Phần 3
[V]
A NẬU LÂU ÐÀ VÀ NỮ PHÁI
Tuy hầu
hết những mẫu chuyện của A Nậu Lâu Ðà, được thuật lại trong kinh điển, chỉ liên
quan đến các đề tài Thiền pháp. Nhưng cũng có một số ít bản kinh nói về thái
độ, hay tư cách, của vị Thánh Tăng này, đối với nữ giới.
Chẳng hạn như một bản văn đã kể
lại giai thoại sau đây:
Một lần nọ, A Nậu Lâu Ðà ẩn tu
đơn độc trong một ngôi rừng vắng. Lúc ấy có một tiên nữ tên là Jàlinì, từ cõi
trời thứ ba mươi ba hiện xuống, cứ quanh quẩn bên ông.
Vị tiên nữ này vốn trong kiếp trước,
khi tiền thân A Nậu Lâu Ðà làm vua trời Ðế Thích (Sakka), thì nàng chính là
chánh cung Hoàng hậu. Vì tuổi thọ của loài người, so với tuổi thọ của cõi Trời rất
ngắn, chỉ như chốc lát trên thiên giới mà thôi. Và nghiệp lực đưa "Thiên
linh" đi đầu thai xuống trần gian cũng hằng làm cho "Thiên linh"
ấy quên hết mọi việc kiếp trước, nên A Nậu Lâu Ðà đã không lập tức nhận ra nàng
là ai. Còn vị tiên nữ Jàlinì kia thì cứ tưởng "Ðế Thích" chồng mình,
mê ngao du địa giới bị đọa, để nàng đi tìm.
Kết quả, do tính luyến ái vợ
chồng trên thiên cảnh trong lòng nàng chưa dứt, nên vị tiên nữ ấy, sau khi nhận
ra A Nậu Lâu Ðà là hậu thân của Ðế Thích, bèn yêu cầu ông phát nguyện làm sao
cho sớm hết tuổi thọ làm người, để thoát sinh lên cõi trời, sum họp với nàng.
Giọng yêu cầu của tiên nữ rất
ngọt ngào tha thiết, hòa với nét đẹp của một đệ nhất hoa khôi thiên giới giáng
trần, khiến cho bất cứ phàm nhân nào nghe cũng phải say đắm, huống chi
"phàm nhân" ấy từ tiền kiếp, đã có duyên phu thê với nàng!
Thế nhưng A Nậu Lâu Ðà thản
nhiên trả lời bằng câu kệ rằng:
"Này tiên nữ, đừng mê lầm vướng mắc
Nơi Thiên cung còn tội báo nghiệp thân
Nàng tăm tối nên tình tiên ôm chặt
Phu thê ư, hay nhân quả xoay vần?".
Tuy nhiên, tiên nữ Jàlinì vẫn
không hiểu A Nậu Lâu Ðà nói gì, bèn dịu dàng phân bua, âm thanh ngọt ngào như
tiếng đàn:
"Thiếp chẳng thấy trong cõi trần hạnh phúc,
Tại sao người không bỏ xác về tiên?
Nơi đó Thiên Vương cao cả uy quyền,
Ðầy phép lạ và tuổi đời vô tận!".
A Nậu Lâu Ðà lại phải giảng giải
bằng ba câu kệ ngôn nữa rằng:
"Nàng đã bị lậu vô minh che áng
Chẳng hiểu thông lời chân thật Thánh nhân
Pháp vô thường không phân biệt tiên, trần
Duy điều kiện hợp tan là định luật!
Bốn giai đọan sinh, già, và bệnh, chết
Từ điểm "không", tạo khổ, để hoàn "không"
"Thân kiến" phù du như kiếp nắng hồng
Buổi trưa nóng, buổi chiều tàn lạnh ngắt.
Nàng có biết đường luân hồi muôn mặt
Bần Tăng giờ, tâm quyết dứt đăng trình
Kiếp chót này tu, tận diệt duyên sinh,
Vượt ba cõi, chỉ vào trong "không" tịnh".
(N. Ð. Thoát dịch ra văn vần,
theo Tạp A Hàm, số 9/6 Samyutta Nikàya No. 9/6).
Một lần khác, một đám tiên nữ
được mệnh danh là "Thiên Thần kiều diễm", rủ nhau xuất hiện trước mặt
A Nậu Lâu Ðà. Sau khi đã chào kính vị Thiền Tăng, những tiên nữ này liền thay
phiên nhau khoe khoang với A Nậu Lâu Ðà rằng họ có nhiều khả năng tuyệt diệu.
Chẳng hạn như họ có thể trong nháy mắt, thay đổi màu da, mái tóc. Hoặc họ có
thể tự biến giọng nói thanh tao, ngọt ngào, theo ý muốn v.v... Nghĩa là họ mỗi
khi ao ước hưởng thụ một khoái lạc gì, thì tức khắc họ sẽ được toại nguyện.
Ðể thử xem những điều các tiên
nữ vừa khoe là thật hay giả, A Nậu Lâu Ðà liền "nói" trong tâm tư
rằng: "Vậy các nàng hãy hóa ra màu xanh đi!". Thì lập tức họ hóa ra
màu xanh. Rồi Thiền Tăng muốn thứ lại một vài lần nữa, ông "đổi ý"
bảo thầm với các tiên nữ chuyển ra màu đỏ, màu vàng, màu tím v.v... Thì họ cũng
đều làm được. Ðặc biệt hơn, là họ còn có "Tha Tâm Thông", biết rõ
những gì loài người đang suy nghi.
Chứng kiến sự thật ấy, Thiền
Tăng A Nậu Lâu Ðà liền cảnh giác, để tâm hồn thanh tịnh, an trú vào thiền pháp
"Phi Tưởng", không cho tâm mình tư duy bất cứ một chuyện gì cả, nên
ông ngồi im.
Lúc bấy giờ các tiên nữ cảm thấy
vô cùng sung sướng (vì đã chứng minh được phép thuật của họ). Ðoạn các tiên nữ
vui thích, bắt đầu ca hát và khiêu vũ, xung quanh vị Thiền Tăng. Lời lẽ và điệu
bộ vô cùng hấp dẫn, không kể là một phàm nhân, ngay cả các tiên nam trên cõi
trời Dục giới nhìn thấy, cũng phải say đắm, mê mẫn!
Thế mà A Nậu Lâu Ðà vẫn ngồi im,
bất động. Vì ông đã an trú vững chắc Lục thức vào trong một cõi thiền. (Lục
thức là Nhãn thức, nhĩ thức, tỵ thức, thiệt thức, thân thức, và ý thức). Nhất thời
tuy Lục căn của ông vẫn bình thường, nhưng "Lục thức" không có mặt để
tiếp xúc với "Lục trần", nên ngoại cảnh chẳng thể nào quấy nhiễu tâm linh
ông được. (Lục căn là Nhãn căn, nhĩ căn, tỵ căn, thiệt căn, thân căn, và ý căn.
Lục trần là sắc, thinh, hương, vị, xúc, và pháp. Lục căn có thể ví như sáu cái
cửa, và Lục trần là sáu đối tượng đập vào sáu cửa ấy).
Các tiên nữ, sau một hồi ca vũ,
xét thấy A Nậu Lâu Ðà không chú ý đến họ. Do đó, ông cũng chẳng chiêm ngưỡng gì
sắc đẹp và pháp thuật kỳ diệu của họ, nên tất cả tự động biến mất, quay về
Thiên giới.! (theo Tạp A Hàm số 9/6: Samyutta Nikàya 9/6).
Nếu chúng ta nhớ lại thời A Nậu
Lâu Ðà còn làm một Hoàng tử đẹp trai, sống trong nhung lụa vương cung, hằng
ngày được nuông chìu, hầu hạ bằng ăn sung, mặc sướng, gái đẹp và nhạc hay, thì
chúng ta sẽ hiểu sâu xa hơn, cái khung cảnh tiên nữ ca vũ, mơn trớn xung quanh
ông, có thể là một thách đố đối với Thiền Tăng. Chính những gì ngày xưa, A Nậu
Lâu Ðà đã say mê ưa thích, thì bây giờ ông lại dẹp bỏ. Phải chăng nhờ Phật giáo
mà A Nậu Lâu Ðà đã sớm được giải thoát? Nếu không do thiện hạnh đã gieo trồng
từ nhiều kiếp trước, ông có thể sẽ bị vướng mắc vào trong các lạc thú trên những
cõi trời đầy quyền uy và hạnh phúc (Ám chỉ các tầng trời từ thứ ba mươi ba trở
lên).
A Nậu Lâu Ðà sau đó nghĩ rằng sự
xuất hiện cám dỗ của các tiên nữ vừa qua, đáng nhắc lại như một đề tài, để cho
đức Phật chỉ dạy. Vì vậy, khi gặp Phật, ông đã tường thuật đầy đủ câu chuyện,
và đặt câu hỏi rằng:
- Bạch đức Bổn Sư! Nhờ những đức
hạnh gì, mà một người đàn bà có thể được sinh lên cái cõi Nữ Thần đẹp nhất
Thiên giới?
A Nậu Lâu Ðà nêu câu hỏi ấy,
không phải vì lòng còn ưa thích sắc đẹp của các tiên nữ, mà vì tính tò mò, muốn
biết rõ nhân lành nào đã dẫn đến một kết quả đặc biệt như thế!
Ðức Phật từ bi trả lời:
- Này A Nậu Lâu Ðà! Có tám phẩm
hạnh khiến cho một nữ nhân sẽ thoát sinh lên cõi trời mỹ sắc ấy là:
1. Người đàn bà sau khi lập gia
đình, phải có nết hạnh chìu chuộng và thân ái đối với chồng.
2. Người nữ phải luôn luôn tỏ ra
lịch sự, và hiếu khách đối với những thân nhân mà chồng mình quí mến, nhất là
cha mẹ chồng và các hàng phạm hạnh đạo sĩ.
3. Người nữ phải chu toàn mọi
việc gia đình một cách cẩn thận và siêng năng.
4. Người nữ phải biết chăm sóc
và hướng dẫn kẻ ăn người ở trong nhà một cách có kế hoạch.
5. Người nữ phải có tính không
phung phí tài sản của chồng, và biết cách gìn giữ an toàn.
6. Người nữ không thích cờ bạc
rượu chè, và làm mọi cách để tránh cho chồng khỏi mắc phải tật rượu chè cờ bạc,
nguyên nhân làm cho chồng sạt nghiệp.
7. Người nữ nếu không "xuất
gia" thì phải biết qui y, nương nhờ nơi Tam bảo, và nhất là nghiêm giữ năm
giới cấm, và
8. Người nữ phải có lòng rộng
lượng, thương người, cũng như biết chia sớt sự sống của mình cho những ai đói
rách (theo Tăng Chi A Hàm số 8/46 Anguttara Nikàya 8/46).
Ngoài hai câu chuyện nói trên,
liên quan đến các tiên nữ hiện ra thân người trước mặt A Nậu Lâu Ðà, còn có
nhiều điển tích trong kinh sách, thuật lại khả năng dùng "Thần nhãn"
của ông, để nhìn thấy những "linh hồn nữ" thoát sinh lên Thiên giới,
hay bị đọa xuống các cảnh khổ (nhất là cõi địa ngục) nhu thế nào.
Một lần nọ A Nậu Lâu Ðà cũng hỏi
Phật, người nữ vì phạm trọng tội gì, mà họ phải sinh vào địa ngục, thì được
Phật trả lời rằng:
"Này A Nậu Lâu Ðà! Có năm
nguyên nhân làm cho một người đàn bà sẽ bị sa đọa là:
1. Thiếu niềm tin trong chánh
pháp.
2. Không biết hỗ thẹn khi đã lỡ
làm điều bất thiện.
3. Chẳng ghê sợ tội lỗi.
4. Người thường nóng giận.
5. Ðầu óc không bình tĩnh, dễ
tin nhảm.
- Này A Nậu Lâu Ðà! Xa hơn nữa,
một người đàn bà, do năm tật xấu nói trên, có thể sinh ra nhiều ác tính khác,
như thù vặt, ganh tị, keo kiệt, lang chạ, vô luân lý, lười biếng, và đãng trí.
Rồi khi hết tuổi thọ, họ chắc chắn sẽ bị đọa vào địa ngục.
Nhưng ngược lại, này A Nậu Lâu
Ðà! Nếu một người đàn bà biết tu sửa, phát triển những đức tính đối trị như sau:
1. Vững niềm tin trong chánh
pháp.
2. Tự hổ thẹn với lỗi lầm của
mình.
3. Ghê sợ tội lỗi.
4. Hoà dịu không nóng giận.
5. Tinh thần bình tĩnh sáng suốt.
Rồi từ đó các nết tốt của họ
cũng hiện ra, là không chấp nhất thù hằn, không ganh tị, không keo kiệt, trung
thành với chồng, biết tôn trọng luân lý, siêng năng và chăm chỉ. Những đức tính
ấy sẽ giúp họ tiến hóa lên thiên đường (theo Tạp A Hàm số 37/5-24: Samyutta
Nikàya 37/5-24).
Và nhân một cuộc "Pháp
đàm" khác, A Nậu Lâu Ðà lại thuật cho đức Phật nghe rằng: Trong đời sống
hằng ngày có nhiều người đàn bà bề ngoài rất nghiêm trang, cử chỉ cũng hòa dịu,
thế mà khi họ hết tuổi thọ thì ông "thấy" họ lập tức sinh vào địa
ngục, là bởi làm sao?
Ðức Phật trả lời:
- Này A Nậu Lâu Ðà! Có ba nết
xấu rất nguy hiểm trong một người đàn bà, luôn luôn dắt dẫn họ đi thẳng vào con
đường địa ngục là: Buổi sáng họ keo kiệt, buổi trưa ham muốn của cải danh vọng,
và buổi tối đòi hỏi tình dục (theo Tăng Chi A Hàm số 3/127: Anguttara Nikàya
3/127).
Ngoài ra, những thuật sự nói về
kiếp trước của A Nậu Lâu Ðà cũng mô tả mối liên quan sâu xa của tiền thân ông
với phái nữ. Tất cả đều chứng tỏ A Nậu Lâu Ðà, xuyên qua những kiếp xa xưa, đã
được phái nữ ngưỡng mộ rất nhiều. Và trong những tiền kiếp ấy, ông đã bị đầu
thai làm thú vật chỉ có một lần:
Khi ấy ông sinh làm chim câu
rừng và bồ câu mái, bạn ông, đã bị một diều hâu sát hại. Ðể đối phó với nỗi khổ
buồn thương, biệt ly bạn đồng hành, tiền thân làm chim câu trống của ông, đã quyết
định nhịn đói cho đến khi vơi đi mọi cô độc sợ hãi.
Câu chuyện buồn thương và nhịn
đói vì nhớ bạn của tiền thân làm chim ( A Nậu Lâu Ðà) đã được kể lại bằng những
câu kệ sau đây:
"Trong kiếp ấy vì ham vui mà khổ
Tôi đã làm chim, cùng bạn bay xa
Gặp phải diều hâu, cái chết xóa nhòa
Một sinh mạng theo tử thần tan tác.
Sống thơ thẩn, nhớ bóng hình đã mất
Kiếp cô đơn, ngày tháng lạnh lùng trôi
Tuyệt thực cho vơi bất hạnh cuộc đời
Mong cái khổ đừng bao giờ trở lại...".
(N. Ð.
thoát dịch ra văn vần, theo Túc Sinh truyện số 490)
Còn một câu chuyện tái sinh, rồi
vì đa tình mê sắc, đã gây oan nghiệt, cũng xin kể ra đây, để quí vị Phật tử
thấy rằng A Nậu Lâu Ðà trước khi trở thành Thánh nhân, trong vô lượng kiếp luân
hồi, ông cũng đã từng có tâm ác độc, như bao nhiêu chúng sanh tội lỗi khác:
Kiếp ấy, tiền thân A Nậu Lâu Ðà
sinh làm vua, trong khi săn bắn giữa rừng, ông gặp phải một người đàn bà cực
đẹp, đẹp đến nỗi mà ông lập tức si tình.
Và để chiếm hữu giai nhân tuyệt
sắc, nhà vua liền giương cung bắn vào chồng nàng, gây trọng thương. Nhưng người
đàn bà đã không sợ sệt trước quyền uy của một vị vua, cũng như không mê mờ
trước cảnh sống vương giả, mà nhà vua sẵn sàng cống hiến. Nàng mạnh dạn tố cáo
sự ác độc của nhà vua, và tuyên bố quyết chết theo chồng, chứ không để tấm thân
mình bị kẻ tàn bạo làm hoen ố. Kết quả, nhà vua đã thức tỉnh, rồi hối hận bỏ
đi, để lại sau lưng một người đẹp, bên cạnh một nạn nhân của tính háo sắc. Cũng
may là chồng người đàn bà ấy bị vết thương không ở chỗ tán mạng.
Và người đẹp trong "đoản
kịch" nghiệt ngã ấy không ai khác hơn là tiền thân của Da Du Ðà La
(Yasodharà), cùng chồng nàng là tiền thân đức Bồ Tát Sĩ Ðạt Ta, người mà trong
kiếp chót đã viên tròn Phật quả, đồng thời trở thành Bổn Sư của Thánh Tăng A
Nậu Lâu Ðà (theo Túc Sinh truyện số 485: Jàtaka 485).
Xong chuyện gây oán, giờ xin
thuật qua chuyện tạo ân: Một kiếp nọ, tiền thân A Nậu Lâu Ðà sinh làm vua trời
Ðế Thích, rồi tìm cách tiếp độ tiền thân đức Bồ Tát, tái sinh làm một nhạc sĩ, thổi
tiêu rất hay, tên là Guttila.
Lúc ấy Ðế Thích dụng tâm khuyến
khích cho ba trăm nữ thần giáng trần để luân vũ, theo giọng tiêu trầm bổng, réo
rắt của Guttila. Và họ đã hòa điệu nhạc vũ một cách liên hoan như thế đến ba
lần. Qua lần thứ tư theo lời yêu cầu của toàn thể tiên nữ, Ðế Thích đã mời và
dùng thần thông đưa nhạc sĩ Guttila, lên thổi tiêu trên Thiên cảnh, do ông ngự
trị.
Khi kết thúc âm nhạc, Guttila
động tính tò mò bèn hỏi các nữ thần, do phước báu nào mà họ được sinh lên cõi
trời, thì được trả lời rằng: "Chúng tôi sở dĩ hưởng được hạnh phúc này, là
nhờ kiếp trước thường xuyên cúng dường các bậc phạm hạnh, cũng như thường xuyên
nghe chánh pháp, thường xuyên bố thí đến kẻ nghèo, nhất là bố thí bằng sự kính trọng,
không nóng giận và ngạo mạn.
Chỉ nghe câu trả lời ấy, nhạc sĩ
Guttila (tiền thân đức Bồ Tát) liền sinh lòng thỏa thích, và hạt giống
"thiên tánh" tự nhiên sống lại trong tâm hồn ông. Từ đó về sau, tuy
làm người, nhưng nhạc sĩ Guttila vẫn thỉnh thoảng lên thổi tiêu trên cõi trời.
(theo Túc Sinh truyện số 243: Jàtaka 243)
Trở lại đời sống Sa-môn hiện tại
của A Nậu Lâu Ðà. Những đặc điểm nổi bật và những khả năng xuất chúng của ông,
đã được đề cập rồi. Bây giờ xin nói qua một biến cố có liên quan đến ông, mà từ
đó đức Phật đã chế ra một điều luật.
Số là A Nậu Lâu Ðà và sư đệ là
Tôn giả A Nan Ðà (Ànanda) (tức hai trong số những đại đệ tử thân cận nhất của
đức Phật), một hôm là duyên cớ để đức Phật chế ra hai điều luật. Cả hai điều
luật ấy đều áp dụng cho Tỳ-khưu Tăng trước phái nữ. Ðiều luật thứ nhất gọi là
Pàcittiya 83 (Ưng Ðối Trị 83), và A Nan Ðà là "chứng nhân" trong đề
tài. Ðiều luật thứ hai do câu chuyện sau đây:
Một thời Thiền Tăng A Nậu Lâu Ðà
có việc phải du hành xuyên qua vương quốc Kosala, hướng về thành Xá Vệ
(Sàvatthì). Vào một buổi tối mưa gió, ông đến ngôi làng kia, và không tìm ra
một tu viện, tịnh xá hay một nơi nào thích hợp cho các hàng đạo sĩ cư ngụ. Thiền
Tăng bắt buộc phải xin tạm trú tại phòng ngoài của một quán trọ, do một người
đàn bà xinh đẹp quản lý. A Nậu Lâu Ðà yên trí rằng "Phòng ngoài là một
khoảng cách biệt, Tăng sĩ có thể tá túc qua đêm được".
Nhưng chẳng bao lâu sau, số
người lỡ đường, xin vào ngủ trọ càng lúc càng đông, khiến cho nữ chủ nhân bỗng
đổi ý mời Thiền Tăng vào nghỉ tận phòng trong. Bà viện cớ rằng ở đó yên tịnh,
và giường chiếu cũng tươm tất hơn. A Nậu Lâu Ðà, trước hoàn cảnh đông người như
thế vẫn trầm tĩnh, yên lặng, tức là ông mặc nhiên chấp thuận, chẳng tìm hiểu
"ẩn ý" của nữ chủ quán. Tuy nhiên nữ chủ quán ấy trước khi mời Thiền
Tăng vào nghỉ bên trong, bà đã quan sát thấy ông là một tu sĩ khôi ngô, tuấn
tú, nên sinh lòng ái cảm.
Thế là, khi mọi người ai về
giường nấy, nữ chủ nhân bèn vô tư phòng trang điểm, mình ướp đầy dầu thơm, và
mang hết những nữ trang đẹp nhất. Ðoạn bà bước vào phòng A Nậu Lâu Ðà nhoẻn
miệng cười, nói:
- Này đạo sĩ đáng kính! Ngài vừa
hiền hậu, vừa anh tuấn, vừa khoẻ mạnh. Mới trông thấy Ngài là tiện nữ đã yêu
mến rồi. Thật là một đại hạnh cho tiện nữ, nếu được Ngài xem như một hiền phụ.
A Nậu Lâu Ðà nhất lời ngồi im.
Nữ chủ quán thấy vậy tưởng lầm
rằng sự "im lặng" ấy là chấp thuận. Bà lập tức mở hết đồ nữ trang,
gom tất cả tiền bạc, đem để trước mặt A Nậu Lâu Ðà, rồi tiếp:
"Xin quí nhân hãy nhận lãnh
những lễ vật mọn này, cho thiếp được an lòng.
Nhưng A Nậu Lâu Ðà vẫn ngồi yên.
Vì Lục căn của ông lúc đó đã được an trú vững chắc trong một cõi Thiên, nên ông
chẳng hay biết gì cả.
Sự "im lặng" lần thứ
hai càng làm cho người đàn bà khích động. Bà vội vàng cởi hết quần áo ngoài ra,
để lộ một tấm thân diễm kiều khêu gợi, rồi bắt đầu khiêu vũ xung quanh chiếc
giường A Nậu Lâu Ðà.
Tuy nhiên, vị Sa-môn trước sau
vẫn bất động. Ông như một tượng đá uy nghi trước mọi cám dỗ xác thịt, trước mọi
vàng bạc hào nháng, và mê hoặc của cuộc đời.
Lần này nữ chủ quán bất chợt
ngạc nhiên. Bà ngạc nhiên tột cùng vì nhận thấy không một cử chỉ lả lơi, mời
mọc nào của bà được đối tượng chú ý! Thật là một chuyện phi thường, bởi bà rõ
ràng là một giai nhân tuyệt sắc, chứ không phải là kẻ xấu xí hèn mọn.
Từ ngạc nhiên người đàn bà
ngưỡng mộ. Bất thần bà quỳ xuống trước mặt A Nậu Lâu Ðà tán dương:
- Thật là thánh thiện! Thật là
cao thượng! Này bậc đạo sĩ, Ngài là một siêu nhân, một Thiên thánh không lệ
thuộc giác quan, mới có tư cách như thế đối với tiện nữ! Vì trên đời này từ
trước tới nay, chỉ có những nam nhân giàu sang, quyền quí mang đầy của cải và
danh vọng đến mọp bên chân của tiện nữ để xin xỏ tình yêu, chứ chưa bao giờ có
một người thờ ơ, trước sự phủ phục của chính tiện nữ cả.
Sau đó người nữ chủ nhân quán
trọ bỗng tỏ ra hối hận. Bà chậm chạp mặc tất cả quần áo, cùng đồ nữ trang trở
lại, rồi một lần nữa phủ phục dưới chân A Nậu Lâu Ðà để xin Thiền Tăng tha thứ
cho những hành động cám dỗ vừa qua.
Lúc bấy giờ A Nậu Lâu Ðà mới mở
mắt ra và thanh tịnh xá lỗi cho người đàn bà lầm lạc. Ðồng thời ông cũng khuyên
bà nên sáng suốt chỉ huy lấy tâm tư mình. Vì bà còn trẻ và rất đẹp, nếu không cẩn
thận, bà có thể bị khổ lụy bởi tình yêu trong tương lai...
Tất nhiên vở kịch tình cảm bồng
bột được kết thúc ở đó, và người đàn bà đã trở về phòng mình một cách yên tâm
"giác ngộ".
Sáng hôm sau, mọi người đều thấy
nữ chủ nhân quán trọ phong độ rất khiêm cung, nét mặt rất vui vẻ mang thức ăn
điểm tâm đến cúng dường tận tay A Nậu Lâu Ðà. Vị Thiền Tăng cũng thuyết cho
nàng một bài pháp khiến cho nữ chủ nhân quán trọ bỗng chốc trở thành Phật tử và
tình nguyện suốt đời sống đúng theo lời Phật dạy.
A Nậu Lâu Ðà sau đó tiếp tục
cuộc hành trình. Ông đến tu viện Phật giáo ở Xá Vệ (Sàvatthì) vào một buổi
chiều. Khi ông thành thật kể lại chuyện ấy cho một đồng đạo nghe, thì được đức Phật
kêu vào quở trách:
- Này A Nậu Lâu Ðà! Một Tỳ-khưu
xuất gia theo Phật giáo không được ở đêm trong ngôi nhà do người nữ làm chủ,
cũng không được ngủ chung phòng có nữ nhân! Như Lai chế ra luật cấm này kể từ ngày
hôm nay, và gọi đó là giới Ưng Ðối Trị (theo Tạng Luật phẩm Vibhanga, phần điều
răn Pàcittiya đọan số 6).
Thuật sự này chứng tỏ rằng Thiền
Tăng A Nậu Lâu Ðà đã nhờ thiền pháp chỉ huy con tâm, mà ông tránh khỏi cảnh khổ
làm nô lệ cho dục vọng. Sức mạnh an trụ của ông đã đánh thức và cảm hoá được
người đàn bà lửa dục đang bừng cháy, khiến đương sự tỉnh ngộ, ăn năn, trở về
với chánh pháp, rồi quy y Phật, quy y Pháp và quy y Tăng. Do đó, chúng ta chúng
sanh có thể nói rằng Thiền pháp của A Nậu Lâu Ðà, không những đem lại an vui
cho chính ông, mà còn mang đến giác ngộ cho người khác. Người khác ở đây nếu
căn cứ theo câu chuyện vừa kể là phái nữ vậy.
Tuy nhiên, khi đức Phật chế ra
điều luật nói trên, Ngài đã "quở trách" A Nậu Lâu Ðà chỉ như một
duyên cớ mà thôi, chứ không phải Phật chẳng tin vào đức hạnh của vị Ðại đệ tử này.
Vì rằng, các phàm Tăng, tốt hơn là nên tránh trước, đừng để rơi vào một tình
trạng cám dỗ không lối rút lui, như thế họ có thể gục ngã bởi dục vọng dễ dàng.
Nghĩa là đức Thế Tôn, do lòng từ
bi, Ngài đã không muốn cho chư đệ tử sơ cơ, rơi vào vòng nguy hiểm. Nếu đọc kỹ
trong kinh điển, chúng ta sẽ thấy rằng: Lúc sinh tiền đức Phật thường khi đã
ngăn ngừa cho những phàm Tăng một số "trợ duyên" gây tội, hơn là để
cho họ tự biết tự tu.
Câu chuyện định tâm của Thánh
Tăng A Nậu Lâu Ðà ở phương Ðông, hơn 2500 năm trước, có nhiều điểm tương đồng
với đức tánh của Thánh Bernard De Clairvaux trong sử Pháp. Vào đầu thế kỷ thứ
XII, năm 1115: Một hôm, vị ẩn sĩ trẻ tuổi này (Bernard De Clairvaux) dừng chân
nghỉ đêm trong một quán trọ. Ông đã được chủ quán dành cho một chiếc băng nơi
phòng khách, vì những chỗ khác đã có người chiếm trước. Thình lình nửa đêm, cô
con gái của chủ quán, vốn tính thích những nam nhân đẹp trai, tự mò đến tỏ
tình. Nhưng Bernard De Clairvaux đã ôn hòa từ chối. Và vì trời rét, ông đã buộc
lòng phải kéo lại tấm chăn bông, và nói với cô gái:
- Nếu cô chỉ cần một chỗ ngủ thì
cái băng này có thể đủ cho hai người! Nhưng nếu cô tìm một cái gì khác thì cô
sẽ thất vọng.
Sự thản nhiên hoàn toàn trước
cám dỗ xác thịt của Bernard De Clairvaux đã làm cho cô gái kính trọng, và hổ
thẹn bỏ đi. Ðiểm giống nhau của hai vị Thánh, một ở phương Ðông và một ở phương
Tây, là họ tự chỉ huy được tâm hồn mình, rồi thuyết phục người khác bằng tinh
thần và hạnh kiểm trong sạch, thánh thiện, chứ không phải bằng giảng đạo.