Phần 2
[III]
A NẬU LÂU ÐÀ TIẾN LÊN THÁNH HẠNH A LA HÁN
Sau khi
đắc được Thiên Nhãn Thông và các thần thông khác, nhờ tinh tấn thực hành Thiền
định (Samàdhi), nhất là đã vượt lên các bậc Thiền Hữu sắc, A Nậu Lâu Ðà nguyện
nhất tâm phát triển xa hơn nữa công phu thiền pháp của mình, hầu sớm đạt đến đạo
quả giải thoát A-la-hán (Arahatta). Nhưng trước khi chứng thật cứu cánh ấy, ông
đã phải rèn luyện thánh hạnh và đấu tranh rất nhiều với bản thân, để tẩy trừ mọi
phiền não vi tế trong tâm, nhất là căn tính cuối cùng của cái "ta" là
"không muốn hành động theo ý của người khác". Có ba thuật sự gương
mẫu đáng kể lại cho đời sau là:
Một lần nọ, Thiền sư A Nậu Lâu
Ðà tịnh tu cùng với Sa-môn Nandiya, vốn là anh em chú bác trong hoàng tộc,
(theo Tôn Túc Kệ Ngôn câu 25: Theragàthà 25), và Tỳ-khưu Kimbila, em ruột của
ông, (theo Tôn Túc Kệ Ngôn câu 118, và Tăng Chi A Hàm số 5/201, 6/40, 7/56,
cũng như Tạp A Hàm số 54/10 = Theragàthà 118, Anguttara Nikàya 5/201, 6/40,
7/56, Samyutta 54/10).
Cả ba vị đã đến hành thiền giữa
ngôi rừng phía Ðông vườn Trúc Lâm, một cách hoàn toàn "cô độc". Ý nói
tuy họ có mặt đến ba người trong cùng một hoang địa. Nhưng hằng ngày họ chẳng bao
giờ gặp nhau. Trình độ thuần thục thiền pháp của họ đã hoàn toàn vững chắc,
khiến cả ba hành giả thật không cần sự hỗ trợ qua lại. Tuy nhiên, luật cộng
đồng chẳng cho phép họ sống biền biệt, nên họ phải ước hẹn cứ mười lăm ngày hội
họp một lần, để làm lễ "phát lồ" (sám hối) và luận đạo. Sự hội họp
của họ cũng an lạc, hòa thuận một cách đặc biệt, đến đỗi biến thành ba huyền
thoại phạm hạnh, loan truyền ra khắp vùng xung quanh, khiến cho ai nghe cũng
khen ngợi! Không như nhóm Tăng sĩ luôn luôn gây gổ, chia rẽ nhau ở Kosambì!
Khi đức Phật đến thăm ba đệ tử
ấy và hỏi Sa-môn A Nậu Lâu Ðà nhờ pháp gì mà ông sống hòa thuận một cách tuyệt
đối với hai huynh đệ, thì được ông trả lời:
- Bạch đức Thế Tôn! Thật vậy,
chúng đệ tử ba Tỳ-khưu ẩn tu trong ngôi rừng này, hằng ngày hành động qua thân,
khẩu hay ý, luôn luôn dựa trên thiện pháp quên mình, dẹp bỏ cái "ngã"
và làm mọi cách đem an vui đến những người xung quanh. Pháp ấy không bắt buộc
chúng đệ tử phải thường xuyên gặp nhau bằng xương bằng thịt, mà vẫn gặp nhau
bằng tâm hồn ôn hòa, từ ái. Không có một hành động, lời nói hay ý nghĩ nào của
chúng đệ tử ba người mà bắt nguồn từ sự bất thiện cảm với đồng đạo, có thể phát
sinh. Thành thử sự bình an và hòa thuận là một tịnh quả tất nhiên. Mỗi cá nhân
trong chúng đệ tử luôn luôn tâm niệm rằng: "Khi ta muốn làm một điều gì,
thì ta hãy dẹp cái điều ta muốn sang một bên, và ta phải cố gắng làm những điều
mà huynh đệ ta muốn". Rồi chúng đệ tử cả ba đều hành động như thế, nên an
vui vô cùng. Có thể nói là chúng đệ tử tuy ba người, nhưng chỉ có một tâm hồn
thiện hạnh nằm trong ba thân thể tạm bợ này.
Tiếp theo đức Phật hỏi A Nậu Lâu
Ðà về tiến bộ tu tập của cả ba Sa-môn ra sao, xem họ có thành quả tâm linh nào
đáng kể, vượt khỏi khả năng trung bình phàm tình hay không, thì được A Nậu Lâu Ðà
trả lời:
- Bạch đức Thế Tôn! Chúng đệ tử
đã gặp nhiều chướng ngại pháp, nhất là "nội ma" trong tâm luôn luôn
quấy nhiễu, nhưng nhờ tinh tấn và kiên trì dẹp bỏ cái "ta" mà chúng
đệ tử đã vượt qua. Giờ đây chúng đệ tử đã củng cố được linh lực của trí tuệ,
chứng thật sự bừng sáng của nội tâm - Obhàsa Sannà (1), thấy rõ nhiều
"hình thái" vô cùng quang minh, kỳ diệu và vi tế - Rùpànaô Dassana
(2) .
Nhưng bạch đức Thế Tôn! Kết quả
siêu phàm ấy, chúng đệ tử chỉ chứng đắc trong khi hành thiền mà thôi, chứ bình
thường không thể vận dụng được! Và chúng đệ tử không hiểu tại sao? Yêu cầu đức
Bổn Sư chỉ dạy.
Ðức Phật liền giảng giải rằng:
- Một hành giả khi tham thiền,
đối diện với trạng thái tâm linh biến hiện có điều kiện tiên lập như thế, mà
muốn vượt qua thì phải tinh tấn loại trừ mười một Tùy phiền não
(Ekadasùpakkilesà).
- Nầy A Nậu Lâu Ðà! Vậy chứ mười
một Tùy phiền não ấy là gì? Là Hoang mang (hồ nghi), Lơ đãng (phóng tâm), Mỏi
mệt (buồn ngủ) và Lo âu (hồi hộp) (3) v.v... Bốn chướng ngại pháp đầu tiên này nếu
hành giả không vượt qua thì chẳng thể tu thiền được! Còn ngược lại nếu họ chiến
thắng nổi chúng, thì bảy Tùy phiền não tiếp theo sẽ lần lượt phát sanh, hễ cái
nầy bị loại thì cái kia hiện ra, như một hàng số lũy tiến, số sau là kết tập
của số trước.
- Này A Nậu Lâu Ðà! Ví thử có
một hành giả, nhờ tinh tấn tu thiền mà vượt thắng được bốn Tùy phiền não đầu tiên
nói trên, thì họ sẽ thụ chứng rõ rệt một trạng thái Khoái cảm thuộc về thân thể
rất đáng ưa thích. Sự "khoái cảm" ấy sẽ nhập vào ý thức, biến thành
một thứ Phỉ lạc làm cho tâm tư nhẹ nhàng, ngây ngất, ngây ngất đến độ họ có thể
bị mắc dính trong "phỉ lạc", không muốn mất "phỉ lạc". Tình
trạng này làm cho nhiều thiền giả bị dừng lại ở đó, không tiến xa trên con
đường tu thiền. Nhưng nếu có hành giả dũng mãnh tinh tấn hơn nữa, thì họ phải
sử dụng một thiền lực Cực tịnh, tách rời mọi sự ưa thích phỉ lạc, để đưa tâm
linh quán trú vào đề mục. Từ đó "thiền lực cực tịnh" ấy sẽ đẩy tâm tư
của thiền giả vào một trạng thái mới gọi là Tán thức, tức là khi vượt qua giai
đoạn "phỉ lạc", thiền giả vốn dùng quá nhiều "định lực"
(Cực tịnh), nên thiền tâm lại rơi vào trong tình trạng "tán thức",
nghĩa là như muốn bay bổng, hụt hẩng, như muốn khinh thân vậy. Và vì cường độ
cảm nhận ngoại trần ở tình trạng "tán thức" này rất yếu, nhường chỗ cho
những tỉnh niệm hướng thượng, nhất là hướng về Thiên giới, hay Phi địa tiên, hoặc
hội tụ để phát sinh "nội quang" trong tâm thiền giả.
Nhưng này A Nậu Lâu Ðà! Khoảng
giữa "Cực tịnh" và "Tán thức" lại có một giai đoạn mà thiền
tâm của hành giả hội tụ ở nhiều "cảnh sắc" khác nhau, thường là thiền
tâm ấy vừa hội tụ vừa tìm kiếm những cảnh sắc thích hợp để thử an trú nơi đó,
nên cái " nội quang" nói trên chợt xuất hiện, chợt biến mất, và lập
lại nhiều lần, khiến cho hành giả sinh lòng ham muốn nắm giữ. Kết quả, có một
Tùy phiền não thứ chín xuất hiện là Dự tưởng. "Dự tưởng" này sẽ dẫn
thiền tâm của hành giả đến nhiều "Nhiễu ấn" chập chờn, để cuối cùng chỉ
có một "Ấn pháp" thích hợp ở lại để làm điểm tựa cho thiền tâm. Và sự
thỏa mãn của hành giả cũng sẽ phát khởi để ôm chặt "Ấn pháp", rồi gia
tăng tinh tấn. Mức độ gia tăng tinh tấn của Tùy phiền não thứ mười này sẵn được
thỏa mãn của hành giả hỗ trợ, nên rất mạnh, có thể đưa đến Tùy phiền não thứ
mười một là Chấp niệm.
Và này A Nậu Lâu Ðà! Một thiền
giả khi rơi vào trong Tùy phiền não "Chấp niệm" mà không biết áp dụng
pháp Tứ Vô Lượng Tâm, nhất là pháp Vô Lượng Tâm Xả, để giải trừ, thì sẽ bị lầm
lạc.
(Lời thêm của dịch giả: Ðể cho
quí vị dễ nhớ hơn, chúng tôi xin kê khai vắn tắt, tên của mười một Tùy phiền
não theo thứ tự như sau: 1/ Hoang mang, 2/ Lơ đãng, 3/ Mỏi mệt, 4/ Lo âu, 5/ Khoái
cảm, 6/ Phỉ lạc, 7/ Cực tịnh, 8/ Tán thức, 9/ Dự tưởng, 10/ Nhiễu ấn, 11/ Chấp
niệm. Ngoài ra, ba ký số (1), (2) trong lời thưa của A Nậu Lâu Ðà và (3) trong
lời giảng của đức Phật, cũng xin chú thích như sau:
(1) Sự bừng sáng trong tâm:
Obhàsa Sannà, ám chỉ những ảnh tượng có hào quang. Nhưng theo chú giải, trạng
thái ấy còn có tên là Parikammobhàsa, tức là thiền giả đã đạt được Cận định, gần
đắc vào Nhất Thiền, nên mới có ánh sáng như thế.
(2) Rùpànâ Dassanâ ám chỉ sự
thấy tương đương với bậc có Thiên Nhãn Thông.
(3) Lo âu là Tùy phiền não thứ
tư, ám chỉ phản ứng của hành giả trước các quái tượng thường hiện ra, có đặc
tính gây sợ sệt cho những ai tu thiền, đã cố gắng vượt qua ba Tùy phiền não
đầu. Các quái tượng này hầu hết không phải do ma chướng trong tâm thiền giả
hiển lộng, mà là do những chúng sanh vô hình, như ngạ quỉ hay A tu la chẳng hạn,
sống trong môi trường của người tu thiền, đồng thời tịnh tâm của người tu thiền
cũng thuần thục, có thể "giao kiến" được với những chúng sanh vô hình
đó.)
Theo kinh Trung A Hàm số 128
(Majjhima Nikàya 128) thì khi ấy đức Phật đã giảng giải rõ mười một Tùy phiền
não luôn luôn xảy ra cho một thiền giả nhiều quyết tâm, nhẫn nại và tinh tấn,
đúng như kinh nghiệm bản thân của Phật đã từng trải qua, chứ không phải do Ngài
dùng Thánh tuệ của một bậc Toàn Giác mà biết được.
Phần cuối, đức Phật lại dạy cho
A Nậu Lâu Ðà cách áp dụng Vô Lượng Tâm Xả để giải trừ Tùy phiền não thứ mười
một, và cũng là "Tùy phiền não chót" trong các chướng ngại pháp, hầu
giúp ông tiến lên Thánh hạnh một cách vững chắc. Ðoạn đức Phật chúc lành cho ba
đệ tử tinh tấn tu hành, rồi Ngài trở lại Trúc Lâm tịnh xá...
A Nậu Lâu Ðà, sau đó tuy đã tiến
triển mỗi ngày một tinh vi trong các bậc thiền, và dù hoàn toàn thuần thục
trong nhiều Tịnh pháp Hữu sắc, thế mà một hôm ông đã đến gặp Trưởng lão Xá Lợi
Phất (Sàrìputta) và nói rằng:
- Này đạo huynh Xá Lợi Phất!
Bằng "con mắt thanh tịnh" (Thiên Nhãn) đã được định lực rèn luyện,
trở nên siêu phàm, tiểu đệ thường nhìn thấy hàng ngàn vạn chiều vũ trụ. Nhất
thời nguyện lực của tiểu đệ rất hùng hậu và bất thối. Tinh thần của tiểu đệ
luôn luôn giác tỉnh và sáng tỏ. Thể xác của tiểu đệ đang lành mạnh và không bị
kích thích bởi bất cứ trần cảnh gì. Trí nhớ của tiểu đệ có thể gợi lại dễ dàng
và rõ rệt trước mọi đề mục. Thế nhưng tâm linh của tiểu đệ hiện tại vẫn chưa
được tự do, giải thoát khỏi những phiền não vi tế là nghĩa làm sao?
Trưởng lão Xá Lợi Phất liền trả
lời:
- Này hiền đệ A Nậu Lâu Ðà! Khi
hiền đệ nghĩ rằng hiền đệ đã đắc "Thiên Nhãn", có thể nhìn thấy ngàn
vạn chiều vũ trụ, tức là sự tự phụ đang hiện diện trong tâm hiền đệ! Khi hiền
đệ nghĩ rằng nguyện lực của hiền đệ đang bất chuyển, tinh thần của hiền đệ luôn
luôn giác tỉnh, thân thể của hiền đệ vẫn lành mạnh, trí nhớ của hiền đệ hằng
minh mẫn, tức là sự loạn động vì tự mãn (một loại tư duy ràng buộc) đang có mặt
trong tâm hiền đệ đấy. Khi hiền đệ nghĩ rằng tâm linh của mình không được tự do
với những phiền não vi tế, tức là hiền đệ bị chướng ngại pháp Hồ nghi quấy
nhiễu. Tốt hơn hiền đệ nên xua đuổi ba thứ tư tưởng bất thiện ấy đi, rồi dồn
hết mọi tư duy vào các pháp Vô thường, Khổ não và Vô ngã, nhất là dồn chú ý vào
cứu cánh "Bất hữu", "Bất thủ", "Vô sinh",
"Vô diệt", "Niết bàn".
Sau khi nghe những lời hướng dẫn
của Trưởng lão Xá Lợi Phất (Sàrìputta), A Nậu Lâu Ðà (Anuruddha) liền trở về
tịnh cốc, tiếp tục cuộc sống cô độc, tinh tấn hành thiền, cố gắng loại trừ ba chướng
ngại ấy trong tâm. (theo Anguttara Nikàya 3: 128 - Tăng Chi A Hàm số 3: 128).
Một lần khác, A Nậu Lâu Ðà ẩn tu
trong lãnh thổ bộ lạc Cetiya, nằm về hướng Ðông vườn Trúc Lâm. Một hôm trong
khi đang hành thiền thì thiện tư duy sau đây bỗng hiện lên trong tâm ông:
- Bậc Ðại sĩ (Mahàpurisavitakka)
là người phải có đời sống gồm đủ bảy phẩm cách cao thượng là: 1/ Thanh đạm, 2/
Tri túc, 3/ Ẩn dật, 4/ Quả cảm, 5/ Cảnh giác, 6/ Ðịnh tâm, 7/ Trí tuệ. Như thế
một Sa-môn trong Phật giáo không nên thiếu bảy đức tính này.
Ðức Phật dùng Tha Tâm Thông biết
rõ ý nghĩ ấy trong tâm vị Tỳ-khưu em họ, và cũng là đệ tử. Ngài liền hiện đến
trước mặt A Nậu Lâu Ðà để tiếp độ và khen ngợi rằng:
- Này A Nậu Lâu Ðà! Lành thay là
điều ông đang tư duy! Ông đã ngưỡng mộ bảy đức tính mà một vĩ nhân không thể
thiếu được như thế nào, thì trong thiền pháp của Như Lai, một Sa-môn hành giả, chẳng
những không thể thiếu bảy đức tánh ấy, mà họ còn phải có thêm đức tính thứ tám
là Không phóng tâm vào trần cảnh nữa! Tỳ-khưu nào là người đã nghe hiểu giáo pháp
của bậc Toàn Giác, mà còn có khuynh hướng để tâm duyên theo những thỏa mãn phàm
tình, thì Tỳ-khưu ấy thật không xứng đáng làm đệ tử Phật dạy.
(Nhóm chữ "không phóng tâm
vào trần cảnh" trên đây ám chỉ từ ngữ (Pàli) trong kinh Phật là
"Nippapanca", tức không có khuynh hướng mắc dính vào Ngũ trần: sắc,
thinh, hương, vị, và xúc. Hay sự giải thoát dứt khoát khỏi tham luyến xác thân
hữu hình, đa tính và phức tạp của con người. Rồi "Hữu Dư Niết Bàn"
bản chất vốn là trạng thái giải thoát khỏi khổ thân hiện tại nầy vậy! Ngược
lại, cũng trong kinh Pàli, chữ "Papanca", không có tiếp đầu ngữ "NIP"
có nghĩa là tâm mắc dính, đắm chìm trong các dục lạc ngũ trần, và chịu vô số
thống khổ, tương đương với đặc tính đa dạng và phức tạp của những chúng sanh hữu
thể luân hồi).
Ðức Phật còn nhấn mạnh với A Nậu
Lâu Ðà rằng:
- Nếu trong khi hành thiền, phát
triển được tám đức tánh ấy mà ông có thể đạt được Tứ Thiền dễ dàng, theo ý
muốn, thì từ đó ông sẽ không còn bị Ngũ trần (sắc, thinh, hương, vị, và xúc) ảnh
hưởng tới tâm nữa. Ðời sống thể xác của ông lúc ấy cũng sẽ an vui, tri túc với
bốn món vật dụng tối thiểu là y phục, thực phẩm, chỗ ở, và thuốc trị bệnh...
Trạng thái này có thể so sánh như một người trần tục hưởng thụ những xa xỉ phẩm
vậy. Bốn món vật dụng đạm bạc ấy hằng ngày không làm cho ông mắc dính Ngũ trần,
trái lại nhờ nó che chở thân thể mà ông có thể tinh tấn hành thiền để đạt đến
đích giải thoát cao thượng.
Lúc đức Phật từ giã vị đệ tử
nầy, Ngài cũng khuyên A Nậu Lâu Ðà nên tiếp tục ẩn tu trong vùng phía Ðông vườn
Trúc Lâm. A Nậu Lâu Ðà cung kính vâng lời, và ông đã tịnh nhập một mùa an cư kiết
hạ viên mãn ở đó. Theo kinh Tăng Chi A Hàm số 3/30 (Anguttara Nikàya 3: 30),
thì A Nậu Lâu Ðà nhờ tinh tấn vượt bực, nên sau đó chẳng bao lâu ông đắc quả
A-la-hán (Arahatta). Thành thử, lần Phật đến hỗ trợ ông ấy, cũng là lần tiếp độ
sau cùng, bởi một Thánh nhân A-la-hán là bậc đã biến thành "Vô học",
"Vô nhiễm" và "Bất đọa" vậy!
Ngay khi vừa đắc quả A-la-hán,
Thánh nhân A Nậu Lâu Ðà đã ứng khẩu ngâm mấy câu kệ, cúng dường đức Phật rằng:
"Người đã biết tận tâm tư đệ tử
Ðức Bổn Sư, bậc Siêu Thế đến đây
Bằng linh ý, bằng khinh thân bí tự
Người khai quang tâm tánh cá nhân nầy.
Phật xuất hiện khi thiền tâm cần học
Ðem phúc ngôn cao ngất chín từng mây
Dạy cho thấy căn ngũ trần ô trọc
Diệt tư duy [1] dứt sinh tử đọa đày
Giờ đệ tử trong xứ thiền an trú
Không phân tâm ra ngoại cảnh vần xoay
Tuệ giải thoát và Tam Thông [2] tích tụ
Phật ngôn kia hành đắc chữ Không nầy.
(N. Ð. thoát dịch ra văn vần,
theo các Tôn Túc Kệ Ngôn số 901-903 trong Tăng Chi A Hàm 8:0 = Theragàthà
901-903, Anguttara Nikàya 8:30).
[1] ] Tư duy ở đây ám chỉ sự vừa
lòng, và trông đợi những gì phàm tình ưa thích, kể cả các kết quả tu thiền.
[2] Tam Thông là: 1/ Thiên Nhãn
Thông (thấy hết mọi chúng sanh, vô hình lẫn hữu hình), 2/ Túc Mạng Thông (nhớ
tất cả các tiền kiếp), 3/ Lậu Tận Thông (diệt tận phiền não của chính mình).
[IV]
A NẬU LÂU ÐÀ VÀ THÁNH PHÁP TỨ NIỆM XỨ (Catu Satipatthàna)
Con đường
tu luyện viên dung của A Nậu Lâu Ðà có hai sắc thái nổi bật là thần thông tuyệt
đỉnh (nhờ Thiền định) và giải thoát rốt ráo (nhờ pháp Tứ Niệm Xứ = Catu
Satipatthàna).
Trong ba chương trước, chúng tôi
đã đề cập về sự đắc các bậc Thiền định, đạt được nhiều loại thần thông hạn hữu,
nhất là Thiên Nhãn Thông, của Thánh Tăng rồi. Bây giờ xin nói qua pháp Tứ Niệm
Xứ mà ông cũng là bậc có khả năng rèn luyện thành công siêu đẳng.
Sách chép: Thánh Tăng A Nậu Lâu
Ðà nhiều lần được hỏi nhờ đâu ông có một sự hiểu biết vô cùng "vĩ
đại" (ám chỉ Linh tuệ trực giác: Mahàbhinnatà), bao gồm cả năm loại năng
lực siêu phàm (như thấy xa vạn dặm, ngửi xa vạn dặm, nếm xa vạn dặm, và tàng
hình, biến hiện thân xác ở bất cứ nơi nào mình muốn, để tiếp xúc với đối tượng)
- Cùng phẩm cách tuyệt đỉnh thứ sáu là đắc quả A-la-hán, giải thoát?
Trong mỗi trường hợp A Nậu Lâu
Ðà luôn luôn trả lời rằng:
- Bần Tăng nhờ thực hành thiền
định không gián đoạn, và sống với bốn Thánh Pháp Niệm Xứ (Satipatthàna) mà đạt
được một số Thần Thông và Thánh quả giải thoát". (theo Tạp A Hàm số 47/28,
52/3, 6 và 11).
Riêng các khả năng siêu phàm,
nhất là khả năng nhớ lại đến hàng ngàn chu kỳ đại kiếp trước, thì câu trả lời
của Thánh Tăng có nội dung tương tự, được tìm thấy trong hai đoạn kinh Tạp A
Hàm số 52/12 và 52/11 (Samyutta Nikàya 52/12, 52/11).
Và để đề cao sự diệu dụng của
riêng pháp Tứ Niệm Xứ, Thánh Tăng A Nậu Lâu Ðà còn nói:
- Niệm Thân, niệm Thọ, niệm Tâm,
và niệm Pháp. Bốn thiền tác này hằng giúp cho bần Tăng kiểm soát được những
phản ứng vi tế nằm sâu trong cảm thức hướng thiện, Ariya Iddhi.
(Chữ "Ariya Iddhi",
học giả Hellmuth Hecker dịch ra Anh ngữ là: Emotive reaction, called "The
power of the noble ones").
Tiếp theo, A Nậu Lâu Ðà còn giải
rõ:
- Nhờ bốn Niệm ấy mà bần Tăng có
thể giác tịnh, thấy được tâm nào là tâm thúc đẩy tạo nghiệp, và tâm nào là tâm
không thúc đẩy tạo nghiệp, rồi bần Tăng vô tư, khách quan, xem nó như nhau,
bình đẳng, và thực hiện pháp Xả. (theo Tạp A Hàm số 52/1: Samyutta Nikàya
52/1).
(Quí vị nào muốn nghiên cứu xa
hơn về "Thiền Tâm Bình Ðẳng, và Pháp Xả" nói trên, hãy đọc cuốn
"The Heart of The Buddhist Meditation" của Nyànaponika, do London
Rider và Co. , xuất bản năm 1962, nhất là trang 181, đoạn 45).
Xa hơn nữa, Thánh Tăng A Nậu Lâu
Ðà cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của sự thực hành Tứ Niệm Xứ như sau:
- Bậc xuất gia mà chểnh mảng
việc tu hành pháp Tứ Niệm Xứ thì chẳng khác nào họ không muốn tiến bước trên
con đường Bát Chánh. (theo Tạp A Hàm số 52/2). Vì rằng bốn Thánh Pháp Niệm Xứ
này là ngọn đuốc soi đường, đưa hành giả đến mục tiêu cuối cùng giải thoát,
chấm dứt mọi khát vọng, và tham lam. (theo Tạp A Hàm số 52/7: Samyutta Nikàya
52/7). Ví như dòng nước con sông Hằng, chảy qua Trung Ấn, không thể nào không
ra biển, thì một Sa-môn khi thực hành Thánh pháp Tứ Niệm Xứ, cũng không thể nào
rời xa đời sống phạm hạnh, thanh tịnh, để trở lại kiếp sống đau khổ trần tục.
(theo Tạp A Hàm số 52/8).
Một lần nọ, A Nậu Lâu Ðà bị bệnh
nặng, ông đã làm cho tất cả đồng đạo vô cùng ngạc nhiên về pháp thanh tịnh tâm
thức của ông. Mức độ đau đớn thân xác do thân bệnh ông gây ra, nếu là người khác
thì phải lăn lộn, quằn quại, hoặc ai gan lì lắm cũng phải run rẩy tay chân,
nhăn nhó mặt mày. Thế mà A Nậu Lâu Ðà vẫn điềm tĩnh dịu hòa. Ông thản nhiên giữ
tâm trong pháp thiền, như một nhà điêu khắc lộ thiên chăm chú tô điểm tác phẩm
duy nhất của mình, mà không biết gì đến mưa nắng gay gắt, hay gió bão xung
quanh. Ðược hỏi nhờ đâu ông có thể chịu nổi những khổ bệnh tàn khốc như thế, A Nậu
Lâu Ðà liền trả lời:
- Bần Tăng nhờ để tâm thường trú
trong Thiền Pháp Tứ Niệm Xứ." (theo Tạp A Hàm số 52/10).
Một hôm, Trưởng lão Xá Lợi Phất
(Sàrìputta) đến thăm A Nậu Lâu Ðà vào buổi tối, và hỏi vị sư đệ này hiện tại
đang thực hành thiền pháp gì, mà nét mặt ông luôn luôn tươi tỉnh và thanh tịnh,
thì được trả lời:
- Bạch đại huynh! Tiểu đệ hằng
giây hằng phút thường an trú tâm thức trong thiền Tứ Niệm Xứ! Vì niệm Thân,
niệm Thọ, niệm Tâm, và niệm Pháp là bốn sinh hoạt trong đời sống tinh thần của một
bậc giải thoát A-la-hán.
Nhờ đó Trưởng lão Xá Lợi Phất
mới biết được sự đắc quả Thánh Bất Lai của A Nậu Lâu Ðà. Trưởng lão liền tỏ
lòng hoan hỷ, và tán thán công phu của vị Thánh nhân sư đệ. (theo Tạp A Hàm số
52/9: Samyutta Nikàya 52/9).
Một lần khác, cả hai Trưởng lão
Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên (Sàrìputta ca Mahà Moggallàno ca), nhân cùng dịp
luận đạo với A Nậu Lâu Ðà (Anuruddha), bèn hỏi ông sự khác biệt giữa một bậc
đang tu tập (Sekhà) để tiến lên Thánh quả A-la-hán, với một bậc đã hoàn toàn
giải thoát, không còn rèn luyện tâm tánh nữa (Asekhà), thì cũng được ông trả
lời như sau:
- Bạch nhị vị đại huynh! Sự khác
biệt giữa hai bậc ấy có thể nhìn thấy rất rõ ràng trong tư cách thực hành Thiền
pháp Tứ Niệm Xứ của họ! Bậc thứ nhất chỉ thuần thục một phần trong Thánh Pháp
này, nên phải còn tu luyện thêm nữa, còn bậc thứ hai đã hoàn toàn thụ đắc, rồi
đạo quả luôn luôn nằm trong tâm tư họ, khiến họ "sống bằng Tứ Niệm Xứ"
chứ không phải cố gắng thực hành Tứ Niệm Xứ nữa (theo Tạp A Hàm các số 52/4 -
52/5: Samyutta Nikàya 52/4-5).
(Lời thêm của dịch giả: Theo
kinh điển Phật Giáo Nam truyền thì chữ "Sekhà" thường được dịch là
bậc "Hữu học", ám chỉ ba hạng Thánh đầu tiên là Tu Ðà Hườn, Tư Ðà
Hàm, và A Na Hàm. Họ còn luân hồi từ một đến bảy kiếp nữa, mới được giải thoát,
nên phải tiếp tục tu tập. Nhưng chữ "Asekhà" ám chỉ Thánh quả
A-la-hán, nghĩa là bậc "hết học" hay "vô học", không bị
luân hồi nữa. Hạng Thánh nhân A-la-hán này, khi hết tuổi thọ là nhập Niết bàn,
giải thoát, như đức Phật vậy).
Ngoài ra, A Nậu Lâu Ðà cũng tiết
lộ là ông đã đắc được "Thập Ðại Thần Công" (Dasatathàgatabàla) như
một vị Phật. Tuy nhiên, chú giải lại ghi rằng "Thập Ðại Thần Công"
của A Nậu Lâu Ðà không hoàn toàn như "Thập Ðại Thần Công" của một bậc
Chánh Ðẳng Chánh Giác. (theo Tạp A Hàm số 52/15-24: Samyutta Nikàya 52/15-24).