
Ðức Thế Tôn nói:
"Ta không bò sữa, nghé tơ và bê con,
Cũng không có chó theo chăn chúng,
Mưa gió hề chi mưa cứ mưa."
Mục tử nói:
"Cọc nhọn đóng xuống đất,
Mấy ai nhổ xem nào,
Giây mới bện có chắc,
Trâu bò phá được sao,
Mưa sa mặc mưa sa. "
Ðức Thế Tôn nói:
"Như chó bứt xiềng xích,
Như voi phá xích xiềng,
Vĩnh viễn ta đoạn tuyệt,
Vào ra cõi ta bà,
Mưa sa mặc mưa sa."
Mục tử Ða-ni-da đảnh lễ Ðức Thế
Tôn và bạch:
"Bạch Ðức Thế Tôn, con biết
Ngài là ai rồi; xin mời Ngài ghé đến nhà con."
Vừa mới vô nhà, trời đổ mưa tầm
tã, nước mưa tạo thành những dòng suối nhỏ chảy dài trên mặt đất. Ða-ni-da nghe
mưa rơi mà thốt lên những lời cảm thán:
"Thật vậy, từ khi gặp Phật,
chúng con được nhiều của quí. Bạch Ðức Thế Tôn, Ngài là nơi nương tựa của chúng
con, Ngài đã nhìn chúng con bằng ánh mắt trí tuệ. Hỡi thánh nhân, xin Ngài mãi
mãi là đấng cứu độ của chúng con! Con và vợ con xin qui y Ngài; nếu chúng con
sống đời thánh thiện, chúng con sẽ đoạn trừ sanh tử, chúng con sẽ chấm dứt khổ
đau."
Ma-vương, tên ác quỉ, chẳng ai hay
biết hắn từ đâu xuất hiện trước mặt Ðức Thế Tôn và Ða ni da, nói:
"Có con sung sướng vì con,
Có bò sung sướng vì bò;
Sung sướng cho ai lắm của tiền,
Người không tiền của khổ triền miên."
Ðức Thế Tôn nói:
"Có con khốn khổ vì con,
Có bò khốn khổ vì bò,
Khốn khổ cho ai lắm của tiền,
Người không tiền của sướng vô biên".
Ma-vương trốn mất. Ða-ni-da và
vợ lắng nghe Ðức Thế Tôn trao truyền giáo pháp.
XVI- PHẬT DẠY CÁC THẦY TỲ KHEO Ở
TỲ-XÁ-LI
Ðức Thế Tôn đến thành
Ba-liên-phất (Pataliputra) đang được xây cất trên bờ sông Hằng (Gange). Ngài
cúi đầu thi lễ những bức tường vừa nhô lên khỏi mặt đất và tán thán:
"Ngày kia thành này sẽ là
nơi lừng danh cao quí; một quốc vương kiệt xuất sẽ cai trị thành này và nhiều
vị anh hùng cái thế sẽ ra đời tại đây. Hỡi Ba-liên-phất, ngươi sẽ là kinh thành
trù mật phú cường, thế nhân sẽ ca tụng tên ngươi qua bao thời đại."
Ngài băng qua sông. Ngài nhắm
đến thành Tỳ-xá-li, nhưng mới đến thành Bai-va (Bailva) thì Ngài lâm trọng
bệnh. Ngài đau ê ẩm cả người. A-nan khóc sướt mướt, thầy nghĩ là Ngài sắp tịch
diệt. Nhưng Ðức Thế Tôn nhớ đến nhiều môn đệ mà Ngài phải viếng thăm; Ngài chưa
muốn vào niết bàn, Ngài muốn trao truyền giáo pháp cho họ lần cuối. Nhờ ý chí
vững mạnh, Ngài đã khắc phục được con bịnh, sự sống chưa từ bỏ Ngài. Ngài bình
phục trở lại.
Ðến lúc khỏe hẳn, Ngài ra khỏi
nhà và ngồi cạnh cửa ra vào. A-nan đến ngồi bên Ngài và bạch rằng:
"Bạch Ðức Thế Tôn, con thấy
Ngài đã hồi phục sức khỏe. Hôm Ngài bịnh nặng, con mất cả nghị lực; con cũng
bịnh theo Ngài. Có lúc con nhận thấy Ðức Thế Tôn không thể nào bịnh được. Con
vững tin là Ngài còn nhớ đến giáo hội. Con biết Ngài không thể vào niết bàn mà
trước tiên không bày tỏ ý định với giáo hội."
Ðức Thế Tôn nói:
"Này A-nan, giáo hội còn
đòi hỏi ở ta điều gì?" Ta đã khai thị chánh pháp, ta đã truyền đạt chánh
pháp; không còn một điểm nhỏ nào ta chưa giảng giải! Ai nghĩ rằng: "Ta
muốn lãnh đạo giáo hội" thì hãy bày tỏ ý định với giáo hội. Này A-nan, Ðức
Thế Tôn không bao giờ nghĩ "Ta muốn lãnh đạo giáo hội" thì tại sao
Ngài phải bày tỏ ý định với giáo hội? Này A-nan, ta già rồi; tóc ta bạc, thân
ta yếu. Ta đã tám mươi tuổi, ta đã đi đến cuối đoạn đường. Bây giờ mỗi thầy hãy
tự mình là một ngọn đuốc soi đường; không ai có thể mang ánh sáng đến cho các
thầy. Sau khi ta giã từ dương thế, thầy nào tự mình thắp lên ngọn đuốc cho
chính mình thì rõ ràng là thầy ấy đã hiểu được ý nghĩa lời dạy của ta; này
A-nan, thầy ấy sẽ là đệ tử chân chính của ta; thầy ấy sẽ biết sống theo chánh
nghiệp."
Ngài lại lên đường, sau đó Ngài
đến Tỳ-xá-li. Ngài khất thực từng nhà qua kinh thành. Bỗng nhiên Ngài thấy
Ma-vương đứng trước Ngài.
Tên ác quỉ nói: "Bạch Ðức
Thế Tôn, đã đến giờ rồi; người hãy vào niết bàn!"
Ðức Thế Tôn nói: "Không! ta
biết khi nào ta phải vào niết bàn; này ác quỉ, ta biết rõ hơn ngươi. Còn một
vài tháng nữa. Ba tháng nữa Ðức Thế Tôn sẽ vào niết bàn."
Ðức Thế Tôn nói xong, cả trái
đất rung chuyển, sấm rền vang bầu trời: Ðức Thế Tôn đã từ bỏ ý chí lưu lại trần
thế; Ngài đã ấn định thời hạn vào niết bàn. Cả trái đất rung chuyển, sấm rền
vang bầu trời.
Ðêm đó, Ngài tập họp tăng đoàn ở
Tỳ-xá-li lại. Ngài dạy:
"Này các thầy tỳ kheo, hãy
cẩn thận giữ gìn tri kiến mà ta đã chứng đắc và trao truyền cho các thầy, hãy
theo chánh đạo cho nếp sống thánh thiện được trường tồn, vì sự an lạc và giải
thoát cho đời, vì sự an lạc và giải thoát cho chư thiên, vì sự an lạc và giải
thoát cho nhân thế: một vài tháng nữa ta sẽ vào niết bàn. Ta ra đi và các thầy
ở lại. Nhưng, này các thầy tỳ kheo, đừng bao giờ ngừng tinh tiến. Thầy nào vững
bước trên đường chân chính, thầy ấy sẽ thoát khỏi sanh tử, thầy ấy sẽ vĩnh viễn
giải thoát khổ đau."
Ngày hôm sau, Ngài lại vào thành
khất thực; rồi cùng với một vài đệ tử, Ngài lên đường đến Câu-thi-na
(Kusinagara), Ngài quyết định nhập niết bàn tại đó.
XVII- BỮA NGỌ TRAI TẠI NHÀ THUẦN-ÐÀ
Ðức Thế Tôn và môn đệ của Ngài
dừng tại Ba-va (Pava), trong vườn cây của gã thợ rèn Thuần-đà (Cunda). Thuần-đà
đến đảnh lễ Ðức Thế Tôn và bạch:
"Bạch Ðức Thế Tôn, ngày
mai, xin mời Ngài hoan hỷ đến nhà con thọ trai."
Ðức Thế Tôn nhận lời. Ngày hôm
sau, Thuần-đà dọn thịt heo và các món cao lương khác để đãi khách quí. Ðức Thế
Tôn và đồ chúng ngồi vào bàn. Nhìn thấy thịt heo, Ngài chỉ tay nói:
"Thuần-đà, chỉ có ta là
dùng được món này; ngươi phải dành nó cho ta. Ðệ tử của ta sẽ dùng các thứ
khác.
Khi dùng bữa, Ngài nói:
"Hãy chôn sâu xuống đất
những gì ta còn chừa lại; chỉ có ta là dùng được món này."
Ngài từ giã lên đường. Ðồ chúng
lại theo Ngài. Ðức Thế Tôn và đồ chúng đi cách Ba-va được một đoạn ngắn thì
Ngài cảm thấy mệt và nhuốm bệnh. A-nan đau buồn, thầy nặng lời than trách
Thuần-đà, chú thợ rèn đã cúng dường Ðức Thế Tôn một ngọ trai khốn nạn.
Ðức Thế Tôn nói: "Này
A-nan, đừng giận chú thợ rèn Thuần-đà. Nhờ cúng dường ta thức ăn mà chú ấy sẽ
được nhiều phúc báo to lớn. Trong tất cả các bữa cúng dường ngọ trai cho ta, có
hai bữa đáng được ca ngợi nhất: một là của Tu-xà-đa (Sujata) và hai là của chú
thợ rèn Thuần-đà".
Ngài khắc phục mệt mỏi và đi đến
bờ sông Ca-cút-tha (Kakutstha). Nước sông chảy êm đềm trong mát. Ðức Thế Tôn
xuống sông tắm mình trong làn nước trong veo. Tắm xong. Ngài uống nước, rồi đi
đến một vườn xoài. Tại đây, Ngài bảo sa môn Cun-đa-ca (Kundaka):
"Hãy xếp hộ y ta làm tư để
ta nằm nghỉ"
Cun-đa-ca sung sướng vâng lời:
Thầy vội xếp y làm tư và trải trên mặt đất. Ðức Thế Tôn nằm xuống, Cun-đa-ca
ngồi bên cạnh Ngài.
Ðức Thế Tôn nghỉ được vài giờ,
rồi Ngài tiếp tục lên đường, cuối cùng Ngài đến Câu-thi-na. Tại đó, trên bờ
sông Hi-ran-da-va-ti (Hiranyavati), có một khu vườn nhỏ xinh xắn êm đềm.
Ðức Thế Tôn nói:
"A-nan, đi sửa cho thầy một
chỗ nằm giữa hai cây song thọ. Hãy quay đầu về phương bắc. A-nan, Thầy bịnh lắm
rồi."
A-nan sửa xong giường, Ðức Thế
Tôn đến nằm trên đó.
XVIII- PHẬT NHẬP NIẾT-BÀN
Lúc ấy không phải là mùa cây nở
hoa, nhưng hai cây che mát Ðức Thế Tôn lại bừng hoa rực rỡ. Hoa xinh nhẹ trĩu
trên chiếc giường Ngài, và âm điệu ngọt ngào từ trời cao vọng xuống.
Ðức Thế Tôn nói với A-nan trung
tín:
"Xem kìa: Không phải mùa
cây nở hoa, vậy mà hoa nở tưng bừng, mưa hoa phủ kín cả hình hài ta. Nghe kìa!
Không gian vang khúc hoan ca, thiên thần tán thán Phật Ðà Như Lai. Nhưng Ðức
Phật còn được tán thán hơn thế nữa. Các tỳ kheo, tỳ kheo ni, ưu bà tắt, ưu bà
di; tất cả những ai thấy được sự thật, tất cả những ai sống hợp giáo pháp, họ
là những người hết lòng tôn kính Phật vậy. Thế nên, A-nan, con phải sống họp
với giáo pháp; và ngay trong những vấn đề tế toái nhất, con cũng phải noi theo
chánh đạo cao quí."
A-nan khóc ròng. Thầy lảng ra
chỗ khác để dấu đi những giọt nước mắt chân tình.
Thầy nghĩ: "Ta còn mang
nhiều nghiệp chướng, tội lỗi hãy còn chất đầy. Ta chưa đạt đến thánh quả thì
Ðức Thế Tôn, đấng Ðạo sư thương yêu ta, sắp vào niết bàn."
Ðức Thế Tôn gọi Thầy lại nói:
"A-nan, không nên đau buồn,
không nên thất vọng! Hãy nhớ lời huấn thị của Thầy: những gì ta thích, những gì
ta quí, ngày kia cũng phải chia lìa. Có gì sanh ra mà không bị biến thiên hủy
hoại? Có gì sinh ra mà được mãi mãi trường tồn? A-nan, con theo hầu Thầy đã
lâu, con là bạn hiền tâm phúc của Thầy. Thầy ghi nhận thâm tình của con. Con
trung hậu cả ý nghĩ, lời nói lẫn việc làm. A-nan, con đã tạo được một thiện
nghiệp cao quí; hãy tiếp tục trên đường chánh Ðạo, con sẽ giải thoát hết mọi
vọng nghiệp lâu đời."
Màn đêm buông xuống. Dân chúng
Câu-thi-na nghe tin Ðức Thế Tôn đang nằm dưới hai cây song thọ, họ lũ lượt kéo
nhau đến đảnh lễ Ngài. Một ẩn sĩ cao niên tên là Tu-bạt-đa-la (Subhadra) cũng
đến đảnh lễ Ðức Thế Tôn và nguyện xin qui y Phật, qui y Pháp, qui y Tăng;
Tu-bạt-đa-la là đệ tử sau cùng và được hân hạnh gặp Phật lần cuối.
Trời đêm hôm đó đẹp lắm. A-nan
ngồi cạnh Ðức Thế Tôn, Ngài nói:
"A-nan, có lẽ con sẽ nghĩ:
"Chúng ta không còn Thầy nữa". Nhưng con không được nghĩ thế. Giáo
pháp vẫn còn, giáo pháp mà thầy đã truyền đạt cho các con đó; A-nan, khi Thầy
nhập diệt, các con hãy lấy giáo pháp làm Thầy."
Ngài dạy tiếp:
"Thật vậy, này các thầy tỳ
kheo, các pháp đã có sanh, tất yếu phải có diệt. Ðừng bao giờ quên siêng năng
tinh tiến."
Ðức Thế Tôn không còn hiện hữu
trên thế gian này. Khuôn mặt Ngài tỏa ra ánh hào quang rực rỡ. Giác tánh Ngài
đã về cõi chân như, Ngài đã nhập Niết-bàn. Cả trái đất rung chuyển, sấm rền
vang bầu trời.
Tảng sáng, gần thành Câu-thi-na,
dân chúng chất một đống củi hỏa táng khổng lồ như thể hỏa táng một đương kim
hoàng đế, họ ngậm ngùi thiêu xác Ðức Thế Tôn tại đó.
- Hết -