Tôi sinh ra ở Gorakhpur thuộc miền Bắc Ấn Độ, trong một gia đình khá
giả với cả thảy 8 người con. Ngoài tôi ra là 3 anh em trai và 4 chị em
gái. Tôi là con thứ tư, với 1 người anh và 2 người chị. Tên cha mẹ đặt
cho tôi từ thuở nhỏ là Mukunda Lal Ghosh. Ngày tôi sinh ra đã rơi vào
những năm cuối của thế kỷ 19, và trong những năm đầu tiên của cuộc đời,
tôi được sống yên ổn tại quê nhà.
Cha mẹ tôi đều sinh ra ở tỉnh Bengal. Các vị là những tấm gương sáng đạo
đức không bao giờ phai mờ đối với tôi. Nhờ vậy, bầu không khí gia đình
mà trong đó 8 người con chúng tôi lớn lên bao giờ cũng ấm êm và hòa
thuận.
Cha tôi là một người tốt. Nhưng có lẽ cũng giống như nhiều người cha
khác trên thế gian này, dưới mắt chúng tôi ông bao giờ cũng tỏ vẻ nghiêm
khắc, cứng rắn. Dù thế, chúng tôi đều hết lòng thương yêu và kính trọng
ông. Tên ông là Bhagabati Charan Ghosh, và là một trong những người
sống theo toán học và lý luận, nghĩa là nghiêng về lý trí nhiều hơn cảm
tính. Tuy vậy, từ ngày mẹ tôi qua đời, ông bắt đầu bộc lộ trọn vẹn tình
thương yêu thắm thiết ông dành cho chúng tôi, mà có lẽ từ lâu ông đã cố
đè nén chỉ giữ nó trong lòng. Khi ông nhìn chúng tôi, tôi thấy phảng
phất trong đó nét trìu mến mà mẹ tôi vẫn dành cho chúng tôi khi bà còn
sống.
Hồi đó, cha tôi là phó chủ tịch của công ty đường sắt Bengal Nagpur, một
trong những công ty lớn của Ấn Độ. Công việc này đòi hỏi gia đình chúng
tôi phải di chuyển chỗ ở khá thường xuyên, và vì thế, thời niên thiếu
của tôi đã trải qua nhiều thành phố khác nhau.
Mẹ tôi là một người phụ nữ tuyệt vời. (Và tôi vẫn thường tự hỏi, trên
thế gian này có người mẹ nào là không tuyệt vời đối với con cái họ?) Bà
chăm sóc chúng tôi chu đáo, vì bà không phải làm gì thêm cho vấn đề sinh
kế của gia đình. Công việc của cha tôi đủ nuôi sống cả gia đình một
cách khá đầy đủ. Bao giờ mẹ cũng tắm rửa sạch sẽ và mặc quần áo tươm tất
cho anh em chúng tôi vào mỗi buổi chiều khi đón cha về từ công sở. Bà
làm như thế để tỏ lòng kính trọng cha tôi, mà cũng là biểu lộ tình
thương yêu với chúng tôi nữa. Dĩ nhiên là cha tôi rất vui vì điều ấy.
Mẹ tôi luôn rộng lòng với những kẻ nghèo khó. Vấn đề là đôi khi bà vượt
quá những khuôn thước, chuẩn mực mà cha tôi muốn cả gia đình phải tuân
theo. Mặc dù mức thu nhập của cha tôi rất cao, nhưng ông không thích
sống xa xỉ và chi tiêu tiền bạc bừa bãi. Ông muốn ngân sách gia đình
được giữ theo một chuẩn mực điều độ và hợp lý. Có một lần, chỉ trong nửa
tháng mẹ tôi đã chi ra cho việc giúp đỡ những người nghèo khó nhiều hơn
cả số tiền cha tôi mang về trong một tháng. Cha tôi nói với bà:
– Tôi muốn bà hãy giới hạn việc bố thí, giúp đỡ trong một mức độ hợp lý.
Mẹ tôi là người rất nhạy cảm với mọi sự chỉ trích của cha tôi. Vì thế,
bà không đáp lại gì, chỉ lẳng lặng mang hành lý đi ra cửa, gọi một chiếc
xe ngựa và nói:
– Tôi về nhà mẹ tôi đây.
Phụ nữ Ấn Độ nói chung, chẳng riêng gì mẹ tôi, từ xưa nay vẫn thường hăm
dọa chồng như thế mỗi khi gia đình có chuyện bất hòa. Nhưng chúng tôi
chưa đủ lớn để hiểu điều đó, và òa lên khóc nức nở. Vừa khi ấy thì cậu
tôi đến. Ông kề tai cha tôi nói nhỏ một điều gì, mà sau này tôi mới hiểu
đó hẳn là một lời khuyên sáng suốt đã từng được chứng nghiệm tính đúng
đắn của nó qua nhiều thế kỷ. Cha tôi xin lỗi mẹ, và bà mang hành lý vào
nhà, cho chiếc xe ngựa chạy về trống không. Và như thế là chấm dứt cuộc
bất hòa duy nhất mà chúng tôi được chứng kiến giữa cha với mẹ.
Những lần sau này, sự việc đúng là diễn ra theo cách khác hơn. Có lần, mẹ tôi bảo cha tôi:
– Có người đàn bà tội nghiệp đang chờ tôi trước cửa. Bà ấy rất cần 10 đồng ru-bi. Ông hãy đưa cho tôi số tiền ấy.
Cha tôi phản đối nhẹ nhàng:
– Sao đến những 10 ru-bi! Bà có thể đưa cho bà ấy 1 ru-bi cũng đủ tỏ rõ lòng tốt của bà rồi kia mà.
Và cha tôi tiếp tục thuyết phục mẹ bằng cách kể lại những giai đoạn khó
khăn trong đời mình. Có lúc, ông chỉ ăn bữa trưa bằng một quả chuối nhỏ,
vậy mà ông vẫn theo đuổi việc học. Khi ông vào đại học, ông đã phải van
nài một vị thẩm phán giàu có để xin món tiền trợ cấp hằng tháng là 1
ru-bi, nhưng ông này đã từ chối với lý do một khoản tiền như thế là quá
nhiều.
Mẹ tôi chăm chú lắng nghe ông, và cuối cùng bà nhoẻn một nụ cười thật tươi với vẻ đắc thắng, bảo cha tôi rằng:
– Ông thấy chưa? Sự từ chối đó đã làm cho ông cay đắng biết bao nhiêu,
nên ông đã ôm ấp nó mãi cho đến ngày nay. Thế mà ông còn muốn lặp lại sự
việc như thế với người đàn bà tội nghiệp này sao? Để rồi bao nhiêu năm
nữa bà ta cũng sẽ không sao quên được ngày này hay sao?
Cha tôi bật cười xòa trước lập luận hết sức thực tế của mẹ tôi. Ông nói:
– Vâng, bà đã nói đúng. Và đây là 10 ru-bi, hãy đưa cho người đàn bà ấy cùng với lời chúc phúc của tôi.
Anh em chúng tôi được nuôi dạy trong khuôn khổ lễ giáo chặt chẽ của gia
đình. Cha tôi áp dụng những kỷ luật nghiêm khắc đối với chúng tôi, và
chính ông cũng nêu gương một đời sống biết tự chế và khắc khổ. Ông không
bao giờ đi xem hát. Ông dành thời gian rỗi rảnh cho việc tu dưỡng công
phu và đọc thánh kinh Bhagavad. Mặc dù không hề thiếu thốn về tiền bạc,
ông không chấp nhận bất cứ sự xa xỉ, hoang phí nào. Ông mang những đôi
giày cho đến khi chúng không thể nào sử dụng được nữa rồi mới bỏ đi. Khi
xe hơi trở nên phổ biến với các gia đình giàu có ở Ấn Độ, anh em chúng
tôi đều có, nhưng cha tôi thì vẫn đi bộ mỗi sáng đến trạm xe buýt và đi
xe buýt đến sở làm.
Cha tôi chưa bao giờ bị lôi cuốn vào những ham mê vật chất. Sau khi ông
góp sức thành lập được ngân hàng thành phố ở Calcutta, ông từ chối không
nhận phần chia lãi của mình, và nói rằng đó chỉ là việc làm trong bổn
phận. Khi cha tôi đã về hưu được khoảng 2 năm, có một nhân viên kiểm
toán người Anh đến kiểm tra sổ sách của công ty ông. Người này kinh ngạc
khi thấy rằng cha tôi vẫn chưa nhận phần chia lãi thuộc về ông. Sau khi
xem xét tất cả sổ sách của công ty, ông ta kết luận là cha tôi đã làm
được những phần việc bằng với 3 người khác, và công ty buộc phải trả cho
cha tôi một khoản tiền là 125.000 ru-bi – một khoản tiền kếch sù vào
thời điểm đó!
Công ty tuân thủ quyết định ấy và gửi cho cha tôi tấm ngân phiếu chi trả
đủ số tiền trên. Nó được chuyển vào tài khoản của cha tôi ở ngân hàng,
nhưng ông dường như không quan tâm mấy đến việc này và chưa từng một lần
nhắc đến. Mãi về sau này, em trai tôi là Bishnu phát hiện thấy một số
tiền lớn trong tài khoản của ông ở ngân hàng, mới mang sự việc ra hỏi
ông và nhờ đó mà chúng tôi được biết. Khi ấy, cha tôi bảo chúng tôi:
– Tại sao người ta phải quan tâm nhiều đến của cải, vật chất? Người đi
theo con đường sáng tâm linh không vui mừng vì được lợi lộc, và cũng
không đau buồn khi bị thua lỗ, mất mát. Người ấy hiểu được một sự thật
mà lẽ ra ai ai cũng phải hiểu, đó là con người sinh ra không có gì cả và
chết đi cũng chẳng mang theo được gì.
Cha mẹ tôi đã quy y với thầy Lahiri Mahsaya ở thành Bénarès chỉ ít lâu
sau đám cưới hai người. Và tính cách khắc khổ tự nhiên của cha tôi càng
tăng thêm hơn nữa sau sự kiện này. Mẹ tôi đã có lần tâm sự với chị Uma
của tôi rằng:
– Cha con và mẹ chỉ gần nhau mỗi năm một lần, với mục đích duy nhất là để có con.
Việc cha tôi đến với thầy Lahiri Mahsaya ở Bénarès là nhờ nơi chú
Abinash Babu, một nhân viên thuộc quyền cha tôi, làm ở trạm Gorakhpur.
Về sau, chú vẫn thường kể cho tôi nghe nhiều điều kỳ diệu về cuộc đời
của các bậc thầy chứng ngộ trên toàn xứ Ấn, và cho rằng trong số đó thì
thầy Lahiri Mahsaya ở Bénarès là cao cả hơn hết.
Một ngày đẹp trời vào mùa hè, khi chúng tôi ngồi chơi trước hiên nhà, chú Abinash Babu chợt hỏi tôi:
– Cháu có muốn biết về trường hợp kỳ diệu đã xui khiến ba cháu đến quy y với thầy Lahiri Mahsaya ở Bénarès hay không?
Tất nhiên là tôi rất tò mò muốn biết, và tôi biểu lộ điều đó bằng cặp mắt mở to tròn xoe nhìn chú. Chú bắt đầu kể cho tôi nghe:
– Hồi đó cháu còn chưa ra đời. Ba cháu lúc bấy giờ là trưởng phòng ở
trạm Gorakhpur. Có một lần tôi xin phép được nghỉ một tuần để đến thăm
thầy Lahiri Mahsaya ở Bénarès, là vị tôn sư của tôi. Khi ấy, ba cháu bảo
tôi rằng: “Nếu chú muốn tiến thân trên đường sự nghiệp, hãy siêng năng
làm việc hơn nữa và quên những chuyện cuồng tín vớ vẩn ấy đi.” Ngày ấy,
tôi rất buồn. Sau giờ làm việc, tôi theo một lối đi nhỏ trở về nhà và
gặp ba cháu cũng đi kiệu về cùng đường. Ông cho những người phu khiêng
kiệu trở lại, và xuống kiệu đi bộ cùng tôi. Ông biết tôi đang buồn và
muốn lựa lời an ủi. Ba cháu vẫn là một người luôn đối xử tốt với nhân
viên như thế đó. Tuy nhiên, những lời an ủi của ông lúc bấy giờ chẳng
lọt vào tai tôi, vì tâm trí tôi đang mãi nghĩ đến vị tôn sư của mình là
thầy Lahiri Mahsaya ở Bénarès. Chúng tôi cùng đi qua một cánh đồng vắng
lặng với ánh nắng chiều chưa tắt hẳn đang chiếu vàng trên từng ngọn cỏ.
Không ai bảo ai, tự nhiên chúng tôi cùng dừng chân đứng lặng ngắm cảnh
hoàng hôn tuyệt đẹp đang trải dài trên đồng cỏ. Ngay lúc ấy, cách chúng
tôi không đầy mười thước, bỗng thình lình xuất hiện thầy Lahiri Mahsaya.
Thầy cất giọng ôn hòa từ tốn nói với cha cháu rằng: “Bhagabati, sao con
quá khắt khe với nhân viên của mình đến thế?” Giọng nói của ngài tuy
không lớn lắm, nhưng có gì đó rất khác thường và như vang rền ra khắp
chốn. Chúng tôi đứng lặng cả người không kịp tỏ ra bất cứ một phản ứng
gì. Và ngay khi ấy thì ngài biến mất. Cha cháu còn chưa hiểu gì, trong
khi chú quỳ sụp xuống trên bờ cỏ và chắp tay gọi lớn: “Thầy Lahiri
Mahsaya, thầy Lahiri Mahsaya tôn kính của con!” Khi ấy, cha cháu mới
biết người vừa hiện ra một cách kỳ diệu trước mặt ông chính là vị thầy
tôn kính mà tôi đang mong muốn được đến viếng thăm.
Chú Abinash dừng một chút, như để nhớ lại giây phút bàng hoàng, kỳ diệu
mà một đời người không dễ có mấy lần được trải qua. Rồi chú chậm rãi kể
tiếp:
– Sau khi cha cháu đã bình tĩnh trở lại, ông bảo tôi: “Này Abinash, chú
sẽ được nghỉ phép theo như yêu cầu. Và chính tôi cũng sẽ nghỉ phép để
cùng đi với chú. Tôi rất muốn được về nương tựa với bậc thầy tôn kính
ấy, và tôi cũng muốn mang cả vợ tôi theo nữa. Tôi mong muốn được chú
giới thiệu với thầy để ngài thu nhận chúng tôi làm đệ tử.”
Khi ấy, không chỉ ba cháu là chịu tác động mạnh mẽ từ sự hiện thân của
thầy Lahiri Mahsaya. Chính tôi cũng thấy tâm linh mình ngập tràn niềm
vui sướng và đức tin. Những suy nghĩ, mong muốn của tôi đã được đức tôn
sư cảm nhận vượt qua không gian xa xôi, và ngài đã đáp lại lời cầu xin
của tôi bằng một cách mà tôi không bao giờ ngờ đến.
Không hiểu sao, tôi cảm thấy có gì đó rất gần gũi trong chuyện kể của
chú Abinash. Phải chăng những việc như thế này cũng đã từng xảy ra vào
một lúc nào đó với tôi từ lâu xa trong tiềm thức? Tôi nôn nóng được nghe
chú kể tiếp:
– Hôm sau, chúng tôi đáp chuyến xe lửa chiều, đến Bénarès. Tại đây,
chúng tôi nghỉ lại một đêm, và qua hôm sau phải vất vả qua nhiều chặng
đường gian khó, có lúc đi ngựa, có lúc đi bộ, mới đến được nơi tịnh thất
vắng vẻ của thầy Lahiri Mahsaya. Khi chúng tôi bước vào sảnh đường để
chào ngài, ngài vẫn còn đang ngồi trong tư thế kiết già như lúc thiền
định. Ngài nhìn thẳng vào mắt cha cháu và nói: “Bhagabati, sao con quá
khắt khe với nhân viên của mình đến thế? Ta rất vui khi thấy con đã đồng
ý cho Abinash đến đây, và cũng rất vui khi có vợ chồng con cùng đi.”
Cha cháu đã lặng người đi một lúc. Ông đã nghe lại chính xác những lời
mà đức tôn sư đã nói với chúng tôi trên cánh đồng. Rõ ràng là với ngài,
khoảng cách không gian có vẻ như không là gì cả!
Chú Abinash dừng một chút rồi chậm rãi tiếp:
– Ngay trong lần gặp gỡ ấy, cha mẹ cháu xin quy y và học phép tọa thiền
với thầy Lahiri Mahsaya. Và cũng từ đó, ba cháu và tôi trở nên thân
thiết như anh em một nhà, vì chúng tôi đã cùng nhau theo đuổi một lý
tưởng tâm linh giống nhau. Tôi còn nhớ, thầy Lahiri Mahsaya đã rất chú ý
đến cháu ngay từ khi cháu vừa mới sinh ra. Chú tin là đời cháu về sau
sẽ có nhiều quan hệ với ngài.
Tuy nhiên, tôi không có đủ may mắn để trực tiếp học đạo với thầy Lahiri
Mahsaya ở Bénarès, vì không bao lâu sau khi tôi chào đời thì thầy đã rời
bỏ thế giới này. Điều gắn bó giữa tôi với thầy từ thuở bé là một bức
chân dung thầy để lại, và hoàn cảnh ra đời của bức ảnh chân dung này
cũng thật kỳ bí không thua kém bất cứ câu chuyện kỳ bí nào về các bậc
minh sư đã chứng ngộ.
Bức chân dung được lồng trong một khung gỗ chạm trổ rất đẹp, đặt nghiêm
trang trên bàn thờ của gia đình tôi, và được chúng tôi mang theo đến bất
cứ thành phố nào mà chúng tôi chuyển đến. Mẹ tôi dâng hương hoa và lễ
bái trước di ảnh của thầy mỗi ngày hai lần sáng chiều đều đặn, với một
sự thành khẩn đã tác động không ít đến tâm hồn thuần thành và ngây thơ
bé bỏng của tôi.
Càng lớn tôi càng nhận ra là bức chân dung thầy có một ảnh hưởng kỳ diệu
đối với tôi. Càng ngày, tôi càng nghĩ nhiều về thầy, thậm chí đến cả
trong giấc ngủ. Cha tôi dạy cho chúng tôi biết ngồi thiền từ thuở nhỏ,
và trong những lần thiền định của tôi, có nhiều khi tôi cảm nhận thầy
như một người sống đang tồn tại trước mắt tôi, không chỉ là một khuôn
hình vô tri giác. Và tôi lấy làm lạ khi ra khỏi thiền định lại thấy ngài
chỉ còn là một bức ảnh trong khung gỗ. Tuy nhiên, dần dần tôi có thể
cảm nhận được sự hiện hữu của ngài mọi lúc, và tôi thường cầu nguyện
trước di ảnh mỗi khi tôi thấy mình yếu ớt về tinh thần, hoặc gặp phải
một khó khăn trở ngại nào cần phải vượt qua.
Xứ Ấn Độ từ ngàn xưa đã từng nổi tiếng với những bậc minh sư ẩn mình
trên rặng Hy Mã Lạp Sơn hùng vĩ. Như một truyền thống nối tiếp qua bao
đời, những chuyến đi gian nan để tầm sư học đạo trên vùng núi rừng hoang
vắng, có khi sơ suất phải bỏ mình, hoàn toàn không phải là điều gì xa
lạ đối với người dân Ấn. Và chính những thế hệ truyền nối nhau theo cách
này đã giữ gìn cho Ấn Độ một nền văn hóa cao cả đặc thù mà không đâu
khác trên thế giới này có được. Nền văn hóa đó được gầy dựng trên nền
tảng của sự chứng nghiệm tâm linh, thay vì là bằng vào những công thức
khoa học do lý trí con người sản sinh ra. Và kỳ diệu thay, những chứng
nghiệm tâm linh này được tiếp nối không qua một sự truyền dạy trực tiếp
nào, mà là thành quả đạt được bằng vào những cố gắng tự thân của mỗi
người học đạo, với vị thầy chỉ đóng vai như một người dẫn dắt, chỉ
đường.
Khi tôi nhớ lại những ký ức mơ hồ từ thời thơ ấu, tôi dường như cảm thấy
phảng phất đâu đó hình bóng của những cảnh núi rừng hoang vu lạnh giá.
Tôi như mơ hồ thấy mình đã từng sống ở đâu đó trên rặng núi Tuyết ngàn
đời hùng vĩ của xứ Ấn, với những khát vọng mà ở tuổi thiếu niên tôi
không thể hiểu được là gì, nhưng vẫn âm ỉ và cháy bỏng trong tôi mỗi khi
có điều gì gợi đến. Và việc chiêm ngưỡng bức chân dung mầu nhiệm của
thầy Lahiri Mahsaya dần dần trở thành một trong những sợi dây nối kết
tôi với ký ức xa xăm mờ nhạt của chính mình.
Thầy Lahiri Mahsaya bình sinh không cho phép ai chụp ảnh ngài. Tuy
nhiên, việc ngài có quá nhiều đệ tử đã làm cho không ít kẻ chú ý đến, và
họ rất muốn có những bức ảnh của ngài. Mặc dù đó cũng là một ý tốt, để
người ta có thể chiêm ngưỡng và nhớ đến những khi không được có mặt bên
ngài. Nhưng chưa có ai đã từng làm được điều đó. Người ta chụp rất nhiều
những bức ảnh ngài ngồi giữa các đệ tử vây quanh, để rồi vô cùng kinh
ngạc khi nhìn vào ảnh và chỉ thấy chỗ ngồi của ngài trống không như
không có ai đã từng ngồi nơi ấy. Và điều này đã gợi lên rất nhiều lời
bàn tán xôn xao về những điều kỳ diệu khác nữa xoay quanh cuộc sống của
ngài.
Ngày kia, một đệ tử của ngài là Ganga Dhar Babu, cũng là một nhà nhiếp
ảnh có tài, quyết tâm chụp cho bằng được một bức chân dung của ngài. Vào
buổi sáng, khi thầy Lahiri Mahsaya đang ngồi thiền trên một chiếc ghế
dài, phía sau là một tấm bình phong, ông này bất thần xuất hiện với máy
ảnh trên tay và chụp luôn một loạt đến 12 kiểu ảnh. Than ôi, khi ông ta
hăm hở rửa hình ra, thì chỉ thấy có chiếc ghế trống không và tấm bình
phong phía sau, ngoài ra không còn gì khác. Kinh sợ và xấu hổ vì việc
cãi lời thầy của ông đã không mang lại kết quả gì, ông liền tìm đến quỳ
trước tôn sư để xin sám hối. Ngài từ tốn bảo ông:
– Con đã đến đây với ta để cầu tìm một tinh thần giác ngộ. Con có thể nào chụp ảnh cái tinh thần giác ngộ ấy được sao?
– Bạch thầy, con đã biết là không thể được. Nhưng mong thầy từ bi cho
chúng con một di ảnh thân xác phàm tục mà người đang sử dụng.
Thầy Lahiri Mahsaya cười hiền hòa và nói:
– Thôi được, như vậy con hãy trở lại đây vào sáng ngày mai, ta sẽ cho con chụp một bức ảnh.
Và như vậy là bức chân dung duy nhất của thầy Lahiri Mahsaya ở Bénarès
được ra đời. Từ đó về sau không ai chụp được bất cứ một tấm ảnh nào khác
của ngài nữa.
Năm tôi lên tám tuổi, một chuyện kỳ diệu đã xảy ra khiến cho từ đó về
sau tôi càng thêm gắn bó với bức di ảnh của thầy Lahiri Mahsaya.
Vào năm ấy, tôi mắc phải một chứng bệnh hiểm nghèo mà các thầy thuốc đều
đã lắc đầu bó tay, không sao chữa khỏi. Tôi nằm liệt giường, chỉ còn cử
động được hai tròng mắt đờ đẫn để biểu lộ là mình còn sống. Mẹ tôi mang
bức chân dung thầy Lahiri Mahsaya treo trên tường, nơi chỗ tầm mắt tôi
nhìn đến. Mẹ ngồi bên giường tôi và bảo:
– Con hãy quỳ gối trước mặt ngài trong tư tưởng của con, và chiêm ngưỡng
ngài với tất cả lòng thành. Ngài sẽ cứu con thoát khỏi bệnh tật.
Niềm tin nơi đấng tôn sư và tình mẫu tử sâu đậm đã khiến cho mẹ tôi xác
quyết được điều ấy. Người tin tưởng chắc chắn không chút nghi ngờ gì về
những lời người đã nói với tôi. Và niềm tin ấy như truyền thêm một sức
mạnh kỳ lạ vào tư tưởng vốn đã yếu ớt đi vì bệnh hoạn của tôi. Tôi nhìn
lên bức chân dung và để hết tâm trí vào việc chiêm ngưỡng, cầu nguyện.
Đột nhiên, một vừng ánh sáng rạng ngời tỏa ra, bao phủ lấy tôi và lan
tỏa khắp căn phòng. Cảm giác uể oải, mệt nhọc vì bệnh tật trong người
tôi cũng bất chợt tiêu tan không còn nữa. Tôi nghiêng mình nắm lấy bàn
tay mẹ tôi để tỏ cho người biết là tôi đã được cứu thoát khỏi căn bệnh
nguy kịch nhờ nơi đức tin không lay chuyển của người. Tôi biết là mẹ tôi
cũng cảm nhận được ánh sáng kỳ diệu tỏa ra vào lúc đó, vì tôi thấy
người quỳ xuống, chắp hai tay và khấn nguyện thành lời:
– Lạy đức tôn sư cao cả, con xin tạ ơn ngài đã ban ân huệ cứu sống con của con.
Và từ sau lần vượt qua căn bệnh hiểm nghèo đó, dường như số phận cuộc
đời tôi đã được định đoạt, bởi vì không một tài sản thế gian nào còn có ý
nghĩa đối với tôi. Tôi đã xác định mình sẽ đi theo con đường soi sáng
tâm linh, và dù sớm hay muộn, tôi vẫn chắc chắn mình sẽ trở thành một tu
sĩ.
Sau khi tôi đã hồi phục sức khỏe, tôi càng thấy sùng kính bức chân dung
thầy Lahiri Mahsaya như chính những gì tôi được nghe kể về cuộc đời của
ngài. Việc tôi thoát chết một cách kỳ diệu cũng làm cho các thầy thuốc
của gia đình tôi vô cùng kinh ngạc. Nhưng ngoài điều đó ra, nó còn để
lại cho tôi những thứ khác đáng nói hơn nhiều.
Từ sau lần ấy, mỗi khi tôi chiêm ngưỡng bức chân dung, tôi hoàn toàn tin
tưởng là tôi đang chiêm ngưỡng chính thầy Lahiri Mahsaya, mà không một
trở lực không gian hoặc thời gian nào còn có thể ngăn cách được giữa
ngài và tôi. Tôi thường cảm nhận được ánh hào quang rạng ngời tỏa ra và
bao quanh tôi trong những lần tôi tọa thiền và suy nghĩ đến ngài. Lâu
dần, trong vùng hào quang ấy, có khi tôi nhìn thấy hình ảnh của nhiều vị
tu sĩ mà có vẻ như tôi đã từng quen biết. Các ngài đều xuất hiện lặng
lẽ trong tư thế thiền định, và khi nhìn thấy các ngài, tôi nghe như tự
trong tiềm thức mình dấy lên một khát vọng không sao kiềm chế được: niềm
khao khát muốn dâng hiến trọn cuộc đời mình cho việc tầm sư học đạo!
Sau mỗi cơn thiền định đạt đến những hình ảnh kỳ diệu ấy, tôi thấy trong
lòng khoan khoái và tràn đầy một niềm vui khó tả. Những khi ấy, tôi
thấy cuộc đời mình tràn ngập hạnh phúc, an lạc vô biên, và tưởng chừng
như không một tai ương, trở ngại nào có thể làm cho tôi nhủn lòng thoái
chí được.
Đời sống tâm linh khởi đầu rất sớm của tôi còn được ghi dấu bằng một kỷ
niệm rất khó quên, bởi vì nó còn để lại một vết sẹo trên cánh tay tôi.
Buổi sáng hôm ấy, tôi và chị Uma cùng ngồi chơi dưới một tán cây sung
rất to, với những con két đậu trên cành cây mổ vào những trái sung chín
đỏ và kêu inh tai. Chị Uma rên rỉ vì một mụt nhọt ở dưới chân, và dùng
thuốc xoa bóp vào chỗ đau. Tôi đến bên chị và cũng lấy một chút thuốc
xoa vào cánh tay mình. Chị tôi cười hỏi:
– Em không bị mụt nhọt, xoa thuốc vào làm chi?
Tôi cũng cười và nói một cách đùa cợt:
– Rồi ngày mai em sẽ có một mụt nhọt trên tay này đấy.
Chị tôi bỗng nổi cáu một cách bất ngờ và mắng tôi:
– Đồ nói láo!
Tôi thấy lòng tự ái bị chạm vào, liền nghiêm nét mặt trả lời:
– Vẫn còn chưa đến ngày mai, chị không được quyền mắng em như vậy. Rồi sáng ngày mai chị sẽ thấy mọi việc đúng như lời em nói.
Chị Uma càng thêm bực dọc và mắng tôi bằng những lời nặng nề hơn. Không
hiểu sao lúc đó tôi cũng không kiềm được một cơn giận dữ kịch liệt, và
buột miệng nói ra những lời đanh thép, chắc chắn như không thể nào sai
khác được:
– Này chị Uma, vì đây là mong muốn của tôi, chị hãy nghe cho rõ đây.
Trước buổi sáng ngày mai, trên cánh tay này của tôi sẽ có một mụt nhọt,
và mụt nhọt của chị sẽ lớn lên gấp đôi.
Lẽ tất nhiên, chị Uma không thèm đếm xỉa gì đến lời nói ấy, và giận dữ bỏ đi.
Cho đến sáng hôm sau, trên cánh tay tôi quả thật mọc lên một mụt nhọt,
và mụt nhọt của chị Uma thì sưng tấy lên thật dễ sợ. Nhưng chị Uma không
sợ hãi vì cái mụt nhọt mà là vì sự ứng nghiệm dị thường của lời tuyên
bố như một sự nguyền rủa của tôi. Chị run rẩy chạy đi tìm mẹ tôi và nói:
– Mẹ ơi! Em Mukunda hóa thành phù thủy rồi!
Và chị kể cho mẹ nghe chuyện của chúng tôi hôm qua. Mẹ tôi không tỏ vẻ
ngạc nhiên. Dường như bà tin và hiểu được điều đó. Bà nghiêm khắc nói
với tôi:
– Mukunda, con không được dùng ý chí của mình để nghĩ đến hoặc mong ước những chuyện chẳng lành.
Tôi rất hối hận và ghi nhớ lời dạy của mẹ từ đó cho đến mãi mãi về sau.
Cái mụt nhọt của tôi sau đó phải đi mổ và để lại một vết sẹo trên tay
tôi như một lời nhắc nhở điều không hay mà tôi đã mắc phải. Và phải lâu
lắm sau này tôi mới hiểu được rằng những chú thuật được đọc lên với sự
tập trung ý chí cao độ có thể có những quyền năng mạnh mẽ mà người ta
không sao lường hết được. Và người ta cũng có thể vận dụng những quyền
năng ấy như một sức mạnh chính đáng để giúp mình vượt qua những khó khăn
trong cuộc đời.
Thời gian sau, gia đình tôi chuyển đến ở Lahore, thuộc tỉnh Punjab. Cha
tôi cho đặt một trang thờ nhỏ ngoài hiên nhà ở tầng trên để thờ đức Phật
bà Quán Âm. Không hiểu sao, tôi có một niềm tin chắc chắn rằng đứng
trước bàn thờ nhỏ này, mọi điều cầu nguyện của tôi đều sẽ được ứng
nghiệm.
Một hôm, tôi và chị Uma cùng đứng chơi trước hiên nhà ở tầng trên. Chúng
tôi nhìn xuống thấy có hai con diều giấy của ai đó thả chơi đang vờn
bay trên mái nhà ở phía bên kia đường. Chị Uma nhìn vẻ mặt suy tư của
tôi và nói đùa:
– Hôm nay trông em có vẻ giống như một nhà hiền triết. Em đang nghĩ gì thế?
Tôi đáp lời chị, đôi mắt vẫn đăm chiêu nhìn vào khoảng không xa xăm:
– Em đang nghĩ đến tấm lòng bao dung vô hạn của đức Phật bà Quán Âm.
Ngài lắng nghe và đáp ứng mọi lời cầu nguyện của chúng sinh.
Chị tôi không hiểu vấn đề một cách nghiêm chỉnh như tôi, nên nói với giọng đùa cợt:
– Không hiểu ngài có tốt bụng đến mức có thể ban cho em con diều giấy kia không nhỉ?
– Tại sao lại không chứ?
Và tôi bắt đầu cầu nguyện Phật bà Quán Âm hãy mang con diều giấy kia đến cho tôi.
Ở Ấn Độ, thả diều giấy là một trò chơi được ưa thích. Những người chơi
diều được quyền tìm cách cắt đứt dây diều của người khác như một phần
hào hứng của cuộc chơi. Khi con diều đứt dây, một cuộc rượt đuổi sôi nổi
sẽ diễn ra, vì nó sẽ thuộc về bất cứ ai nhặt được khi rơi xuống. Chúng
tôi đang đứng trên bao lơn của tầng trên nhà, nên dĩ nhiên là không thể
tham gia cuộc rượt đuổi như những người khác đang ở dưới đường phố.
Những người chơi diều ở dưới kia đã bắt đầu cuộc chơi. Chỉ trong chốc
lát, một trong 2 con diều đã bị cắt đứt dây và lảo đảo trên khoảng
không. Khi con diều lượn ngang gần chỗ tôi đứng, gió bỗng nhiên ngừng
thổi trong một lúc, và cánh diều rơi thẳng xuống. Sợi dây bị đứt của nó
vướng quanh một cây xương rồng trên sân thượng của nhà bên cạnh, và nó
bị giữ lại không bay tới được nữa, đảo nhẹ một vòng rồi rơi xuống ngay
trước mặt tôi. Tôi đưa tay nắm lấy sợi dây, giật nhẹ cho nó đứt khỏi cây
xương rồng, và cầm lấy con diều đưa cho chị Uma. Chị nói một cách ương
ngạnh:
– Chỉ là một sự tình cờ thôi. Nếu lời cầu nguyện của em có thể lấy được cả con diều còn lại kia nữa thì chị mới tin.
Tuy chị nói vậy, nhưng ánh mắt chị lộ rõ sự ngạc nhiên và tôi biết là
lòng chị không nghĩ thế. Tôi tiếp tục cầu nguyện với Phật bà Quán Âm để
ngài ban cho tôi con diều còn lại, với một niềm tin chắc chắn là điều ấy
sẽ được ngài đáp ứng. Một lát sau, con diều lại bị một người chơi cắt
đứt dây. Khi nó đảo lượn trên không, tôi cảm nhận được ánh mắt hồi hộp
của chị Uma dán chặt vào nó. Và kỳ lạ thay, nó gần như đi theo đúng lộ
trình của con diều ban nãy, cũng quấn quanh nhánh xương rồng và rơi
xuống trước mặt tôi. Tôi lại giật đứt sợi dây và đưa nó cho chị Uma. Chị
lẩm bẩm như không còn biết có tôi đang đứng đó, cặp mắt chị nhìn chăm
chăm vào pho tượng Phật bà Quán Âm trên trang thờ nhỏ:
– Lạ thật, lạ thật. Đức Phật bà đã nghe và đáp ứng lời cầu nguyện của em. Chị không thể hiểu nổi chuyện này.
Và chị hối hả chạy đi như để tránh né sự thật mà chị không sao hiểu nổi ấy!