Chương I: Thời kỳ 500 NĂM trước công nguyên
1. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CỦA THỜI KỲ ĐẦU
Điểm nổi bật của thời kỳ đầu là thiếu hẳn các thông tin chính xác.
Duy nhất chỉ có một niên đại thật sự chắc chắn, đó là thời kỳ cai trị
của hoàng đế A-dục,1 từ năm 274 đến năm 236 trước Công nguyên. Vua A-dục
là người hết sức ủng hộ Phật giáo và đã đưa tôn giáo này từ một tôn
giáo nhỏ của các nhà tu khổ hạnh trở thành một tôn giáo lớn trên toàn
cõi Ấn Độ.
Ngay cả những ghi chép niên đại liên quan đến cuộc đời của đức Phật cũng
là một sự suy đoán không chắc chắn. Người Ấn Độ từ trước đến nay vẫn
cho rằng đức Phật đã nhập diệt khoảng 100 năm trước vua A-dục. Còn những
học giả cận đại nói chung đều đồng ý rằng ngài đã sống vào một quãng
thời gian nào đó trong khoảng từ năm 563 đến năm 483 trước Công nguyên.
Tuy có phần nào miễn cưỡng, nhưng ở đây cũng phải tạm chấp nhận theo
niên đại ấy.
Tính chất các văn bản hiện có của chúng ta lại càng làm tăng thêm tính
không xác thực của vấn đề. Suốt trong thời kỳ đầu này, kinh điển chỉ
được truyền miệng, và phải cho đến khoảng gần cuối thời kỳ mới bắt đầu
có sự ghi chép. Những gì đức Phật đã thật sự nói ra, hầu như không có gì
được ghi chép lại ngay. Có thể là vào lúc ấy đức Phật đã giảng dạy bằng
ngôn ngữ Ardhamagadhi,2 nhưng không có Phật ngôn nào được ghi lại bằng
ngôn ngữ này. Về những kinh điển được ghi chép sớm nhất, ngay cả ngôn
ngữ được sử dụng vẫn còn là một vấn đề gây tranh cãi. Những gì chúng ta
có chỉ là bản dịch của những kinh điển đầu tiên ấy sang các thứ tiếng Ấn
Độ khác, chủ yếu là tiếng Pli, và một hình thức đặc biệt của tiếng
Sanskrit dùng riêng cho Phật giáo.
Vốn chưa từng có một hình thức tổ chức tập trung, nên vào một thời điểm
không xác định nào đó, Phật giáo đã tự chia tách ra thành một số các bộ
phái. Và theo như được biết là đã có khoảng 18 bộ phái. Phần lớn những
bộ phái này có kinh điển riêng, nhưng hầu hết đều đã mất. Hoặc là vì
chúng chưa bao giờ được ghi chép lại, hoặc là vì sức tàn phá của thời
gian đã hủy hoại đi tất cả. Nguyên nhân giúp cho một số kinh điển còn
được giữ lại là sau khi Phật giáo suy sụp ở Ấn Độ vào đầu thế kỷ 13,
chúng đã tình cờ lọt vào một số vùng bên ngoài Ấn Độ như Tích Lan, Népal
hoặc Trung Á, hoặc là nhờ trước kia đã được dịch sang tiếng Trung Hoa
hay tiếng Tây Tạng. Bởi vậy, chúng ta chỉ có một số lượng rất ít những
kinh thực sự đã lưu hành trong cộng đồng Phật giáo vào thời kỳ đầu. Và
hơn thế nữa, những gì còn được giữ lại có phần là do sự may mắn tình cờ
đưa đến, hơn là do sự chọn lọc từ tính chất cổ xưa và giá trị truyền
thừa của chúng.
Và những kinh điển mà chúng ta hiện có, có thể đã được biên soạn vào bất
cứ thời điểm nào trong suốt 500 năm của thời kỳ đầu. Trước tiên cần
phải nói rõ rằng, không có một tiêu chuẩn khách quan nào cho phép chúng
ta chọn ra được những phần nào trong số kinh điển này là do chính đức
Phật đã nói ra. Một vài cuốn sách hiện nay ở châu Âu đưa ra rất nhiều sự
quả quyết về những điều do chính đức Phật thuyết dạy. Nhưng đó chỉ hoàn
toàn là sự suy đoán mà thôi. Kinh điển nguyên thủy hiện giờ là nằm
ngoài tầm hiểu biết của chúng ta. Thời gian xa xưa nhất mà chúng ta có
thể lần theo dấu vết để biết được là thời kỳ mà Phật giáo đã chia tách
ra thành các bộ phái riêng.
Điều mà chúng ta có thể làm được là so sánh những kinh văn của các bộ
phái khác nhau, chẳng hạn như so sánh văn bản kinh Dhammapāda1 của
Thượng tọa bộ ở Tích Lan với văn bản kinh Udānavarga2 của Nhất thiết hữu
bộ được tìm thấy trong sa mạc vùng Tân Cương.3 Khi nào chúng ta tìm ra
được những đoạn trong hai cuốn này, một cuốn viết bằng tiếng Pli và một
cuốn bằng tiếng Sanskrit, giống nhau chính xác từng chữ một, thì ta có
thể cho rằng chúng thuộc về cùng một thời điểm, và đã có trước sự kiện
chia tách của hai bộ phái, vốn xảy ra trong thời kỳ cai trị của vua
A-dục. Còn khi so sánh thấy hai cuốn không giống nhau, chúng ta phải tạm
cho là chúng thuộc vào thời gian sau vua A-dục, vì không có được bằng
chứng ngược lại.
Nhưng cho đến nay cũng chưa có ai làm công việc so sánh đó một cách có
hệ thống, và khi việc này chưa được thực hiện, thì chúng ta vẫn chưa thể
phân biệt rõ những kinh điển thuộc về một hoặc hai thế kỷ đầu với những
kinh điển xuất hiện vào thời kỳ sau vua A-dục. Thậm chí chúng ta cũng
không thể biết chắc là vào lúc nào và trong hoàn cảnh nào thì sự phân
chia các bộ phái đã xảy ra, vì tất cả những tác phẩm mà chúng ta có về
vấn đề đó đều được viết sau đến 5 thế kỷ so với những sự việc mà chúng
tường thuật, và hầu như các dữ kiện luôn bị bóp méo bởi những thành kiến
về bộ phái.
Nhưng cho dù những hiểu biết của chúng ta có đưa ta đến gần thời điểm
nhập diệt của đức Phật trong khoảng chừng một thế kỷ, hoặc hai hay ba
thế kỷ, thì cũng vẫn còn có một giai đoạn khởi nguyên chìm trong bí ẩn,
và chúng ta không thể nào đi xuyên qua giai đoạn ấy.
Hai phần tiếp sau đây sẽ cố gắng giải thích những giáo lý được xem là
thuộc thời kỳ đầu của Phật giáo, trong phạm vi có thể suy luận được với
một phần đáng tin cậy nào đó. Trước tiên sẽ là phần giới luật, sau đó là
giáo thuyết căn bản về sự giải thoát và phương thức tu tập để đạt đến
giải thoát.
2. GIỚI LUẬT
Hai tài liệu cổ nhất mà chúng ta có thể xếp vào thời kỳ tiền A-dục
với phần nào chắc chắn, tình cờ lại đề cập đến giới luật.1 Từ trước đến
nay, giáo pháp của Phật thường được xếp thành hai nhóm chính là Kinh
tạng và Luật tạng.2 Luật tạng đã tỏ ra có tính chất ổn định và đồng nhất
hơn, rất ít gây ra bất đồng, và ít bị sửa đổi hơn. Rất hiếm khi có
những tranh cãi về Luật tạng, và cho đến sau này, sự thành lập các bộ
phái khác nhau cũng ít khi dẫn đến việc sửa đổi Luật tạng, ngoại trừ
những vấn đề chỉ thuộc về hình thức và rất nhỏ nhặt, như y phục... Ngay
cả khi nhiều bộ phái mới được lập ra cùng với sự hình thành của Đại thừa
trên những nền tảng mang tính giáo điều, thì trong một thời gian dài họ
vẫn trung thành về mặt giới luật với một trong những bộ phái Tiểu thừa
cổ xưa hơn.
Trong hành trì thực tế, trải qua lịch sử lâu dài của Tăng-già, tất nhiên
cũng đã có nhiều sự giản lược đối với các điều luật quá khắt khe, phiền
hà. Nhưng xét về khuôn mẫu chung thì dường như trong thế kỷ 4 trước
Công nguyên Luật tạng đã đạt đến hình thức cuối cùng như hiện nay rồi.
Vào thời kỳ đó, một văn bản rất quan trọng là Skandhaka1 ra đời, phân
chia và sắp đặt những tài liệu đồ sộ thu thập được lúc đó theo một kế
hoạch rất chu đáo. Tác phẩm này quy định những thể chế cơ bản về đời
sống trong các tự viện của tăng sĩ, như việc gia nhập tăng đoàn, các
nghi lễ bố-tát,2 việc an cư trong mùa mưa,3 và cũng thảo luận đến những
vấn đề liên quan về y phục, thực phẩm, thuốc men cho người bệnh, cũng
như các quy định phải tuân theo trong việc xử lý những người vi phạm.
Xưa hơn nữa là văn bản Prātimoksha,4 ghi lại khoảng 250 giới, là một sự
phân loại các hình thức vi phạm trong đời sống tu sĩ. Về văn bản này,
chúng ta có khoảng 12 phiên bản khác nhau, nhưng tất cả đều phù hợp với
nhau về những điểm quan trọng. Cứ mỗi nửa tháng, những giới luật này
phải được tụng đọc lên một lần trước tập thể Tăng-già.2 Trong tất cả các
văn bản kinh điển, không có văn bản nào khác có được sự tin cậy của tất
cả Phật tử như là những điều không thể bàn cãi, và phổ biến rộng rãi
cũng như tồn tại lâu dài như giới luật ghi trong văn bản Prtimoksha này.
Vì thế, chúng ta cần phải có một ý niệm về nội dung của chúng.
Trước hết là bốn trọng giới,1 người vi phạm phải bị trục xuất khỏi tăng
đoàn. Đó là: dâm dục, trộm cắp, giết người2 và đại vọng ngữ.3 Tiếp đến
là 13 giới Tăng-tàn,4 cần phải tạm đình chỉ tư cách tăng sĩ trong một
thời gian ngắn để suy ngẫm và sám hối việc đã làm,5 trong đó có 5 giới
có liên quan đến sự dâm dục, 2 giới về việc kiến tạo chỗ ở, và 6 giới
còn lại là tội ly gián Tăng-già. Tiếp theo nữa là hai trường hợp phạm
giới liên quan đến dâm dục, cần xử lý tùy theo hoàn cảnh phạm tội.6 Ở
mức độ nhẹ hơn đôi chút là 30 giới mà người phạm sẽ bị mất quyền chia sẻ
phần y phục thuộc về tăng đoàn, và thêm vào đó sẽ phải đọa vào các
đường ác.7 Trong số những điều cấm mà các giới này nêu ra, có việc không
được cất giữ vàng bạc, cũng như không được tham gia các hoạt động buôn
bán, hoặc chiếm làm của riêng những vật dụng mà lẽ ra phải thuộc về tăng
đoàn. Tiếp đến là 90 giới mà người phạm vào nếu không sám hối sẽ phải
đọa vào các đường ác. Các giới này liên quan đến những điều như nói dối,
chê bai, hủy báng những tăng sĩ khác. Các giới này cũng quy định mối
quan hệ giữa người xuất gia và giới cư sĩ, bằng cách nghiêm cấm việc
trực tiếp truyền dạy giáo lý cho người chưa xuất gia,8 hoặc không được
đem việc phạm lỗi của một vị tăng nói cho một người thế tục biết v.v...
Những giới còn lại đề cập đến rất nhiều sai phạm nhỏ nhặt hơn, như cấm
phá hại cây cối, cấm đào đất, cấm dùng các chất gây say, gây nghiện,
hoặc ngồi, nằm trên giường quá cao.1 Tài liệu rất xưa còn đưa ra bốn
giới phạm vào phải tự nói ra để sám hối, 13 giới về mẫu mực của người
xuất gia, và cuối cùng là 7 quy tắc để giải quyết các tranh cãi.2
Mục đích của Luật tạng là tạo ra những điều kiện lý tưởng cho việc thiền
quán và xả ly. Những giới luật này thúc đẩy một sự thoát ly hoàn toàn
khỏi đời sống xã hội, khỏi những mối quan tâm và sự lo lắng của thế tục,
những ái luyến thường tình với gia đình và họ hàng. Kèm theo đó, việc
đòi hỏi một nếp sống cực kỳ đơn giản và cần kiệm là nhằm đảm bảo thoát
khỏi sự phụ thuộc, trong khi sự thoát ly gia đình và buông bỏ tất cả tài
sản là nhằm thúc đẩy việc dứt trừ tham ái.
Ban đầu, Tăng-già dường như chỉ bao gồm những vị tăng khất thực, nhận
thức ăn của tín thí trong các bình bát và mặc y phục chắp vá bằng những
miếng giẻ đã bỏ đi, ngủ nghỉ trong rừng, trong hang đá hoặc dưới gốc
cây. Chỉ vào mùa mưa họ mới ngừng đi khất thực và tập trung lại ở một
nơi. Qua các thời kỳ, tuy vẫn còn một số ít các vị tăng sĩ theo đuổi lối
sống kham khổ, đơn giản của thời kỳ đầu,3 nhưng nói chung, với sự phát
triển mạnh mẽ của tôn giáo, tăng sĩ đã chọn cách sống tập trung trong
những tự viện. Với đời sống tự viện, họ vẫn không bận tâm đến các vấn đề
thế tục, nhưng tránh được những bất tiện của một cuộc sống khất thực
hằng ngày như trước kia.
Luật tạng chỉ kết tập có một lần, nhưng lịch sử tồn tại về sau là cả một
quá trình dung hợp không ngừng giữa hai yếu tố: một bên là tính chất
bất biến của giới luật, và một bên là thực tiễn xã hội với bản năng sai
phạm của con người.4
3. GIÁO LÝ CƠ BẢN
Chúng ta đã đề cập khá nhiều đến việc tu tập của tăng sĩ, vậy còn
những giáo lý nào được dành cho tất cả tín đồ trong thời kỳ đầu? Và
không những thế, còn là dành cho tất cả tín đồ của những thế hệ về sau,
cho dù họ có thực hiện những sửa đổi hoặc thêm bớt nhiều đến đâu đi
chăng nữa.
Giáo lý cơ bản có thể tóm lại theo hai hướng chính. Trước hết là nhằm
đưa ra lý thuyết về sự giải thoát, nói lên sự cần thiết của một đời sống
giải thoát, tính chất của giải thoát và các phương pháp cần thiết để
đạt đến giải thoát. Tiếp sau đó là đề cập đến Tam bảo: Phật bảo, Pháp
bảo và Tăng bảo.
Cốt lõi của đạo Phật là giáo lý giải thoát. Nhu cầu giải thoát phát sinh
từ tính chất không thỏa mãn một cách vô vọng của đời sống. Phật tử có
cái nhìn hết sức ưu tư về những điều kiện khổ đau trong cuộc sống. Chính
sự vô thường của vạn vật quanh ta làm cho chúng ta thấy được sự tầm
thường của những tham vọng thế gian, mà bản chất của vạn vật không bao
giờ có thể đem đến cho chúng ta sự thành tựu lâu dài hay thỏa mãn mãi
mãi. Sau cùng, cái chết sẽ lấy đi tất cả những gì chúng ta đã tìm cách
tích lũy được, và tách chúng ta ra khỏi những gì đang ôm ấp.
Thật là vô ích khi đi tìm sự an toàn và hạnh phúc trong những hoàn cảnh
như vậy! Những niềm vui và lạc thú của con người nhỏ nhoi trong thế giới
này thật hết sức tầm thường, và sự chọn lựa, mê đắm của họ bộc lộ rõ sự
thiếu khôn ngoan. Họ cư xử chẳng khác gì đứa trẻ con tìm thấy một hòn
bi tuyệt đẹp, quá vui mừng khi có được hòn bi, và để đảm bảo là không bị
mất đi nên đã nuốt ngay hòn bi ấy, để rồi phải súc ruột...
Hơn thế nữa, có ai lại không sợ hãi nếu nhận thức được tất cả những nỗi
đau đớn và kinh hoàng mình đang phải gánh chịu khi có một xác thân! Nỗi
đau khổ vô tận trong một chuỗi luân hồi1 triền miên vô ích là số phận
của những con người tầm thường. Và sự ghê sợ những đau khổ đó chính là
động lực thôi thúc đi đến sự giải thoát. Những tu sĩ Phật giáo là những
người ghê sợ nỗi khổ sanh tử, nên đã từ bỏ đời sống gia đình để có thể
đạt được giải thoát.
Nếu chúng ta hỏi tiếp về nguyên nhân của tình trạng khổ đau không thể
tránh khỏi trong cuộc đời này, thì câu trả lời là không do bất cứ một
thế lực bên ngoài nào, hoặc một số phận, một thần linh ác độc nào... áp
đặt, mà nguyên nhân đích thực là do yếu tố tự tâm của chúng ta. Yếu tố
này được mô tả theo những cách khác nhau như là lòng tham dục, sự chấp
ngã, vô minh, hay cũng được gọi là tà kiến.
Không chỉ lòng ham muốn dục lạc, tiền bạc, địa vị xã hội hay quyền lực
được cho là có khuynh hướng biến chúng ta thành nô lệ cho những sức mạnh
mà không có chút hy vọng nào có thể dùng vào mục đích có lợi, mà bất cứ
hình thức ham muốn nào cũng bị người Phật tử quy cho là nguyên nhân hủy
diệt sự tự do trong nội tâm và tính độc lập của chúng ta.
Từ một góc độ khác hơn, chúng ta có thể nói rằng toàn bộ những đau khổ
của chúng ta được sinh ra từ thói quen muốn chiếm hữu một phần của vũ
trụ như thể đó là của riêng mình, và lúc nào cũng muốn đưa ra những
tuyên bố chiếm hữu kiểu như “Cái này của tôi”, “Tôi là thế này...”, “Đây
là bản thân tôi.”...
Giáo lý căn bản của Phật giáo cho rằng từ ngữ “tôi” mà chúng ta nói ra
đó không hề có ý nghĩa chân thật, rằng bản ngã chỉ là do tâm tưởng chúng
ta hư cấu nên, và vì thế mà trong khi chạy theo cái bản ngã không thật
đó, chúng ta đã phải đánh mất đi hạnh phúc chân thật để đổi lấy một điều
hoàn toàn tưởng tượng.
Sau cùng, Phật giáo khác với Thiên Chúa giáo ở chỗ Phật giáo xét căn
nguyên của mọi điều xấu xa do “vô minh”1 chứ không do “tội lỗi”; do sự
nhận thức sai lầm, chứ không do việc hành động theo ý muốn và chống đối.
Về một định nghĩa thiết thực của vô minh, chúng ta có thể xem đó là bốn
tà kiến1 làm cho ta đi tìm sự thường tồn trong chỗ vô thường, tìm sự
thanh thản trong chỗ đau khổ không thể tách rời, tìm cái “tôi” trong chỗ
chẳng liên quan gì đến bản ngã chân thật, và tìm vui thú trong chỗ thật
ra chỉ toàn là sự ghê tởm đáng chán ghét.2
Lẽ dĩ nhiên tình thế sẽ là hoàn toàn tuyệt vọng, nếu như thế giới khổ
đau này và vòng luân hồi sanh tử là bao gồm toàn bộ thực tại. Nhưng thực
tế không phải vậy. Vượt ra ngoài nữa còn có một cảnh giới khác gọi là
Niết-bàn, một trạng thái siêu nhiên vượt khỏi những hiểu biết và kinh
nghiệm thông thường, và chúng ta không thể nói gì về cảnh giới ấy, ngoại
trừ một việc là tất cả những gì xấu xa đều đã chấm dứt cùng với những
nguyên nhân và hậu quả của chúng.
Tín đồ Phật giáo thường ít chú tâm đến việc định nghĩa Niết-bàn là gì,
mà quan tâm nhiều hơn đến việc tự mình chứng nghiệm cảnh giới ấy. Và họ
lại càng không thích nói rõ về những người đã chứng đắc Niết-bàn. Thế
giới này thường được ví như ngôi nhà đang cháy, và những ai tỉnh táo đều
phải cố thoát ra khỏi đó. Nhưng nếu cõi luân hồi này giống như một ngọn
lửa, thì Niết-bàn giống như trạng thái có được sau khi dập tắt ngọn lửa
đó. Như chúng ta đọc thấy trong kinh Nipta,3 một trong những bản kinh
cổ xưa:
“Như ngọn lửa do gió thổi bùng lên
Khi tắt đi, đến chỗ không ai đến được.
Bậc hiền giả tịch tịnh,
Thoát khỏi danh sắc, đạt cứu cánh,
Cũng đến cảnh giới không ai đến được.
Trăm ngàn sự lý thảy đều không,
Muôn lời chỉ giáo cũng im bặt.”
Bởi vì mọi nguyên nhân của tội lỗi đều nằm trong chính ta, nên ta có thể
bằng vào những nỗ lực của chính mình để loại trừ chúng, chỉ cần ta biết
cách thực hiện điều đó. Như một thầy thuốc giỏi, đức Phật đã cho chúng
ta rất nhiều phương thuốc để chữa trị vô số các chứng bệnh.
Ở mức độ cơ bản, những phương pháp giải thoát của Phật giáo cũng có vẻ
tương tự như một số tôn giáo khác. Trước hết, người tin Phật phải thực
hiện một vài hạnh lành trong đời sống hằng ngày. Người ấy phải vâng giữ
theo năm giới, đó là không giết hại sinh mạng, không trộm cắp, không tà
dâm,1 không nói dối và không dùng những chất gây nghiện. Tiếp đến, người
ấy phải chú ý về nghề nghiệp của mình. Ví dụ, những người bán thịt,
những người đánh cá... đều thường xuyên phạm vào giới thứ nhất, và do đó
chúng ta không mong họ có thể đạt thành quả tâm linh cao. Có những nghề
nghiệp khác ít nguy hại đến phần tâm linh hơn, nhưng an toàn và hiệu
quả nhất là trở thành một vị tỳ-kheo sống không gia đình, không tài sản
và mọi nhu cầu vật chất chỉ hoàn toàn dựa vào người khác.
Nhưng một khi những nền móng đạo đức đã được thiết lập, những nỗ lực còn
lại của người học Phật là nhằm vào sự rèn luyện tâm trí, vào các phương
thức tu tập thiền định khác nhau.
Thiền là một phép tu tập tâm ý, nhằm thực hiện ba mục đích riêng biệt nhưng có liên hệ chặt chẽ với nhau:
1. Mục đích thứ nhất là giúp người tu tập từ bỏ sự chú ý thông thường
vào những cảm xúc liên tục thay đổi do các giác quan gây ra và những ý
tưởng tập trung vào tự thân.2
2. Mục đích thứ hai là nỗ lực thay đổi sự chú ý từ thế giới giác quan
đến một cảnh giới khác thanh cao hơn, và nhờ đó làm dịu đi sự loạn động
trong tâm trí. Những hiểu biết dựa vào giác quan thường làm cho chúng ta
không thỏa mãn, cũng giống như một đời sống chỉ dựa vào giác quan.
Những gì thuộc về giác quan và kinh nghiệm quá khứ thuộc loại này là
không xác thực, vô bổ, rất tầm thường và hầu hết là không đáng quan tâm.
Chỉ có sự hiểu biết duy nhất đáng giá là sự hiểu biết được khám phá nhờ
thiền quán, khi cánh cửa các giác quan đã được đóng lại. Chân lý của
thánh giáo này phải vượt ra ngoài thế giới phàm tục với những tri thức
dựa trên giác quan và tầm nhìn giới hạn bởi những cảm giác.1
3. Mục đích thứ ba của thiền là hòa nhập vào chính thực tại siêu việt
các giác quan, tự do giong ruổi giữa những gì vượt ngoài tri thức và
kinh nghiệm của con người, và sự tìm kiếm này đưa thiền đến với tánh
không như là một thực tại tối thượng.
Trong thuật ngữ của Phật giáo, bước đầu tiên được gọi là chánh niệm,2
bước tiếp theo là chánh định,3 và bước thứ ba là trí huệ.4 Sự liên hệ
giữa ba phép tu được chỉ rõ trong sơ đồ sau:
Chánh niệm
A
Tĩnh tâm Quán chiếu
B C
Chánh định Trí huệ
Nội tâm tự giác Chân không vô tướng
Niết-bàn
Đây là sự phân loại việc tu thiền theo mục đích nhắm đến. Theo một cách
khác, thiền có thể được xếp loại theo đối tượng hoặc chủ đề. Có khá
nhiều chủ đề như vậy được đưa ra cho người tu tập, và người ấy có thể
chọn lựa tùy theo năng lực tinh thần và khuynh hướng của mình. Có quá
nhiều khả năng chọn lựa đến nỗi không sao có thể kể hết ra đây.
Trong số này có thể kể đến những cách luyện hơi thở khá đơn giản theo
kiểu Du-già, sự quán sát 32 phần trong cơ thể, sự suy ngẫm về xác chết
qua các giai đoạn thối rữa khác nhau, sự tỉnh thức quán sát nội tâm để
nhận biết các tiến trình tâm linh đang diễn ra, cho dù đó là thọ cảm, tư
tưởng, những trở ngại đối với sự chú tâm, hay là những yếu tố giúp đạt
đến giác ngộ. Tiếp đến còn có việc bồi đắp những tình cảm xã hội như
tình thân hữu và lòng từ bi, niệm tưởng đến sự cao quý của Tam bảo, sự
quán tưởng về cái chết và niềm khao khát đạt đến Niết-bàn. Một đề tài
rất được ưa chuộng của việc thiền quán là mười hai mắt xích với tương
quan sinh khởi lẫn nhau,1 cho thấy vô minh dẫn đến các yếu tố khác của
sự tồn tại trong thế giới trần tục được kết thúc bằng già và chết như
thế nào, và ngược lại sự trừ diệt vô minh sẽ dẫn đến các yếu tố này diệt
đi như thế nào.2 Những phương pháp thiền quán khác lại cố tạo ấn tượng
trong tâm trí chúng ta về bản chất vô thường của vạn hữu, làm bộc lộ
hoàn toàn sự đau khổ, chứng minh sự vô nghĩa của khái niệm sai lầm về
“tự ngã”, nuôi dưỡng sự quán chiếu trong nội tâm về tánh không, và phát
lộ những nét đặc thù của con đường dẫn đến giải thoát.
Thực ra, dường như có vô số những phương thức thiền quán đã được xác
định là thuộc về thời kỳ đầu tiên của Phật giáo, mặc dù điều rõ ràng là
phải sang thời kỳ thứ hai mới có một sự sắp xếp hệ thống nào đó được áp
dụng cho những phương thức này.
Từ đây nói đến Tam bảo.3 Đức Phật là quan trọng nhất, là người sáng lập
Phật giáo, người đảm bảo cho sự chân thật và đáng tin cậy của giáo lý
ngài truyền dạy bằng vào thực tế là chính ngài đã hoàn toàn giác ngộ.
Ngài đã nhận thức rõ được bản chất, ý nghĩa của cuộc sống thế tục và đã
tìm ra được con đường chắc chắn để thoát ra khỏi đó. Ngài khác với những
con người khác ở chỗ là đã tự mình tìm ra chân lý và biết được tất cả
những gì cần thiết để đạt được sự giải thoát. Việc ngài có hiểu biết tất
cả các sự việc khác, nghĩa là bậc Nhất thiết trí1 theo nghĩa đầy đủ
nhất của cụm từ này hay không, vẫn còn là một vấn đề tranh cãi giữa các
bộ phái. Nhưng tất cả đều đồng ý với nhau rằng ngài thông hiểu tất cả
những gì cần thiết để đạt được sự an lạc tối thượng, và vì thế, đối với
những vấn đề tâm linh thì ngài có thể làm một người dẫn đường chắc chắn
và không thể sai lầm.
Bản thân danh từ Phật2 không phải là một tên riêng, mà là một danh xưng,
hay một từ mô tả, có nghĩa là bậc toàn giác. Từ này mô tả trạng thái
của người đã hoàn toàn thông suốt mọi vấn đề tâm linh đối với vạn hữu,
hay nói cách khác là bản chất của thực tại. Tên riêng của đức Phật theo
lịch sử là Cồ-đàm,3 hoặc Tất-đạt-đa,4 và gọi theo tộc họ của ngài là
Thích-ca Mâu-ni,5 có nghĩa là “Bậc hiền giả của dòng họ Thích-ca”.6
Nhưng tiểu sử cá nhân ngài không phải là điều được Phật giáo quan tâm
nhiều nhất. Sự cao quý của ngài đối với tôn giáo này nằm ở sự truyền dạy
giáo pháp tâm linh. Việc một người được nhìn đồng thời từ hai góc độ7
như thế này là thông thường đối với các vị lãnh tụ tôn giáo nhiều uy tín
ở châu Á. Trong những năm gần đây, chúng ta cũng gặp một trường hợp như
vậy với Mohandas Karamchand Gandhi, người cũng đồng thời được gọi là
Mahatma, “Người có tâm hồn vĩ đại”, một danh xưng để chỉ cho sức mạnh
tinh thần được tiềm tàng trong một cá nhân đặc biệt.
Hiểu như vậy thì cá nhân con người được gọi là Cồ-đàm hay Thích-ca
Mâu-ni, theo một cách nào đó, là cùng tồn tại với nguyên lý tinh thần
của tánh Phật, vốn thường được gọi với nhiều tên khác nhau như là Như
Lai, hay Pháp thân, hay Phật tánh. Tuy nhiên, tín đồ Phật giáo luôn cho
rằng mối quan hệ chính xác giữa cá nhân đức Phật và những giá trị thiêng
liêng về mặt tâm linh của ngài là không thể xác định được. Từ trước đến
nay tín đồ Phật giáo cũng luôn chống lại khuynh hướng của những người
chủ trương không tái sanh là chỉ đặt niềm tin vào một con người thực sự
hiện hữu trong cuộc đời, và tín đồ Phật giáo cũng tìm mọi cách để làm
giảm đi tầm quan trọng về hiện thân trần tục của đức Phật. Chính bản
thân đức Phật được cho là đã từng nói với Vakkali rằng: “Này Vakkali!
Con thấy gì trong cái xác thân hèn mọn này của ta? Ai thấy được tâm pháp
hay giáo pháp, người ấy nhìn thấy ta; ai thấy ta tức là thấy tâm pháp.
Này Vakkali, người thấy Pháp là thấy Như Lai; thấy Như Lai tức là thấy
Pháp”.
Như một biểu tượng cho chư Phật, nên đức Phật của chúng ta không phải là
một hiện tượng riêng lẻ, mà là một trong những đức Phật đã từng xuất
hiện ở thế giới này trong nhiều kiếp. Sự hiểu biết về những vị Phật
không được ghi nhận trong lịch sử ấy dường như ngày càng gia tăng theo
thời gian. Ban đầu có bảy vị, rồi sau đó chúng ta được nghe đến 24 vị,
và cứ như vậy, con số này vẫn tiếp tục gia tăng. Bảy vị Phật, hay Thất
Phật, gồm có Phật Thích-ca Mâu-ni và sáu vị Phật đã ra đời trước ngài,
rất thường xuất hiện trong nghệ thuật. Ở miền Bharhut và Sanchi là những
tháp Phật và cây Bồ-đề của các vị ấy, còn ở Gandhara, Mathura và Ajanta
trong suốt thời kỳ thứ hai là theo hình dạng con người, và hầu như rất
khó phân biệt được sự khác nhau giữa hình tượng các vị Phật này.
Chỉ đến cuối thời kỳ thứ nhất, người ta mới chuyển sự chú ý sang đến hai
vị Phật khác nữa. Với sự phát triển của giáo thuyết về các vị Bồ Tát,1
xuất hiện thêm đức Phật Nhiên Đăng,2 đã có trước đức Thích-ca Mâu-ni 24
đời, và là vị Phật thọ ký3 cho đức Thích-ca Mâu-ni. Cùng với sự lan
truyền một dự báo không hay về sự tồn tại sau này của giáo pháp đức Phật
Thích-ca,1 đã xuất hiện việc thờ kính đức Phật Di-lặc, một vị Phật
tương lai, người sẽ làm cho giáo pháp tái hiện với một sức sống mới.
Trong thời kỳ này, tiểu sử của đức Phật Thích-ca Mâu-ni – như một con
người bình thường – ít được quan tâm đến. Thật khó mà tái hiện được
những sự kiện trong cuộc đời ngài bằng vào những chi tiết chúng ta hiện
có. Sự chú ý chỉ được tập trung vào hai giai đoạn trong cuộc đời ngài,
có ý nghĩa lớn nhất đối với tín đồ. Đó là giai đoạn ngài đạt đến sự
chứng ngộ, phá tan bức màn vô minh; và những ngày cuối khi ngài nhập
Niết-bàn, hoàn tất sự chiến thắng cái chết và thế giới trần tục. Về
những giai đoạn khác trong đời ngài, có vẻ như phần lớn những gì chúng
ta biết được trước hết là nhờ ở một phần trong Luật tạng, theo truyền
thống được bao gồm một bản ghi chép bắt đầu từ việc đề cập đến tộc họ
của ngài và sự đản sanh kỳ diệu, rồi tiếp tục cho đến lúc nhập Niết-bàn,
đến truyền thuyết về Hội nghị các trưởng lão lần đầu tiên2 ở thành
Vương-xá,3 nơi được tin là đã diễn ra việc kết tập kinh tạng lần thứ
nhất, và cuối cùng chấm dứt với việc đề cập đến lần kết tập kinh tạng
thứ hai4 ở Tỳ-xá-ly,5 với sự giải quyết một số điểm bất đồng về giới
luật.6
Câu chuyện về cuộc đời đức Phật trước tiên chỉ là một sự góp nhặt các
mẩu chuyện được nêu ra trước mỗi điều luật để chứng minh cho xuất xứ của
điều luật và giải thích về nội dung.7 Thêm vào đó, nhiều chuyện kể và
truyền thuyết dần dần phát sinh xoay quanh các thánh địa hay đền thờ, để
nói lên tính cách thiêng liêng của chúng. Không có mấy nỗ lực trong
việc kết nối tất cả những câu chuyện này theo thứ tự thời gian để thành
một tiểu sử. Vị trí của chúng ta hiện nay không cho phép quyết định được
những chuyện nào là có giá trị đáng tin cậy về mặt lịch sử, và những
chuyện nào là được dựng nên do sự sùng bái của những người sau này. Còn
việc đưa ra một sự phân biệt như thế lại là hoàn toàn xa lạ đối với tinh
thần của tăng sĩ Phật giáo trong thời kỳ đầu.
Việc mô tả đức Phật sẽ không thể hoàn tất nếu chúng ta không đề cập đến
rằng, theo cách nhìn của những người đương thời với ngài, ngoài một thân
xác bình thường như mọi người đều có thể nhìn thấy, ngài còn có một
Phật thân siêu nhiên, mà chỉ một số người có thể nhìn thấy được bằng vào
đức tin. Nghệ thuật Phật giáo đã cố gắng hết sức để thể hiện Phật thân
này, với chiều cao gần 5m và có đủ 32 tướng tốt của các đức Phật. Chẳng
hạn như, các đức Phật đều có những vân da hình bánh xe dưới lòng bàn
chân, có màng da nối giữa các ngón tay, có nhục kế trên đầu, có hào
quang bao quanh đầu và quanh thân, một chùm lông xoắn lại màu trắng nằm
giữa hai chân mày.v.v... Theo hình thức mô tả mà chúng ta hiện có, thì
truyền thống này rõ ràng là thuộc về giai đoạn sau vua A-dục. Tuy nhiên,
một phần nào trong đó cũng có thể thuộc thời đại xa xưa hơn nhiều, đi
ngược về tận thời cổ đại, và thậm chí có liên quan đến những truyền
thống nói về vẻ đẹp con người có trước cả Phật giáo, và thuật đoán số
mệnh cổ xưa, nói trước về số phận, bản chất và tương lai của một con
người dựa vào tướng mạo và những điềm báo trước.
Kim thân đức Phật khác với thân phàm phu không chỉ là ở 32 tướng tốt,
nhưng thêm vào đó còn có một tính chất là phần xương trong cơ thể không
bao giờ hư hoại. Khi tiến hành lễ trà tỳ,1 những đốt xương trong thân
thể ngài không biến thành tro mà hóa thành ngọc xá-lợi,2 được phân chia
cho tín đồ và được gìn giữ từ đời này sang đời khác, như răng của đức
Phật hiện nay vẫn còn ở Kandy.3
Ngôi thứ nhì trong Tam bảo là Pháp, bao gồm tất cả những sự mầu nhiệm
trong tín ngưỡng Phật giáo, và không thể dễ dàng nói rõ chỉ trong vài ba
câu. Tín đồ Phật giáo ở châu Á trước đây thường không tự mô tả về mình
như là “người theo Phật”, mà là những “người tin và làm theo giáo pháp”.
Pháp ở đây là tên gọi để chỉ cho một sức mạnh tinh thần siêu nhiên vốn
tiềm ẩn trong tất cả mọi vật. Vì là thuộc về tinh thần và không thuộc về
thế giới trần tục này, nên Pháp có phần khó nắm bắt, và không dễ dàng
định nghĩa hay hiểu rõ được. Xét theo các tiêu chuẩn duy lý thì từ ngữ
này là hết sức trừu tượng. Nhưng vì Pháp là đối tượng chính của toàn bộ
giáo lý nhà Phật, nên cần phải nêu ra đây những ý nghĩa chính và chỉ rõ
mối liên hệ giữa những ý nghĩa đó.
1. Trước hết, pháp là từ dùng để chỉ cho một thực tại tối thượng. Một
thực tại tâm linh tiềm ẩn trong tất cả những gì chúng ta nhận thấy ở bên
trong và bao quanh chúng ta. Thực tại này là có thật trong tương quan
đối nghịch với những hư ảo của thế giới giác quan thông thường, và chúng
ta cần phải hướng về thực tại tâm linh này cũng như xa lìa đi những hư
ảo của thế giới trần tục, bởi vì chỉ có thực tại tối thượng này mới có
thể làm cho chúng ta thật sự thỏa mãn. Thực tại này cũng không nằm ngoài
thế giới trần tục, mà hiểu theo một cách nào đó, nó luôn luôn hiện diện
trong vạn hữu và là quy luật nội tại chi phối tất cả.
2. Thứ hai, theo một cách diễn dịch dễ hiểu hơn, thì pháp có nghĩa là
thực tại tối thượng được giảng giải hoặc nêu lên trong lời dạy của đức
Phật, và theo cách hiểu này, pháp có nghĩa là giáo lý, là kinh điển hay
chân lý.
3. Thứ ba, theo cả hai nghĩa trên, pháp có thể được phản ánh trong đời
sống chúng ta, có thể tự bộc lộ trong hành động của chúng ta, khi nào mà
chúng ta hành động phù hợp theo với pháp. Như vậy, pháp ở đây được hiểu
là chân chánh, là đức hạnh.
4. Thứ tư, và chính là theo nghĩa này, pháp được hiểu theo một cách tinh
tế hơn và hàm chứa một ý nghĩa góp phần đặc biệt vào tư tưởng Phật
giáo, đồng thời cũng hàm chứa trong đó tất cả những động lực thúc đẩy sự
phát triển. Trong những tác phẩm Phật giáo, khắp nơi đầy dẫy những chỗ
đề cập đến các pháp, với hàm nghĩa là có nhiều pháp, và chúng trở nên
khó hiểu, trừ khi ý nghĩa cụ thể được dùng của từ này đã được hiểu rõ.
Pháp ở đây được dùng trong ý nghĩa khoa học, và vì thế mọi sự việc được
xem xét trong mối quan hệ với pháp theo nghĩa thứ nhất đã nói trên, có
nghĩa là xem xét chúng như đúng thật trong thực thể tối thượng của
chúng. Hầu như tất cả các hệ thống khoa học và triết học đều đồng ý bác
bỏ vẻ bên ngoài của thế giới tri giác, như một cấu trúc giả tạo do chính
những giác quan của con người dựng lên, và thay vào đó bằng một sự giải
thích các sự kiện dựa trên những sự tồn tại đa dạng khác nhau có thể
hiểu được. Thí dụ rõ nhất là về hệ thống nguyên tử. Đằng sau vẻ ngoài
được nhận biết bằng giác quan của thế giới vật chất, hệ thống này đã
chứng thực là có một thế giới khác, tạo thành bởi các nguyên tử, gần như
không thể nhìn thấy được và chỉ có thể hiểu thấu được bằng các công
thức toán học. Các nguyên tử này là những gì thực sự hiện hữu về mặt vật
lý, một sự hiểu biết tường tận về nguyên lý vận động của chúng cho phép
chúng ta kiểm soát được cả vũ trụ vật chất, và từ đó chúng ta có thể
suy ra được tính chất vật lý của những sự vật mà các giác quan của chúng
ta nhận biết được. Cũng tương tự như vậy, tín đồ Phật giáo cho rằng thế
giới quan của chúng ta bị bóp méo hoàn toàn bởi vô minh và tham dục, và
ngay cả những đơn vị chia tách mà chúng ta dùng, nghĩa là những phần
vật thể mà chúng ta cho là có thể nhận thức được, cho đến mối quan hệ mà
chúng ta thừa nhận giữa những đơn vị ấy, đều chẳng có giá trị gì mấy.
Nguyên tử đối với các nhà vật lý học cận đại cũng tương tự như các pháp
đối với tín đồ Phật giáo.
Phải đợi sang đến thời kỳ thứ hai của Phật giáo mới có sự phân loại tất
cả các pháp một cách có hệ thống. Cũng giống như đối với nguyên tử, phải
mất một thời gian dài từ khái niệm khởi xướng của Demokritos cho đến sự
nghiên cứu về sau chính xác hơn của Mendeleyev và Bohr. Những gì chúng
ta có trong thời kỳ đầu là danh sách liệt kê con số các pháp, chẳng hạn
như ngũ uẩn,1 tức là sắc, thọ, tưởng, hành và thức, được coi như những
yếu tố tạo thành một cá thể con người. Hoặc lục nhập,2 tức là mắt, tai,
mũi, lưỡi, thân và ý cùng với các đối tượng của chúng là sắc, thanh,
hương, vị, xúc và pháp, tạo thành toàn bộ những kinh nghiệm có thể có
của chúng ta. Một pháp là một sự kiện xảy ra bên ngoài con người, không
thuộc một ai hay cá nhân nào, mà chỉ liên tục diễn ra một cách khách
quan theo chiều hướng riêng của chính nó. Một tu sĩ Phật giáo được xem
là đạt đến thành tựu đáng kể nhất khi người ấy có thể thành công trong
việc tự biết rõ tất cả những gì trong tư tưởng mình nhờ vào các pháp
đang diễn ra bên ngoài này, trong số đó người ấy nhận được từ truyền
thống những danh sách rõ ràng mà không bao giờ có trong đó cái “tôi” mơ
hồ và tai hại. Ngoài Phật giáo ra, không tôn giáo nào khác có được bất
cứ điều gì tương tự như thế này trong sự rèn luyện tinh thần đối với tín
đồ của họ, và điểm đặc thù của Phật giáo phần lớn được tìm thấy trong
những gì được nói về các pháp khó nắm bắt này.
Về phần Tăng-già,3 hoặc Giáo hội, có sự phân biệt giữa một tăng đoàn
hữu tướng và một tăng đoàn vô tướng. Trước hết, giáo hội hữu tướng bao
gồm tất cả chư tăng ni, và trong một nghĩa rộng hơn, bao gồm cả những
nam nữ cư sĩ, những người ủng hộ Giáo hội và đã quy y Tam bảo, nguyện
giữ theo năm giới.4 Trong Giáo hội, người ta lại tôn xưng một số các
biểu tượng ưu tú nhất, các vị Hiền Thánh Tăng, tạo thành Tăng-già chân
thật.
Việc đắp y vàng chỉ cho thấy là một người đã có đủ nhân duyên tốt đẹp để
có thể tu chứng, nhưng việc này tự nó không đảm bảo chắc chắn cho sự
thành công của người đó. Còn về phần các cư sĩ, địa vị của họ trong Giáo
hội không có gì chắc chắn, và đối với nhiều vị tăng sĩ, dường như cư sĩ
không có chút ảnh hưởng nào cả.
Tăng-già chân thật, hay Giáo hội vô tướng, bao gồm các vị Aryas,1 tức là
những người “cao quý” hay “thánh thiện”, các vị Hiền Thánh Tăng, tương
phản với những kẻ trần tục bình thường, cũng thường gọi là “phàm nhân
ngu muội”.
Sự khác biệt giữa thánh nhân và phàm nhân là nền tảng của giáo lý đạo
Phật. Thánh nhân và phàm nhân được xem là có hai cách hiện hữu hoàn toàn
tương phản nhau, được gọi là xuất thế và trần tục. Chỉ các vị thánh giả
mới được xem là có một đời sống thực sự, còn những người phàm tục chỉ
tồn tại một cách tẻ nhạt trong trạng thái rối rắm, tối tăm và không có
mục đích.
Không hài lòng khi phải sinh ra theo cách như một phàm nhân, các vị
thánh đã trải qua một sự tái sanh về mặt tâm linh, hay cũng được hiểu là
sự đạt đạo. Nói cách khác, các vị đã tự mình dứt trừ tất cả phan duyên,
đạt đến mức có thể hướng sự tu tập của mình đến Niết-bàn một cách hiệu
quả. Cái nhìn của một người phàm tục về Niết-bàn thường bị ngăn trở bởi
những điều trong cuộc sống mà họ tiếp cận theo một cách quá xem trọng.
Tuy nhiên, nhờ vào công phu thiền quán lâu ngày, người ta có thể đạt đến
một trạng thái mà mỗi khi có một đối tượng trần tục hiện ra trước mắt
thì sẽ hoàn toàn thật tâm chối bỏ nó, như là một trở ngại hay sự quấy
rầy. Một khi sự chán ghét này trở thành thói quen khắc sâu trong tâm ý,
thì hành giả cuối cùng có thể nhận lấy Niết-bàn, cảnh giới không trói
buộc, làm đối tượng quán chiếu. Khi ấy, vị này không còn là một phàm
nhân nữa, mà bắt đầu được xếp vào hàng thánh giả. Sau đó, vị thánh giả
này ngày càng ít bị chi phối hơn bởi những động lực của phàm nhân, nghĩa
là những động lực được tạo thành bởi lòng vị kỷ và niềm tin sai lầm vào
sự chân thật của những gì sinh khởi từ các giác quan, vốn chứa đựng đầy
những sự tham lam, sân hận và si mê. Sự tương phản khi hướng đến
Niết-bàn làm bộc lộ ra tính chất tầm thường, vô nghĩa của tất cả những
mối quan tâm thế tục, và tự thân Niết-bàn ngày càng trở nên một sức mạnh
thúc đẩy tiềm ẩn sau bất cứ hành động nào.
Có sự phân biệt bốn bậc thánh giả. Bậc thấp nhất là Dự lưu,2 để chỉ rằng
vị này đã bắt đầu hòa nhập vào con đường dẫn đến cảnh giới không trói
buộc. Những bậc còn lại được phân biệt theo số lần phải tái sanh sau khi
chết – bậc thấp nhất phải tái sanh nhiều nhất là bảy lần, bậc tiếp theo
chỉ một lần và bậc thánh cao nhất, bậc A-la-hán,1 quả vị cuối cùng và
cao quý nhất của phương thức tu tập này, không còn tái sanh nữa. Hiền
Thánh Tăng bao gồm tất cả các bậc thánh giả này, nhưng các vị A-la-hán
là tôn quý nhất.
4. CÁC BỘ PHÁI VÀ NHỮNG BẤT ĐỒNG
Giáo hội Phật giáo không duy trì mãi được sự thống nhất, và chẳng bao
lâu đã phân chia thành một số các bộ phái. Truyền thống Phật giáo Ấn Độ
thường nói đến 18 bộ phái như thế, nhưng đó chỉ là con số theo như
truyền lại. Trong thực tế, ít nhất chúng ta cũng đã kể tên được hơn 30
bộ phái. Đức Phật không chỉ định ai là người tiếp nối cương vị của
ngài,2 và Phật giáo chưa bao giờ được biết là có một cơ chế quyền lực
trung ương theo kiểu như Giáo hoàng của Thiên Chúa giáo hay giáo chủ
Khalif của Hồi giáo. Vì những cộng đồng của các bộ phái gắn liền với
những miền khác nhau của Ấn Độ, nên các truyền thống địa phương đã phát
triển. Mặc dù vậy, bất chấp sự phân chia về địa lý và giáo lý, các bộ
phái nói chung vẫn duy trì được mối quan hệ ổn định với nhau.
Không những là có các tỳ-kheo riêng lẻ liên tục đi lại từ trung tâm này
đến trung tâm khác, mà còn có việc tổ chức thường xuyên các cuộc hành
hương của rất đông các tăng sĩ và cư sĩ đến chiêm bái những thánh địa ở
Ma-kiệt-đà3 (nơi này đã trở thành thánh địa thiêng liêng nhờ mối quan hệ
với cuộc đời đức Phật và ngọc xá-lợi ngài để lại). Điều này tạo ra sự
pha trộn thường xuyên giữa các yếu tố khác biệt nhau nhiều nhất. Vì vậy,
những vấn đề mà các bộ phái đưa ra thảo luận hầu như đều gần giống như
nhau, và những giả thuyết làm nền tảng để xây dựng các giải pháp cũng
đều như nhau.
Thông qua việc tiếp xúc thường xuyên mà tất cả tín đồ Phật giáo đều duy
trì được sự hiểu biết nhau. Các bộ phái khác nhau đều muốn có sự tổ chức
và kinh điển riêng của mình. Mặc dù vậy, trong những tự viện vẫn có rất
nhiều tăng sĩ thuộc các bộ phái khác nhau sống chung một cách hoàn toàn
hòa hợp. Điều được thừa nhận rộng rãi là: mục đích đề ra có thể đạt đến
bằng nhiều con đường khác nhau, và các bộ phái tỏ ra hết sức cảm thông
nhau, cho dù thỉnh thoảng cũng có xảy ra tranh cãi gay gắt. Tất cả các
bộ phái đều chia sẻ một giáo pháp chung, mặc dù cũng phải thừa nhận một
điều quan trọng là hình thức giáo pháp truyền miệng thời ấy không phải
ngắn gọn, dễ truyền đạt và dễ hiểu. Giáo pháp được trực tiếp khẩu truyền
để tránh rơi vào những kẻ không thích hợp. Nhưng có quá nhiều điều, nên
không một ai có thể một mình ghi nhớ hết. Do đó, các phần khác nhau của
giáo pháp được truyền cho các vị tăng sĩ chuyên biệt, có thể học thuộc
nằm lòng phần giáo pháp đó, chẳng hạn như Luật tạng, hoặc Kinh tạng,
hoặc một phần của Kinh tạng, hoặc Abhidharma1 .v.v... Những tăng sĩ có
thể tụng đọc thuộc lòng từng phần giáo pháp như vậy hình thành nên những
nhóm riêng biệt với những đặc quyền riêng, và chính sự hiện diện của họ
đã góp thêm một phần vào sự phân chia của tăng đoàn.
Chúng ta cũng không thể quên rằng, cho dù tổ chức Tăng-già có mong muốn
chống lại sự phân chia như vậy đến đâu đi chăng nữa, thì đó cũng không
phải một tổ chức chỉ bao gồm giới tăng sĩ, mà còn có cả những cư sĩ, vốn
là thành phần mà Tăng-già phải dựa vào về mặt kinh tế. Vì thế, đã nảy
sinh một sự căng thẳng thường xuyên giữa một bên là những người xem Phật
pháp như phương tiện để tạo ra một số ít các vị A-la-hán sống cách biệt
trong các tự viện với sự nghiêm trì giới luật, và bên kia là những
người muốn gia tăng khả năng mang lại sự giải thoát cho những người bình
thường, cùng lúc chống lại ảnh hưởng của các vị A-la-hán, và vận động
cho việc nới lỏng các giới luật trong tự viện.
Cuối cùng, chúng ta phải đề cập đến triết học như là một trong những
nguyên nhân mạnh mẽ nhất của việc phân chia bộ phái. Để hiểu được vì sao
triết học đã đóng một vai trò quyết định trong sự phát triển của Phật
giáo cũng là điều không mấy khó khăn. Sự giải thoát ở những cấp độ cao
hơn phụ thuộc vào việc tỉnh giác trong thiền quán về những yếu tố thực
sự chi phối các tiến trình tâm linh của chúng ta. Trong khi tiến hành
các phương pháp thiền quán này, các tu sĩ phải đối mặt với những vấn đề
hình thành nên lãnh vực triết học ở khắp nơi, chẳng hạn như tính chất và
sự phân loại của tri thức, những vấn đề về nhân quả, về thời gian và
không gian, về những tiêu chí để đánh giá thực tại, về sự tồn tại hay
không tồn tại của một “bản ngã”... và nhiều vấn đề khác. Giờ đây, cần
nhận ra một điều là, triết học khác với mọi ngành tri thức khác ở chỗ,
nó cho phép có nhiều hơn một giải pháp cho mỗi vấn đề. Chính là từ nơi
bản chất của sự vật mà những khác biệt về ý kiến chắc hẳn đã càng tăng
thêm, khi tín đồ Phật giáo càng đi sâu hơn vào những vấn đề triết học có
liên quan đến giáo lý.
Rõ ràng là ở đây không thể nêu ra hết được hàng trăm điểm bất đồng giữa
các tín đồ Phật giáo, hoặc ngay cả việc đề cập đến tất cả các bộ phái.
Có thể chỉ cần nói đôi điều về bốn hoặc năm bộ phái chính, còn những bộ
phái chi nhánh hãy tạm thời gác lại. Biểu đồ ở trang sau sẽ chỉ ra sự
liên hệ giữa các bộ phái chính trong Tăng-già.
Sự phân chia các bộ phái
140 năm sau Phật nhập Niết-bàn
(khoảng 340 trước CN)
200 năm sau Niết-bàn
(khoảng 280 trước CN)
Đại chúng bộ Thượng tọa bộ
(Mahāsānghika) (Sthavirāvāda)
Trụ tử bộ 236 năm sau Niết-bàn
(Pudgalavda) (khoảng 244 trước CN)
Nhất thiết hữu bộ
Phân biệt bộ (Sarvstivda)
(Vibhajyavda)
Sự phân chia trước nhất, giữa Đại chúng bộ và Thượng tọa bộ, phát khởi
từ vấn đề địa vị thánh giả của các vị A-la-hán. Một vị tăng tên là Đại
Thiên1 đã nêu lên những nghi vấn về việc này. Ông đưa ra 5 điều để cho
rằng các vị A-la-hán không xứng đáng để được kính trọng giống như chư
thiên, như một số nhóm trong tăng đoàn thường gán cho họ. Trong những
điều ấy, ông đề cập đến việc các vị A-la-hán có thể bị mộng tinh, và
biện luận rằng như vậy họ vẫn còn bị ảnh hưởng của những điều xấu xa
hiện ra trong giấc mơ. Ngoài ra, các vị vẫn còn có những chỗ nghi ngờ,
còn có nhiều điều chưa biết, và còn phụ thuộc vào sự dẫn dắt của người
khác mới có thể đạt được sự giải thoát. Lập luận của Đại Thiên khơi dậy
một cuộc tranh luận mà đa số trong tăng đoàn đã ngả về theo ông. Vì thế,
trường phái của ông tự lấy tên là Đại chúng bộ.2
Những người chống lại lập luận của Đại Thiên hình thành một bộ phái khác
gọi là Thượng tọa bộ,1 tự cho rằng họ cao quý và chính thống hơn.
Đại chúng bộ vẫn tiếp tục tồn tại ở Ấn Độ cho đến hết thời kỳ thứ nhất,
và đã có những phát triển quan trọng về giáo lý diễn ra trong bộ phái
này. Tất cả những sự phát triển này, về cơ bản đã được xác định bởi
quyết định đứng về phía những người bình thường chứ không phải các vị
thánh giả, và do đó bộ phái này đã trở thành cầu nối để những khát vọng
của đa số đi vào Phật giáo.
Những học thuyết quan trọng nhất của Đại chúng bộ liên quan đến học
thuyết về đức Phật và lý thuyết triết học. Chẳng hạn như quan niệm về
đức Phật, họ cho rằng tất cả những gì có tính cách thế nhân, trần tục
hay lịch sử đều không dính dáng gì đến đức Phật chân thật. Ngài là bậc
siêu việt, vượt trên thế gian, không có bất cứ sự khiếm khuyết hay ô
nhiễm nào. Ngài là bậc toàn trí, toàn năng, vô biên và bất diệt, mãi mãi
an trú trong thiền định và không bao giờ có những trạng thái lơ đãng
hay mê ngủ. Theo cách hiểu này, đức Phật trở thành một đối tượng lý
tưởng của tín ngưỡng. Còn đức Phật có thật trong lịch sử được cho là hóa
thân kỳ diệu của đức Phật siêu nhiên, được ngài hóa hiện ra trên thế
gian này để giáo hóa chúng sanh.
Trong khi ca ngợi tính siêu thế gian của đức Phật, bộ phái này đồng thời
cũng cố gắng làm tăng thêm ý nghĩa cứu độ của ngài đối với những chúng
sanh phàm tục. Theo đó thì đức Phật không biến mất khi nhập Niết-bàn, mà
với lòng từ bi vô hạn cũng như thọ mạng vô lượng, ngài sẽ mãi mãi hóa
hiện ra những vị sứ giả dưới mọi hình thức, và các vị này sẽ cứu giúp
tất cả các loài chúng sanh theo nhiều cách khác nhau. Ảnh hưởng của ngài
không chỉ giới hạn với một số ít người có thể hiểu được các giáo lý
thâm sâu của ngài, mà từ khi còn là một vị Bồ Tát, nghĩa là suốt một
thời gian rất lâu trước khi thành Phật, thậm chí ngài đã tự nguyện sanh
trong những cảnh giới đau khổ, làm thân thú vật, quỷ đói, hoặc sanh vào
địa ngục, và bằng nhiều phương tiện để làm tăng thêm hạnh phúc cho những
chúng sanh đang sống trong những điều kiện mà sự giáo hóa chắc chắn
không được quan tâm đến. Không những chư Phật thị hiện nơi thế giới này,
mà các ngài còn biến hiện khắp nơi trong toàn thể vũ trụ, hiện hữu ở
khắp mọi nơi, trong tất cả các cõi thế giới.
Hai triết thuyết sau đây của Đại chúng bộ là quan trọng hơn hết:
1. Đại chúng bộ cho rằng tư tưởng của chúng ta, trong bản chất tự nhiên,
trong sự hiện hữu tự thân, trong thực chất căn bản nhất của nó, là hoàn
toàn thuần khiết và không ngăn ngại. Những điều bất tịnh chỉ là bất
chợt khởi lên, không bao giờ có thể thật sự thâm nhập hoặc gây ảnh hưởng
đến sự thuần khiết nguyên thủy của tư tưởng.
2. Đại chúng bộ ngày càng gia tăng sự hoài nghi về giá trị của những tri
thức qua ngôn ngữ và khái niệm. Một số người trong bộ phái này cho rằng
tất cả những chuyện thế gian là không thực, bởi vì đều do tà kiến mà
có. Chỉ có những gì vượt trên thế pháp, và có thể gọi là “tánh không”,
vắng lặng tất cả các pháp, mới là chân thật. Một số khác lại cho rằng
hết thảy mọi thứ, thế gian và xuất thế gian, tuyệt đối và tương đối,
luân hồi và Niết-bàn, cũng đều là những ảo tưởng, không thật. Tất cả
những gì chúng ta có được là những cách diễn đạt bằng ngôn ngữ mà không
có gì là thực sự tương ứng cả. Với triết thuyết này, Đại chúng bộ đã sớm
gieo mầm mống để về sau nảy sinh Phật giáo Đại thừa trong thời kỳ thứ
hai.
Sự phân chia thứ hai, giữa Trụ tử bộ1 và Thượng tọa bộ liên quan đến vấn
đề sự hiện hữu của cá thể hay “cái tôi”. Lúc mới thành lập, những người
theo chủ thuyết “hữu ngã” được gọi là Độc tử bộ, theo tên người sáng
lập. Về sau này, họ được biết đến nhiều hơn với tên gọi là Trụ tử bộ.
Mặc dù không theo đúng giáo lý của Phật,2 nhưng có đôi lúc họ vẫn lôi
cuốn được đông đảo người theo, như chúng ta có thể thấy ở sự kiện ngài
Huyền Trang vào thế kỷ 7 đã đếm được đến 66.000 tỳ-kheo theo bộ phái này
trong tổng số 250.000 tỳ-kheo trên toàn cõi Ấn Độ.
Giáo điều cơ bản của triết học Phật giáo cho rằng tự ngã1 của con người
chỉ là một biểu hiện sai lầm, và không nên để ý niệm về tự ngã xen vào
trong khái niệm về thực tại như vốn có, cho dù là dưới bất cứ hình thức
nào. Những người theo chủ thuyết hữu ngã đã thách thức quan điểm này, và
cho rằng bên cạnh các pháp vô ngã vẫn có một cái “ngã” phải xem xét
đến. Họ dẫn chứng nhiều phần đáng tin cậy trong kinh điển để hậu thuẫn
cho quan điểm của họ. Chẳng hạn như họ rất thường trích dẫn câu này: “Có
một người, khi sinh ra trên thế giới này là sinh ra vì hạnh phúc của
nhiều người. Người đó là ai? Chính là Như Lai.”2 Những người phản đối
vẫn phải thừa nhận những câu trích dẫn tương tự như thế, nhưng luôn cho
rằng chúng không mang nghĩa theo như họ đã diễn dịch, bởi vì trong những
lời ấy, đức Phật chỉ tùy thuận mà sử dụng ngôn ngữ cho thích hợp với sự
mê tối của chúng sanh mà thôi.
Những người chủ trương hữu ngã còn cho rằng tự ngã là một thực tại theo
nghĩa tuyệt đối. Chính tự ngã là yếu tố chung, là một sự nối kết cho
những tiến trình nối tiếp nhau xảy ra trong một cá nhân cụ thể trải qua
nhiều đời sống, để cuối cùng đạt đến Phật quả. Song song với lý thuyết
này, Trụ tử bộ còn rất quan tâm đến việc định nghĩa mối quan hệ giữa tự
ngã và các uẩn theo một cách sao cho không mâu thuẫn với những nguyên
tắc chủ yếu trong giáo lý của đức Phật và cũng để loại trừ niềm tin sai
lầm về tự ngã. Họ dạy rằng: “Tự ngã không giống với các uẩn, cũng không
nằm trong các uẩn, và không nằm ngoài các uẩn.” Có thể nói là khái niệm
tự ngã đưa ra một kiểu cấu trúc thống nhất cho những yếu tố thuộc về
tinh thần và thể chất. Vì vậy, tự ngã không thể diễn đạt bằng lời, và
cũng không thể định nghĩa được, cho dù là ở bất cứ khía cạnh nào. Tự ngã
chân thật và siêu việt của một người quả thật tinh tế đến mức chỉ có
các đức Phật mới có thể nhìn thấy được.
Trụ tử bộ là biểu hiện cho sự phản ứng của những tri thức thông thường
chống lại tính cách không chắc chắn của lý thuyết về các pháp dưới những
hình thức quá cứng nhắc. Họ đã gây ra sự khó chịu thường xuyên cho
những người bất đồng thuộc các bộ phái khác trong nhiều thế kỷ. Và trong
một chừng mực nào đó, bộ phái này có thể nói là tiền thân của triết học
Đại thừa. Có sự tương đồng gần gũi giữa tự ngã của họ với chân như1
hoặc tánh không của phái Trung luận.2 Và tạng thức3 của Duy thức tông4
lại có nhiều chức năng mà những người chủ trương hữu ngã này đã gán cho
tự ngã của họ.
Sự phân chia thứ ba là giữa Nhất thiết hữu bộ và Phân biệt bộ, bắt nguồn
từ giáo lý bản thể toàn hữu5 của Katyayamputra, cho rằng không chỉ
riêng hiện tại, mà cả những sự kiện trong quá khứ và tương lai đều là có
thật. Dường như vua A-dục đã đứng về phía của Phân biệt bộ, và vì thế
Nhất thiết hữu bộ chuyển về phía Bắc và giáo hóa xứ Kashmir, nơi mà về
sau tiếp tục là trung tâm của họ trong hơn một ngàn năm.
Khi chúng ta xem xét đến việc hành thiền căn bản của Phật giáo, cũng
không có gì đáng ngạc nhiên khi vấn đề hiện hữu của những sự kiện quá
khứ và tương lai lại dường như quá quan trọng. Giữa những tính chất
không thỏa mãn của thế giới này, tính chất vô thường là quan trọng hơn
hết. Và công việc của một thiền giả là khắc sâu điều ấy trong tâm trí
đến mức tối đa, để có thể làm tăng thêm sự nhàm chán đối với những vấn
đề thế tục. Trong tương quan này, hành giả phải chọn lấy một sự việc,
hay một pháp, và quán xét sự sinh khởi rồi diệt đi của nó, nghĩa là quán
xét pháp ấy hiện đến như thế nào, phát triển như thế nào và diệt mất
như thế nào.
Một khi hành giả đã quen với việc đặt quá khứ tương phản với hiện tại và
tương lai, thì rất có thể người đó sẽ trở nên tò mò muốn biết xem liệu
chỉ có hiện tại là hiện hữu, hay cả quá khứ và tương lai cũng hiện hữu?
Nếu duy nhất chỉ có hiện tại hiện hữu, thì việc này sẽ gợi lên thêm vấn
đề sự kéo dài của hiện tại mà nhiều người cho là chỉ trong một thoáng vô
cùng ngắn ngủi. Trong trường hợp đó, sẽ không có gì tồn tại kéo dài qua
thời gian, và người ta buộc phải cho rằng sự việc bị mất đi và được tái
tạo trong từng khoảnh khắc.
Nhưng theo Katyayamputra, điều này tạo ra những khó khăn không chỉ cho
những tri thức thông thường, mà cả cho giáo lý nghiệp quả và sự báo ứng
của Phật giáo nữa. Bởi vì, nếu như một hành động từ quá khứ, vốn đã
không tồn tại ngay sau khi diễn ra, lại có thể đưa đến một kết quả tốt
hoặc xấu trong nhiều năm sau đó, vậy thì trong trường hợp ấy, có một
điều gì đó không tồn tại mà vẫn hoạt động và tạo ra tác động trong khi
nó không tồn tại. Bởi thế, Katyayamputra cho rằng, cũng tương tự như
vậy, những hiểu biết về các đối tượng quá khứ và tương lai như được xác
định bởi trí nhớ và dự báo sẽ không thể có được, bởi vì không thể có bất
cứ một sự hiểu biết nào, nếu như không có một đối tượng thật sự của tâm
trí. Từ đó, ông đưa ra lý thuyết toàn hữu, trở thành một luận đề đặc
biệt của Nhất thiết hữu bộ.1 Thuyết này tránh được những vấn đề nêu
trên, nhưng thay vào đó lại gợi lên nhiều vấn đề khác. Và để có thể đứng
vững được cần phải có thêm một cấu trúc thượng tầng đồ sộ với rất nhiều
giả thuyết phụ thuộc.
Mặc dù bám víu vào một học thuyết nhiều khúc mắc, nhưng Nhất thiết hữu
bộ vẫn trở thành một trường phái đáng kể nhất trên tiểu lục địa Ấn Độ.
Kết quả của cao trào quan tâm đến các vấn đề triết học là trường hợp đầu
tiên về một loạt những kinh văn được sáng tạo ra để đáp ứng với hoàn
cảnh mới. Bộ A-tỳ-đạt-ma rõ ràng là đã được soạn ra sau lần phân chia
thứ ba của các bộ phái. Nội dung bảy cuốn A-tỳ-đạt-ma của Nhất thiết hữu
bộ khác xa với nội dung bảy cuốn của Thượng tọa bộ,1 một nhánh phân
chia từ Phân biệt bộ.2 Một số các bộ phái khác, như Kinh lượng bộ3 đã
tiến xa hơn đến chỗ phản bác lại tính xác thực của cả bộ A-tỳ-đạt-ma. Từ
khoảng năm 220 trước Công nguyên trở đi, đã có rất nhiều nỗ lực tinh
thần để cho ra đời những bộ sách này, vốn là những tài liệu hướng dẫn
cần thiết cho phương pháp thiền quán, chỉ rõ những sự kiện nào có thể
xem là căn bản cho người khởi đầu, và những sự kiện khác được chúng tạo
thành như thế nào, và chúng tạo điều kiện tương tác với nhau như thế
nào.v.v...
Trước khi kết thúc việc nói về các bộ phái, chúng ta có thể đề cập thêm
một số điểm bất đồng về các vấn đề được quan tâm rộng rãi hơn.
Khái niệm khó nắm bắt về Niết-bàn đã là chủ đề tranh luận. Nếu Niết-bàn
là vượt ngoài nhận thức, vậy liệu Niết-bàn có thật tồn tại hay không? Và
có thể tạo ra được ảnh hưởng gì không? Niết-bàn có phải là trạng thái
duy nhất vượt ngoài nhận thức, hay không gian cũng là vượt ngoài nhận
thức ? Liệu có sự khác biệt nào giữa Niết-bàn của chư Phật và Niết-bàn
của những người khác hay không? Và nếu có, thì khác biệt đó là gì?
Ngoài ra còn có nhiều quan tâm đến việc xác định những tiêu chí của sự
chứng ngộ hoàn toàn, bất thối chuyển. Và do đó cũng dẫn đến rất nhiều
tranh luận về việc liệu có khi nào các vị A-la-hán và các bậc thánh khác
có thể bị thối chuyển hay không? Và kể từ khi nào thì sự giải thoát của
họ có thể được đảm bảo chắc chắn?
Về vấn đề cái chết, vốn luôn ám ảnh trong tâm trí người tu tập, người ta
tự hỏi rằng, liệu giờ chết của mỗi người có luôn luôn được xác định
trước bởi nghiệp quả của người ấy, hay một cái chết sớm hơn và không
được xác định trước cũng có thể xảy ra?
Cũng có nhiều bất đồng về những gì sẽ theo sau cái chết. Có 5 trường
phái tin rằng việc tái sinh vào một thân xác mới xảy ra ngay tức thì sau
khi chết. Trong khi đó, 5 trường phái khác cho rằng có một giai đoạn
chuyển tiếp sau khi chết, kéo dài đến 49 ngày.1 Và suốt thời gian đó,
trong hầu hết các trường hợp, tâm thức dần dần chuẩn bị đời sống mới cho
chính mình. Trong trường hợp của một số các vị thánh, khoảng thời gian
này được dùng để đạt đến Niết-bàn mà họ đã không đạt được khi còn sống.
5. CƯ SĨ
Cho đến lúc này, chúng ta đã phác thảo sơ qua được những quan điểm cơ
bản và mục tiêu của hàng tăng sĩ xuất gia, những người hình thành nên
phần cốt lõi chính yếu của Phật giáo. Thế còn về những tín đồ Phật giáo
không theo đuổi đời sống xuất gia, nhưng nếu không có họ thì hàng tăng
sĩ không thể có đủ điều kiện để tu tập thiền quán, những người ấy thì
sao? Vị trí của họ như thế nào trong bức tranh toàn cảnh? Họ được giao
cho thực hiện những điều gì? Và tăng sĩ đã làm được những gì cho họ?
Nếu một cư sĩ cảm thấy ràng buộc với gia đình và không thể thoát ly để
sống cuộc sống không nhà, người ấy được cho là không đủ phước duyên. Và
phước duyên thì phụ thuộc vào những gì mà một người đã làm từ trong quá
khứ và những gì làm giới hạn khả năng gặp được các điều kiện tốt để tu
tập của người ấy. Trong một vài trường hợp ngoại lệ được ghi nhận, một
số cư sĩ chưa từng xuất gia vẫn đạt được sự giải thoát sanh tử. Tuy
nhiên, nói chung thì sự giải thoát của cư sĩ không thể đạt được ngay
trong hiện tại, chỉ có thể được đảm bảo với điều kiện là cho đến một đời
sống tương lai họ đã tạo đủ phước duyên để có thể bước vào thế giới tự
do của một đời sống trong tự viện.
Về mặt tín ngưỡng, công việc duy nhất mà một cư sĩ có thể làm trong hiện
tại là làm tăng thêm phước báu của mình. Phật giáo chỉ ra 4 phương thức
để cư sĩ có thể làm điều đó:
a. Vâng giữ theo 5 giới, hoặc ít nhất cũng là bắt đầu với một phần nào
trong đó. Vào các ngày rằm hoặc đầu tháng, cư sĩ có thể giữ thêm 3 giới
nữa.1 Đó là ăn chay và không ăn sau lúc giữa trưa, không tham gia các
cuộc giải trí thế tục, và không dùng các loại dầu thơm hoặc đồ trang
sức. Một số người còn giữ thêm 2 giới nữa,2 đó là không nằm hoặc ngồi
trên giường ghế cao rộng và không nhận tiền bạc hay các vật quý giá.
b. Đặt niềm tin sâu vững vào ngôi Tam bảo. Vun đắp niềm tin là điều lành
thích hợp đối với cuộc sống có gia đình. Nhưng niềm tin vào Tam bảo
không nhất thiết phải là duy nhất, không loại trừ việc thờ cúng ông bà
hoặc các tập tục chung của xã hội. Ngôi Tam bảo không phải là một kiểu
thánh thần đố kỵ, khó chịu về việc gia chủ thờ kính các vị thần hộ mệnh
của quốc gia hay bộ tộc.
c. Cư sĩ phải có lòng rộng lượng, không tham tiếc, nhất là đối với các
vị tăng sĩ, và cúng dường cho các vị càng nhiều càng tốt, không những để
các vị duy trì những nơi tự viện, mà còn cả những nơi thờ kính không có
người ở nữa.3 Trong một chừng mực nào đó, công đức tạo ra do việc cúng
dường là tùy thuộc vào đức độ của người thọ nhận. Vì thế, những vị đệ tử
của Phật, và đặc biệt là các vị A-la-hán, là những mảnh ruộng phước4
tốt nhất để gieo mầm công đức.
d. Cư sĩ còn có thể thờ kính ngọc xá-lợi của Phật để lại. Thái độ thực
sự của tín đồ Phật giáo đối với ngọc xá-lợi từ răng và xương Phật để lại
thật khó có thể mô tả bằng những từ ngữ mà người phương Tây đã hiểu
được. Nếu dùng từ “cầu nguyện” đức Phật thì rõ ràng là không thể được,
vì họ cho rằng ngài không còn nữa mà đã nhập Niết-bàn , nghĩa là hoàn
toàn không hiện hữu nữa đối với thế gian này. Ngay cả khi dùng từ “thờ
kính” cũng vẫn còn đáng ngờ vì không biết là có thích hợp hay chăng.
Trước khi có sự ra đời của nền công nghiệp hiện đại, con người ở khắp
nơi đều nhìn vào thế giới như một cõi huyền bí có vô số những khả năng
xảy ra bất cứ điều gì, và rất nhiều những sức mạnh vô hình, đầy ý nghĩa
và biết bao nhiêu điềm báo đáng chú ý. Ở Ấn Độ, kiểu chào chắp hai tay
lại và đưa ra phía trước1 là tập quán chào hỏi thông thường, trong đó
không hề có sự cố chấp độc đoán, ý thức nô lệ hay sự mê tín sùng bái
ngẫu tượng. Những điều này tác động rất ít đến người có đức tin chân
chính, và không giới hạn được sự tự do trong nội tâm của họ. Đức tin
nhiệt thành đã tạo ra trong thế giới Phật giáo vô số những thánh điện2
và bảo tháp,3 đã trở thành đối tượng sùng bái đặc biệt của hàng Phật tử
tại gia. Tuy vậy, việc sáng tạo ra và thờ phụng các ảnh tượng của Phật
đã xuất hiện khá trễ, rất có thể là không sớm hơn thế kỷ thứ nhất.
Nếu một cư sĩ thực hành 4 điều lành như trên thì sẽ có một cuộc sống
hạnh phúc, và sau khi chết sẽ được sanh về các cõi trời. Vua A-dục đã
thể hiện rất tốt những tính chất của Phật giáo theo như được hiểu bởi
hàng cư sĩ. Trong giáo lý đạo Phật, nhà vua coi trọng nhất hai việc là
không gây hại đến kẻ khác4 và có lòng từ đối với mọi người.5 Các sắc
lệnh của ông có nhiều chỗ tán dương và thúc đẩy việc thực hành những
điều lành đơn giản, và chúng ta cũng nghe nói nhiều về sự cần thiết của
lòng hiếu thảo. Nhưng trong đó không nói đến những tư tưởng sâu sắc hơn
hoặc những giáo lý cơ bản về đức tin. Cũng không thấy đề cập đến Tứ diệu
đế, Bát chánh đạo, giáo lý nhân quả, hoặc ngay cả đến Niết-bàn hay các
phẩm chất siêu việt của một vị Phật.
Vậy thì giới tăng sĩ mang lại được những lợi ích gì cho hàng cư sĩ? Họ
làm tăng thêm hạnh phúc về cả hai mặt tinh thần và vật chất cho cư sĩ.
Về mặt tinh thần, họ sử dụng những bài thuyết giảng về các phần giáo lý
dễ hiểu và có liên quan đến cư sĩ, và bằng cách nêu gương một đời sống
thánh thiện có thể giúp mang lại niềm khao khát và nhiệt tình cho những
người còn ràng buộc với thế tục, để từ đó có thể hé mở cho họ thấy sự tự
do và thanh thản có thể đạt đến trong đời sau.
Qua một thời gian, có rất nhiều chuyện tiền thân đức Phật,1 kể về những
đời sống trước đây của ngài, hiện thân con người cũng như thú vật, và
những chuyện dẫn dụ có tính cách răn dạy,2 được tập hợp lại để dành cho
cư sĩ. Những câu chuyện này được say mê lắng nghe, nhưng không được xem
trọng bằng những giáo lý có tính cách siêu việt hơn. Nội dung của chúng
chủ yếu là về những đức hạnh trong đời sống thế tục, thường xuyên nhấn
mạnh vào thuyết nghiệp quả và luân hồi, cũng như nuôi dưỡng lòng từ bi
đối với tất cả chúng sanh. Ở Bharhut, Bodhgaya, Sanchi, Nagarjunikonda
và Ajanta, nhiều câu chuyện tiền thân được minh họa bằng hình tượng và
tranh ảnh.
Về mặt vật chất, tín đồ Phật giáo ở châu Á tin rằng người dân có thể có
được sự sung túc, phát đạt về kinh tế, tránh được nạn đói, dịch bệnh, và
chiến tranh là phần lớn nhờ vào các vị tăng sĩ. Bởi vì sự thịnh vượng
của một quốc gia phần lớn tùy thuộc vào thiện chí của những sức mạnh
tinh thần tiềm ẩn3 mà chỉ các vị tăng sĩ mới có thể biết được và có khả
năng tác động đến những sức mạnh ấy theo hướng có lợi. Mọi việc đều tốt
đẹp đối với một dân tộc biết kính trọng chư tăng, và bày tỏ sự tôn kính
đối với chư Phật bằng việc cúng dường rộng rãi cho các tự viện, chùa
tháp. Nhưng nếu quốc gia nào quay lưng với Phật giáo thì thế nào cũng
phải suy sụp trong đau khổ. Đây là những niềm tin đã giúp duy trì các tự
viện.
Tuy nhiên, sự ủng hộ có tính cách tự nguyện và không ổn định của người
dân, vốn chỉ ràng buộc bởi những niềm tin mong manh như thế, sẽ không
giúp cho Tăng-già tồn tại được lâu. Điều bí mật phía sau sự tồn tại của
Tăng-già qua nhiều thế kỷ là ở nơi khả năng của các tín đồ Phật giáo đã
liên tục nhiều lần giành được sự ủng hộ từ các nhà cai trị ở châu Á, và
những người này bảo trì các tự viện bằng ngân quỹ của nhà nước. Nếu
không có sự ủng hộ theo cách này, chư tăng buộc phải trở thành chủ sở
hữu của những tài sản lớn lao1 và phải từ bỏ hoàn toàn những khoản hiến
cúng từ việc đi khất thực nhà này sang nhà khác. Đây cũng là một giải
pháp, nhưng nó đe dọa đến sự thoát ly thế sự, và rất có thể lôi cuốn
tăng sĩ vào phạm vi của những xung đột xã hội.
Mặc dù là những mối quan hệ với cư sĩ luôn thiếu tính ổn định và có
những điểm yếu ngay từ nền móng của vấn đề, nhưng nếu Phật giáo đã tách
dần ra khỏi những giáo lý của thời kỳ đầu,2 điều đó phần lớn lại là nhờ ở
công lao của hàng cư sĩ. Chính nhờ sự thúc ép của họ đã đưa đến những
cải cách của thời kỳ thứ hai và thứ ba, vì thế mà những cải cách này bị
những tăng sĩ nghiêm khắc cho là một sự suy đồi. Phật giáo Đại thừa đánh
giá cao vai trò của hàng cư sĩ hơn. Họ giành được sự ủng hộ rộng rãi
nhờ vào quan điểm cho rằng quần chúng cũng quan trọng như pháp; nhờ vào
sự chỉ trích tính vị kỷ của những vị tăng chỉ biết nghĩ đến lợi lạc của
riêng mình; nhờ vào sự phê phán nghiêm khắc những vị tăng kiêu mạn; và
nhờ vào việc đưa ra những câu chuyện về các vị cư sĩ giàu có, chẳng hạn
như Duy-ma-cật,3 có trình độ tu chứng vượt xa hơn cả những vị tăng lớn
tuổi và đáng kính nhất. Những sức ép tương tự như vậy thường khiến cho
các vị tăng sĩ phải tỏ ra hữu ích hơn đối với hàng cư sĩ.
Trong thời kỳ thứ ba, thời kỳ Tan-tra, tăng sĩ tự buông thả vào những
niềm tin huyền bí và trở thành những người xem thiên văn, luyện thể lực,
cầu mưa, trị bệnh... Đó là lý do tại sao câu chuyện về Phật giáo trở
nên khó hiểu, trừ khi là có sự chú ý đúng mức đến những khao khát của
giới bình dân ít học. Yếu tố mà những người sáng lập đã chối bỏ, cuối
cùng lại trở thành yếu tố quan trọng nhất.
6. SỰ MỞ RỘNG
Suốt thời kỳ thứ nhất, Phật giáo nói chung vẫn còn là một tôn giáo
riêng của Ấn Độ. Vào khoảng năm 250 năm trước Công nguyên, vua A-dục gửi
các phái bộ đến chỗ những hậu duệ của Alexander Đại đế, nghĩa là các
vương quốc của Hy Lạp ở Ai Cập, Macedon, Cyrene và Epirus. Những phái bộ
này không để lại dấu vết nào và rất có thể họ đã không đạt được kết quả
gì.
Sự hiểu biết khá mơ hồ về Phật giáo mà chúng ta tìm thấy trong các tác
giả Hy Lạp có thể được giải thích bởi những cuộc tiếp xúc về sau này,
vốn chỉ diễn ra trong mối quan hệ mậu dịch phát triển mạnh mẽ vào thời
đại La Mã giữa Ấn Độ và Địa Trung Hải.
Chỉ có hoạt động của phái đoàn do vua A-dục phái đi Tích Lan là mang lại
kết quả. Sau khi được Mahinda, con vua A-dục, truyền vào Tích Lan
khoảng năm 240 trước Công nguyên, Phật giáo đã tồn tại nơi đây trong một
thời gian lâu hơn bất cứ nơi nào khác. Từ đó về sau, Phật giáo đã trở
thành quốc giáo của nước này. Chỉ có Phật tử mới có quyền chính thức trở
thành một vị vua, và đảo Lanka được xem như là của chính đức Phật. Nhà
vua có bổn phận bảo vệ Tăng-già, và những quyền lợi lớn lao được dành
cho các tự viện dưới hình thức hiến cúng, sự tôn kính, và không bị ai
can thiệp vào nội bộ. Mặc dù hầu hết các nhà vua đều là cư sĩ, nhưng họ
vẫn là quan tòa tối hậu trong việc phân xử bất cứ sự bất đồng nào giữa
tất cả những tín đồ Phật giáo.1 Về phần của tăng sĩ, nói chung thường
giúp đỡ các nhà vua, và tranh thủ sự ủng hộ của quần chúng cho những
điều các nhà vua muốn thực hiện.
Mối quan hệ gần gũi giữa Tăng-già với Nhà nước đã có những điều bất lợi.
Từ thế kỷ 2 trước Công nguyên trở đi, điều đó không những đã đưa tinh
thần của chủ nghĩa dân tộc vào Phật giáo Tích Lan và làm cho giới tăng
sĩ có khuynh hướng thiên về chính trị, mà còn dẫn họ đến chỗ nhiệt tình
ủng hộ những cuộc chiến tranh của các vị vua. Giới tăng lữ đã nói chắc
với vua Dutta Gamani1 rằng việc giết hàng ngàn kẻ thù là không thành vấn
đề, vì đã là những kẻ không có đức tin2 thì những kẻ thù ấy thật sự
chẳng hơn gì súc vật. Tăng sĩ tháp tùng theo quân đội của nhà vua này,
bởi vì “sự hiện diện của các vị tỳ-kheo đem đến cho chúng ta cả sự tốt
lành và sự che chở”, và chính nhà vua đã gắn một viên ngọc xá-lợi vào
cây giáo của mình.
Trong một thời gian dài, tín đồ Phật giáo Tích Lan tiếp tục giữ quan hệ
chặt chẽ với Ấn Độ qua các cảng Bharukaccha và Surparaka ở miền Tây. Dần
dần, toàn bộ kinh tạng được đưa vào Tích Lan, và cho đến cuối thời kỳ
đầu, hoặc có thể muộn hơn, thì có cả những kinh sách mới biên soạn bằng
tiếng Pli của các bộ phái chính. Chẳng hạn như phần đầu của cuốn
“Di-lan-đà vấn đạo”.3 Trong thế kỷ thứ nhất trước Công nguyên, Kinh tạng
và các tác phẩm chú giải, vốn trước đó chỉ được truyền miệng, đã được
ghi chép lại ở chùa Aluvihara “để Phật pháp có thể tồn tại lâu dài”.
Chiến tranh và nạn đói kém đã làm giảm đi dân số của nước này, và việc
truyền miệng kinh tạng bị lâm nguy. Thánh ngữ của kinh tạng là tiếng
Pli, trong khi các phần chú giải là bằng tiếng Tích Lan.
Tích Lan trở thành quê hương của một bộ phái được biết đến như là Thượng
tọa bộ,4 rất được quan tâm trong lịch sử Phật giáo, một phần vì kinh
tạng của họ được giữ lại đầy đủ, và một phần vì sự cách biệt về mặt địa
lý nên tương đối ít bị ảnh hưởng bởi nhiều sự phát triển sau này. Tuy
vậy, không rõ là họ đã bắt nguồn từ bộ phái nào của Ấn Độ. Có lẽ họ
giống với Phân biệt bộ, và được phát sinh từ một trong những chi nhánh
của bộ phái này.