Đại lão Hoà thượng thượng QUẢNG hạ
KHÂM, - bậc Đại Đức của thời đại, mọi người xưng tụng Ngài là “Quốc bảo trong
giới Phật giáo”. Nhìn bức ảnh chụp hai ngày trước khi viên tịch, Ngài đã 95
tuổi thọ mà ánh mắt vẫn rất trong sáng có thần!
Năm Hoà thượng 92 tuổi hậu học tôi
từng được duyên may theo Ngài leo núi. Ngài đi trước, chân bước nhanh thoăn
thoát, hậu học theo sau khá vất vả. Chùa Thừa Thiên lúc đó đang trong thời kỳ
xây dựng, có một đoạn đầy dẫy những vật chướng ngại làm cho hậu học suýt bị vấp
ngã, Hoà thượng quay lại bảo: “Hãy đi cho tốt chứ!”, giọng nói tuy hơi gắt
nhưng thân thiết, ánh mắt nghiêm nghị mà chan chứa từ bi, hậu học cảm thấy thật
hổ thẹn. Cho đến nay qua bao nhiêu lần vấp ngã trên đường đời mới thấm thía “đi
cho tốt” đâu phải dễ; sau bao phen “u đầu sứt trán” nghĩ lại câu nói hàm chứa
hai ý nghĩa của Ngài, tự nhiên nước mắt trào ra.
Có người tưởng Ngài là một con người huyền bí khác thường nên tìm đến “tham
khảo cho biết”, ở bên cạnh Ngài cả buổi chỉ nghe vỏn vẹn một lời: “Niệm Phật,
ăn chay!” Họ lại nghĩ bụng “Câu ấy mình nói cũng được, cần gì phải đến hỏi Hoà
thượng!” Đúng vậy, nói thì ai nói cũng được nhưng vấn đề là ở chỗ chúng ta đâu
có được công phu khổ hạnh như Ngài, và cũng không có đức độ cảm hoá người như Ngài;
dù ta nhiệt tình đến nhà người khác khuyên bảo, cũng e rằng người ta phát cáu.
Còn Ngài thì đã nhiếp phục được chính mình, đã dụng công niệm Phật đến chỗ
tuyệt diệu, tự nhiên cảm hoá được hàng ngàn, hàng vạn chúng sanh. Lúc còn trẻ
Ngài lên động núi sâu tu thiền. An hết thức ăn dự trữ, chỉ còn cách ăn trái
cây, khoai rừng để duy trì mạng sống, ba bộ y phục vá thành một bộ, gần 60 năm
nay chỉ ngồi chứ không nằm; về phương tiện vật chất nhu cầu của Ngài vô cùng ít
ỏi. Hồi ở chùa Thừa Thiên bên Đại Lục, Sư phụ của Ngài, - Đại lão Hoà thượng
thượng Chuyển hạ Trần dạy Ngài: “Ăn thức ăn người không muốn ăn, mặc cái người
không muốn mặc, làm những việc người không muốn làm, về sau con sẽ biết”, đồng thời
chỉ muốn Ngài tu khổ hạnh và niệm Phật. Ngài chất phác thuần thành thực hành
đúng theo lời giáo huấn, một dạ dốc chí khổ tu, kết quả Ngài trở thành người
siêu phàm thoát tục. Nhiều phật tử mỗi lần nhìn thấy Ngài, quá cảm động không
cầm được nước mắt.
Lời dạy của Ngài thường chỉ là vài
câu quan trọng cốt tủy, nếu chúng ta thực tâm tin tưởng nhất định chẳng uổng
phí một đời. Như câu Ngài dạy trên đây: “Niệm Phật! ăn chay!” Nếu chúng ta mỗi
niệm đều niệm Phật, ánh sáng trí tuệ từ bi của Đấng Giác Ngộ lúc nào cũng tràn đầy
trong tâm, thì chẳng phải lúc nào cũng kiết tường sao? Không còn cái khổ tranh
chấp ta-người-phải-trái, không bị tham sân si thiêu đốt. Nếu bỏ được thị dục
sướng miệng khoái bao tử, làm theo lời dạy “ăn chay” của Ngài, dần dần thể
nghiệm cái nghĩa lý “chúng sinh vốn cùng một gốc mà ra”, chứng nghiệm được niềm
an lạc của Từ Bi. Kiếp này ngày ngày sống với một tâm hồn thanh thản, thành tâm
nguyện cầu vãng sanh Tịnh Độ, khi lâm chung ắt được Phật tiếp dẫn, chấm dứt nỗi
thống khổ sinh tử đời đời, kiếp kiếp! Bằng một hai câu Hoà thượng đã chỉ rõ con
đường lớn tu hành trong một kiếp thành Phật. Người chân chính tin tưởng và
phụng hành, được lợi ích vô cùng. Trái lại, người không chân chính thì chỉ
thích nói chuyện cao siêu huyền bí, bày vẽ bao chuyện quái dị ly kỳ, khoa
trương thần thông... mà xem thường lời dạy khẩn thiết liễu sanh thoát tử của
Ngài.
Lúc Hoà thượng còn tại thế, ngày nọ
có một người tay xách chiếc vali, vẻ đầy bí mật lên núi muốn xin gặp Hoà
thượng, lại chỉ xin gặp riêng Ngài mà thôi. Vì trước kia từng có kẻ đến với ý
đồ xấu nên đệ tử không cho anh ta một mình gặp riêng Hoà thượng. Anh ta bảo có
việc rất cần thỉnh ý. Sau đó anh ta tới sát bên tai Hoà thượng trịnhh trọng nói:
“Thưa Hoà thượng, nghe người ta đồn Ngài có thần thông, xin Hoà thượng nói thật
cho con biết Ngài có thần thông hay không?” Hoà thượng cũng trịnh trọng nói nhỏ
vẻ rất bí mật: “Tôi nói cho anh biết, tôi có ăn thì thông, không ăn thì không
thông!” (Đài Loan ngữ) Câu nói ấy làm cho người ta phải suy ngẫm. Cái vi diệu
của Phật pháp chính là cái bình thường, chứ chẳng phải thần thông khiến cho kẻ
hiếu kỳ chạy theo, cũng chẳng phải là hiện tượng mơ hồ quái đản. Thần thông ai
cũng có, nhưng chỉ vì bị các thứ phiền não tham, sân, si, mạn, nghi hoặc chôn vùi,
làm cho không hiển hiện được. Có thần thông mà không giải quyết được vấn đề
sanh tử thì cũng vô ích. Hướng ra bên ngoài để tìm cái gọi là “người có thần
thông” giúp đỡ mình, như vậy là bỏ gốc tìm ngọn. Hoà thượng nói: “Cầu ở người là
bỏ mất Phật Thích Ca nơi chính mình”.
Hậu học chúng tôi nhận thấy: “thần
thông” vĩ đại nhất của Hoà thượng làm chấn động lòng người đó là công phu tu
trì nhẫn nhục. Nhẫn cái mà người không thể nhẫn, làm cái mà người không thể
làm.
Năm Hoà thượng từ trên núi trở về
chùa Thừa Thiên bên Đại Lục, râu tóc đều mọc dài giống như người rừng, không ai
nhận ra; sau nghe giọng nói mới nhận ra Ngài. Có thử lửa mới biết vàng thật hay
giả. Một thời gian sau, sư trụ trì và sư hương đăng muốn kiểm nghiệm công phu của
Ngài, cố ý đem tiền công đức trong thùng phước sương giấu đi rồi tỏ vẻ nghi
Ngài lấy, thế là cả chùa đều cho Ngài là kẻ cắp, đối xử lạnh lùng và nặng lời
nói xấu trong nhiều ngày. Ngài vẫn an nhiên tự tại như đang hứng gió xuân, như
được úông cam lộ. Quả là một tâm hồn cao cả, một con người hoàn toàn tiêu dao
tự tại! Cái thần thông nhẫn nhục ấy so với thần thông “đi trên lửa, phóng hào
quang” còn thần kỳ hơn nhiều. Vì đốt giấy cũng có thể “đi trên lửa”, đốt đèn có
thể “phóng hào quang”, nhưng chúng ta hãy tự hỏi lòng, ai có thể bị vu oan là
trộm cắp mà vẫn an nhiên như uống nước cam lộ, không một lời biện bạch? Ai có
khả năng khám phá cuộc đời như huyễn như mộng, đó là người đại trí tuệ đáng
được cung kính đảnh lễ.
Chúng ta lại chẳng may thường tự biến
mình thành cái mà Hoà thượng hình dung: “con chó chạy theo cục đá”. Người ta
muốn cho mình chạy thật giản dị, chỉ cần nhậm ý quăng một cục đá chúng ta lập
tức đuổi chạy theo nó, chạy đến sức cùng lực tận, rốt cuộc chỉ vớ được một cái
khối không ăn được. Hoà thượng trợn mắt bảo:” Như vậy là không có chủ trương,
định hướng làm sao đi Tây phương được?”
Hoà thượng làm chủ chính mình, tự
tại trong sanh tử, chẳng lạ gì được trẻ già đều kính ngưỡng. Ngài vốn không mưu
cầu tiếng tăm, lợi lộc, chỉ nhờ chân chính thực tu mà cảm phục được lòng người.
Có một hôm, một phóng viên nhà báo
lên núi định “tống tiền”, tỏ vẻ hăm dọa uy hiếp Ngài: “Ngòi bút của tôi rất lợi
hại, nếu sư không đưa tiền, tôi sẽ viết một bài về sư”. Hoà thượng bình thản
nói:” Anh cứ mặc tình đăng báo, tùy anh viết gì cũng được, tôi không cần ai cung
kính. Người cung kính tôi, ngày ngày tôi vẫn niệm chú Đại Bi, trì chú vào Đại
bi thuỷ; người không cung kính tôi, tôi cũng vẫn thanh tịnh niệm Phật A-Di-Đà”.
Anh nhà báo chỉ còn biết tán thán Hoà thượng không giống như người thường, đúng
là “Sự đáo vô tâm giai khả lạc, nhân đáo vô cầu phẩm tự cao” (Việc đến, vô tâm
vẫn an vui; người đến không cầu, phẩm cách tự nhiên cao).
Lại có một lần, một số đệ tử đi
nghe thuyết Pháp, nhận thấy giảng sư có ẩn ý phê bình Hoà thượng, họ bất bình
lên núi thưa lại với Ngài, nào hay Ngài không những không hề có ý khó chịu mà
còn bảo các đệ tử ấy phải sám hối về cái lỗi đã “hiểu lầm lời giảng của Pháp sư”,
đồng thời còn giải thích hàm ý Phật pháp trong lời giảng sư, và khuyên răn các
đệ tử: “Giả sử có người nêu danh tánh mình ra để mắng mình còn phải thành tâm
biết ơn họ thay, huống hồ người ta không nêu tên mình ra!” Hoà thượng nghiêm
túc nêu ra cho thấy đại nghĩa:” Muốn cho Phật pháp hưng vượng, thì tăng phải
biểu dương tăng”. Rồi Hoà thượng tán dương vị Pháp sư ấy là “Ở trong thế giới
phù hoa huyễn hoá này mà độ được chúng sanh, thật là một vị Bồ-Tát” và Ngài
khiêm tốn:” Tôi vẫn không dám đi thuyết pháp!”
Công đức tu trì của Hoà thượng
chúng ta không thể hiểu thấu, tuy nhiên qua vài sự việc nhỏ bất chợt diễn ra
trong sinh hoạt hằng ngày cho thấy tâm hồn cao cả của Ngài; mỗi sự việc đều làm
cho kẻ hậu học như tôi vô cùng cảm động! Hoà thượng như ánh mặt trời hiền hoà
chiếu khắp từng thân cây bụi cỏ; nhưng cũng có lúc Ngài dùng gươm dao, búa rìu
trí tuệ chặt đứt chi nhánh phiền não, đẵn hết dây mơ rễ má danh lợi làm chướng
ngại Đạo; giúp cho thân vây vươn thẳng lên cõi Tịnh độ. Ngài thường phát ra
những khảo đề trắc nghiệm bất ngời, “cực kỳ kích thích”, diễn bày rất sát với
thực tế. Người chịu khảo nghiệm vốn thường bị hoàn cảnh chi phối, ngay lúc đó
không hiểu ra, mãi về sau mới vỡ lẽ, mới biết Ngài dùng phương pháp “thuốc đắng
đã tật”. Có lúc Ngài giáo dục bằng phương pháp “tôi luyện” khắc nghiệt, “nghiền
cho tróc vỏ, xay cho nát vụn, nhồi cho nhuyễn, sấy cho đen”. Ai thực tâm phát
nguyện tu hành sẽ trở thành “đạo lương cúng dường tất cả chúng sanh, cúng dường
khắp mười phương chư Phật”, -- như thế thường là quá trình “máu và nước mắt”.
Có lúc Hoà thượng từ bi rơi nước
mắt nói với đệ tử đang chịu thử thách:” Điều thầy dạy con, con có thật hiểu
được không? Thầy sợ rằng con oán thầy, chẳng qua thầy muốn giúp con phá chấp;
nhưng nếu như con không hiểu được dụng ý đích thực, sẽ trở thành oán hận thầy.
Thầy tạo cho con nghịch cảnh là để rèn luyện con”.
Tổ Sư dạy chúng ta, muốn vãng sanh
Tây phương cần phải có ba điều “tín, nguyện, hành”. Nguyện là chán bỏ cõi
Ta-bà, vui tìm Cực lạc (Ta-bà do tâm xấu bẩn cảm ứng sinh ra, Cực lạc do tâm
thanh tịnh hiển hiện).
Ân Sư Tuyết Công cũng nhấn mạnh tâm
vui thích và tâm nhàm chán là pháp môn an tâm chính của tịnh độ. Nhưng phàm phu
chúng ta trong thuận cảnh rất khó phát tâm vui thích hay nhàm chán. Bất đắc dĩ,
Hoà thượng hay Phật và Bồ-Tát mới tạo cho chúng ta nhiều nghịch cảnh để chúng
ta “lấy khổ làm thầy”, dũng mãnh phát tâm “vui thích – nhàm chán”, kiên trì
niệm Phật để thoát vòng sanh tử. Đem sự tinh tấn lao khổ đời này đổi lấy hạnh
phúc tự tại vĩnh hằng. Thật ra, đó là ân tứ cao quý nhất chẳng còn gì hơn. Chỉ
có điều là chúng ta thường vui thích “những quả bom định giờ bọc trong bao bì
xinh đẹp”, truy cầu khoái lạc và danh lợi nhất thời mà hy sinh cái an vui vĩnh
cữu. Chư Phật và Bồ-Tát hằng xót thương rơi lệ vì tai hoạ ngút ngàn ấy của
chúng ta. Hoà thượng thường nghiêm ngặt dạy rằng “Ở cõi Ta-bà chỉ cần tham lam
một cọng cỏ cũng phải trở lại luân hồi!” Cũng vì lẽ đó, mắc dầu con người ở cõi
Ta-bà này tôn kính Ngài như thế, Ngài vẫn tiêu dao thoát ly.
Công trình xây dựng quy mô hoành
tráng trên núi đối với Ngài chẳng qua là “một giáo cụ bé nhỏ nhất thời”; dựa
vào một số nhân duyên trần cảnh để thông cảm và dẫn dắt những chúng sinh có
duyên với Ngài. Và ai thật sự thản nhiên trút bỏ, thành tâm niệm Phật cầu vãng
sanh mới là đệ tử chân chính của Ngài. Trong mấy ngày trước vãng sanh, Hoà
thượng nhiều lần dạy đệ tử: “Tai nạn càng lúc càng nhiều, phải gấp rút tu hành;
tu một phần thì được một phần công đức, tu mười phần thì được mười phần công
đức, tu trăm phần thì được trăm phần công đức, tu ngàn phần thì được ngàn phần
công đức” Hoà thượng ân cần nói rõ từng câu, đó là những lời khích lệ khẩn
khiết nhất. Tin theo lời Ngài, hãy thành tâm niệm Phật, vào ngày pháp môn giải
thoát, không còn chần chờ gì nữa!
Có một nhà giáo kể với chúng tôi
rằng ông ta đến xin hỏi Hoà thượng “nên niệm Phật như thế nào?” Hoà thượng hỏi
lại: “Ông niệm Phật như thế nào?” Ông ta nói:” Khi nào rãnh thì con niệm Phật”.
Hoà thượng lại hỏi:” Như vậy, có rãnh thì ông niệm Phật còn không rãnh thì
không niệm Phật, thế thì ông chỉ cúi đầu chào Phật, chào cho có chào! Làm sao
hy vọng Phật cứu ông khỏi cảnh sống chết? Lại đây! Lại đây! Ta cùng đưa chân ra
xem! … Chân nào là chân Phật? Ông có nhận ra không? … Ủa! muốn ôm chân Phật mà
ngay cả chân Phật là chân nào cũng không biết sao? Phải ôm chân nào đây? Vậy thì
ông có nhận ra hay không nhận ra Phật?”
(Ngài thật khéo dùng ẩn dụ, làm cho
người đối thoại hốt nhiên tỉnh ngộ). Nhà giáo ấy kể rằng Hoà thượng nhắp một tí
trà rồi đưa mắt hỏi:
- Ông xem tôi có bị sặc không?
- Dạ thưa không.
- Tôi vừa niệm Phật, ông có biết
không?
Lão Hoà thượng có lối giáo dục rất
sinh động: uống trà, ăn cơm, đi, đứng, nằm, ngồi đều tu niệm Phật.
Nhà giáo ấy lại một phen gợi ý cho
tôi:
Dù nửa đêm không đèn nhưng chỉ cần
nghe vài tiếng ho thì anh cũng biết đó là cha mình về. Này nhé bây giờ là nửa
đêm, đức Phật A-Di-Đà đến! … Bạn có biết Phật đến chăng? Chúng ta hãy tự hỏi
lòng mình, chúng ta đã niệm Phật đến độ nhận ra đựơc Phật, thân thiết với Phật
chưa? Hòa thượng đã thân thiết với Phật rồi. Ngài từng nói với một tiến sỹ Mỹ
từ Hoa Kỳ đến yết kiến Ngài: “Tiếng chim kêu, tiếng xe chạy và mọi tạp âm khác
đều là tiếng niệm Phật”. Người Mỹ ấy hỏi trạng thái ấy kéo dài được bao lâu.
Hoà thượng đáp:Ngày đêm sáu thời” (tức là lúc nào cũng như vậy). Mười năm về
trước Hoà thượng có nói với đệ tử rằng “Sau này lúc nào ra đi Thầy sẽ hiện
tướng bệnh mà đi, nhưng ba chúng con đều không có mặt để tiễn Thầy”. Ba người
đệ tử lớn ấy của Hoà thựơng đều cho rằng điều ấy không thể x ảy ra, vì trong ba
người bao giờ cũng có một người hầu cận Hoà thượng, làm sao mà có cái cảnh “không
đưa tiễn được?!” Nhưng quả không sai, ngày hôm ấy nhân vì có công việc đặc biệt
ba vị đệ tử lớn đều vắng mặt đúng vào lúc Sư Phụ viên tịch!
Trước khi vãng sanh, một lần nữa
Hoà thượng dạy chúng đệ tử:
“Cõi Ta-bà này rất khổ, các con hãy
mau sớm niệm Phật để vãng sanh về Thế giới Cực lạc của đức Phật A-Di-Đà”
Sau đó chúng đệ tử nhận thấy động
mạch nơi cổ Sư Phụ từ từ ngừng đập trong tiếng niệm Phật, và lời nói cuối cùng
của Người:
“Không đến cũng không đi, không có
sự tình gì!”
Thật là thanh thoát!
Vô hình trung chúng ta “đến đến đi
đi, toàn là sự tình”, không ngày nào ta không mang tạp sự trong tâm. Tiếng Đài
Loan “sự tình” hay “đãi sự” hàm ý “không được cát tường cho lắm”. Đúng là:
“Bất thị nhàn nhân nhàn bất đắc, nhàn nhân bất thị đẳng nhàn nhân”
不是闲人闲不的,闲人不是等闲人
(Không phải người nhàn nhàn chẳng được; người nhàn đâu phải kẻ tầm thường)
Trong tâm hồn chúng ta nếu quả thực
không có “đãi sự” (sự chẳng lành) mà có cái nhàn địch thực, hẳn phải biết bao
công phu mới đạt được!
Khoảng một tuần lễ trước khi Hoà
thựơng viên tịch, ngày đêm Ngài vận hết khí gọi đức Phật A-Di-Đà”, người thường
không thể làm nổi. Đại chúng luân phiên niệm lớn theo Ngài còn cảm thấy khan
cổ, đau ngực, tắt hơi huống hồ một cụ già 95 tuổi.
Thông thường người ta khi lâm chung
hơi thở rất khó khăn, không tự chủ được gì cả, mà Ngài thì giống như vị tướng
đột phá vòng vây ngũ trược. Có đệ tử sợ cơ thể Ngài không chịu đựng nỗi, do
không ăn gần cả tháng, kiến nghị: “Bạch Thầy, để chúng con niệm Phật Thầy nghe
cũng được”. Hoà thượng mở to đôi mắt nhìn … rồi nói một câu kiên quyết:” Mỗi
người niệm cho mình, mỗi người giải quyết sanh tử cho mình”, nói xong lại khẩn
khiết niệm lớn tiếng.
Thế rồi trước hôm vãng sanh sáu
ngày, bỗng nhiên Hoà thượng “trình diễn một màn”, thể hiện tuyệt vời tính hài
hước mà dư âm còn vang vọng sâu xa. Kẻ hậu học như tôi mỗi khi nghĩ đến cảm
thấy cảnh tượng ấy có tác dụng làm cho các nhà tu hành, dù môn phái khác nhau,
phải lấy đó mà cảnh tỉnh. Hoà thượng thường ngày dạy đại chúng chuyên tâm niệm
Phật A-Di-Đà, đột nhiên hôm đó Ngài khẩn cấp bảo đại chúng tụng Kinh Đại Tạng,
mà bộ Đại Tạng thì mênh mông như biển cả, chẳng biết bắt đầu tụng từ chỗ nào,
chúng đệ tử bèn đến thỉnh ý Hoà thượng, Ngài bảo:” Tống tụng!” Đại chúng vội
vàng đem Đại Tạng Kinh ra, hết bộ này đến bộ khác …, bê đến mệt thở. Nhìn thấy
Sư Phụ sắp đến giờ phút vãng sanh, trong lòng ai nấy vừa bức xúc vừa đau xót,
lại chẳng biết bất đầu tụng từ đâu, Hoà thượng nói:”Xem các con biết kinh gì,
tụng lên cho Thầy nghe!”
Thế là đem từng bộ ra tụng: Tâm
Kinh, Kinh Kim Cang, Kinh Dược Sư, Kinh Địa tạng … Tới giờ phút quyết định sống
chết mới hay bài Tâm Kinh chỉ có trên hai trăm chữ mà tụng cũng không xuôi,
miệng tụng mà tâm trí rối bời. Giữa lúc đại chúng đem tụng từng bộ kinh, Hoà
thượng chỉ mỉm cười u mặc, liền đó Ngài niệm:
“Nam-mô A-Di-Đà Phật! Nam-mô
A-Di-Đà Phật! Nam-mô A-Di-Đà Phật! ….”; tiếng tụng kinh xung quang chẳng chút
ảnh hưởng gì đến Ngài. Hậu học cảm thấy nụ cười của Ngài thật như “gậy gõ lên
đầu”!
Xin hỏi: trong “buổi trình diễn đột
xuất” ai là người “tống tụng” hết bộ Đại Tàng Kinh? Duy nhất chỉ có Hoà thượng
niệm niệm trong sáng rõ ràng, mỗi tiếng Nam-mô A-Di-Đà Phật” đều thành khẩn có
thần. Ấy mới thật là Tổng Tụng Đại Tạng Kinh! Chúng ta đừng thắc mắc: tại sao
Hoà thượng lúc lâm chung thay đổi đề mục? Ngài là người rất giỏi dùng phép phản
diện làm cho người ta thức tỉnh, tự mình thể nghiệm lấy ý vị và khắc dạ ghi
tâm.
Tu hành là phải “hành “, chớ đâu
phải nói-nghe là xong, ví như lúc học lý thuyết ở Viện Y Học “dàn binh bố trận
trên giấy” nhất định khác xa khi đối diện với bệnh nhân máu me đầy minh! Chúng
ta có thể hiểu rằng cách diễn bày của Hoà thượng và câu “Tinh hoa vạn pháp gồm
trong sáu chữ” của pháp sư Tuyết Vân tuy hai mà một, thật là vi diệu.
Nhiều người khi lâm chung vô cùng
khổ sở, chỉ bốn chữ A-Di-Đà Phật còn niệm không nổi, huống gì tụng kinh – mà
lại tụng Đại Tạng Kinh! Chúng ta một lònh thành kính tin theo lời dạy “thành
tâm niệm Phật, không gì thay đổi”, ngõ hầu tránh tình trạng “luyện xong mừơi
tám môn võ nghệ đến khi gặp nạn không biết dùng chiêu nào”. Ngày ngày tụng hết
kinh này đến kinh khác, tựa hồ như có duyên với rất nhiều Phật nhiều Bồ-Tát,
lúc sắp lìa đời tâm trí lại rối như tơ vò, không biết nên niệm Phật nào, kỳ
thực trong kinh A-Di-Đà nói rằng Chư Phật sáu phương đều hiện tướng lưỡi rộng
dài (quảng trường thiệt tướng) tán thán đức Phật A-Di-Đà, khuyên chúng sanh tin
và niệm Phật cầu vãng sanh Tây phương. Hiển nhiên, khi chúng ta niệm “A-Di-Đà
Phật “thì tất cả chư Phật và Bồ Tát đều hoan hỷ, - ấy gọi là “tống tụng”.
Trước vãng sanh hai ngày, Hoà
thượng tự mình gõ mõ cho chúng đệ tử niệm Phật, trong cử chỉ đó hàm chứa ý vị
rất thâm thúy. Trước những danh hiệu Phật, Bồ Tát Ngài đều niệm “Nam-mô Tây
phương Cực Lạc Thế Giới”, như:
Nam-mô Tây phương Cực Lạc Thế Giới
Văn Thù Sư Lợi Bồ-Tát
Nam-mô Tây phương Cực Lạc Thế Giới
Phổ Hiền Bồ-Tát
Nam-mô Tây phương Cực Lạc Thế Giới
Di-Lặc Bồ-Tát …
Theo chỗ tôi hiểu, Hoà thượng bảo
cho chúng ta biết có thể gặp các vị Đại Bồ-Tát ấy ở Tây Phương, chỉ cần chuyên
tâm niệm Phật A-Di-Đà như Ngài thì có thể cùng với các bậc Bồ-Tát đồng hành!
Có lần tôi đi với một bác sỹ lên
núi xin thỉnh giáo Ngài. Vị bác sỹ hỏi: “Thưa Ngài, ngồi thiền như thế nào thì
mới thông khí mạch?” Hoà thượng trả lời: Đâu cần đả thông khí mạch, nhất tâm
niệm Phật, chứng niệm Phật tam-muội thì tất cả khí mạch đều thông”. Đây là lời
chỉ dạy trung thực của một người đạt đến chỗ tự tại dành cho chúng ta. Ai thông
minh ắt không trở lại con đường quanh co oan uổng, ngõ hầu tránh khỏi cái cảnh
“sắp chết hối tiếc thì đã muộn”. Hãy sớm chuẩn bị hành trang, như Hoà thượng đã
tuyên bố từ trước:
“Tôi đã mua vé xe rồi, và đúng số
xe!”
Xin hỏi, vé xe của quý vị tu học
đàn anh đã mua chưa? có đúng số xe không? hay là không muốn có chỗ ngồi? hoặc
chẳng muốn lên xe? Cũng có thể quý vị đã sớm chuẩn bị tốt rồi, để khỏi phải như
chúng tôi đợi sau khi Hoà thượng nhập diệt mới lên núi niệm Phật! Niệm được một
vài tiếng đồng hồ nước mắt tuôn trào …. Niệm không thành câu để cúng dường Hoà
thượng! Cúi đầu chẳng dám ngẫng lên vì cảm thấy không xứng đáng với lời giáo
huấn, dặn dò của Người! Thật xót xa đau khổ vì xấu hổ ân hận! Nguyện cầu các
bậc tu học đàn anh sớm mua vé đúng xe “Kim Đài Thượng Phẩm Thượng Sanh”!
Nam-mô A-Di-Đà Phật