Phật giáo Tiểu thừa và Đại thừa
Nam-mô A-di-đà Phật,
Thưa các ngài, 
Thưa các giáo hữu, 
Tôi đã đem những giáo lý chân chánh của đạo Phật bày tỏ ra ở hai bài 
trước, là cốt để các tín đồ biết rõ cái tôn chỉ đặc biệt của đạo Phật là
ở cái thuyết nói về nhân, quả và duyên nghiệp.
Thế gian sở dĩ có, không phải là do cái ý chí một vị thần Tự tại nào tạo
tác ra, mà chính là bởi cái duyên khởi mà sinh ra. Cái nhân do cái 
duyên mà thành cái quả, rồi cái quả lại do cái duyên mà hóa thành cái 
nhân, cứ luân lưu chuyển biến như thế mãi, gây ra sum la vạn tượng sinh 
tử vô thường, đầy nỗi đau buồn khổ não.
Phật biết rõ cái căn nguyên khổ não ở chỗ ấy, cho nên mới chuyển pháp 
luân để cứu độ chúng sinh ra ngoài cái cảnh khổ mà vào chỗ yên vui tịch 
tĩnh. Vì có sự khổ và có con đường giải thoát ra ngoài sự khổ mà thành 
ra một học thuyết, một tôn giáo rất trang nghiêm.
Đã là một tôn giáo, thì Phật giáo cũng như các tôn giáo khác, tất là có 
những quan niệm về vũ trụ, có những tư tưởng về hình nhi thượng quan hệ 
đến chân thể, đến thực tại v.v... Phật giáo lại có cái tính cách tự do 
về đường tư tưởng, cho nên về sau chia ra nhiều tông, nhiều phái. Các 
tông, các phái dù có nhiều chỗ kiến giải khác nhau, song không tông phái
nào lại không lấy cái tôn chỉ của Phật đã dạy mà kiến thuyết và lập 
luận.
Vậy nay trước hết ta xét xem, sau khi Phật nhập diệt rồi, đạo pháp tiến 
triển và biến thiên ra sao, rồi sau xét những kiến giải và những tư 
tưởng của các phái khác biệt thế nào. Cũng nên biết rằng, đạo Phật đến 
ngày nay có thiên kinh vạn quyển, không thể lấy mấy chục trang giấy mà 
nói cho hết được. Ta chỉ cốt lược lấy cái đại cương, tóm tắt lấy những 
điều quan yếu mà nói, để người ta hiểu cái nguyên ủy của một tôn giáo ta
đã sùng bái từ xưa đến nay.
Theo các kinh điển, thì ta biết rằng sau khi Phật Thích-ca Mâu-ni nhập 
diệt rồi, có năm trăm vị thượng tọa trưởng lão  mở cuộc kết tập lần đầu 
tiên ở trong động Saltapanni giữa rừng Nigradha gần thành Vương-xá,  tôn
giả Đại Ca-diếp  được tôn lên làm chủ Tăng hội để giữ kỷ luật trong 
hội. Tôn giả Đại Ca-diếp lại cử tôn giả A-nan-đà đứng đầu việc tập họp 
lại những lời Phật đã dạy mà ghi thành bộ Kinh tạng,  vì khi trước Phật 
chỉ thuyết ra bằng miệng chứ chưa hề có sự ghi chép. Lại cử tôn giả 
Ưu-bà-ly  chủ trì việc soạn lại những giới luật của Phật đã định cho các
môn đồ trong Tăng-già,  làm thành bộ Luật tạng.  Đại Ca-diếp tự chủ trì
việc giảng giải ý nghĩa trong Kinh mà làm thành bộ Luận tạng.  Gọi 
chung cả Kinh tạng, Luật tạng và Luận tạng là Tam tạng.  Đó là theo sự 
tin tưởng thông thường ở trong Tăng giới, nhưng theo lời những nhà khảo 
cứu Phật học ngày nay, thì có người nói rằng mãi đến lần kết tập thứ ba 
vào đời vua A-dục  mới khởi đầu có Luận tạng.
Cách một trăm năm sau, trong Tăng hội có sự tranh luận về cách giữ giới 
luật và cách hành đạo. Tăng hội lúc bấy giờ chia ra làm hai phe, phe 
Thượng tọa trưởng lão  và phe Đại chúng.  Bên Thượng tọa trưởng lão chủ 
trương sự nghiêm giữ giới luật và bảo thủ lời Phật dạy, bên Đại chúng 
thì muốn dùng phương tiện khoan hòa mà tiến thủ. Các vị thượng tọa 
trưởng lão triệu tập cuộc kết tập lần thứ hai ở thành Vệ-xá, do Thượng 
tọa Yaca làm chủ tọa, để giải quyết sự bất hòa ấy. Cuộc kết tập ấy không
có kết quả. Phái Thượng tọa trưởng lão vẫn giữ phương diện bảo thủ và 
phái Đại chúng cứ giữ phương diện tiến thủ như trước. Mỗi bên đều tự 
nhận là chính tông, gọi bên kia là tà thuyết, hai bên cứ công kích nhau 
mãi.
Vào khoảng 280 năm sau khi Phật nhập diệt, tức là vào khoảng thế kỷ thứ 3
trước Tây lịch, vua A-dục rất sùng bái đạo Phật và lại nắm giữ bá quyền
toàn xứ Ấn Độ, mới triệu tập cuộc kết tập lần thứ ba ở thành 
Ptaliputra. Nhưng cuộc kết tập này cũng như cuộc kết tập thứ hai, phái 
Thượng tọa trưởng lão và phái Đại chúng không dung nạp được nhau.
Cách cuộc kết tập thứ ba này độ chừng 200 năm, tức là vào khoảng bốn 
trăm năm sau Phật nhập diệt, khoảng thế kỷ thứ nhất trước Tây lịch, thì 
xuất hiện những tư tưởng hình nhi thượng học, nói ở trong một bộ sách 
phần nhiều làm bằng kệ, gọi là Kinh Bát-nhã Ba-la-mật-đa.  Sách ấy có 
đến 600 quyển, không biết là của ai làm, trước sau lấy những điều Phật 
dạy Tu-Bồ-đề làm căn bản, chuyên nói về Không luận. Từ đó cái mầm Phật 
giáo Đại thừa mỗi ngày một phát sinh ra.
Cách độ một trăm năm sau, tức là vào khoảng thế kỷ thứ nhất Tây lịch, có
vua Kanishka người nước Nhục-chi, giữ bá quyền ở vùng Tây bắc Ấn Độ và 
lại rất sùng đạo Phật, mới triệu tập cuộc kết tập lần thứ tư ở thành 
Jalandhara, do hai Thượng tọa Prcya và Vasumitra làm chủ tọa, tức là 
cuộc kết tập cuối cùng. Lúc bấy giờ trong phái Thượng tọa trưởng lão có 
11 bộ, phái Đại chúng có 9 bộ. Các bộ ấy vẫn lẩn quẩn ở trong hai luận 
thuyết hữu và không. Các bộ bên Thượng tọa trưởng lão thì chủ trương hữu
luận cho vạn pháp tuy là vô thường, nhưng vẫn là có, có một cách tương 
đối, không thể nói là không được.  Các bộ bên Đại chúng thì chủ trương 
Không luận, cho rằng vạn pháp tuy có, nhưng thật là không, vì vạn pháp 
không có tự tính.
Ngoài hai luận thuyết ấy, lại có một luận thuyết gọi là Trung luận  chủ 
trương cái thuyết chẳng hữu chẳng không. Đó là cái tình thế Phật giáo 
khi vua Kanishka mở cuộc kết tập lần thứ tư. Thuở ấy có ngài Mã Minh  là
một bậc cao tăng, có tài đức lớn và lại thâm nhập tư tưởng sách Bát-nhã
Ba-la-mật-đa, mới soạn sách “Đại thừa khởi tín luận” nói về A-lại-da 
thức  và chân như. 
Sau ngài Mã Minh lại có ngài Kiên Tuệ soạn cuốn “Pháp giới vô sai biệt 
luận” thuật lại cái tư tưởng của Mã Minh nói về lý thuyết của Đại thừa 
học phái.
Từ đó, trong Phật giáo có hai tông lớn là: Tiểu thừa  và Đại thừa.  Đại 
thừa nghĩa là cỗ xe lớn, ý nói tu theo hạnh Bồ-tát thì độ hết thảy chúng
sanh; Tiểu thừa là cỗ xe nhỏ, ý nói ai tu thì tự độ lấy mình. Hai bên 
tuy phân biệt ra như thế, nhưng vẫn theo tông chỉ đạo Phật. Chỉ có điều,
Đại thừa chủ trương chỉ cần theo đúng cái tinh thần trong lời Phật dạy 
mà tiến hóa; còn Tiểu thừa thì chủ trương giữ y nguyên theo đúng lời dạy
của Phật ở trong các kinh, nhất thiết không được thay đổi. Một bên tự 
cho mình là hiểu rõ cái ý sâu xa của Phật, một bên tự cho mình theo đúng
lời Phật dạy. Đó là chỗ khác nhau của hai phái Đại thừa và Tiểu thừa từ
lúc đầu. Xem thế, thì trong khoảng năm trăm năm sau Phật nhập diệt, 
Phật giáo chỉ có học phái Tiểu thừa mà thôi, rồi đến khoảng thế kỷ thứ 
nhất Tây lịch trở đi, mới có học phái Đại thừa.
Học phái Tiểu thừa từ đầu vẫn dùng theo Tam tạng viết bằng tiếng Pli, là
thứ tiếng thông dụng trong dân gian thuở ấy. Học phái này sau truyền về
phái nam, như: đảo Tích Lan,  Miến Điện, Thái Lan, Kampuchia, Lào 
v.v... cho nên gọi là Nam tông. Còn học phái Đại thừa thì truyền về phía
bắc, như: Népal, Tây Tạng, Mông Cổ, Trung Hoa, Việt Nam, Triều Tiên, 
Nhật bản .v.v... cho nên gọi là Bắc tông.
Hiện nay bên Phật giáo Tiểu thừa thì thờ đức Thích-ca Mâu-ni như một ông
thầy lập giáo dạy chúng, chứ không thờ các vị Phật và Bồ-tát khác. 
Những người tu hành thì mặc áo vàng và cứ sáng ngày đi khất thực. Bên 
Phật giáo Đại thừa, thì đức Thích-ca Mâu-ni dần dần vào trong lý tưởng, 
trong thần bí, mà hóa thành một vị Phật như các vị Phật trong thần 
thoại. Bởi vậy các chùa Phật giáo Đại thừa thờ đức Thích-ca Mâu-ni lẫn 
với chư Phật và chư Bồ-tát. Những người tu hành bên Đại thừa mặc áo nâu,
tự làm lấy mà ăn, không đi khất thực.
Khi Phật giáo Đại thừa hưng khởi lên thì đạo Bà-la-môn lại thịnh hành, 
phái Đại thừa mới dịch Kinh, Luật và Luận ra tiếng Phạn Sanskrit, là thứ
tiếng triết học của đạo Bà-la-môn vẫn dùng từ xưa, cốt để dùng đồng một
thứ văn tự cho dễ ứng phó với đối phương.
Sau ngài Mã Minh một trăm năm, có ngài Long Thọ  ra đời, truyền tụng 
kinh Hoa Nghiêm và soạn ra Trung luận, Thập nhị môn luận và Thập trụ 
luận để phát huy cái học thuyết của Phật giáo Đại thừa. Từ đó Phật giáo 
Đại thừa mới thật là thịnh đạt.
Ngài Long Thọ truyền cho hai người cao đệ là Đề-bà  và Long Trí. Đề-bà 
soạn bộ Bách luận. Sau đó, người ta lấy Trung luận và Thập nhị môn luận 
của Long Thọ và Bách luận của Đề-bà mà lập ra Tam luận tông, rồi đến 
luận sư Hộ Pháp chủ trương nói chư pháp giai không, chỉ có chân như là 
bất diệt. Lại có tông lấy kinh Bát-nhã Ba-la-mật-đa làm gốc mà lập ra 
Bát-nhã tông, có tên gọi là Tính tông hay Không tông. Tam luận tông, 
Bát-nhã tông hay Tính tông đều thờ đức Văn-thù Bồ-tát. 
Long Thọ lại truyền Mật giáo là một giáo lý bí mật cho Long Trí. Mật 
giáo truyền đến Kim Cương Trí thành ra Chân ngôn tông hay Mật tông, lấy 
phép tu trì bí mật làm chủ. Vào khoảng đời Đường bên Tàu, Thiện Vô Úy, 
Kim Cương Trí và Bất Không đem tông này truyền sang Tàu.
Cái học Không tông truyền đến Thanh Biện luận sư là người đồng thời với 
Hộ Pháp luận sư, theo tông chỉ của Long Thọ trong sách Trung quán luận 
mà làm sách “Đại thừa chưởng trân luận” để bác lại Tướng luận của Hộ 
Pháp luận sư. Sau Thanh Biện luận sư, có Trí Quang là người có tiếng 
trong cái học Không luận.
Vào khoảng thế kỷ thứ tư, tức là vào chừng một nghìn năm sau Phật nhập 
diệt, có hai anh em Vô Trước  và Thế Thân  làm cho học phái Đại thừa 
được tỏa sáng rực rỡ. Thế Thân là em Vô Trước, lúc đầu theo học phái 
Tiểu thừa, soạn sách Câu-xá luận, rồi sau chuyển sang theo học phái Đại 
thừa.
Về phương diện tôn giáo, Vô Trước và Thế Thân lấy đạo pháp Du-già  là 
cái học nguyên đã có từ trước để làm chỗ tu luyện. Cái học Du-già là 
phép tu cầu lấy sự giác ngộ của trí tuệ mà tiến đến chỗ giải thoát.
Vô Trước truyền tụng Du-già-sư-địa luận  và lấy sách ấy làm gốc mà lập 
ra Du-già tông hay là Duy Thức tông. Vô Trước còn soạn sách “Nhiếp Đại 
thừa luận” và “Kim cương Bát-nhã luận”, theo Nhiếp Đại thừa luận của Vô 
Trước, thành ra Nhiếp Luận tông.
Thế Thân soạn sách “Duy thức luận” và “Kim cương Bát-nhã kinh luận”.
Cái học của Vô Trước và Thế Thân truyền đến Hộ Pháp luận sư, làm sách 
“Duy thức thích luận” để giải thích cái nghĩa Du-già duy thức. Hộ Pháp 
truyền cho Giới Hiền là người đồng thời với Trí Quang đã nói ở trên.
Vào khoảng thế kỷ thứ bảy, Huyền Trang đời Đường sang Ấn Độ (629-645) có
gặp ngài Trí Quang và theo học với ngài Giới Hiền trong mấy năm, rồi 
đem Du-già tông về truyền ở nước Tàu, gọi là Pháp Tướng tông.
Từ đó về sau, ở Ấn Độ, vì Bà-la-môn giáo hưng thịnh lên và bị Hồi giáo 
xâm lăng, cho nên Phật giáo mỗi ngày một suy kém, đến nỗi ngày nay chính
ở Ấn Độ là chỗ phát tích của Phật giáo, không còn có Phật giáo nữa, chỉ
còn có ở các nước chung quanh và những nước khác trên thế giới.
Đó là nói tóm tắt sự tiến triển và biến thiên của Phật giáo từ xưa đến 
nay. Ta thấy trong Phật giáo có nhiều tông, nhiều phái, mỗi một tông, 
một phái cố tìm một con đường khác nhau, để đi đến chân lý, nhưng cái 
tinh thần duy nhất của Phật giáo là cốt trông thấy rõ cái cảnh khổ ở 
trần gian và tìm cách giải thoát ra ngoài trần gian.
Về đường tinh thần và đạo lý của Phật giáo, thì lúc đầu Phật chỉ dạy về 
cái nghĩa duyên khởi, cho rằng hết thảy những vật đã sinh ra trong thế 
gian là đều bởi nhân duyên mà cấu thành, chứ không phải tự nhiên mà có. 
Một vật sinh ra có hình sắc, có sự hiểu biết và sự hành động là do sự 
tập hợp của ngũ uẩn là: sắc, thụ, tưởng, hành, thức. Sắc là phần hình 
hài do tứ đại là: địa, thủy, hỏa, phong, tức là cố thể,  dịch thể,  
nhiệt  và khí  ngưng tập mà thành. Khi ở trong bụng mẹ, thì nhờ khí 
huyết của mẹ mà sống, đến lúc đã sinh ra thì ăn các thực chất để nuôi 
mình. Suốt cả đời cái thân ta nhờ những chất ta ăn vào để nuôi cho sống.
Vậy cái hình hài ấy là chỗ ta mượn để nương tựa mà thôi, chứ không phải
là ta.
Phần tâm của ta là: thụ, tưởng, hành, thức cũng là vay mượn cả. Thụ là 
sự nạp thụ những sự yêu thích, chê ghét; tưởng là sự tưởng nhớ, suy 
nghĩ, hành là sự hành động, tác dụng; thức là sự hiểu biết. Song thụ và 
tưởng phải tùy theo các giác quan và những ngoại vật do giác quan đã 
tiếp xúc để mang lại những chất liệu mà hành động, mà suy nghĩ. Cái thức
mà có là vì có thụ và tưởng. Nếu không có thụ và tưởng, thì không có 
thức.
Vậy thân và tâm của ta chỉ là vay mượn mà thôi. Cái mà ta tưởng là ta 
chỉ là cái ta ngũ uẩn, do duyên khởi mà thành, rồi lại tiêu tán đi, chứ 
không phải là cái chân ngã.
Những yếu tố như: sắc, thụ, tưởng, hành, thức đều là bởi sự tiến triển 
triền miên, hợp hợp, tan tan, vô thường vô định. Bởi vậy Phật nói rằng:
Hết thảy những tập hợp cấu thành là vô thường.
Những tập hợp cấu thành là khổ não.
Hết thảy những yếu tố cấu thành của vạn vật là vô ngã.
Vậy thế gian là cuộc biến hóa vô thường, có có, không không, lúc chìm, 
lúc nổi, đầy những nỗi đau buồn khổ não. Những nỗi đau buồn khổ não ấy 
tại sao mà có? Tại những duyên nghiệp lôi kéo ta vào cái cảnh khổ mà 
không có đường ra. Đó là cái thuyết nhân duyên trong hai diệu đế Khổ và 
Tập. Phật thấy rõ chỗ ấy, rồi dạy ta những cách làm cho dứt cái nhân 
duyên mà đi vào con đường giải thoát, ấy là hai diệu đế Diệt và Đạo. Đạo
là Bát chánh đạo, là tám con đường chánh để ta noi theo mà thoát khỏi 
luân hồi, đạt đến Niết-bàn.
Phật chỉ dạy có bấy nhiêu mà thôi, chứ không nói rõ cái gì bị luân hồi 
hay vào Niết-bàn. Vì lẽ Phật có nhiều sở kiến riêng, nhưng Phật không 
đem ra bàn luận, sợ môn đồ lại quá đắm đuối vào những điều siêu việt 
miên man mà xao nhãng việc tìm cách giải thoát là cái chủ đích thiết 
thực của đạo Phật.
Điều ấy có thể thấy rõ trong các kinh điển rất cổ, như kinh Samyutta 
Nikaya nói rằng: “Một hôm Phật cầm trong tay mấy cái lá cây, rồi hỏi các
đệ tử rằng: ‘Hỡi các đệ tử, mấy cái lá ta cầm đây và những lá trên cây 
trong rừng, bên nào nhiều hơn?’
“Các đệ tử đáp rằng: ‘Lá Thế Tôn cầm trong tay ít hơn lá trên cây trong rừng.’
“Phật dạy: ‘Hỡi các đệ tử, những điều ta biết nhiều như lá trong rừng 
vậy, còn những điều ta dạy các đệ tử chỉ như lá trong tay thôi. Tại sao 
có những điều ta không đem ra dạy các đệ tử? Vì những điều ấy không có 
ích lợi gì cho đạo giải thoát. Nó không làm cho các đệ tử bỏ được chuyện
đời, không dứt được sinh tử mà tới chỗ yên vui, đến chỗ giác ngộ và 
Niết-bàn.’”
Kinh Majjhima Nikya nói: “Có một người hỏi Phật rằng: Một đức Phật dã 
thành chánh quả rồi, sau khi chết, còn có nữa hay không? Phật không đáp 
lại, và giải thích cái lẽ tại sao mà Phật không đáp. Phật nói rằng: Dù 
sau khi chết rồi, còn có Phật nữa hay không, không quan hệ gì. Chỉ có 
một điều rõ rệt là: có sinh, có lão tử và có những nỗi đau khổ, ta chỉ 
dạy cho biết cái căn nguyên, cái duyên do sự làm cho khỏi đau khổ và chỉ
cho con đường đi đến chỗ giải thoát... Ta không nói sau khi chết rồi, 
Phật còn nữa hay không, là bởi vì điều ấy không quan hệ gì đến cái đạo 
của ta dạy là đưa đến chỗ tiêu diệt hết tình dục mà làm cho được yên 
vui, đến được Niết-bàn.”
Xem như thế thì biết Phật chỉ cốt dạy cho ta biết con đường giải thoát 
mà thôi. Hễ ai theo con đường ấy mà giải thoát được, thì rồi sẽ thấy rõ 
chân lý ở trước mắt, cần chi phải dạy những điều có thể làm mê hoặc lòng
người.
Nói rằng vào Niết-bàn là hết luân hồi, tức là thôi, không cấu tạo, hành 
động, nghĩa là không có những ý tưởng của ta thường có về thế giới và 
thân ta nữa. Thân ta sở dĩ có là vì có sự tập hợp của ngũ uẩn, vì có sự 
yêu thích, khát vọng và có tình dục. Những yếu tố ấy là ô trọc, là điên 
đảo mộng tưởng, nó làm cho ta cứ mắc vào cái lưới luân hồi. Hễ ta thấy 
rõ những yếu tố ấy, bỏ hết lòng yêu ghét, tiêu diệt hết những cái ô trọc
và những điều vọng hoặc là vào Niết-bàn.
Vậy luân hồi là buộc nhân duyên và nghiệp chướng trói buộc, cho nên cứ 
phải sinh sinh hóa hóa mãi mà phải chịu hết mọi điều phiền não ở trong 
bể khổ. Niết-bàn là dứt được dây nhân duyên và nghiệp mà sang bến bên 
kia, được yên ổn, vui sướng.
Đó là cái quan niệm của tối sơ Phật giáo về luân hồi và Niết-bàn. Cũng 
vì có cái quan niệm ấy mà về sau học phái Tiểu thừa mới nói luân hồi và 
Niết-bàn là hai thể hữu và vô khác nhau. Hữu là cái có trong thế gian, 
tức là vạn vật. Cái có ấy tuy là vô thường vô định, cứ tiếp tục biến hóa
luôn, hết kiếp nọ đến kiếp kia, nhưng vẫn là có, có một cách tương đối 
chứ không phải là cái có tuyệt đối. Dứt được cái hữu tiếp tục sinh hóa, 
thì vào Niết-bàn là cái vô.
Phật giáo Tiểu thừa còn phân ra hai thứ Niết-bàn: một là Niết-bàn trong 
đời sống của ta, vì có sự giác ngộ mà bỏ hết sự ảo vọng, hết lòng ham 
muốn, yêu thích, hết lòng sân nhuế. Hai là Niết-bàn sau khi chết rồi, 
ngũ uẩn lìa tan mà vào chỗ tịch mịch.
Cái quan niệm ấy của Phật giáo Tiểu thừa khác với cái quan niệm Phật 
giáo Đại thừa, cho thế gian như ta tưởng nghĩ, chỉ là cái kết quả sự 
tưởng tượng của ta mà thôi. Phật giáo Đại thừa nói rằng sự mê hoặc của 
ta và sự mờ tối của trí ta gây thành một ảo tượng giữa ta với thực tại. 
Sự thật thì thế gian và thực tại là một, chứ không có hai. Nói rằng 
trong thế gian có hữu và vô như bên Tiểu thừa là không đúng chân lý.
Phật đã nói: “Ai biết rõ cái hiện thực, thì không có hữu và vô, vì đã 
bất sinh bất diệt, thì cái ý tưởng hữu và vô chỉ là một mộng tưởng mà 
thôi.” Luân hồi là mê hoặc, Niết-bàn là giác ngộ, hai phương diện của 
một sự thật.
Khi Phật đã đắc đạo ở dưới cây Bồ-đề và định đi thuyết pháp để cứu độ 
chúng sanh, ngài nói rằng: “Cửa bất sinh bất diệt phải mở rộng ra!” Cửa 
bất sinh bất diệt mở rộng ra, làm dứt hết sự cấu tạo hành động, bỏ hết 
các thuộc tính là nguồn gốc, cơ sở sự sinh tử, trừ hết lòng ham muốn 
khao khát, tiêu diệt hết các tình dục, ấy là được yên vui, tức là 
Niết-bàn.
Niết-bàn và thế gian là một. Những yếu tố có ở trong thế gian là có ở 
trong Niết-bàn, những yếu tố có ở trong Niết-bàn là có ở trong thế gian.
Phật nói rằng: “Những yếu tố căn bản thật có của sự sinh hóa là không 
bao giờ tiêu diệt đi được. Những yếu tố không có ở trong thế gian là 
không có và không bao giờ đã có.  Những người tưởng có hữu và vô (hai 
cái tương đối), là không bao giờ hiểu được sự yên nghỉ của luân hồi. 
Nghĩa là: trong thái cực tuyệt đối, là cứu cánh Niết-bàn, các yếu tố đều
biến mất. Những yếu tố ấy gọi là những cái ô trọc, hoặc là nghiệp báo, 
hoặc là sự sinh hóa của cá thể, hoặc là các yếu tố kết tập, đều biến mất
cả. Song những yếu tố không có trong thái cực tuyệt đối, là không bao 
giờ đã có. Những yếu tố không có ấy giống như cái dây ở trong chỗ tối, 
người ta trông ra con rắn, đến khi đem đèn soi rõ, thì hết cả sự trông 
lầm và sự sợ hãi. Những yếu tố ấy gọi là ảo tượng, là ham muốn, là 
nghiệp báo, là sự sinh hoạt của cá thể, song theo đúng cái nghĩa tuyệt 
đối, thì không phải là sự có chân thật. Cái dây mà ta tưởng là con rắn, 
thì dù ở chỗ tối hay ở chỗ sáng, vẫn là cái dây, chứ không phải là con 
rắn.
Vậy thì cái mà ta gọi là hiện thực của vạn pháp là cái gì? Chính vì con 
ma vô thường, ta gọi là ngã, là hữu ngã nó ám ảnh, cho nên người ta mới 
tưởng trông thấy những bản chất khác nhau, kỳ thật những bản chất ấy 
không có, khác nào một người có bệnh đau mắt, tuy thật thì không có gì 
cả, mà lại trông thấy những sợi tóc, những con ruồi hay những vật gì 
khác nữa. Cho nên ngài Long Thọ nói rằng: 
Niết-bàn không phải là vô.
Tại sao có cái ý tưởng ấy?
Ta gọi Niết-bàn là tiêu diệt
Hết thảy những ý tưởng về hữu và vô.
Bao nhiêu những cái mà người phàm tục như chúng ta cho là thật, đều là 
không thật cả. Tuy những cái ấy không thật, nhưng không phải là không 
hẳn. Hiểu rõ chỗ ấy là Niết-bàn.
Niết-bàn không phải là tiêu diệt hết thảy, không phải là hoàn toàn hư 
vô, chỉ là một cái thể để trừ bỏ hết thảy những sự tạo tác của trí ta đã
lầm lẫn mà gây ra.
Nói tóm lại, theo thuyết của Phật giáo Tiểu thừa thì luân hồi và 
Niết-bàn là hai thể khác nhau, mà theo thuyết của Phật giáo Đại thừa thì
là chỉ có một.
Ta đã biết trong những lời Phật dạy, Phật có ý tránh đi những điều quá 
siêu việt, không nói đến. Phật chỉ nói rằng ta mắc phải luân hồi và ta 
có thể giải thoát được mà vào Niết-bàn. Vậy thì cái giải thoát được và 
vào Niết-bàn ấy, là cái gì? Theo thường thức của ta, thì cái ấy là thân 
ta và sự cảm giác, tư tưởng, hành động, tri thức của ta. Nhưng Phật đã 
nói cái ấy là cái vọng ngã do ngũ uẩn tập hợp mà thành ra cái cá nhân 
của ta, rồi đến khi chết, những phần tử ấy lại tan mất, không có gì là 
cái ngã của ta nữa. Như vậy thì cái mắc phải luân hồi hay vào Niết-bàn 
là cái gì, ta vẫn không biết.
Phật cho cái ấy là cái chân ngã bất sinh bất diệt, không thể lấy sự suy 
luận tri thức mà hiểu được. Ta còn ở trong cái phạm vi tương đối, thì ta
không sao biết được cái tuyệt đối, để rồi đến khi nào ta giải thoát ra 
ngoài cái phạm vi tương đối, thì bấy giờ ta sẽ trông thấy cái tuyệt đối 
rõ như trông thấy mặt trời vậy. 
Ta biết sự sinh hóa ở thế gian giống như những đợt sóng ngoài bể nhô lên
rồi chìm xuống. Những sóng ấy là những hiện tượng chốc lát vô thường, 
tự nó không có thực tính. Song ta biết sóng là sự biến hóa của nước. Vì 
vậy ta muốn biết vạn vật là sự biến hóa của cái gì. Đã hay rằng các hiện
tượng trong thế gian là do nhân duyên sinh ra, nhưng cái gì mắc phải 
nhân duyên mà thành ra vạn tượng? Đó là một câu hỏi cứ lẩn quẩn ở trong 
trí não người ta.
Theo Bà-la-môn giáo, thì hoặc nói cái bản thể của vạn vật do sự hô hấp 
của Brahman, như lúc tỉnh, lúc mê mà sinh hóa ra vạn tượng; hoặc nói các
vị thần tự tại làm chủ tể cả vũ trụ mà tạo tác ra vạn vật v.v... Phật 
giáo Đại thừa bài bác những thuyết ấy, rồi lập ra những thuyết hình nhi 
thượng, như Không luận, Tam thân luận, A-lại-da thức luận, Chân như luận
và Lục đại luận, để giải thích cái bản thể của vũ trụ.
Không luận là cái thuyết nói cái thể Thái hư  là nguồn gốc của vũ trụ. 
Thuyết này căn bản ở sách Bát-nhã Ba-la-mật-đa là sách lấy lời Phật dạy 
Tu-Bồ-đề về tánh Không mà mở rộng ra, lập thành cái lý thuyết cho vạn 
pháp đều gốc ở cái không.
Tu-Bồ-đề  là một cao đệ của Phật, nói trong kinh Tăng-nhất A-hàm rằng: 
“Pháp pháp tự sinh, pháp pháp tự diệt, pháp pháp tương động, pháp pháp 
tự tức... Pháp pháp tương loạn, pháp pháp tự tức, pháp năng sinh pháp...
Nhất thị nhất thiết sở hữu giai qui ư không: vô ngã, vô nhân, vô mạng, 
vô sĩ, vô phu, vô hình, vô tượng, vô nam, vô nữ...” (Các pháp tự sinh, 
các pháp tự diệt, các pháp tự động lẫn nhau, các pháp tự nghỉ... Các 
pháp tự loạn lẫn nhau, các pháp tự nghỉ, pháp có thể sinh ra pháp... Như
thế là hết thảy cái có đều về cái không: không ta, không người, không 
mệnh, không sĩ, không phu, không hình, không tượng, không nam, không 
nữ...)
Kinh Bát-nhã Ba-la-mật-đa gọi cái không ấy là Sunyat, tức là Thái hư, mà
xét về cái nghĩa cùng tột là Thái cực. Sunyat là cái thể tuyệt đối tự 
tính trống không mà chứa đầy những tiềm thế để sinh hóa.
Không luận của Phật giáo Đại thừa nói trong kinh Bát-nhã Ba-la-mật-đa 
giống như cái thuyết của hai học phái Số học  và Du-già  của đạo 
Bà-la-môn thời xưa. Những học phái ấy nói rằng trong vũ trụ có hai thực 
thể gọi theo tiếng Phạn là Purusa  và Prakrti.  Purusa là thần lý, là 
tinh lực, tự tính thường trụ, bất sinh bất diệt, bản thể rất tĩnh mịch 
và sáng suốt. Prakrti là linh khí, là tinh chất có khi tĩnh, có khi 
động: tĩnh thì im lặng, không có gì cả, động thì biến hóa ra trời đất và
vạn vật, tức là phát hiện ra vạn pháp ở trong thế gian.
Purusa là cái linh quang minh giác ở trong vũ trụ, tức là cái Đại ngã 
thường trụ tự tại, nhưng vì có lúc mê muội mà theo sự biến hóa của 
Prakrti và gây thành cái vọng ngã vô thường vô định, có sinh có tử. 
Prakrti dựa vào Purusa mà sinh hóa ra vạn pháp. Vạn pháp đã sinh ra, thì
bất cứ pháp nào cũng phải trải qua bốn thời kỳ là: thành, trụ, hoại, 
không, nghĩa là có thời sinh, thời lớn, thời già yếu, thời chết. Chết 
thì trở về cái thể Sunyat, rồi mỗi pháp lại theo cái duyên cái nghiệp 
của mình đã tạo ra mà sinh hóa mãi. Chỉ trừ khi nào cái Đại ngã tỉnh ra,
thấy rõ sự ảo vọng của tạo hóa, tức là thấy rõ sự sinh hóa của Prakrti 
là mậu ngộ, thì bấy giờ là giải thoát và lại yên tĩnh và vui sướng.
Vậy theo cái thuyết Không luận của Phật giáo Đại thừa thì vạn pháp sở dĩ
có là do ngũ uẩn. Song ngũ uẩn chỉ là những yếu tố hợp hợp tan tan, vô 
thường, vô định, tự nó không có thực thể. Bởi vậy Tâm kinh Bát-nhã 
Ba-la-mật-đa của chư tăng bên Phật giáo Đại thừa ngày ngày thường tụng 
niệm nói rằng: “Sắc bất dị không, không bất dị sắc; sắc tức thị không, 
không tức thị sắc. Thụ, tưởng, hành, thức, diệc phục như thị.” (Sắc 
chẳng khác không, không chẳng khác sắc; sắc là không, không là sắc. Thụ,
tưởng, hành, thức cũng đều như thế.) Nói như thế là ngũ uẩn đều không 
cả.
Vậy theo cái lý thuyết ấy thì các hiện tượng cứu cánh là không. Nhưng 
cái không của Phật học không phải là cái không tuyệt đối hư vô. Cái 
không ấy chỉ là cái thể hư linh, tức là cái thể có đầy tiềm thế để động 
thì sinh hóa, mà tĩnh thì tịch mịch im lặng.
Cái hư linh ấy “bất sinh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất 
giảm” (không sinh, không diệt, không cáu bẩn, không trong sạch, không 
thêm, không bớt). Đó là cái không tướng của các pháp. Vì vậy cho nên nói
rằng trong Thái hư không có ngũ uẩn; không có lục căn; không có trần 
lục, không có lục cảnh;  không có thập nhị nhân duyên mà cũng không có 
việc dứt hết Thập nhị nhân duyên; không có Tứ thánh đế, không có trí, 
không có đắc. Bậc Bồ-tát hiểu được chỗ ấy cho nên lòng không vướng víu 
chướng ngại, không sợ hãi, xa lìa những điều điên đảo mộng tưởng, đạt 
cứu cánh là Niết-bàn. Chư Phật trong ba đời  hiểu được chỗ ấy, cho nên 
mới được A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-Bồ-đề, tức là được Vô thượng Chánh 
đẳng Chánh giác.
Thuyết ấy đúng như lời Tu-Bồ-đề đã nói: “Nhất thiết sở hữu giai qui ư 
không.” Song một lý thuyết trừu tượng rất cao như thế, những người 
thường làm sao mà hiểu được, vậy nên về sau các nhà hiền triết trong 
phái Đại thừa biểu diễn cái ý tưởng ấy ra những danh hiệu có vẻ cụ thể 
để người ta dễ hiểu, và Sunyt thành ra vị tối sơ Phật gọi là Adi-Bouddha
v.v... Đó là về phương diện tôn giáo, sẽ nói đến sau.
Tam Thân luận cho rằng vũ trụ là một cuộc đại hoạt động của hiện tượng 
tự thân. Hoạt động từ vô thỉ đến vô chung nối tiếp mãi như những đợt 
sóng ngoài biển. Nhân có hoạt động mới có sinh diệt chuyển biến. Nếu 
không có hoạt động thì không chuyển biến, tức là không có vạn tượng, 
không có vũ trụ.
Vạn tượng tự thân là cái thể duy nhất trong vũ trụ, tức là nguồn gốc của
vũ trụ. Cái hiện tượng tự thân ấy gọi là Pháp thân. Phật, thánh, phàm 
đều nương tựa vào đó mà có. Về phương diện tuyệt đối, thì Phật là Pháp 
thân. Pháp thân biến hóa ra các thân khác.
Theo thuyết ấy, thì Phật có ba thân là: Pháp thân, Báo thân và Ứng thân.
Pháp thân là lý pháp tụ tập lại mà thành thân, tức là lấy pháp tính làm 
thân. Pháp tính không phải là sắc chất và cũng không phải là thần trí, 
mà đầy khắp cả vũ trụ, đâu đâu cũng có, không sinh không diệt, lúc nào 
cũng thường trụ, thuần nhiên là diệu lý chân thật, thanh tịnh. Vạn pháp 
phải nương vào đó mà có, vạn đức phải tụ lại đó mà thành.
Báo thân là phần lớn, phần tốt về phúc đức, và trí tuệ của Pháp thân 
tích tụ lại làm thân mà được cái quả báo viên mãn. Báo thân lúc nào cũng
nương vào Pháp thân, không bao giờ gián đoạn, tức là trí tuệ khế hợp 
với lý để đối với mình và với người mà thụ dụng, cho nên còn gọi là Thụ 
dụng thân.
Ứng thân là cái thân tùy loại mà hóa hiện ra sắc thân để phổ ứng quần 
cơ, tu thành chánh giác mà thuyết pháp độ chúng. Vì thế có khi gọi là 
Hóa thân hay là Biến hóa thân.
Nói tóm lại, Pháp thân là chỉ cái thể sở chứng được Báo thân và Ứng thân
là chỉ cái dụng, nhờ có cái thể mà phát hiện ra. Vậy nên tuy nói là ba 
thân, nhưng thật là chỉ có một thể, một thể tức là một Phật.
Một Phật, nghĩa là một cái minh giác linh diệu, chung khắp cả vũ trụ. 
Cái minh giác linh diệu ấy lưu chuyển phát hiện ra các thân khác, tức là
thành ra chư Phật. Do cái phúc đức trí tuệ hay là do sự biến hóa phổ 
ứng ở đời thì có nhiều Phật, mà do cái thuần lý thì chỉ có một Phật. Một
mà hóa ra nhiều, nhiều mà vẫn là một. Vì có thuyết ấy, cho nên về mặt 
tôn giáo, người ta nói rằng tuy Phật có nhiều thân, nhưng đều là một thể
cả.
“A-lại-da thức luận” là cái thuyết lấy bát thức làm căn bản. Nguyên 
trong Phật giáo Tiểu thừa chỉ nói có lục thức là những thức do lục căn 
mà ra như: nhãn thức, nhĩ thức, tỉ thức, thiệt thức, thân thức và ý 
thức. Phật giáo Đại thừa thêm vào hai thức là: mạt-na thức  và a-lại-da 
thức,  gọi tất cả là Bát thức. Mạt-na thức là cái thức cầm giữ lấy chỗ 
thấy biết, tức là sự nhận thức tự thân mình. A-lại-da thức là cái thức 
gồm chứa hết thảy các pháp.
Theo sách Đại thừa khởi tín luận của ngài Mã Minh thì A-lại-da thức là 
chỗ hòa hợp bất sinh bất diệt và sinh diệt. A-lại-da thức có hai nghĩa: 
một là Nhiếp nhất thiết pháp, hai là Sinh nhất thiết pháp.
A-lại-da thức bao hàm hết thảy những chủng tử của chư pháp và phát hiện 
được hết thảy những năng lực vô hạn của vạn tượng. Cho nên cái căn thân 
của ta vừa phát sinh ra là nó bao hàm cả khách quan giới (vạn vật). 
Khách quan giới thiên sai vạn biệt là do chủ quan giới (tâm), có ý thức 
tác dụng mà ra. Nếu ta không có trí giác thì vạn vật cũng không có. Vậy 
vũ trụ mà có là vì có sự nhận thức.
Nói thế, không phải là nói vạn vật mà ta cảm giác được không có bản 
chất. Vạn vật của ta cảm giác vẫn là thực tại, mà cái bản chất của thực 
tại ấy không ngoài những chủng tử A-lại-da thức. Những chủng tử ấy do 
bảy thức kia phân biệt khách quan hiện tượng mà thành ra, rồi chứa cả 
vào A-lại-da thức.
Khi cái chủng tử đã gieo vào A-lại-da thức rồi, nó triển chuyển vô cùng.
Bao nhiêu những sự động tác do tâm khởi lên, bao nhiêu những sự tác 
dụng của chủ quan đều là cái phản hưởng của khách quan. Cái phản hưởng 
ấy lại dẫn khởi bao nhiêu thứ động tác khác, làm thành ra sanh tử luân 
hồi, chẳng bao giờ ngừng.
Chủng tử có hai thứ: một là hữu lậu chủng tử, hai là vô lậu chủng tử. 
Hữu lậu chủng tử bị duyên nghiệp lôi kéo, phải sanh tử, đúng với hai 
diệu đế Khổ và Tập. Vô lậu chủng tử đối với ngoại giới biết là hư vọng, 
cho nên không để tâm vọng động. Ấy là nguyên nhân sự giải thoát, đúng 
với hai diệu đế Diệt và đạo.
Vậy thì A-lại-da thức là căn bản của hiện tượng giới. Từ vô thỉ, 
A-lại-da thức đã bao tàng các chủng tử. Hiện tượng giới do những chủng 
tử ấy mà phát hiện ra. Hiện tượng đã phát hiện thì lại kích thích, tự 
thức, làm cho lại phát sinh duyên mới, dẫn đến chỗ tác dụng. Như thế 
chủng tử cùng hiện tượng làm nhân làm quả cho nhau mãi, mà làm cho hiển 
hiện vạn tượng.
Vậy do hữu lậu chủng tử vọng động mà sinh hóa là luân hồi, do vô lậu chủng tử giữ cho tâm không vọng động là Niết-bàn.
Chân như luận là một thuyết tuyệt đối duy tâm, cho rằng hết thảy đều do tâm tạo ra. Toàn thể vũ trụ lấy tâm làm tự thân.
Tâm là gì? Nói rằng là không hay là có, là hữu tướng hay là vô tướng, 
đều không đúng cả. Tâm không thể nào biết được, chỉ nên suy xét về hai 
phương diện động và tĩnh mà thôi. Tâm động là cửa của sinh diệt, tâm 
tĩnh là cửa của chân như.  Chân như là bản thể của thế giới, thế giới 
tuyệt đối và bình đẳng. Sinh diệt là hiện tượng của thế giới, thế giới 
tương đối là vô thường.
Bản thể của tâm là thường trụ bất động, bởi tại vô minh làm duyên, khiến
tâm hốt nhiên khởi niệm và vọng động, thành ra thiên sai vạn biệt, tức 
là sinh diệt. Tâm thể chân như đã vì vọng niệm mà dao động là A-lại-da 
thức, mở nguồn cho hết thảy hiện tượng.
Chân như tuy bị vô minh kích thích mà dao động, nhưng trong động vẫn có 
tĩnh, tĩnh không rời động. Chân như ở trong sinh diệt mà vẫn ngoài sinh 
diệt. 
Tâm thể là tĩnh, bày ra hiện tượng là động. Vạn tượng của thế giới đều 
do tâm thể hoạt động mà hiển hiện ra. Tâm thể cùng với vạn tượng không 
lìa nhau, mà cũng không cùng nhau là một. Tâm thể là vạn tượng quan hệ 
với nhau như nước với sóng. Nước với sóng tuy khác nhau về hiện tượng, 
nhưng vẫn là một thực thể.
Đối với tông chỉ Phật giáo, thì động hay là sinh diệt hợp với hai diệu 
đế Khổ và Tập: tĩnh hay là không sinh diệt hợp với hai diệu đế Diệt và 
Đạo. Phương diện trước nói về nguyên nhân phát triển của hiện tượng, 
phương diện sau nói về nguyên nhân giải thoát.
Đối với thuyết A-lại-da thức, thì A-lại-da thức là một vai diễn trên sân
khấu chân như. Đây thì nói chân như tự thân là một vai diễn.
Lục đại luận nói căn nguyên của vũ trụ là Lục đại.  Lục đại là sau 
nguyên tố: địa, thủy, hỏa, phong, không,  thức, tức là đem hai nguyên tố
không và thức thêm vào Tứ đại.
Thân ta do Tứ đại mà có, tâm ta do không và thức mà có. Vũ trụ bản thể cũng chỉ là Lục đại đó mà thôi.
Tứ đại là phần vật, không và thức là phần tâm. Theo thuyết này, thì thực
tại là hoạt động lực, mà hoạt động lực là bản thể của tâm. Rút cục, 
thuyết Lục đại này cũng khuynh hướng về thuyết duy tâm. Vì vật và tâm 
tuy là hai, nhưng đó là do tri giác của ta phân biệt ra mà thôi, chứ bản
thể của thực tại vẫn cốt ở tâm, là tuyệt đối. 
Vật đối với tâm như sóng đối với nước. Sóng với nước không lìa nhau. 
Sóng tức là nước. Vật và tâm cũng không lìa nhau. Vật là một phương diện
của thực tại. Vậy vật và tâm cùng biểu thị thực tại, cho nên gọi chung 
là nhất như.
Ta đây là do Lục đại kết hợp mà có. Lục đại ly tán thì ta không còn. Còn và mất chẳng qua là một cuộc đổi thay của Lục đại.
Lục đại kết hợp và ly tán kết hợp làm thành vũ trụ hoạt động. Lìa Lục 
đại ra không có vũ trụ. Chân như là tự thân của Lục đại, do lý tính của 
ta trừu tượng ra mà thôi.
Ngoài sự vật mới tìm được thực thể. Nhưng lìa vật ra, không có lý được, lìa hiện tượng ra, không có thực thể được.
Thánh phàm khác nhau, thiện ác phân biệt ở nơi biết hay không biết rõ chân như với hiện tượng.
Nói tóm lại, những luận thuyết nói ở trên là tóm tắt cái học hình nhi 
thượng của Phật giáo Đại thừa nghiên cứu về cái chân thể của vũ trụ và 
chân tướng của thực tại. Vì có cái học hình nhi thượng ấy co nên về mặt 
tôn giáo, bên Phật giáo Đại thừa có nhiều chỗ khác với Phật giáo Tiểu 
thừa.
Về phương diện tôn giáo, thì Phật giáo Đại thừa lấy lý thuyết Không luận
và Tam thân luận làm căn bản. Cái thể Thái hư trong Không luận thành ra
vị Phật gọi là Adi-Bouddha, Hán dịch là Bản sơ Giác giả, hay là Bản sơ 
Bản Phật. Có khi lại gọi là Tối thắng Phật hay là Tối thượng thắng Phật.
Adi-Bouddha lại tự năm cái trí của mình mà hóa ra năm vị Dhyani-Bouddha,
là những vị Phật chỉ có trong thần thoại mà thôi, chứ không giáng sinh 
xuống trần thế, trái với những vị Manushi-Bouddha, tức là những vị Phật 
dã sinh ra ở trần thế, rồi tu thành Phật, như các vị cổ Phật và đức Phật
Thích-ca Mâu-ni.
Năm vị Dhyani-Bouddha ấy là:
1 Đại Nhật Như Lai hay là Phật Tỳ-lô-giá-na,  ở trung ương, tức là Thường trụ Tam thế diệu pháp thân.
2 Bất Động Như Lai hay là Phật A-súc  ở đông phương, tức là Kim cương kiên cố tự tính thân.
3 Bảo Sinh Phật,  ở nam phương, tức là Phúc đức trang nghiêm thánh thân.
4 Vô Lượng Thọ Phật,  có tên gọi là Vô Lượng Quang Phật,  ở tây phương, tức là Thụ dụng trí tuệ thân.
5 Bất Không Thành Tựu Phật,  ở bắc phương, tức là Tác biến hóa thân. 
Năm vị Dhyani-Bouddha ấy là do tự tính luân thân của mình mà hóa ra năm vị Dhyani-Bodhiasattva, là:
1. Phổ hiền Bồ-tát (Samanbhadra Bodhisattva).
2. Kim cương thủ Bồ-tát (Vajrapni Bodhisattva).
3. Bảo thủ Bồ-tát (Ratnapâni Bodhisattva).
4. Quan thế âm Bồ-tát (Avalokites vara Bodhisattva).
5. Văn thù Bồ-tát (Manjucri Bodhisattva).
Những vị Dhyani-Bouddha và Dhyani-Bodhisattva ấy sau thành ra chư vị 
Phật và Bồ-tát trong thần thoại, người ta tụng niệm và thờ cúng ở các 
chùa chiền.
Sự thờ cúng ấy, tùy theo từng tông phái mà thêm bớt hay chuyên thờ một 
vài vị, như Chân ngôn tông thì chuyên thờ đức Đại Nhật Như Lai và Phổ 
Hiền Bồ-tát; Tịnh Độ tông là một tông phổ thông hơn cả thì thờ hết thảy 
chư Phật và chư Bồ-tát, nhất là thờ đức Phật Vô Lượng Thọ, tức là đức 
Phật A-di-đà và đức Phật Thích-ca Mâu-ni.
Theo lý thuyết Tam thân, thì Đại thừa học phái cho hết thảy chư Phật đều
là một pháp thân cả. Đức A-di-đà là Báo thân của Phật và đức Thích-ca 
Mâu-ni là Ứng thân của Phật. Hay là nói ngược lại: đức Thích-ca Mâu-ni 
đã thành Phật là được cái Pháp thân của Phật, cái đời ngài hiện ra ở thế
gian mà thuyết pháp và giáo hóa chúng sanh là Ứng thân của Phật; đức 
A-di-đà ở Tây phương Cực Lạc, hưởng thụ sự yên vui và cứu độ chúng sanh 
là Báo thân của Phật. Hay là nói như cái thuyết của Chân ngôn tông: đức 
Đại Nhật Như Lai là Pháp thân của đức Thích-ca Mâu-ni, đức A-di-đà là 
Báo thân của đức Thích-ca Mâu-ni, đức Thích-ca Mâu-ni là Ứng thân của 
đức Đại Nhật Như Lai.
Vậy xét về Pháp thân, thì chư Phật là đồng một thể, tức là chỉ có một 
Phật mà thôi, mà xét về Báo thân, thì có đức A-di-đà và chư Phật khác, 
và xét về Ứng thân, thì có đức Thích-ca Mâu-ni cùng chư Phật khác đã 
giáng sinh mà tu thành chánh giác. Ví như trong thế gian chỉ có một mặt 
trăng là Pháp thân, cái ánh sáng của mặt trăng chiếu khắp thiên hạ là 
Báo thân, và những bóng mặt trăng hiện ra ở dưới những vũng nước là Ứng 
thân.
Bởi có cái thuyết Tam thân ấy, cho nên đạo Phật nhận có nhiều Phật ở đời
quá khứ, hiện tại và vị lai. Các kinh của Phật giáo Đại thừa nói rằng 
trong một trụ kiếp có một ngàn vị Phật giáng thế để thuyết pháp mà cứu 
độ chúng sanh.
Trong số chư Phật đã giáng sinh ở thế gian mà tu thành chánh quả, thì 
các kinh chép rõ danh hiệu của bảy vị. Ba vị trên thuộc về cuối Trang 
Nghiêm kiếp là một tiểu kiếp quá khứ trong trụ kiếp này, và bốn vị dưới 
thuộc về Hiền kiếp là tiểu kiếp hiện tại.
Bảy vị cổ Phật ấy là:
1. Tỳ-bà-thi Phật (Vipacyin Bouddha).
2. Thi-khí Phật (Cikhin Bouddha).
3. Tỳ-xá-phù Phật (Vicvabhu Bouddha).
4. Câu-lưu-tôn Phật (Krakutchhanda Bouddha).
5. Câu-na-hàm-Mâu-ni Phật (Kanaka muni Bouddha).
6. Ca-diếp Phật (Kacyapa Bouddha).
7. Thích-ca Mâu-ni Phật (Cakya muni Bouddha).
Còn vị Phật thứ tám sẽ là đức Di-lặc  tức là vị Phật tương lai.
Phật giáo Đại thừa có hai tông là Tịnh Độ tông và Thiền tông, tuy cách 
tu hành khác nhau, nhưng vẫn đi đôi với nhau và thịnh hành hơn hẳn các 
tông khác.
Tịnh Độ tông chú trọng sự lễ bái và tụng kinh niệm Phật, để khi mệnh 
chung, ai có công đức và duyên nghiệp tốt thì được Di-đà tam tôn là Phật
A-di-đà, Bồ-tát Quán-thế-âm và Bồ-tát Đại-thế-chí độ về sinh ở Tây 
phương Cực lạc, tức là cõi Tịnh độ, trong sạch yên lặng, trái với cõi 
Ta-bà thế giới là cõi trần tục ô uế của ta ở đây. 
Tịnh Độ tông dùng các phương tiện để giúp số động người dễ tin mà đi vào
đạo. Nhưng những người đã xuất gia tu hành thì phải tu Thiền học, nghĩa
là theo giáo chỉ của Thiền tông.
Phật giáo Đại thừa chia cách tu đạo ra làm hai: một là theo Tiệm giáo, 
là phép tu phải tu lâu đời, rồi dần dần mới được đạo. Phép tu này phù 
hợp với đại đa số hết thảy mọi người, ai ai cũng có thể tùy sức mình mà 
dần dần tu tập. Hai là theo Đốn giáo, là phép tu đốn ngộ, giúp người ta 
có thể được đạo nhanh chóng, tức thời. Nhưng phép tu này chỉ hợp cho 
những người có căn cơ, trí lực mạnh mẽ.
Thiền tông dùng phép tu Thiền-na  thuộc lối Đốn giáo, không dùng văn tự 
để truyền giáo. Kinh Đại Phạm thiên vương vấn Phật quyết nghi nói rằng: 
“Một hôm đức Phật Thích-ca Mâu-ni hội các đệ tử trên núi Linh Thứu, rồi 
cầm một cành hoa mà đưa lên trước cả chúng hội, không nói gì cả. Trong 
chúng đều yên lặng không hiểu gì, chỉ có ngài Đại Ca-diếp nhìn lên mỉm 
cười. Phật nói rằng: Ta có Chánh pháp nhãn tạng, Niết-bàn diệu tâm, nay 
phó chúc cho Ma-ha Ca-diếp.”
“Chánh pháp nhãn tạng” là khả năng nhìn thấu các pháp do đã chứng ngộ 
chánh pháp. “Niết-bàn diệu tâm” là tâm mầu nhiệm cùng thể với Niết-bàn. 
Xem thế thì biết sự giác ngộ lại có chỗ chỉ bậc thượng căn tự hiểu lấy, 
chứ không thể dùng lời mà truyền dạy.
Khi Phật sắp nhập diệt, truyền y bát cho Đại Ca-diếp làm Tổ thứ nhất của
Thiền tông. Tổ Ca-diếp truyền lại cho A-nan, rồi truyền dần đến đời thứ
28 là Tổ Bồ-đề Đạt-ma .
Vào khoảng năm đầu niên hiệu Phổ thông đời vua Lương Vũ Đế  ở Nam triều,
Bồ-đề Đạt-ma đi đường biển sang Quảng Châu, Trung Hoa. Vua Vũ Đế nhà 
Lương liền mời lên Kiến Nghiệp, tức là thành Nam Kinh bây giờ. Bồ-đề 
Đạt-ma nói chuyện với vua, vua chẳng hội được diệu lý, ngài liền bỏ lên 
Tung sơn, ở chùa Thiếu Lâm thuộc đất Bắc Ngụy, ngồi yên suốt 9 năm chỉ 
nhìn vào vách đá.
Bồ-đề Đạt-ma sau đem Thiền tông truyền cho Huệ Khả. Vì vậy, ngài là Tổ 
thứ nhất của Thiền tông Trung Hoa, Huệ Khả là Tổ thứ hai. Yếu chỉ “vô 
ngôn” của Thiền học lại tiếp tục được truyền lại cho nhiều đời sau nữa: 
Tăng Xán là Tổ thứ ba, Đạo Tín là Tổ thứ tư, Hoằng Nhẫn là Tổ thứ năm, 
Huệ Năng là Tổ thứ sáu.
Ngài Huệ Năng  họ Lư, sanh vào đầu đời nhà Đường.  Thuở nhỏ mồ côi cha, 
kiếm củi mang ra chợ bán, nuôi mẹ rất có hiếu. Một hôm nghe người tụng 
kinh Kim Cang, tự nhiên khai ngộ. Liền đến núi Hoàng Mai ở Kinh Sơn ra 
mắt Ngũ tổ Hoằng Nhẫn. Tổ biết là người khác thường nên thâu nhận, tạm 
cho vào coi việc giã gạo. 
Cao đệ của Ngũ tổ lúc ấy là Thần Tú, vâng lời thầy làm bài kệ trình chỗ sở đắc rằng:
Thân thị Bồ-đề thụ,
Tâm như minh kính đài.
Thời thời cần phất thức,
Vật sử nhạ trần ai. 
Huệ Năng xem bài kệ ấy biết là chưa đạt đạo, liền đọc một bài khác rằng:
Bồ-đề bản vô thọ,
Minh kính diệc phi đài.
Bản lai vô nhất vật,
Hà xứ nhạ trần ai? 
Về sau Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn không truyền tâm ấn cho Thần Tú mà truyền cho 
Huệ Năng. Thần Tú lên phương Bắc lập một phái khác. Thiền tông bấy giờ 
chia làm Nam phái và Bắc phái. Từ Lục tổ Huệ Năng, chỉ truyền lại tâm 
pháp ấn, không còn truyền y bát như các đời trước nữa. Đệ tử ngài rất 
nhiều, làm cho Thiền tông hưng thịnh lắm. Mấy năm sau khi ngài nhập 
diệt, một trong các cao đồ là Thần Hội ở chùa Hà Trạch có mở đại hội nơi
chùa Đại Vân ở Hoạt Đài, xiển dương pháp Đốn giáo của thầy là Huệ Năng 
mà bài xích Tiệm giáo của Bắc phái Thần Tú. Nhiều người xem Thần Hội như
Tổ thứ bảy, nối pháp của Lục tổ, nhưng thật ra môn đồ đắc pháp của ngài
rất nhiều, không riêng Thần Hội.
Các đệ tử của Lục tổ về sau lại khai sáng ra nhiều chi phái Thiền học 
khác nhau. Như Nam Nhạc Hoài Nhượng và Thanh Nguyên Hành Tư là hai phái 
lớn. Phái Nam Nhạc sau lại chia thêm ra thành hai tôgn là Quy Ngưỡng và 
Lâm Tế. Còn phái Thanh Nguyên sau chia ra các tông Tào Động, Vân Môn và 
Pháp Nhãn.
Đến đời Tống, tông Lâm Tế lại chia ra hai tông mới là Dương Kỳ và Hoàng 
Long. Vì vậy, người ta thường gọi là Ngũ gia thất tông. Đến đời Nguyên 
Minh, Thiền tông suy yếu dần và nhập vào với Tịnh Độ Tông.
Thiền tông là một phép tu không dùng văn tự, không trói buộc vào kinh 
kệ. Người tu thiền không cho cầu nguyện là cần thiết. Lục tổ Huệ Năng 
nói: “Không nghĩ thiện, không nghĩ ác, chỉ xét nghĩ cái thực tướng của 
mình từ khi cha mẹ chưa sinh ra.”  Cho nên người tu thiền ngồi yên lặng 
mà dẹp bỏ mọi vọng niệm, giữ tâm trí sáng suốt, an định. Cứ như vậy cho 
đến lúc định lực đã sâu vững thì trí tuệ tự nhiên bừng sáng, soi rõ mọi 
điều u mê mờ tối trong tâm thức, thấy rõ chân lý, tức là ngộ đạo. Khi đã
ngộ đạo thì thực thể hiển hiện rõ ràng trước mắt, mà khi chưa ngộ đạo 
thì chẳng thể thấy hiểu, cũng chẳng thể dùng trí suy xét mà biết được.
Người tu đạo Thiền không nhắm đến việc tìm hiểu thực thể của vũ trụ hay 
những điều siêu nhiên khác, chỉ nỗ lực hết sức để tìm sự giải thoát cho 
tự thân mình. Cho nên nói rằng: “Một ngày tọa thiền là một ngày làm 
Phật. Một đời tọa thiền là một đời làm Phật.” 
Thưa các ngài!
Đạo Phật trước hết là đạo triết lý và luân lý. Triết lý của Phật giáo là
triết lý cao minh, lấy nhân quả mà suy luận, tìm rõ nhân duyên của tạo 
hóa, phá tan sự mờ tối che lấp trí sáng tỏ, cắt đứt lưới mộng ảo trói 
buộc người vào sanh tử khổ não, đưa người đến chỗ tịch tính, yên vui.
Luân lý Phật giáo là luân lý chân chánh phổ biến khắp trong thiên hạ, 
lấy vô lượng từ bi mà yêu người, thương vật, tế độ chúng sanh, không 
phân biệt người với ta, không chia giai cấp sang hèn, nhìn khắp chúng 
sanh ai cũng chung một thân phận khổ đau vì nghiệp lực, nên Phật dạy 
phải đem lòng từ thiện mà xử kỷ tiếp vật. Đối với tự thân mình thì trừ 
bỏ hết những điều điên đảo, giả dối, gian tà bạo ngược, lúc nào cũng lấy
sự chân thật, nhân hậu làm đầu; bất cứ việc gì cũng phải lấy lẽ công 
bằng mà xử trí, khiến cho hết thảy đều được yên vui ở chỗ chính đáng của
mình. Nếu loài người biết theo luân lý ấy, thì làm gì có những cuộc 
chiến tranh tàn khốc, khiến cho đời người đã khổ lại còn khổ thêm?
Đạo Phật trở thành một tôn giáo, nhưng chỉ nhận làm theo những lời Phật 
dạy, chứ không hề nhậncó một đấng chủ tể  đứng đầu, làm chủ cả vũ trụ 
như nhiều tôn giáo khác. Cho dù có rất nhiều vị Phật và Bồ-tát được cung
kính thờ phụng, nhưng đó chỉ là những tấm gương lành cho người Phật tử 
noi theo, chứ không phải là những đấng cao siêu giữ quyền chủ tể. Như 
vậy, người theo đạo Phật không chấp nhận sự mê tín, phải tự mình tìm 
hiểu cho rõ căn nguyên của mọi hiện tượng trong cuộc sống và nhận rõ 
chân lý để sống cuộc sống chân chánh, đúng đắn nhất.
Đạo Phật là đạo của chân lý cần phải học nhiều, suy nghĩ kỹ, trước sau 
dùng ba môn học chính là giới, định, tuệ mà trừ diệt ba món độc trong 
tâm là tham, sân, si. Người học theo đạo Phật lúc nào cũng phải có sự nỗ
lực tự thân, tinh tấn dũng mãnh để tự đưa mình từ chỗ tối ra nơi chỗ 
sáng, từ chỗ mê đến chỗ tỉnh. Thật là một tôn giáo rất trang nghiêm và 
rất đặc biệt trong hết thảy các tôn giáo vậy.
Nam-mô A-di-đà Phật.