CÁC TÔNG PHÁI TRONG ĐẠI THỪA VÀ TIỂU THỪA
Hiện nay xem kinh điển bằng chữ Nho thấy có ba tông thuộc Tiểu thừa và bảy tông thuộc Đại thừa, xin tóm tắt lại như sau:
CÁC TÔNG TIỂU THỪA
1. Câu-xá tông
Bồ-tát Thế Thân khi còn theo học bên Tiểu thừa, lấy ý nghĩa trong sách
Mahavibhasa Castra mà làm sách Câu-xá luận, rồi theo sách ấy mà thành
sau có Câu-xá tông.
Câu-xá tông chia vạn hữu ra làm Vô vi pháp và Hữu vi pháp. Vô vi pháp
chỉ về cảnh giới thường trụ, không sanh diệt, tức là lý thể. Hữu vi pháp
chỉ về vạn hữu trong hiện tượng giới, sinh diệt vô thường.
Theo thuyết của Hữu bộ bên Tiểu thừa thì pháp thể là hằng hữu trong ba
đời: quá khứ, hiện tại, vị lai. Theo thuyết của Câu-xá tông thì chỉ có
hiện tại là hữu thể, còn quá khứ, vị lai là vô thể.
Pháp thể gồm cả tâm và vật kết thành do sức của duyên và nghiệp, tức là
nói pháp thể là kết quả của mê hoặc. Sức của hoặc và nghiệp tuần hoàn vô
thủy vô chung, làm cho tâm thân cứ biến chuyển luân hồi mãi.
Câu-xá tông chia nhân ra làm sáu nhân, chia duyên ra làm bốn duyên, và chia quả ra làm năm quả.
Sáu nhân là: 1. Năng tác nhân là nhân phổ biến rất rộng, bao quát cả các
nhân khác. 2. Câu hữu nhân là nhân của vạn vật đều phải nương tựa nhau,
nhân quả đồng thời cùng có. 3. Đồng loại nhân là nhân chung cả hiện
tượng trước và hiện tượng sau. 4. Tương ứng nhân là nhân khi tâm vương
tác dụng thì có nhiều tâm sở đồng ứng. 5. Biến hành nhân là nhân cùng
một loại với đồng loại nhân, nhưng đồng loại nhân thì phổ biến ở nơi vạn
hữu, mà biến hành nhân thì chỉ ở trong phiền não, nơi tâm sở. 6. Dị
thục nhân là nhân làm cho người ta phải chịu kết quả tốt xấu, lành dữ.
Bốn duyên là: 1. Nhân duyên là duyên làm cho nhân thành ra quả. 2. Đẳng
vô gián duyên là duyên nói riêng về sự phát động của tâm. Tâm trước diệt
thì làm cái duyên phát động của hiện tượng sau, không có gián cách ở
khoảng nào cả. 3. Sở duyên duyên là nói khi tâm khởi lên thì dựa vào
cảnh khách quan mà khởi. Cái khách quan ấy gọi là sở duyên, nghĩa là cái
bởi đó mà thành duyên. 4. Tăng thượng duyên cũng như năng tác nhân nói
trên, cũng gọi là công duyên.
Năm quả là: 1. Thị dục quả, là quả do thị dục nhân mà có. Do nghiệp lực
quá khứ hoặc thiện hoặc ác thành ra. 2. Đẳng lưu quả là quả do đồng loại
nhân hay do biến hành nhân mà có. Ấy là chỉ nhìn cái kết quả của hiện
tượng nào cũng đồng đẳng, đồng loại với nguyên nhân của hiện tượng
trước. 3. Ly hệ quả là quả không do sáu nhân, bốn duyên nói trên mà có,
mà do trí chân thật vô lậu, thoát ly sự hệ phược của vô minh phiền não
và chứng được cảnh Niết-bàn. 4. Sĩ dụng quả là quả do câu hữu nhân và
tương ứng nhân nương dựa nhau mà thành, cũng như các thứ nghiệp dựa vào
sự tác dụng của sĩ phu mà có. 5. Tăng thượng quả là quả kết thành bởi
năng tác nhân và tăng thượng duyên.
Vạn vật do sáu nhân, bốn duyên hòa hợp mà sinh ra, nhưng xét đến cùng
ngoài năm uẩn thì không có vật gì cả. Vậy nói rằng có cái “ngã” chi phối
ta để chuyển biến qua đời sau là mê hoặc, là không tưởng. Cho nên không
nên chấp có hữu vi vô thường, mà chỉ nên trông ở cõi Niết-bàn thường
trụ.
Nhân sinh là khổ não, là ô trược, là mê hoặc, cho nên cần phải giải
thoát. Phương thức giải thoát gồm có giới, định, tuệ. Giới là giới luật,
ngăn không cho làm những điều tà vạy, bất chánh. Định là thiền định, là
định tâm, để giữ tâm trí gom về một mối. Tuệ là trí tuệ, phân biệt thật
tướng của sự vật, hiểu rõ lý nhân quả, Tứ diệu đế. Dùng ba môn học ấy
mà đi tới giải thoát, tức là vào Niết-bàn.
2. Thành thật tông
Tông này đồng thời phát hiện với Câu-xá tông, do Ha-lê Bạt-ma lập ra, lấy thuyết của Không bộ bên Tiểu thừa làm gốc.
Thành thật tông chia thế giới quan ra làm hai môn: Thế gian môn và Đệ nhất nghĩa môn.
Thế gian môn có hai phương diện. Một phương diện là xét theo các pháp
sinh diệt vô thường thì không có cái thật ngã. Nhưng xét theo phương
diện khác thì cái thân ta hành động và cái tâm ta biết phân biệt, biết
liên lạc những tư tưởng suy nghĩ trước sau, mà lại bảo là không có ngã
thì thật là trái với chỗ hiểu biết thông thường.
Song lấy cái ngã tạm bợ kia mà phân tích cho đến chỗ vi tế, bỏ cả năm uẩn ra thì không thể nhận được một vật gì cả.
Đệ nhất nghĩa môn lấy lẽ rằng trước cho thế gian môn lấy chỗ biết thường
thường làm chuẩn đích mà đặt ra bản ngã là tạm có, rồi do cái kết quả
sự phân tích mà biết rằng pháp thực có kia cũng chẳng qua là do vọng
tưởng của ta phân biệt là tạm có mà thôi.
Cái thật có đã không nhận, thì ngoài cái trí hư vọng phân biệt của ta
ra, không có vật gì cả. Vọng, biết là mê, không phải là thật, cho nên
hết thảy đều là không cả. Chân ngã không có, thật pháp cũng không có.
Người và pháp cả hai đều không. Thành thật tông do đó chủ trương việc
cấm dục để cầu tịch diệt.
3. Luật tông
Tông này chủ trương lấy Luật tạng mà tu đạo, cốt răn điều ác, khuyên
điều thiện. Cho rằng nhờ có giới luật mới có thiền định, có thiền định
thì trí tuệ mới phát khởi. Có trí tuệ mới tu được đến chỗ giải thoát.
Về phương diện đạo lý thì Luật tông dựa vào Câu-xá tông và Thành thật tông để làm căn bản.
CÁC TÔNG ĐẠI THỪA
1. Pháp tướng tông
Tông này phát khởi từ ba vị Vô Trước, Thế Thân và Hộ Pháp, lấy Thành
duy thức luận làm gốc, cho rằng vạn pháp đều do thức biến ra.
Thức có tám loại là: nhãn thức, nhĩ thức, vị thức (hay tỉ thức), thiệt
thức, thân thức, ý thức, mạt-na thức và a-lại-da thức. Trong tám thức
ấy, a-lại-da thức là căn bản.
A-lại-da thức còn gọi là Tạng thức, bao tàng hết các chủng tử, rồi do
những chủng tử ấy mà phát sinh ra vạn tượng. Vạn tượng tan thì các chủng
tử lại mang nghiệp trở về a-lại-da thức. Chủng tử lại vì nhân duyên mà
sinh hóa mãi. Vậy nhân duyên là nhân duyên của các chủng tử. A-lại-da
thức thì chứa hết thảy các chủng tử để sinh khởi nhất thiết chư pháp.
Như thế là vạn pháp do thức mà biến hiện ra, cho nên nói rằng: “Tam giới duy tâm, vạn pháp duy thức.”
Ngài Huyền Trang đời Đường sang Ấn Độ theo học với ngài Giới Hiền, rồi đem Pháp tướng tông về truyền ở Trung Hoa.
2. Tam luận tông
Tông này lấy Trung luận và Thập nhị môn luận của Bồ-tát Long Thụ và bộ Bách luận của Đề-bà làm căn bản, nên mới gọi là Tam luận.
Tam luận tông cho rằng hết thảy vạn hữu trong hiện tượng giới đều sanh
diệt vô thường. Đã sanh diệt vô thường là không có tự tính, chỉ bởi nhân
duyên làm mê hoặc mà biến hóa ra vạn hữu.
Kẻ phàm tục vì vọng kiến cho nên mới chấp lấy cái có tạm bợ ấy. Bậc chân
trí thì không nhận cái tạm có mà thấy rằng hết thảy đều là không.
Các pháp tuy là hiện hữu nhưng không phải là thường có. Có mà không phải
là thường có tức là chỉ tạm có. Tạm có nên tuy là có mà không phải là
có. Có mà không phải là thật có thì cũng chẳng khác gì không. Vậy nên
các pháp tuy là đều có, nhưng thật tướng là không.
Lý thể của chân như tuy là không tịch, bất sanh bất diệt, nhưng bởi nó
sanh ra các pháp, cho nên nó là nguồn gốc của cái tạm có. Đã là nguồn
gốc, thì lý thể của chân như là không. Như thế, chân như là không mà
không phải thật là không, cho nên đối với có không khác gì. Vì thế chân
như tuy là không tịch mà rõ ràng là có.
Có và không, không và có, thật chẳng khác nhau. Có là có do nơi không;
không là không do nơi có. Có và không hai bên toàn nhiên hòa hợp với
nhau. Thấy rõ chỗ ấy là Trung đạo, là không vướng mắc vào cả có lẫn
không.
Vì sự nhận thức của ta sai lầm, mà thành ra có không và có. Vượt lên
trên sự nhận thức thì mới đạt được cái thực tại bất khả tư nghị. Sự nhận
thức của ta chỉ nhận thức được trong phạm vi hiện tượng mà thôi, không
thể nhận thức được thực tại. Muốn đạt tới thực tại thì phải nhờ đến trực
giác mới được.
Tam luận tông lấy kinh Bát-nhã làm gốc, cho nên còn gọi là Bát-nhã tông,
khi đối với Pháp tướng tông thì gọi là Tánh tông hay là Không tông.
3. Thiên thai tông
Tông này khởi phát ở Trung Hoa, do thiền sư Tuệ Văn đời Tần, Tùy lập
ra, dựa theo ý nghĩa sách Trí Độ luận và kinh Pháp Hoa làm gốc. Cho nên
còn gọi là Pháp Hoa tông.
Thiên thai tông chủ trương thuyết “chư pháp duy nhất tâm”. Tâm ấy tức là
chúng sanh, tâm ấy tức là Bồ-tát và Phật. Sanh tử cũng ở nơi tâm ấy,
Niết-bàn cũng ở nơi tâm ấy.
Thiền sư Tuệ Văn chủ lấy Trung đạo mà luận cái tâm và lập ra thuyết
“nhất tâm tam quán”. Tam quán là Không quán, Giả quán và Trung quán.
Trong Không quán có Giả quán và Trung quán, không phải tuyệt nhiên là
không. Trong Giả quán có Không quán và Trung quán, không phải tuyệt
nhiên là giả. Trung quán là dung nạp cả không và giả.
Chân như với tâm và vật quan hệ với nhau như nước với sóng. Ngoài nước
không có sóng, ngoài chân như không có tâm, ngoài tâm không có vật.
Thiên thai tông lấy hiện tại mà tìm chỗ lý tưởng. Thiện ác chân vọng đối
với tông này chỉ là một sự hoạt động của thực tại. Vì thế cho nên không
cưỡng cầu giải thoát ra ngoài hiện tại giới sanh diệt vô thường. Trong
hiện tượng giới gồm cả hai tính thiện và ác. Thiện hay ác cũng chỉ do
một tâm tác dụng mà thôi. Hai cái, không có cái nào độc tồn. Cho nên
Phật không làm lành mà cũng không làm dữ.
Sự giải thoát phải tìm ở nơi thấu suốt chân lý, thoát ly chấp trước. Chỗ
cuối cùng đạt đến là phải triệt ngộ thực tướng của các pháp.
4. Hoa nghiêm tông
Tông này cũng như Thiên thai tông, phát khởi ở Trung Hoa, căn cứ ở kinh
Hoa Nghiêm, do hòa thượng Đỗ Thuận và Trí Nghiễm đời Tùy Đường lập ra.
Tông này cho rằng các pháp có sáu tướng: tổng, biệt, đồng, dị, thành,
hoại. Gọi chung là “tam đối lục tướng”. Vạn vật đều có sáu tướng ấy.
Khi sáu tướng ấy phát ra thì phân làm Hiện tượng giới và Thực tại giới,
và khi sáu tướng ấy tương hợp nhau thì hiện tượng tức là thực tại, thực
tại tức là hiện tượng.
Vạn hữu có “tam đối lục tướng” là do Thập huyền diệu lý duyên khởi. Thập
huyền diệu lý và Lục tướng viên dung sinh ra cái lý “sự sự vô ngại”.
Sự sự vô ngại luận là chỗ đặc sắc nhất trong giáo lý của Hoa nghiêm tông.
Theo tông ấy thì phân biệt chân vọng, trừ khử điên đảo khiến cho tâm thanh tịnh, để cùng thực tại hợp nhất, thế là giải thoát.
5. Chân ngôn tông
Tông này căn cứ ở kinh Đại Nhật, lấy bí mật chân ngôn làm tông chỉ, cho nên gọi là Chân ngôn tông, hay là Mật tông.
Đại Nhật Như Lai truyền cho Kim-cang-tát-đỏa. Kim-cương-tát-đỏa truyền
cho Long Thọ, Long Thọ truyền cho Long Trí, Long Trí truyền cho Kim
Cương Trí, Kim Cương Trí cùng với Bất Không vào khoảng đời Đường đem
tông này truyền sang Trung Hoa.
Chân ngôn tông chủ trương các thuyết Lục đại là địa, thủy, hỏa, phong, không, thức, cho sáu đại này là thực thể của vũ trụ.
Lục đại xét về phương diện vũ trụ thì gọi là thể đại, hiện ra hình hài
gọi là tướng đại, hiện ra ngôn ngữ, động tác gọi là dụng đại. Vạn hữu
trong vũ trụ không có gì ra ngoài thể đại, tướng đại, dụng đại.
Gọi là chân như là lấy lý tính do sáu đại mà trừu tượng ra. Ngoài sáu đại ra, không thấy đâu là chân như.
Sự giải thoát của Chân ngôn tông là ở nơi “tự thân thành Phật”, cho nên
bỏ hết chấp trược, theo cái hoạt động của Đại ngã. Phương thức giải
thoát của tông này là ba mật, tức là thân, miệng và ý.
6. Thiền tông
Thiền tông không bàn luận về vũ trụ, chỉ chủ ở sự cầu được giải thoát mà thôi.
Cứu cánh của Thiền tông không trói buộc nơi văn tự, nên chỉ lấy tâm
truyền tâm mà thôi. Thực tướng của vũ trụ thuộc về phạm vi trực giác.
Nếu lấy văn tự mà giải thích thì tất là sa vào hiện tượng giới, không
thể đạt tới thật tướng được. Nếu không tọa thiền dùng trực giác thì
không thể biết được thật tướng.
7. Tịnh độ tông
Tịnh độ tông lấy sự quy y Tịnh độ làm mục đích, và tụng những kinh Vô Lượng Thọ, Quán Vô Lượng Thọ và A-di-đà.
Tịnh độ tông khởi phát từ đời nào không rõ, chỉ thấy trong các kinh điển
nói các vị Bồ-tát Mã Minh, Long Thụ và Thế Thân đều khuyên người ta nên
tu Tịnh độ.
Tịnh độ tông cho rằng mỗi người ai cũng có Phật tánh, đều có thể thành
Phật được. Vì ở thế gian là dơ bẩn, cho nên cầu đến cõi trong sạch là
cõi Tây phương Cực lạc.