PHẢI BIẾT VẬT
DỤNG THẾ NÀO LÀ TRONG SẠCH THẾ NÀO LÀ KHÔNG TRONG SẠCH
Ðối với các hạng Tỳ-khưu không
tu hạnh đầu đà, những vật dụng của thiện tín thông
luật pháp bố thí đến chư tăng hoặc đến 1, 2, 3 vị
Tỳ-khưu, đều gọi là vật trong sạch.
Tuy nhiên vật dụng được do sự hành
khuất, lượm lặt của người thí chủ có tâm thỏa thích
trong pháp đầu đà dâng cúng, mới đáng gọi là vật dụng
trong sạch. Hoặc vật dụng quí giá hay thấp hèn đã được
trong một thời kỳ, Tỳ-khưu không dùng vật quí, đem dâng
cho vị khác và để vật hèn lại cho mình, như thế mới đáng
gọi là vật trong sạch cao thượng.
Vật dụng không trong sạch là vật
dụng được do sự tà mạng như đã giải trong "Biệt
biệt giải thoát thu thúc giới", trong anàcàra, trong 6 điều
học, trong 5 ác pháp và trong 8 điều biết vô ích, hoặc vật
dụng do sự bôm dỗ, làm thầy thuốc mà có hay tự mình mua,
đổi. Những vật ấy gọi là vật không trong sạch.
Có lời khen rằng: Tỳ-khưu nào,
dầu có sự tai hại đến sanh mạng mình, cũng chẳng thối
chuyển trong sự hành theo chánh mạng, thà chết chớ chẳng
chịu dùng vật thực không trong sạch, mới đáng gọi là
bậc chơn chánh.
Như đại đức Xá Lợi Phất, một
thưở nọ, ngài đau bụng gió, tôn giả Mục kiền Liên hỏi
rằng: Thường khi sư huynh mang bịnh ấy, vậy chớ sư huynh dùng
thuốc chi để chuyên trị? Đức Xá Lợi Phất đáp "Khi còn
ở thế, bị bịnh này, tôi dùng cơm nấu với sữa tươi không
có lộn nước thì bịnh hết".
Trong lúc ấy có 1 vị Tỳ-khưu nghe
được, bèn bảo người nấu cơm y như lời đức Xá Lợi
Phất đã nói khi nảy. Ông ta đi khất thực rồi đem về dâng
cho đức Xá Lợi Phất, nhưng ngài chẳng chịu dùng, vì cho
rằng cơm này phát sanh do lời nói của mình. Ngài bèn thuyết
rằng:
Vacìvannatti vipphàrà
Uppannam madhupàyasam
Sace Bhutto Bhoveyyàham
Sàjìvo garahito mama
Yadipi me antagunam
Nikkhamitvà bahì care
Nevabhindeyyamàhìvam
Cajamànopi jìvitam
Àràdhemi sakam cittam
Vivajjemi anesanam
Nàham buddhapatikkuttham
Kàhàmi ca annesanam
Nghĩa là: Nếu tôi dùng cơm sữa
phát
sanh do lời nói của tôi, thì ắt bậc trí tuệ khinh bỉ được.
Dầu ruột phải lòi ra ngoài, tôi cũng cam chịu chết, chớ không
thối chuyển, để làm hư hại pháp chánh mạng của tôi. Tôi
làm cho tâm tôi phải theo tôi, tôi phải xa lánh vật thực tìm
được do tà mạng và không khi nào dám phạm tà mạng mà đức
Phật đã răn cấm đâu.
Có lời kệ rằng:.
Anesanàya cittampi ajanetvà
vicakkhano
àjìvam parisodheyya saddhàpabbajito yati.
Nghĩa là: Những hành giả có trí
tuệ, đã xuất gia theo Phật pháp do lòng tính ngưỡng chơn chánh,
phải làm cho sự nuôi mạng được trong sạch, không nên chìu
theo vọng tâm, thọ lãnh vật dụng thuộc về tà mạng.
Giới nương theo 4 vật dụng là nói
về tư cách dùng 4 món ấy được trong sạch, nhờ phép quán
tưởng.
Tiếng vật dụng là nói về vật
phải dùng mới có thể sống được. Vật dụng ấy có 4
loại là.
- Cìvara: Vật để mặc, đắp, trùm
cho kín thân thể.
- Pindapàta: Vật để duy trì thân thể.
- Senàsana: Chỗ ngồi, chỗ nằm để cho thân thể an nghỉ.
- Gilànabhesajja: Thuốc chữa bịnh để hộ thân thể.
Tất cả chúng sanh trong thế gian
đều
phải dùng 4 vật ấy dầu thế nào cũng phải nhờ 1 trong 4 món
ấy mới có thể sống còn được, nên gọi là vật dụng.
Về Dhàtupaccavekkhana, phải quán
tưởng
chung với thân thể của mình cho thấy chỉ là nguyên chất
"dhàtu", để dứt bỏ sự cố chấp là "ta hay là
của ta".
Về patikùlapaccavekkhana, phải
quán
tưởng chung với thân thể của mình cho thấy là vật không
trong sạch, đáng nhờm gớm, để dứt bỏ sự phân biệt sai
lầm, cho là đẹp là sạch. Nếu trong pindapàtapaccaya thì kể
vào trong phép thiền định aharapatikùla manasikàra.
Về tamkhanikapaccavekkhana phải
quán
tưởng trong khi dùng.
Còn về atìtapaccavekkhana thì phải
quán tưởng thêm khi đã dùng rồi, nội ngày ấy để ngừa,
e quên không được quán tưởng trong khi dùng, hầu ngăn lắp
lòng ái dục không cho tâm khắn khít trong vật dụng, nhất là
để phá huỷ tình dục, sân hận, si mê và ngã chấp không
cho phát sanh vì sự thọ dụng ấy.
Nếu Tỳ-khưu dùng vật dụng mà không
quán tưởng, thì sự thọ dụng đó nó chỉ đem lại những
thống khổ trong đường dữ, như có Phật ngôn rằng:
Ayasàva malam
samutthàyataddutthàya,
tamava khàdati evam atidhonacàrinam sànikammàni nayanti duggatim.
Nghĩa là: Vật dơ sanh từ nơi sắt
(rỉ sét), ra từ nơi sắt, trở lại ăn sắt thế nào, thì các
điều tạo tác phát khởi trong tâm, hằng dắt dẫn người làm
sái, không cho quán tưởng vật dụng rồi dùng, nên phải
chịu sa vào cảnh khổ, cũng như thế ấy.
Sự dùng vật dụng chia ra có 4
phần:
1) Theyyaparibhoga, dùng như kẻ
trộm là: sự dùng của Tỳ-khưu phá giới
2) Inaparibhoga, dùng như kẻ mắc nợ: là sự dùng của
Tỳ-khưu có giới, nhưng không được quán tưởng.
3) Dàyajjaparibhoga, dùng như của di sản phải được: là
sự dùng của bậc hữu học (từ Tu đà hườn đến A-na-hàm).
4) Sàmiparibhoga, dùng như của chủ: là sự dùng của hàng vô
học (A-la-hán).
1) Trong sự dùng thứ nhất
Theyyaparibhoga giải rằng: Tỳ-khưu phá giới, rồi ẩn mình nú
lén thọ vật dụng của thí chủ chung với tăng gọi là
trộm vật dụng của thí chủ đem dùng, vì thí chủ chỉ tìm
dâng cúng đến Tỳ-khưu có giới để mong hưởng được
nhiều quả phước.
Chẳng phải họ tìm dâng đến
Tỳ-khưu phá giới đâu, Tỳ-khưu phá giới cố che mắt người,
thọ lãnh và dùng vật dụng, cho nên gọi là trộm của thí
chủ. Chẳng những chỉ thế thôicũng còn gọi là cướp của
các Tỳ-khưu có giới trong sạch nữa. Vì các vật họ dâng
cho sự tín ngưỡng ấy, đức Thế Tôn chỉ cho phép các bậc
Tỳ-khưu, có giới được thọ hưởng, mà Tỳ-khưu phá giới
lại ẩn mình, che mắt thí chủ, nhận lãnh để dùng. Cho nên
gọi là cướp đoạt vật dụng của Tỳ-khưu có giới.
2) Trong Inaparibhoga giải rằng:
Tỳ-khưu có giới trong sạch, nhưng dùng vật mà không được
quán tưởng trong 3 thời, theo 1 trong 4 phép quán tưởng, như
thế gọi là dùng vật như kẻ mắc nợ. Tỳ-khưu mắc nợ
của thí chủ không có thể vẫy vùng cho khỏi chỗ sanh tử
được, ví như người thiếu nợ không sao đi đến xứ nào
theo sở thích được. Bởi cớ ấy Tỳ-khưu có giới trong
sạch nên quán tưởng trong ý mỗi lần mặc, trong mỗi miếng
cơm, trong mỗi chỗ ở, mỗi khi đi vào ngủ. Lúc dùng thuốc,
phải quán tưởng luôn trong khi thọ lãnh và trong khi uống.
3) Trong Dàyajjaparibhoga giải
rằng:
Bậc thánh nhơn hữu học như con của đức Thế Tôn được
phép thọ lãnh di sản của ngài. Bốn món vật dụng mà thí
chủ hằng bố thí bằng đức tin, ví như di sản của ngài để
lại cho các con. Bởi cớ ấy, sự dùng 4 món vật dụng của
bậc hữu học, có quyền giải được. Sự dùng của Tỳ-khưu
có giới và được quán tưởng gọi là không mắc nợ (ànanaparibhoga).
Như thế cũng được, vì trái hẳn với inaparibhoga hoặc gọi
là dàyajjaparibhoga cũng được, vì Tỳ-khưu có giới ví cũng
như bậc hữu học vậy.
4) Trong Sàmiparibhoga giải rằng:
Các
bậc vô học đã thoát khỏi vòng nô lệ của sự ham muốn. Các
ngài được danh hiệu là chủ của vật dụng, vì các ngài dùng
vật của người nào, hằng làm cho người ấy được mãn
nguyện.
Trong 4 phần thọ dụng ấy có
sàmiparibhoga
là cao thượng hơn tất cả, dàyajjaparibhoga cao thượng bực
trung. Còn theyyaparibhoga và inaparibhoga thì không gọpi là cao
thượng
được.
Như thế, paccayasannissitasìla,
chưa
hư hoại vì giới ấy trong sạch do sự quán tưởng. Miễn là
được quán tưởng rồi, dầu chỉ quán tưởng 1 phép trong
vật dụng nào 1 lần, hoặc 2 lần cũng được gọi là chưa hư
hoại. Trừ ra đến mặt trời mọc lên mà không được quán
tưởng lần nào, mới gọi là hư hoại, và Tỳ-khưu ấy
phải bị ở trong vòng inaparibhoga nữa. Ấy là nói về 3 vật
dụng trên.
Còn về thuốc men, phải quán tưởng
trong khi thọ và khi dùng mới nên, nếu không được quán tưởng
trong khi thọ, chỉ phải quán tưởng trong khi dùng cũng được.
Nếu không được quán tưởng khi dùng, dầu có quán tưởng
trong khi thọ cũng phạm Tác ác. Pàtimokkha samvarasìla cũng hư
hoại nữa, nhưng paccayasannissitasìla chưa sao, chỉ khi giới
hạn của atìtapaccavekkhana đã qua rồi, mới hư hoại vì
tamkhanikapaccavekkhana, trong gilànapaccava gìn giữ được cả
Pàtimokkha
samvarasìla và paccayasannissitasìla, còn atìtapaccavekkhana không
cần quán tưởng cũng được. Cả 2 giới cũng không hư
hoại, nếu không được quán tưởng tamkhanikapaccavekkhana,
dầu có quán tưởng atìtapaccavekkhana, thì chỉ được có
paccayasannissitasìla, còn Pàtimokkha samvarasìlaphải hư hoại vì
Tỳ-khưu ấy đã phạm Tác ác rồi.
Thật vậy, thọ vật dụng giới này,
hành giả được kết quả nhờ thế lực của trí tuệ, nghĩa
là trí tuệ là pháp hỗ trợ cho được kết quả. Giới ấy
chỉ có người trí tuệ thấy rõ tội và phước trong cách
thọ 4 vật dụng, mới có thể thành tựu được.
Bởi cớ ấy, hành giả nên dừt
sự say mê theo 4 vật dụng và nên dùng trí tuệ để quán tưởng
theo cách thức như đã giải trước, rồi mới nên dùng.
Có lời khen rằng: nếu Tỳ-khưu hành
theo cách thức như thế, Tỳ-khưu ấy đuợc gọi là người
vừa theo lời nguyện đầu tiên [*] của mình đúng theo kệ ngôn
như vầy.
Pindam vihàram
sayanàsananca
Sutvàna sanghàtirajùpavàhanam
Sankhàya seve varapannàsàvako
Tasmàhi pinde sayanàsane ca
Àpe ca-sanghàtirajùpavàhane
Etesu dhammesu anùpalitto
Bhikkhu yathà pokkhare vàrivindu
Kàlena laddhà parato anuggahà
Khajjesu bhojjesu ca sàyanesu ca
Mattam sojanna satatam upatthito
Vanassa àlepanarùhane yathà
Kantàre puttamamsamva akkhassabbhanja nam yathà.
Evam àhati àhàram yàpanàya amucchito.
Nghĩa là: Hàng thinh văn, người có
trí tuệ thanh cao, khi được nghe pháp mà bậc thiện thệ đã
giảng giải rồi, cần phảiquán tưởng trước rồi mới nên
dùng: vật ăn, chỗ ngồi, chỗ nằm, thuốc chữa bịnh, nước
để giặt, y 2 lớp. Bởi cớ ấy, không nên say mê trong vật
thực, chỗ ngồi, chỗ nằm, thuốc chữa bịnh, nước để
giặt, y 2 lớp ấy đâu, phải có tư cách trơn tru không dính
mắc, như giọt mưa rớt trên lá sen vậy. Tỳ-khưu là người
có trí nhớ luôn luôn, cần phải tiết độ trong vật ngọt,
vật mặc và các vật thực mà mình đã được theo thời, để
tiếp độ thí chủ cũng như dè dặt trong sự rờ rẫm mụt
ghẻ do sự thoa thuốc vậy.
[*] lời nguyện đầu tiên
là nói
về lời của vị kiết ma dạy bảo 4 pháp nương sau khi
vừa thọ xong cụ túc giới, mà mình thọ bằng tiếng Àma-bhante.
Người đi đường xa, cực chẳng
đã phải ăn thịt con để gìn giữ sinh mạng trong khoảng
đường nguy hiểm, người xa phu bất đắc dĩ mới ăn dầu
thoa ốc xe thế nào, thì hành giả buộc lòng thọ thực để
duy trì sanh mạng của mình cũng như thế ấy, chẳng nên vì
lẽ gì, mà say mê trong vật thực.
Những người xuất gia tu Phật
phải biết phép quán tưởng ầy hằng ngày, phải học nó cho
thông thuộc nằm lòng, cả tiếng phạn và nghĩa lý.
Các phép quán tưởng ấy có 4 là:
- Y phục để cho người xuất gia
dùng nhất là y ca-sa.
- Vật thực để cho người xuất gia được phép ăn từ
mặt trời mọc đến đứng bóng, nhất là cơm và bánh.
- Chỗ ngụ để cho người xuất gia an nghỉ.
- Thuốc để cho người xuất gia dùng ngừa bịnh.
Trong mỗi phép ấy đều có cách quán
tưởng khác nhau là:
- Quán tưởng về nguyên chất y
phục.
- Quán tưởng về nguyên chất vật thực.
- Quán tưởng về nguyên chất chỗ ở
- Quán tưởng về nguyên chất thuốc men.
Phép quán tưởng này dạy phải
thẩm xét trong khi thọ lãnh 4 món vật dùng ấy cho thấy rõ
nguyên chất của nó.
1) Khi thọ lãnh y phục phải quán
tưởng
bằng các này:
Yathàpaccayampavattamànam
dhàtumattamevetam
yadidam cìvaram tadupabhujaloca puggalo
dhàtumattakonisattonijjvosunno.
Y phục này hẳn thật là 1 nguyên
chất, chỉ làm ra để dùng.
Dầu ta là người dùng nó chẳng
hạn, nó cũng là 1 nguyên chất thôi chẳng phải là thú,
chẳng phải là ta, cũng chẳng phải là vật chi chi cả.
2) Khi thọ lãnh món ăn phải quán
tưởng
bằng các này:
Yathàpaccayampavattamànam
dhàtumattamevetam
yadidam piindapàto tadupabhujaloca puggalo
dhàtumattakonisattonijjvosunno.
Món ăn này hẳn thật là 1 nguyên
chất, chỉ làm ra để dùng.
Dầu ta là người dùng nó chẳng
hạn, nó cũng là 1 nguyên chất thôi chẳng phải là thú,
chẳng phải là ta, cũng chẳng phải là vật chi chi cả.
3) Khi thọ lãnh chỗ ở phải quán
tưởng bằng các này:
Yathàpaccayampavattamànam
dhàtumattamevetam
yadidam senàsanam tadupabhujaloca puggalo
dhàtumattakonisattonijjvosunno
Chỗ ở này hẳn thật là 1 nguyên
chất, chỉ làm ra để dùng.
Dầu ta là người dùng nó chẳng
hạn, nó cũng là 1 nguyên chất thôi chẳng phải là thú,
chẳng phải là ta, cũng chẳng phải là vật chi chi cả.
4) Khi thọ lãnh thuốc men phải
quán
tưởng bằng các này:
Yathàpaccayampavattamànam
dhàtumattamevetam
yadidam gilànappaccaya bhesajja parikkhàro tadupabhujaloca puggalo
dhàtumattakonisattonijjvosunno
Thuốc men để cho người bịnh dùng
đây hẳn thật là 1 nguyên chất, chỉ làm ra để dùng.
Dầu ta là người dùng nó chẳng
hạn, nó cũng là 1 nguyên chất thôi chẳng phải là thú,
chẳng phải là ta, cũng chẳng phải là vật chi chi cả.
Phép này dạy phải quàn tưởng
trong khi sắp dùng 4 vật dụng ấy cho thấy rõ là vật đáng
nhờm gớm.
1) Khi sắp mặc y phục, phải quán
tưởng bằng cách này.
Sabbànipanimànicìvaràni
ajigucchanìyàni
imampùtikàyam patvàativiyajiguechanìyànijàyanti
Những y phục này, vốn chẳng
phải là vật đáng nhờm gớm. nhưng đến khi đụng vào mình
hôi thối này giờ nào rồi, thì liền trở nên vật đáng
nhờm gớm lắm.
2) Khi sắp mặc vật thực, phải quán
tưởng bằng cách này.
Sabbopanàyam pindapàto
ajigucchanìyàni
imampùtikàyam patvàativiyajiguechanìyànijàyanti
Những món ăn này, vốn chẳng
phải là vật đáng nhờm gớm. Nhưng đến khi đụng vào mình
hôi thối này giờ nào rồi, thì liền trở nên vật đáng
nhờm gớm lắm.
3) Khi sắp vào chỗ ở, phải quán
tưởng bằng cách này.
Sabbànipanimànisenàni
ajigucchanìyàni
imampùtikàyam patvàativiyajiguechanìyànijàyanti
Những chỗ ở này, vốn chẳng
phải là vật đáng nhờm gớm. nhưng đến khi đụng vào mình
hôi thối này giờ nào rồi, thì liền trở nên vật đáng
nhờm gớm lắm.
4) Khi sắpdùng thuốc men, phải
quán
tưởng bằng cách này.
Sabbopanàyam
gilànappacceyabhesajjaparikkhàro
ajigucchanìyàni imampùtikàyam patvàativiyajiguechanìyànijàyanti
Những vật để bảo dưỡng thân
thể tức là thuốc men dành riêng cho người bịnh dùng, vốn
chẳng phải là vật đáng nhờm gớm. Nhưng đến khi đụng vào
mình hôi thối này giờ nào rồi, thì liền trở nên vật đáng
nhờm gớm lắm.
Phép này dạy phải quán tưởng
trong khi dùng 4 vật dụng:
1) Khi thọ mặc y phục phải quán
tưởng
bằng các này:
Patisamkhàyoniso
cìvarampatisevàmiyàva
devasìtassapatighàtàya unhassapatighàtàya
damsamakasavàtatapasirimsapa
samphassà nampatighàtàya yàvadevahirikopinappaticchàdanattham.
Người xuất gia phải quán tưởng
rằng: Ta mặc y phục đây để ngừa sự lạnh, nóng, muỗi,mòng,
nắng, gió, rắn nhỏ, rắn lớn và để che thân thể cho
khỏi hỗ thẹn (lõa thể) vậy thôi.
2) Khi ăn phải quán tưởng bằng các
này:
Patisamkhàyoniso
pindàpàtampatisevàminevadavàyana
madàya namandanàyanavibhùsanàya yàvadeya imassa kàyassathitiyà
yàpanàyavihimsu
paratiyà brahmacariyànuggahàya itipurànancavedanam patihamkhàmina
vancavedanamnauppàdessàmi yàtràcamebhavissati anavajjatàcaphàsuvi
hàrocàti.
Người xuất gia phải quán tưởng
rằng: Ta thọ thực đây chẳng phải để chơi như trẻ con
ở thế, cũng chẳng phải dưỡng sức cho mạnh, say mê như
kẻ đánh lộn, chẳng phải để trau dồi sắc thân như phụ
nữ, chẳng phải để điểm trang nhan sắc như kẻ chơi bời
đàng điếm.
Ta thọ thực chỉ để cho thân tâm
được mạnh khỏe, đặng chánh sự khó nhọc, hầu tu hành
theo đạo cao thượng, cho ta diệt trừ cái khổ đã qua là
sự đói khát và ngừa sự ăn quá độ. Cách hành động trong
4 oai nghi sẽ phát sanh đến cho ta nhờ sự thọ thực này.
3) Khi vào chỗ cư ngụ, trong thất,
nhà, phải quán tưởng bằng các này:
Patisamkhàyoniso senàpanampati
sevàmiyà
vadevasìtassapati ghàtàyanuhassapatighàtàyassànam patighàtàya
yàvadeva
utuparissayavinodanam patisalànàràmattham
Người xuất gia phải quán tưởng
rằng: Ta dùng chỗ ở đây để tránh sự lạnh, nóng, muỗi,
mòng, gió, nắng, rắn nhỏ, rắn lớn, tránh sự khó chịu
bởi thời tiếc và được nơi thanh vắng để tham thiền
nhập định.
4) Khi dùng thuốc để ngừa bịnh,
phải quán tưởng bằng các này:
Patisamkhàyoniso
gilànappaccayabhesajjaparikkhàrampatise
vàmi yàva devauppannànam veyyàbàdhikànam vedanànam patighàtàya
abyàpajjhaparamatàvàti
Người xuất gia phải quán tưởng
rằng: Ta dùng thuốc để dưỡng thân đây là thuốc mà người
bịnh dùng để ngừa những bịnh hoạn đã phát khởi lên
rồi, cho đặng tránh khỏi khổ não, nặng nề thường có.
Phép này dạy phải quán tưởng 4
vật dụng khi đã dùng rồi trong ngày ấy, nghĩa là vật
dụng đã dùng qua 1 ngày, 1 đêm, phải hồi tưởng trước khi
mặt trời mọc. Trong mỗi món dùng phải quán tưởng 1 hoặc
2 lần, 3 lần cũng được.
1) Khi quán tưởng y phục phải quán
tưởng bằng cách này:
Ajjamayà apaccavekkhitvàyam
cìvaram
paribhuttam tamyàvadevasìtassapatighàtàya unhassapatighàtàya
damsamakassavàtà tapasirimsappasamphassànampatighàtàya yàvadeva
hirikopinappaticchàdanattham
Y phục nào mà ta chưa quán tưởng
mà mặc trong ngày nay rồi, y phục ấy ta mặc để ngừa sự
lạnh, sự nóng, muỗi, mòng, nắng, gió, rắn nhỏ, rắn,
lớn, cho đặng che thân thể và tránh điều hỗ thẹn (lõa
thể).
2) Khi quán tưởng vật thực phải
quán tưởng bằng cách này:
Ajjamayà apaccavekkhitvàyo
pindapàto
paribhutto sonevadavàyanamadànanam danàyanavibhùsanàya yàvadeva
imassakàyassathittiyà yàpanàyavihimsuparatiyàbrahma cariyà
nuggahayà
itipùrànancavedanam patihamkhàmi navancavadanamna upppàdessàmi
yàtràcamebhavissatiana
vajjatàca phàsuvihàrocàti.
Vật thực nào ta chưa quán tưởng
mà ta dùng trong ngày nay rồi, Ta thọ thực đây chẳng phải
để chơi như trẻ con ở thế, cũng chẳng phải dưỡng sức
cho mạnh, say mê như kẻ đánh lộn, chẳng phải để trau
dồi sắc thân như phụ nữ, chẳng phải để điểm trang nhan
sắc như kẻ chơi bời đàng điếm.
Ta thọ thực chỉ để cho thân tâm
được mạnh khỏe, đặng chánh sự khó nhọc, hầu tu hành
theo đạo cao thượng, cho ta diệt trừ cái khổ đã qua là
sự đói khát và ngừa sự ăn quá độ. Cách hành động trong
4 oai nghi, sự vô tội nhất là thân tâm không biếng nhác và
sự an lạc trong 4 oai nghi, chỗ phát sanh đến ta là do nhờ
sự thọ thực này.
3) Khi quán tưởng chỗ ở phải quán
tưởng bằng cách này:
Ajjamayà apaccavekkhitvàyam
senàsanam
paribhuttam tamyàvedevasìtassapatiighàhàtàya unhassapatighàtàya
damsamakasavàtàta pasirimsapasamphasànam patighàtàya
yàvadevautuparissayavino
danam patisallànàràmattham.
Chỗ ở nào mà ta chưa quán tưởng
mà ta đã vào cư ngụ trong ngày nay rồi, là để tránh sự
lạnh, nóng, muỗi, mòng, gió, nắng, rắn nhỏ, rắn lớn tránh
sự khó chịu bở thời tiếc và được nơi thanh vắng để
tham thiền nhập định.
4) Khi quán tưởng thuốc uống
phải quán tưởng bằng cách này:
Ajjamayà apaccavekkhitvàyo
gilànappaccayabhesajjaparikkhàro
paribhutto soyàvadevauppannànam veyyàbàdhikànam
vedanànampatighàtàya
abyàpajjhaparamatàyàti.
Thuốc uống để dưỡng thân là
thuốc để cho người bịnh dùng, ta đã dùng cho ngày nay mà
ta chưa được quán tưởng. Thuốc ấy tadùng để ngừa
những bịnh hoạn đã phát khởi lên rồi, cho đặng tránh
khỏi khổ não, nặng ne àthường có.
Nói tóm lại, pháp làm cho giới
được trong sạch chỉ do 2 điều là:
- Thấy tội trong sự phá giới.
- Thấy phước trong sự trì giới.
Ðây xin giải về sự phá giới trước.
Trong phẩm Anguttaranikàya
pancakanipàta.
Ðức Phật có giảng 5 điều như vầy.
1. Người phá giới, người không
có giới hằng bị tiêu hủy của cải mau lẹ, và vì nguyên
nhân sự dễ duôi.
2. Danh xấu của người phá giới, người không có giới
hằng bị đồn xa đến các hướng.
3. Người không có giới, khi vào chỗ đô hội, không được
tươi tỉnh, hằng ái ngại hỗ thẹn, gục mày.
4. Người không có giới, hằng mê loạn tinh thần trong khi
hấp hối.
5. Người không có giới, khi ta rã ngũ uẩn hằng thọ sanh
trong cảnh khổ .
Lại nữa, kẻ phá giới không được
vừa lòng chư thiên và không đáng cho bậc phạm hạnh dạy
bảo, phải chịu điều khổ não và lo ngại, vì bị người
đời chê trách. Kẻ phá giới hằng hối hận, vì được nghe
người đời ngợi khen bậc có giới, thường có màu da xấu
xa dường như vải làm bằng vỏ cây và phải chịu sự khổ
lâu dài trong đường dữ.
Người không có giới, nếu thọ lãnh
vật dụng, thì làm cho kẻ tín thí ít phước, là người khó
trau dồi cho mình trở nên trong sạch được, ví như hầm
phẩn chất chứa đã lâu năm, là người tiêu hoại, đã xa lìa
các đức tánh của hàng Sa-môn và tài sản của cư sĩ, ví như
đống tro tàn thiêu tử thi còn sót lại. Dầu có xưng mình là
Tỳ-khưu cũng vẫn không-phải là Tỳ-khưu. Ví như các con
lừa theo dính bầy bò, hằng ngày làm cho bò giựt mình luôn.
Kẻ ấy bị cho là cừu thù với tất cả loài người, không
đáng cho người khác chung chạ, dường như tử thi, dầu có văn
đức [1] (suta) cũng không đáng cho hàng phạm hạnh dâng cúng,
dường như lữa trong rừng mộ địa không đáng cho bậc Bà-la-môn
chiêm bái, là người abhabba trong sự giác ngộ các đức cao
thượng, dường như ngưòi mù không thể xem thấy sắc, là người
không còn trông cậy nơi Phật pháp, dường như trẻ con thấp
hèn [2] không còn mong mỏi thọ hưởng ngôi vua, dầu tưởng
rằng: ta có sự vui cũng chẳng khác chi được khổ.
[1] Văn đức là đức tính
trong
sự được nghe được học hỏi nhiều
[2] Đức vua dùng phụ nữ hàng dân dã làm thứ phi, sanh được
con trai, con trai ấy gọi là trai thấp hèn không sao lên ngôi
vua được.
Có kệ ngôn rằng:
Abhivàdanàsàdiyane kim nàma sukham
vipannasìlassa dalhavàlarajjughamsanadukkha dhikadukkha bhàgissa
Nghĩa là: Vui trong ngũ dục mang
quả khổ, bứt rứt nóng nảy nhiều hơn điều khổ phát sanh
do sự ôm đống lửa. Khi người phá giới không chịu bỏ tánh
xấu ấy ra, thì sự vui chánh thức không sao phát sanh được.
Saddhànam anjalìkammasàdane kim
sukham
asìlassa sattippahàradukkhàdhimattadukkhassayam hetu.
Nghĩa là: Tư cách nhận lãnh lễ bái
của người có đức tin, là nguyên nhân chịu sự khổ rất
lớn hơn sự khổ phát sinh do cách bị sát hại bằng gươm đao,
sự vui không thể nào có đến cho kẻ phá giới, vì nguyên nhân
chịu sự lễ bái của những người có đức tin ấy được.
Cìvaraparìbhogasukham kim nàma
asannàtassa
yena ciram anubhàvitabbà niraye jalita ayopattasasamphassà
Nghĩa là: Người không thu thúc
phải chịu khổ lâu ngày, vì bị lửa của các miếng sắt cháy
hỏa hào trong địa ngục thiêu đốt. Sự vui trong cách thọ
dụng các thứ y ca-sa như thế không sao có đến người không
thu thúc ấy được.
Madhuropi pindapàto
halàhalavisupamo asìlassa
àdittà gìlitabbà ayoyulà yena ciramrattam.
Nghĩa là: Hột cơm mà người không
có giới dùng, dầu là ngon miệng đến đâu, cũng ví như
chất thuốc độc mạnh, vì kẻ dùng cơm ấy sẽ bị ăn
những cục sắt mà lửa địa ngục đốt cháy đã lâu ngày.
Sukhasammatopidukkho asìlino
mancapìthaparibhogo
yam bàdhissanti vciram jalita ayomancapìthàni dukkhàni.
Nghĩa là: cách dùng giường và
chõng
của người không có giới, dầu là nói được vui, cũng
phải chịu khổ, vì người ấy sẽ bị giường và chõng mà
lửa địa ngục đốt cháy đỏ, làm hại lâu ngày, bởi sự
dùng giường và chõng ấy.
Dussìlassa vihàre sadhadeyyamhi
kànivàsaratì
jalitesu nivasitabbam yena ayokumbhìmajjhesu.
Nghĩa là: sự vui thích do cách
nương
ngụ trong tịnh thất của người bố thí bằng đức tin, không
sao có đến người phá giới được, vì người ấy bị vào
ở trong giữa chão sắt mà lửa địa ngục đã đốt cháy
hảo hào.
Sabbabhayehiamutto mutto sabbehi
adhikamasukhehi supitahitasaggadàro apàyamaggam samàrulho.
Nghĩa là: kẻ phá giới không sao
tránh
khỏi sự kính sợ đâu. Sự vui trong các cõi đã dứt hẳn
rồi, cửa vào cõi trời cũng đã đóng chặt rồi, kẻ ấy
chỉ còn có đi trên con đường cảnh khổ thôi.
Nơi cuối cùng đây, xin giải về 4
Suddhi:
Bốn thanh tịnh giới như đã
giải, nếu gọi theo Suddhi là sự phải làm cho trở nên trong
sạch, mỗi khi đã phá giới ấy, có 4 tên khác nhau như:
1) Desanà suddhi: Giới trong sạch
vì
phẩm cách "sám hối", là nói về "Biệt biệt
giải thoát thu thúc giới" - Pàtimokkha samvarasìla.
2) Samvara suddhi: Giới trong sạch
vì
phẩm cách "thu thúc", là nói về "Lục căn thu thúc
giới" - Indriyasamvarasìla.
3) Pariyetthi suddhi: Giới trong
sạch
vì phẩm cách "tìm kiếm", là nói về "Nuôi mạng
thanh tịnh giới" - Àjìvarisuddhisìla.
4) Paccavekkhana suddhi: Giới
trong
sạch vì phẩm cách "quán tưởng", là nói về
"Thọ vật dụng giới" - Paccayasannissitasìla.
"Biệt biệt giải thoát thu thúc
giới" được trong sạch do phẩm cách "sám hối",
là khi phạm rồi, cần phải sám hối giữa Tăng, hoặc 1, 2, 3
vị Tỳ-khưu mới có thể trở nên trong sạch được.
"Lục căn thu thúc giới"
được trong sạch do phẩm cách "thu thúc", là khi
phạm rồi, cần phải nguyện rằng "Ta không nên làm như
thế nữa", rồi dè dặt thu thúc thêm, mới có thể trở
nên trong sạch được.
"Nuôi mạng thanh tịnh
giới" được trong sạch do phẩm cách "tìm
kiếm", là khi phạm rồi phải dứt bỏ anesana, là nguyên
nhân phá giới, rồi tìm vật dụng phát sanh đúng theo điều
luật mà dùng, mới có thể trở nên trong sạch được.
"Thọ vật dụng giới" được
trong sạch do phẩm cách "quán tưởng", là muốn cho
giới ấy trở nên trong sạch, thì cần phải quán tưởng theo
cách thức quán tưởng như đã có giải.
Cho nên hành giả có 1 trong 4 giới
nào không được trong sạch, nên trau dồi theo cách đã giải
trên, chẳng nên điềm nhiên giữ lấy vật "ô
nhiễm" ấy để trong mình.
Những điều đã giải trên đây,
chỉ là phương pháp để sửa mình cho hành giả phá giới xu
hướng theo.
Hành giả là người thành tâm thương
giới, cần phải gìn giữ giới cho trong sạch luôn luôn,
chẳng nên vì lẽ gì mà phá giới. Phải hành cho đúng theo
kệ ngôn, đã có ghi chép rằng:
Dhanam caje angavarssa hetu angam
acjejìvitam
rakkha màno angam dhanam jìvitancàpi sabbam caje naro dhamma
manussaranto.
Nghĩa là: - Chỉ phải dứt bỏ tài
sản và tứ chi thân thiết là "Nếu thương yêu tứ chi,
thì phải bỏ của cải ra đổi, khi muốn gìn giữ sanh mạng
thì phải bỏ tứ chi ra đổi. Khi nhớ thấy chánh pháp thì
phải bỏ cả tứ chi, của cải và luôn cả sanh mạng đem ra
đổi".
Ðiều ô nhiễm của giới là:
- Trạng thái giới đứt.
- Trạng thái giới lũng.
- Trạng thái giới vá. [*]
- Trạng thái giới rỗ. [*]
[*] Vá có nhiều sắc xen
lộn.
Rỗ là có lỗ nhỏ nhiều chỗ
Cả 4 trạng thái ấy gọi là ô
nhiễm của giới, nhất là trạng thái giới đứt, là nói
về trạng thái làm cho đứt giới vì 5 nguyên nhân và 7 điều
methunasamyoga (hành vi vừa
với sự giao hợp).
Trạng thái làm cho đứt giới vì 5
nguyên nhân ấy là: Trong 7 phần tội nếu Tỳ-khưu đứt điều
học thứ nhất hoặc điều học cuối cùng vì theo lợi, tham
danh gọi là "giới đứt" như y ca-sa đứt bìa. Nếu
đã đứt điều học giữa, gọi là "giới lũng", như
y ca-sa lũng khoảng giữa. Nếu đứt 2 hoặc 5 điều học liên
tiếp nhau, gọi là "giới vá", như bò đen hoặc vàng,
có màu sắc khác nhau nơi lưng, nơi bụng. Nếu đứt điều
học từ khoảng, gọi là "giới rỗ", như bò có
nhiều đúm trắng hồng, đen, nhiều chỗ. Trạng thái giới đứt
có 5 nguyên nhân vì theo lợi, tham danh như thế .
Phá giới do 7 điều methunasamyoga
là:
1) Thầy Bà-la-môn đã tự nguyện
rằng hành đạo phạm hạnh rồi lại ưa thích trong sự
vuốt ve, rờ rẫm vật dụng của phụ nữ, rồi ưa thích
theo.
2) Không làm đến thế, chỉ vui
cười
giỡn hớt với phụ nữ, rồi ưa thích theo.
3) Không làm đến thế, chỉ
liếc mắt trừng mày, với phụ nữ, rồi ưa thích theo.
4) Không làm đến thế, chỉ nghe
tiếng hát của phụ nữ, rồi ráng lóng tai nghe ưa thích
theo.
5) Không làm đến thế, chỉ nhớ
đến cách cười, tiếng nói, hoặc thói quen đã tiếp xúc
với phụ nữ từ trước, rồi ưa thích theo.
6) Không làm đến thế, chỉ
thấy thí chủ, hoặc con cháu thí chủ rồi say mê theo ngũ
trần và ưa thích giùm, hoặc muốn cho được như họ.
7) Không làm đến thế, chỉ
muốn cho được thành hạng chư thiên, rồi tu phạm hạnh,
cố ý rằng "Ta sẽ làm được vị trời như vầy, do
sự trì giới này, rồi ưa thích làm theo".
Cả 7 điều ấy gọi là
methunasamyoga, xấp xỉ với sự hành dâm. Nếu hạng Bà-la-môn
hành theo thể thức ấy, thì giới hoặc pháp phạm hạnh của
Bà-la-môn đó bị gọi là: đứt, lũng, vá, rỗ như đã
giải.
Điều trong sạch của giới là:
- trạng thái của giới không
dứt.
- trạng thái của giới không lũng.
- trạng thái của giới không vá.
- trạng thái của giới không rỗ.
Những hành giả giữ giới không
dứt, lũng, vá, rỗ được thì cần phải dè dặt không dám
phạm 1 điều học nào, hoặc nếu đã phạm 1 giới nào phải
mau hối hả tu bổ lại cho trong sạch và phải ráng ngăn
ngừa không cho 7 điều là methunasamyoga và 14 ác pháp làm hại
đến tâm tánh.
Phải nên trau dồi 9 đức tính,
mới có thể làm cho giới trong sạch được.
Đó là:
1) Kodho: Giận.
2) Upanàho: Cố giận.
3) Makkho: Quên ơn người.
4) Palàso: Tự cao đem mình so sánh với bậc có tài đức.
5) Issà: Ganh gổ.
6) Macchariyam: Bón rít, giấu không cho ai thấy của mình.
7) Mayà: Giấu lỗi mình.
8) Sàtheyyam: Khoe tài đức mà mình không có.
9) Thambho: Cương nghạnh, cứng đầu.
10) Sàrambho: Tranh đua, dành phần hơn.
11) Màno: Tự kiêu.
12) Atimàno: Khinh người.
13) Mado: Say mê.
14) Pamàdo: Cẩu thả, dễ duôi, buông lung theo ngũ trần
(sắc tốt, tiếng hay, mùi thơm, vị ngon, đụng chạm nơi êm
ái.).
1) Appicchatà: Không ham muốn
hoặc
ham muốn ít.
2) Santutthità: Vui thích bình đẳng đối với vật đã được,
hoặc với vật dụng của mình.
3) Sallekkhatà: tu hành cho giảm lần phiền não.
4) Pavivekatà: ưa thích nơi thanh vắng.
5) Apacayatà: Không cho phiền não đông đặc hoặc phát sanh lên
được.
6) Viriyàrambhatà: Tiến hành không cho ác pháp phát sanh.
7) Subharatà: Làm người dễ duôi.
8) Appakiccatà: Làm người ít bận việc.
9) Sallahukavuttità: Người nhẹ nhàng như loài chim chỉ có
cặp cánh và đuôi bay đi đến nơi nào cũng được dễ dàng.
Những người vâng giữ các điều
học trong sạch được thọ hưởng 5 quả phước là.
1) Người có giới hằng được
nhiều tài sản vì không có sự dễ duôi lười biếng.
2) Danh dự của người có giới hằng bay khắp hướng.
3) Người có giới hằng đi đến nơi nào đô hội hằng
được tươi tỉnh, không hỗ thẹn gục mày.
4) Người có giới hằng không tán loạn trong khi hấp hối.
5) Người có giới sau khi mạng chung hằng được thọ sanh
trong nhàn cảnh.
Chẳng phải có thế thôi, người có
giới hằng là nơi yêu mến sùng bái vừa lòng của bậc
phạm hạnh. Chỉ đến khi chứng quả Niết Bàn thì mới
diệt tận những lậu phiền não, y theo kệ ngôn sau này:
1. Nagangà yamunà vàpi sarabhùvà
sarassati ninnagà mahì vàpi mahà nadì sakkunanti visodhetum tam
malam
idha pàninam visodhayati sattànam yam vesìlajalam malam
Nước của các sông lớn (ở Ấn
Độ) là sông Gangà, Yamunà, Sarabhù, Sarassati, Àcivarati, Mahi
cũng
không có thể rửa sạch điều nhơ nhớp của tất cả chúng
sanh trong thế gian, chỉ có nước tức là giới này mới mong
rữa sạch điều nhơ nhớp của tất cả chúng sanh được.
2. Na tam sajaladà vàtà na càpi
haricandanam nevahàrà na manayo na candaki ranakkurà samayantìdha
sattànam
parilaham surakkhitam yam sametìdam ariyam sìlam accantasìtalam
Các ngọn gió có nước, hoặc có mùi
thị đỏ, hoặc các thứ ngọc xích châu mã não, hay là ánh sáng
mặt trăng cũng không sao dứt trừ sự bực tức nóng nảy
của tất cả chúng sanh trong thế gian này được. Chỉ có
giới thanh cao mà người đã vâng giữ chơn chánh rồi là phước
đức rất mát mẻ, mới có thể dứt trừ được.
3. Sobhantevanna ràyàno muttàmanvi
bhùsità
yathà sobhanti yatino sìlabhùsanabhùsità
Các bậc đế vương trang điểm
bằng ngọc xích châu, mã não thường cho là tốt đẹp rồi,
nhưng cũng không bằng hành giả đã trau dồi bằng vật trang
sức, tức là trì giới đâu.
4. Attànuvàdàdibhayam
viddhamsayati
sabbaso janeti hàsanca sìlam sìlavatemsadà
Giới của các bậc thiện trí
thức hằng diệt trừ được những điều kinh sợ, nhất là
sự bực bội, không còn thương xót và thường làm cho danh
dự và điều ưa thích đước phát sanh.
5. Appakàpi katàkarà sìlavante
mahapphàlahontiti
sìlavà hoti pùjàsakkàrahàjanam
Lễ vật mà thí chủ đã cúng dường
đến người có giới, dầu là chút ít cũng được nhiều phước
báo, vì người có giới đáng gọi là đồ đựng lễ vật cúng
dường.
6. Sìlavantam nabàdhenti
àsavà
ditthadhammikà samparàyikakkhànam mùlam khanati sìlavà.
Các pháp phiền não có tánh các
giết hại và buộc trói người trong kiếp hiện tại. Nhưng
không sao làm hại những bậc có giới hạnh được. Chẳng
phải chỉ có thế thôi, những người hằng đào bứng gốc
rễ các thống khổ trong ngày vị lai không cho phát sanh lên
được.
7. Yà manussesu sampatti yà
cadevesu
sampadà na sà sampannasìlassa icchato hoti dullabhà.
Những người có giới hạnh đầy
đủ, muốn được tài sản trong cõi người và trời cũng không
khó.
8. Accantasantà pana yà ayam
nibbànasampadà
sampannasìlassa mano tameva anudhàvati nibbànasampatti.
Ðức tính tuyệt vời không xót xa
vì phiền não, vì người có giới đầy đủ hằng lướt
tới, để đạt tài sản Niết bàn tức là nơi tịch tịnh.
Những hành giả khi đã niệm tưởng
quả báu sự trì giới rồi, có thể gớm ghê xa lánh sự phá
giới, làm cho giới được trong sạch đầy đủ, không sai.
Cớ ấy, bậc thiện trí thức nên niệm tưởng đến tội
trong sự phá giới và phước trong sự trì giới như đã có
giải rồi, nên tinh tấn cho giới mình được trong sạch đầy
đủ.
-ooOoo-