LUẬT XUẤT GIA (Tứ
Thanh Tịnh Giới)
TỨ THANH TỊNH GIỚI
(Catupàrisuddhisila)
là:
1) Biệt biệt giải thoát thu thúc
giới (Pàtimokkhasamvarasila).
2) Lục căn thu thúc giới (indriyasamvarasila).
3) Chánh mạng thu thúc giới (àjìvapàrisuddhisila
4) Quán tưởng thọ vật dụng giới (paccayasannisstasila).
-ooOoo-
Trong 4 giới trong sạch, xin giải
về: "Biệt biệt giải thoát thu thúc giới" là sự
thu thúc theo điều học trong giới bổn trước.
Giới mà đức Thế Tôn đã tự
thuyết rằng: "Tỳ-khưu trong giáo pháp này, đã thu thúc
theo giới bổn, đều đủ cả acàra và gocàra, là người đã
thọ trì những điều học, hay có lòng lo sợ tội lỗi, dầu
là nhỏ nhen chút ít. Như thế gọi là: "Biệt biệt giải
thoát thu thúc giới".
Tiếng Pàtimokkha (Tàu âm là
Ba-la-đề-mộc-xoa)
nghĩa là "Pháp mà người đã thọ trì đúng đắn rồi, nó
hằng làm cho người đó được thoát khỏi sự thống khổ,
nhứt là khỏi khổ trong bốn đường dữ (cầm thú, atula,
ngạ quỉ, địa ngục)".
Tất cả điều học mà đức Thế
Tôn đã chế định, hiệp lại gọi là Pàtimokkha ấy, có
thể làm cho người thọ trì theo được nhiều điều lợi ích
cao thượng, như đã có giải.
Câu nói "thu thúc" theo Pàtimokkha
ấy, là nói được thu thúc điều học mà đức Thế Tôn đã
truyền răn để lại.
Giải về tiếng àcàra và gocàrà:
Phẩm cách người mong được điều hữu ích, phải cố gắng
hành theo, gọi là àcàra, trái lại gọi là anàcàra.
Àcàra và Anàcàra
Trước hết, xin giải về tiếng
anàcàra,
vì hai pháp ấy có sự tương phản cùng nhau: Anàcàra về đàng
dữ, àcàra về đàng lành.
Tiếng anàcàra là nói về sự hành
ác, do nghiệp thân, nghiệp khẩu, hoặc luôn cả nghiệp thân
và khẩu, tức là nói về sự phá giới.
Còn sự nuôi mạng không chơn chánh,
là nói về Tỳ-khưu nuôi mạng nhờ:
1) Giả làm cách tề chỉnh.
2) Giả làm cách vui vẻ.
3) Nói ướm.
4) Giả bộ dọa hẩm.
5) được nơi đây đem cho nơi kia, được nơi kia đem cho nơi
đây.
6) Cho tre.
7) Cho lá cây.
8) Cho bông hoa.
9) Cho trái cây.
10) Cho cây xỉa răng.
11) Cho nước rửa mặt.
12) Cho vật để tắm.
13) Cho vật thoa dồi.
14) Cho đất (của Tăng).
15) Tôn kính kẻ thế.
16) Thật ít, dối nhiều.
17) Giữ giùm con cho người
18) Làm tay sai cho người.
19) Làm thầy thuốc cho người.
20) Làm kẻ đem tin cho người.
21) Chịu cho người sai khiến.
22) đem cơm cho người rồi đi khất thực sau mà ăn.
23) Cho đi, cho lại
24) Xem thiên văn địa lý.
25) Xem ngày tháng, sao hạn cho người.
26) Xem tài tướng và xem thai đàn bà (đẻ trai hay đẻ gái).
Nếu Tỳ-khưu có lòng ham muốn mong
được lợi để nuôi mạng theo 26 điều tà mạng trên đây,
chẳng được gọi là Tỳ-khưu (trừ ra không có lòng ham
muốn thì không kể).
Anàcàra chia ra có 2 nghiệp:
- Kàyika: hành tà do nghiệp
thân.
- Vàcàsika: hành tà do nghiệp khẩu.
Giải: Tỳ-khưu khi vào giữa Giáo
hội không lòng cung kính, đứng, ngồi, đụng, chạm, lấn lước
vị cao hạ hơn mình; đứng hoặc ngồi trước vị cao hạ, đứng
hoặc ngồi cao hơn vị cao hạ, nói múa tay trước mặt vị
cao hạ; vị cao hạ đi chân mà mình mang giày hoạc vị cao
hạ ở thấp mà mình ở cao; đứng hoặc ngồi không ngay
thẳng; không cho phép vị thấp hạ ngồi; để củi trong nhà
khói mà không cho vị cao hạ hay; đi tắm không nhường cho
vị cao hạ; lúc tắm và khi tắm xong lên, đi vào xóm hoặc ra
xóm cũng như thế.
Hoặc đi đến nhà nào, vào buồng
của người đã khép cửa; có phụ nữ ngồi đâu lại đi vào
nơi ấy; vò đầu kẻ trai hoặc gái, các sự hành động như
thế gọi là anàcàra; hành tà do nghiệp thân.
Có vị Tỳ-khưu khi vào giữa Giáo
hội nói những lời vô lễ, không bạch trước với vị cao
hạ mà thuyết pháp, hỏi hoặc giảng giới bổn (Pàtimokkha)
đứng nói, múa tay; nếu đi vào xóm thấy phụ nữ, trẻ,
hoặc già, kêu nói: cô này, có cháo không? có cơm không? có bánh
không? có gì ... ta ăn, uống? ... có chi dùng? các cô này! có
chi dâng cho ta? v.v...
Những lời nói ấy là anàcàra, hành
tà do nghiệp khẩu.
Còn về àcàra tức là thu thúc theo
giới luật trái hẳn với anàcàra như đã giải trên, và cũng
chia ra có 2 nghiệp: nghiệp thân và nghiệp khẩu, giống nhau.
Người học Phật nên lấy đó làm
nơi xu hướng.
Tóm lại, tiếng àcàra để nói
về phẩm cách vị Tỳ-khưu có lòng tôn kính và nghiêm trì
giới luật, có sự hổ thẹn và gớm ghê những điều tội
lỗi, ăn mặc theo điều "Ưng học pháp" sekhiyavatta,
đi tới, thối lui, xem trước nhắm sau, ngồi, đứng phải phép,
đáng cho người kính trọng, mắt ngó xuống, oai nghi chơn chánh,
lục căn thanh tịnh, có sự tiết độ, có trí nhớ, có sự
biết mình satisampajanna, ít ham muốn, có độ lượng, không
hay trà trộn cùng kẻ thế, hoặc thiên vị theo đảng phái,
biết đền ơn trả thảo, tôn kính người đáng tôn kính ...
Những sự hành động ấy gọi là
àcàra, hành đúng luật do nghiệp thân và nghiệp khẩu.
Gocàra và Agocàra.
Cảnh vật (sắc, thinh, hương, vị,
xúc, pháp) mà lục căn thường xu hướng theo gọi là Gocàra.
Giải: lục dục nếu nói cho tột lý
thì có cả dữ và lành. Dữ là tư cách làm cho phát sanh
tội, nhất là phạm giới. Lành là tư cách làm cho phát sanh
phước, nhất là gìn giữ giới luật cho trong sạch
Giải về tiếng agocàra, đức
Phật có sự thuyết rằng "Tỳ-khưu thường hay thân cận
phụ nữ, bán nam, bán nữ, Tỳ-khưu ni, hàng rượu hoặc lưu
luyến theo vua chúa, quan lại, người cao sang, phú hộ, kẻ
dữ, người không tín ngưỡng tam bảo, hạng khinh rẽ Phật
pháp, hay gây gổ cùng tín đồ và tăng chúng. Xu hướng theo
những điều ấy gọi là agocàra, trái lại là gocàra".
Gocàra chia ra có 3 điều:
1. Upanissayagocàra: Nơi nương
nhờ
có thể làm cho đức hạnh phát sanh, như thân cận cùng
bậc thiện trí thức.
2. Àrakkhagocàra: Cái có thể gìn
giữ lục căn thanh tịnh, như trí nhớ.
3. Upanipandhagocàra: phương
pháp
trau dồi có thể buộc chặt cái tâm, như phép tứ niện
xứ.
Giải: những bậc thiện trí thức
có đủ 10 lời nói trong sạch [*] hoặc cao minh, hằng tế độ
người nương theo Phật pháp, cho được nghe chơn lý chưa
từng nghe, nghe được rồi càng thêm ngưỡng mộ, làm cho người
hết sự hoài nghi, phát sanh chánh kiến.
[*] 10 lời nói trong sạch
(katthàvatthu)
là:
1. Appicchakthà: lời
nói làm cho phát
sanh sự tiết dục.
2. Santutthikathà : lời nói làm cho phát sanh sự biết đủ
(tri túc).
3. Pavivekakathà: lời nói làm cho phát sanh sự yên lặng
4. Asamsaggakathà : lời nói không làm cho phát sanh sự quyến
luyến
5. Viriyàrambhakathà: lời nói làm cho phát sanh sự tinh tấn
6. Sìlakathà : lời nói làm cho phát sanh sự trong sạch
7. Samàdhikathà: lời nói làm cho phát sanh sự thiền định
8. Pannàkathà: lời nói làm cho phát sanh sự trí tuệ
9. Vimuttikathà: lời nói làm cho phát sanh sự giải thoát
10. Vimuttinanàdassanakathà: lời nói làm cho phát sanh trí tuệ
thấy rõ sự giải thoát.
Những bậc có đủ các pháp: tín,
giới, văn, thí, tuệ, mà người nào đã nương theo rồi
hằng được hưởng điều hạnh phúc, như thế gọi là
Upanissayagocàra.
Giải về tiếng Àrakkhagocàra đức
Phật có tự thuyết rằng: Tỳ-khưu khi đi vào xóm hoặc đi
ngoài lộ, mắt thường ngó xuống, xa lối 1 sải, đi đứng
cẩn thận, nghiêm trang không xem xe cộ, ngựa, voi, ... nhất là
không để ý đến kẻ bộ hành (trai, gái) không ngó phía trên,
nhìn phía dưới ... như thế gọi là Àrakkhagocàra.
Còn về Upanipandhagocàra, đức Thế
Tôn chỉ ngay về pháp tứ niệm xứ (thân, thọ, tâm, pháp)
dạy người tu Phật phải dùng pháp ấy phải buộc chặt cái
tâm như sau này:
Yathàdhambhe nibandheyya vaccham
damannaro idha bandheyyevam sakkam cittam satiyàrammane dalham.
Nghĩa là: trong vũ trụ này, những
người khi tập luyện bò con, cần phải buộc chặt nó đứng
yên nơi cây trụ, ví như hành giả, khi tu tâm cũng phải dùng
pháp tứ niệm xứ để buộc chặt cái tâm, mới có thể gìn
giữ tâm được yên tịnh, đó gọi là Upanipandhagocàra.
Ðức Như Lai kể Àcàra và Gocàra vào
trong giới bổn vì là: Giới của Tỳ-khưu được trong sạch
là nhờ có hành thêm àcàra và gocàra. Nhơn đó, đức Phật
mới để pháp àcàra chung với giới bổn.
GIẢI VỀ TIẾNG
"LO SỢ NHỎ NHEN CHÚT ÍT"
Trong điều Ưng học pháp
sekkhiyavatta và khandhakavatta v.v... điều học nào thuộc về vô
ý mà phạm thì cũng bị tội cho nên gọi là tội nhỏ nhen chút
ít.
Ðối với bậc trí tuệ, dầu là
tội nhỏ nhen chút ít, các ngài cũng chẳng dám dễ duôi
phạm đến. Sự lo sợ của các ngài làm cho các ngài thấy
những tội ấy lớn bằng núi Tu-di, cao đến 84.000 do tuần.
Bằng không, với tội nhẹ hơn hết, như tội ác khẩu, các
ngài cũng rất lo sợ, xem như đại tội "Bất cộng
trụ". Chẳng phải cũng chỉ thế thôi, cho đến những
nghiệp nhỏ nhen mà đức Phật nói "Không phải là tội,
không phải là sự dễ duôi", các ngài cũng chẳng phạm.
Phẩm cách của bậc trí tuệ lo sợ tội lỗi nhỏ nhen chút
ít là như thế ấy.
Thọ trì một việc nào là phụ
thuộc của những điều học "9 điều của đức Phật đã
chế định" [*] và gìn giữ hành theo cho đều đủ, như
thế gọi là đều đủ theo tất cả điều học.
[*] 9 điều chế định là:
1. mùlapànntti: điều
chế đầu
tiên trong điều học.
2. anupannatti: điều chế nối tiếp trong điều học đã có
cấm nhiều lần .
3. anuppannàpannati: điều chế để ngừa sự xảy đến (nói
về 8 trọng pháp của Tỳ-khưu ni).
4. sabbatthapannatti: điều chế đối với tất cả Tỳ-khưu
trong xứ.
5. padesapannatti: điều chế đối với tất cả Tỳ-khưu
trong xứ trung Ấn độ.
6. sàdhàranappannatti: điều chế chung cho Tỳ-khưu và Tỳ-khưu
ni.
7. asàdhàranappannatti: điều chế riêng cho Tỳ-khưu và
Tỳ-khưu ni.
8. ekatopannatti: điều chế chỉ đối với Tỳ-khưu hoặc
Tỳ-khưu ni.
9. ubhatopannatti: điều chế đối với cả 2 bên.
Thật vậy, "Biệt biệt giải
thoát thu thúc giới" mà được trong sạch là nhờ có đức
tin . Điều học mà đức Phật đã chế định ấy, vược qua
khỏi tuệ lực của chư thinh văn, nên chính mình đức Phật
mới có thể chế định được. Nhân đó, các Tỳ-khưu phải
thọ trì điều học, chẳng nên tiếc sự sống mà phạm
giới, phải hành theo bài kệ sau đây.
Pàtimokkham visodhento
appevajìvitam
jahepannattam lokanàthena na bhinde sìlasam varam.
Nghĩa là: người có đức tin, khi
đã thọ trì giới bổn, nên liều thác, chẳng nên phạm
giới của đức Phật đã chế định.
Giải rằng: Chim tê hoạch liều
chết ráng gìn giữ trứng của nó thế nào, thú càramì liều
chết ráng giữ lông nó thế nào, người bá hộ có một trai,
rất trìu mến, ráng gìn giữ đứa con đó thế nào, kẻ nào
hư 1 mắt ráng gìn giữ mắt lành kia thế nào, thì người ráng
thọ trì giới của mình như thế ấy, hãy lấy nó làm nơi chí
thiết, làm cho giới được trong sạch hoàn toàn cũng như
mấy điều kể trên đây.
-ooOoo-
Đức Thế Tôn đã tự thuyết
rằng "Tỳ-khưu đã thọ trì giới bổn rồi, nếu mắt
thấy sắc, tai nghe tiếng, mũi hưởi mùi, lưỡi nếm vị, thân
tiếp xúc, tâm biết các pháp mà chẳng cảm xúc, tinh tấn gìn
giữ lục căn, không cho ác pháp (tham, sân, si) đè nén được,
như thế gọi là Lục căn thu thúc giới".
Chẳng cảm xúc là chẳng vì sự
tiếp xúc mà cảm động, phân biệt rằng đây là phụ nữ,
đây là nam giới, đây đẹp, đây không đẹp, đây ngon, đây
không ngon, v.v... chỉ phải trong phạm vi ấy nghe mà thôi.
Phải tinh tấn cẩn thận, chăng
chỉ không cho lục trần thâm nhập lục căn, ngăn ngừa không
cho cảnh nghịch làm cho phát sanh sự thương ghét vào nhiễu
loạn tâm linh. Nếu có cảnh nghịch tiếp xúc, phải dùng trí
nhớ cản ngăn, nghĩa là, đừng hờ hững để cho tâm duyên
theo hoàn cảnh. Phải tinh tấn hành theo pháp àcàra và gocàra
cho đều đủ (như đã giải trong đề: "Biệt biệt giải
thoát thu thúc giới").
Sự tinh tấn như thế chỉ để ngăn
ngừa lục căn không cho ác pháp (tham, sân, si) vào làm hại
thiện pháp trong tâm. Bởi vì ác pháp vào được rồi, thì nó
làm tiêu hoại các điều lành trong tâm, ví như đạo tặc vào
nhà vậy.
Trong Lục căn thu thúc giới có
những điều để phân biệt pháp thu thúc với pháp không thu
thúc: khi những điều ấy chưa phát sanh thì không thể gọi là
thu thúc hoặc không thu thúc được.
Thế nào gọi là pháp thu thúc
(samvaradharma), thế nào gọi là pháp không thu thúc
(asamvaradharma)?
5 pháp để phân biệt thu thúc là:
Sìlasamvara: Pháp thu thúc, tức
là
giới.
Satisamvara: Pháp thu thúc, tức là trí nhớ.
Nànasamvara: Pháp thu thúc, tức là trí tuệ
Khantisamvara: Pháp thu thúc, tức là nhịn nhục.
Viriyasamvara: Pháp thu thúc, tức là tinh tấn.
5 pháp để phân biệt không thu
thúc:
Dussìlya: phá giới.
Mutthasacca: hay quên.
Annàna: không trí tuệ.
Akkhanti: không nhịn nhục.
Kosajja: lười biếng.
Giải: Khi 1 trong 6 trần tiếp xúc
với 1 căn nào mà có 1 trong 5 pháp thu thúc phát sanh thì phải
biết rằng căn ấy Tỳ-khưu đã thu thúc trong sạch rồi. Trái
lại, nếu có 1 trong 5 pháp không thu thúc phát sanh, thì nên
biết rằng căn ấy, Tỳ-khưu không thu thúc. Sự thu thúc và
không thu thúc chẳng phải chỉ phát sanh trong 1 căn thôi đâu
(chúng nó có thể phát sanh trong tất cả lục căn).
Muốn biết những sự thu thúc và
không thu thúc phát sanh, cần phải biết con đường đi từng
bậc của tâm.
Ðây xin giải: con đường đi của
tâm trong nhãn căn.
Khi sắc trần tiếp xúc mắt thì
những hiện tượng biết động tiếp xúc phát sanh, trước
hết.
1- Bhavanga: tâm thường tịnh phát
sanh 2 "sát-na" (khana: thời gian rất ngắn của tốc
lực tâm), nghĩa là rung động tâm thường tịnh 2 sát-na
rồi diệt.
2- Kiriyàmanodhàtu: là cái tâm tìm
kiếm sắc trần làm cho sự tìm kiếm (àvajjanakicca) sắc
trần ấy phát sanh 1 sát-na rồi diệt.
3- Cakkhuvinnàna: nhãn thức, nghĩa
là
sự biết sắc trong nhãn căn, làm cho sự thấy (dassanakicca)
sắc trần ấy phát sanh 1 sát-na rồi diệt.
4- Vipàkamanodhàtu: Tâm dung nạp
sắc trần làm cho sự dung nạp ấy phát sanh lên 1 sát-na rồi
diệt.
5- Vipàkahetuka manovinnànadhàtu:
Tâm
xem xét chu đáo làm cho sự xem xét chu đáo (santìranakicca) ấy
phát sanh 1 sát-na rồi diệt
6- Kiriyàhetuka manovinnànadhàtu:
Tâm
ghi chép sắc trần làm cho sự ghi chép (votthapanakicca) ấy phát
sanh 1 sát-na rồi diệt.
7- Javana: Tâm tốc lực [*] tùy
theo
trạng thái của cảnh giới, làm cho phát sanh pháp thu thúc
hoặc không thu thúc.
[*] Javana là cái sức mau
chóng
của tâm bắt lấy và hưởng dụng sắc trần
Khi tâm thường tịnh (Bhavanga) mới
phát sanh thì chưa được gọi rằng thu thúc hoặc không thu thúc.
Chỉ đến khi sát-na (javana) phát sanh mới có thể nhất định
được. Bởi tất cả các pháp để phân biện cho biết có
thu thúc cùng không thu thúc đều chỉ phát sanh trong sát-na
cuối cùng là (javana) thôi.
Chỗ nói "Phải cẩn thận trí
nhớ và ráng gìn giữ 6 căn không cho các pháp là tham, sân đè
nén được" là chỉ rõ rằng: khi tham, sân không đè nén
được thì gọi là thu thúc. Nếu để chúng nó đè nén được
thì gọi là không thu thúc.
Xin ví dụ cả thân thể như nhà, 6
căn của cửa là ngoài nhà, đường đi của tâm ví như
buồng trong nhà, trí nhớ như người giữ cửa.
Tất cả 5 pháp thu thúc ví như
cửa cái, 1 trong 6 trần ví như kẻ dắt đường, tham và sân
ví như kẻ cướp; cả 5 pháp không thu thúc ví như bọn tùy tùng
của kẻ cướp. Khi người gác cửa tức là trí nhớ quên
phận sự mình, thì tất nhiên kẻ dắt đường, chính là 1
trong 6 trần, sẽ thừa dịp ấy dẫn kẻ cướp tất là tham và
sân vào nhà. Kẻ cướp ấy tức là tham, sân, ắt đem theo
bọn tùy tùng, tức là 5 pháp không thu thúc xông vào phá
buồng trong nhà, tức là đường đi của tâm để cướp lấy
tài sản, tức là thiện pháp (Pháp thu thúc).
Vì vậy, cho nên cần phải tinh
tấn giữ gìn 6 căn cho cẩn thận, chớ nên hờ hững để cho
giác quan phóng túng như mắt hay xem sắc, tai hay nghe tiếng vân
vân... Những lời đã giải gọi là: "lục căn thu thúc
giới"
Nhờ có trí nhớ mà Tỳ-khưu gìn
giữ 6 căn được thanh tịnh, làm cho các ác pháp, nhất là
tham, sân, không thể đè nén cái tâm trong sạch được.
Có lời khen rằng "Thu thúc
lục căn giới mà được kết quả mỹ mãn rồi, có thể
bảo tồn giới bổn được lâu dài, ví như cây lúa mà người
gìn giữ tốt tươi, là nhờ có hàng rào kín đáo, ví như
Tỳ-khưu không thể bị đạo tặc phá quấy, tức là các
phiền nãovào làm hại, hoặc giả ví như 1 xứ kia được
quan quân canh giữ các cửa thành rất cẩn thận làm cho bọn
tặc không sao xâm nhập được". Hiệp theo Phật ngôn
rằng:
Rupesu saddesu adhorasesu
gandhesu,
phassesu, ca rakkhatindriyam ete hidvàrà pidahità susamvutà na
haranti
gàmamva parassa hàrino.
Nghĩa là: Con người phải gìn giữ
lục căn không cho điều nguy hiểm tai hại phát sanh, vì sắc,
thinh, hương, vị, xúc, bởi khi các cửa nhất là nhãn căn, mà
người đã đóng khít khao rồi, thì chẳng bị cái chi là
hại được, ví như trong xứ mà người đã đóng kín cửa thành
chắc chắn, thì đạo tặc cũng không sao vào phá hại dân chúng
được.
Lại nữa, nếu Tỳ-khưu nào đã
thu thúc lục căn rồi, vì lòng tham dục không sao phá hại tâm
của vị đó được, ví như giọt mưa không thể xoi thủng mái
nhà đã lợp khít khao vậy.
Ðúng theo Phật ngôn rằng:
Yathà agàram succhannam vutthi na
samativijjhati evam subhàvitam cittam rago na samativijjhati.
Nghĩa là: Giọt mưa không thể xoi
thủng mái nhà mà người đã lợp khít khao thế nào mà lòng
tham dục cũng không sao xâm nhập vào tâm của người đã trau
dồi đúng đắn được.
Những hành giả nào khi đã thấy rõ
các đức của sự thu thúc và những tội của sự không thu
thúc thì chẳng nên dãi đãi, phải hết lòng tinh tấn gìn
giữ lục căn theo lời chú giải sau này:
Makkato và yàvajivika arannamhi
vane
bhanto migoviya bàlo viya ca uttàsito na chavelolalocanoadhe
khipeyya
cakkhùni yugamattadasso siyàvanamakkatalolassa nacittassavasam
vaje.
Nghĩa là: những người nào mong
được sự lợi ích, thì mắt chẳng nên láol iên như khỉ trên
cây, như thú nhút nhát trong rừng [*], như trẻ con sợ hãi vì
xa thân quyến. Theo giới luật thì trong khi đi đứng phải ngó
xuống, xem chung quanh mình lối 2 thước, chẳng nể chìu theo
vọng tâm, xét cái này, suy cái khác như khỉ trong rừng vậy.
[*] Thú trong rừng thường hay sợ
người bắt giết hay là bắt nó. Nên khi đói đi kiếm ăn
lỡ ra ngoài rừng, thì mắt dáo dác ngó bên này dòm bên kia
không ngớt
-ooOoo-
Cách nuôi mạng theo lẽ chánh của
Tỳ-khưu, không phạm 6 điều học mà đức Phật đã chế định
vì nguyên nhân tà mạng, hoặc chẳng phạm nhất là 5 ác pháp,
như thế gọi là giới nuôi mạng trong sạch.
Giải về 6 điều học: Sáu điều
học này mà đức Phật đã chế định là:
1) Tỳ-khưu chỉ vì nguyên nhân nuôi
sanh mạng, có sự ham muốn xấu xa, bị lòng tham đè nén,
rồi khoe pháp của bậc cao nhơn (pháp đại định hoặc là pháp
thánh) mà mình chưa đắc, phạm tội Bất cộng trụ.
2) Tỳ-khưu chỉ vì nuôi sanh mạng,
làm mai dong, nói cho trai vừa lòng gái, gái đẹp lòng trai
phạm tội Tăng tàn.
3) Tỳ-khưu khoe pháp của bậc cao
nhơn, nói không ngay, chỉ nói mí rằng "Các ngài hãy xem
Tỳ-khưu nào ở trong tịnh xá của các ngài, chính vị Tỳ-khưu
ấy là bậc A la hán vậy". Cách khoe mình như thế, chỉ vì
sự nuôi sanh mạng, phạm tội Trọng tội.
4) Tỳ-khưu vô bịnh chỉ vì sự nuôi
sanh mạng, xin vật cao lương để dùng, phạm Ưng đối trị.
5) Tỳ-khưu ni vô bịnh chỉ vì sự
nuôi sanh mạng, xin vật thực để dùng, phạm Ưng phát lộ.
6) Tỳ-khưu vô bịnh xin vật thực
để dùng phạm Tác ác.
Năm ác pháp là pháp đê hèn, tội
lỗi mà bậc tu hành phải xa lánh là:
- Kuhanà
- Lapanà
- Nemittikatà
- Nippesikatà
- Làbhenalabham nijjigimsanatà
1) Trong ác pháp thứ nhất Kuhanà
giải rằng: Tỳ-khưu dục lợi muốn được người tôn kính
và khen tặng, nói dối để khoe đạo đức cao thượng mà mình
không có và tìm nói dối như mấy cách sau này:
a. Paccayapatisevana: Phương
pháp nói
dối về sự thọ lãnh vật dụng.
Giải: có hạng Tỳ-khưu được
thí chủ thỉnh đến dâng cúng 4 vật dụng, duy tâm mong
mỏi được mấy món ấy, nhưng giả bộ từ chối, làm cho
người tưởng mình là kẻ ít tham, không cầnvật quí giá,
chỉ dùng vật thấp hèn thôi (như dùng y dơ của người
bỏ). Vì lẽ ấy nên thí chủ thật lòng tín ngưỡng mình.
Lần sau họ đem nhiều vật đến dâng cúng mới chịu thọ
lãnh và kiếm thế chữa mình rằng: Ta chẳng phải tham dùng
các món ấy, nhưng muốn cho quí ngài vui lòng được phước,
nên phải buộc mình thọ lãnh. Chẳng phải chỉ giả dối
trong những nơi ấy, mà còn làm ra dáng cao thượng nữa, cho
người càng thêm tôn trọng mình.
Các cách hành động như thế
gọi là dối trá về sự thọ lãnh vật thực.
b. Sàmantajappana: Tỳ-khưu dục
lợi, muốn được người khen ngợi, giả trá bằng cách nói
mí rằng: Các ngài nên xem Tỳ-khưu nào mặc y như vầy,
thầy tế độ và thầy giáo thọ của vị Tỳ-khưu ấy như
vầy, Tỳ-khưu ở trong tịnh xá như vầy v.v... Tỳ-khưu như
thế là bậc Sa-môn cao thượng, bởi ngài có đạo đức
thanh cao. Hoặc nói nhiều cách khác nữa, hoặc tự khoe mình
để cho người khác tán tụng. như thế gọi là Sàmantajappana
c. Iriyapathasanisita: hoặc sự
dối
giả xấu xa bằng cách oai nghi đi đứng.
Giải: Có hạng Tỳ-khưu dục
lợi bằng cách đê hèn, muốn được danh lợi nên khoe
rằng mình có đạo đức cao thượng, thu thúc oai nghi (đi,
đứng, nằm, ngồi) theo dáng bậc cao nhơn, làm cho người
lầm tưởng rằng mình có đầy đủ trí tuệ, hoặc đã đắc
đại định. Như thế gọi là dối trá bằng cách giả bộ
thu thúc oai nghi.
2) Trong ác pháp thứ nhì (Lapanà)
giải rằng: Tỳ-khưu tham muốn xấu xa, mong được tài vật và
danh tiếng, khi thấy người đến chùa thì niềm nở hỏi han.
nếu người nói đến thỉnh chư tăng thì tự mình đi thỉnh
thế cho, hoặc tự khoe rằng: ta được từ vua, chí các quan
lớn, nhỏ đều kính mến. Hoặc nói lời này tiếng nọ làm
cho thí chủ phải dâng cúng vật dụng cho mình. Như thế gọi
là Lapanà.
3) Trong ác pháp thứ ba
(Nemittikatà)
giải rằng: tham muốn xấu xa mong được vật dụng và danh
dự, hành động nói để cho người phải bố thí tài vật đến
mình. Như Tỳ-khưu thấy, người có vật thực ngon, làm
tuồng như không thấy giả bộ hỏi thăm bằng thế này thế
kia, cho người biết rằng mình cần dùng vật ấy, khiến người
phải buộc lòng đem dâng cho mình. Các cử chỉ như thế gọi
là "Nemittikatà".
4) Trong ác pháp thứ tư
(Nippesikatà)
giải rằng: Tỳ-khưu dục lợi cách đê hèn, mong được tài
vật và danh vọng, ỷ quyền chửi mắng [*] thí chủ, dùng
lời này tiếng kia, trách người không biết điều, không tín
ngưỡng Phật pháp; nói lén hoặc nói xấu người, hoặc đem
đến chuyện xấu nhà này nói nhà kia... như thế gọi là
"Nippesikatà".
[*] 10 cách chưởi mắng :
người
là kẻ cướp, người là kẻ dữ, người là kẻ lầm lạc,
người là bò, người là thú..
5) Trong ác pháp thứ năm
(Làbhenalàbham
nijigimsanatà) giải rằng: Tỳ-khưu dục lợi cách đê hèn,
muốn được tài vật danh tiếng, lấy vật được nơi đây
đem cho nơi kia, như thế gọi là làbhenalàbham ijigimsanatà.
Những lẽ giải trên đây gọi là
sự tà mạng do 5 ác pháp.
Sự biết vô ích, là tư cách hiểu
biết thấp hèn, không có ích lợi chi. Tư cách có nhiều thể
thức khác nhau,nhưng đây chỉ lược thuật 8 thể thức:
- Biết sách giải về thân thể
học (angam).
- Biết sách giải về các nguyên nhân khác (nimittam).
- Biết sách giải về thiên văn học (uppàtam).
- Biết sách giải về pháp đoán điềm mộng (supinam - mộng
là những triệu chứng mà người thường cảm giác trong lúc
ngủ).
- Biết sách giải về thần tướng học (làkkhanam).
- Biết sách giải về y phục bị chuột cắn [1]
(musikacchinnam).
- Biết sách giải về sự cúng dường lửa (aggihomam).
- Biết phương pháp cúng dường vá [2] (dobbihonam).
[1] khoa này thuộc về Bà-la-môn
giáo
[2] phép cúng dường (và mức canh) theo đạo Bà la môn
Tỳ-khưu thọ dụng những vật
thực của thí chủ có lòng tín thành dâng cúng cho, chẳng nên
học hỏi sách tướng để tìm cách nuôi mạng bằng sự
biết không hữu ích như giải trên.
Tư cách của Tỳ-khưu, nhất là
sự xa lánh 5 ác pháp và 8 điều biết không hữu ích để tìm
thế nuôi mạng chơn chánh, gọi là hành theo chánh mạng vậy.
Tỳ-khưu chánh mạng do sự tinh
tấn, thu thúc theo giới luật, nghĩa là nhờ có sự cố
gắng, thì pháp chánh mạng mới được trong sạch.
Sự trì giới này chỉ nhờ đức
tinh tấn chơn chánh, hằng xa lánh các ác pháp và sự biết vô
ích như đã giải trên, mới có thể tìm vật dụng một cách
trong sạch được.
Theo lẽ ấy, Tỳ-khưu mong được
điều lợi ích, chẳng nên thọ lãnh vật dụng nhơ nhớp đê
hèn, trái lẽ đạo.
-ooOoo-