[03]
CHƯ PHẬT VỊ LAI CÓ MƯỜI VỊ
Nguyên nhân Đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết về 10 vị Phật tổ giáng sanh trong ngày vị lai là: một hôm bà GOTAMI là dưỡng mẫu của Đức Phật, chính là em ruột của hoàng hậu MAHÀ MAYÀ, tự tay bà quay chỉ dệt, may và nhuộm lấy 2 tấm y cà sa thật quý định đem dâng cho Đức Phật. Ngài chỉ lãnh lấy 1 lá y, còn 1 lá y ngài bèn bảo đem dâng cho Chư tăng, bà đem dâng từ vị đại đức cho tới chót không ai dám nhận vì nghĩ rằng: nếu không ai dám lãnh thì bà sẽ đem dâng lại cho Đức Phật, khi tới sau cùng có 1 vị tỳ khưu mới tu, ông thọ lãnh tấm y và tính đem dâng lại cho Đức Phật, các vị còn phàm có ý khi dễ vì cho rằng người không đức tin thì và không tôn kính.
Bà GOTAMÌ có ý buồn vì dâng cho vị mới tu, sợï mình ít phước. Đức Phật hiểu ý bèn giảng giải rằng: "Ai có lòng trong sạch dâng cúng đến chư Tăng thập phương thì sẽ được nhiều phước báu hơn dâng đến Như Lai".
Khi xong lễ, vị tỳ khưu ấy tên là ÀSAJJÌ bèn đem tấm y ấy vào nơi Phật ngự mà dâng cho ngài, và nguyện cho thành 1 vị Phật tổ trong ngày vị lai. Đức Phật cười chúm chiếm, lúc ấy 2 cái răng nhọc túa haò quang thấu đến cung trời Phạm thiên, 2 cái ở hàm trên thấu xuống tới cõi địa ngục A tỳ. Đại đức ANANDA thấy vậy bèn quỳ xuống bạch Phật rằng: "Có điều chi lạ mà Đức Thế Tôn cười rõ rệt?" (vì chư Phật không bao giờ cười mà không có nguyên nhân), Phật bèn đáp rằng: - Này ANANDA. tỳ khưu ASAJJÌ đây sau này sẽ thành 1 vị Chánh Đẳng chánh giác kế vị Như Lai tên là Di Lặc Phật (METTAYYA). Đức Phật chỉ nói tóm tắt có bao nhiêu rồi vào tịnh thất yên nghỉ.
Lúc ấy chư Tăng đang tụ hội tại giảng đường bàn bàn luận luận với nhau, không biết chư Phật tổ vị lai oai lực và giáo pháp như thế nào. Những lời bàn luận ấy lọt vào nhĩ thông Đức Phật, ngài bèn ra ngự nơi giảng đường, lúc ấy đại đức Xá Lợi Phất bèn quỳ xuống bạch Phật rằng: xin ngài mở lòng bác ái giảng giải cho biết oai lực và giáo pháp của Phật vị lai. Nhân đó mà Đức Phật mới giảng giải về 10 vị Phật vị lai.
-oOo-
Đức Phật bèn giảng rằng: Này Xá Lợi Phất, sau khi Như Lai nhập diệt rồi thì có 5 điều tiêu hoại là:
1 - ADHIGAMA ANTARADHÀNA: là tiêu hoại đạo quả. Đúng 1 ngàn năm sau khi Như Lai nhập diệt thì không còn có ai đắc đạo quả A-la-hán, luôn cả lục thông và huệ phân tích thuộc nằm lòng Tam tạng nữa.
2 - PARIYATTI ANTARADHÀNA: là tiêu hoại về pháp học, là khi đúng 2 ngàn năm không có ai thuộc nằm lòng Tam tạng và mất lần lần và bắt đầu mất tạng Luận, Kinh rồi mới tới Luật (vì Luật mà mất thì đạo cũng không còn, vì Luật là nền tảng của Phật giáo - VINAYO SÀSANAMULAM). Thật vậy, hiện nay ít có ai chú trọng mà học cho nằm lòng tạng Luận vì khó nhớ và lý luận sâu xa lắm.
3 - PÀTIPATTI ANTARADHÀNA: mất pháp hành, vì khi đúng 3 ngàn năm thì ít ai mến pháp hành, vì thực hành theo là 1 điều khó, mà thật vậy, hiện nay Phật pháp mới qua gần 2498 năm mà rất ít nhà sư ưa mến sự hành đạo giải thoát.
4 - LINGA ANTARADHÀNA: mất tăng tướng, khi đúng 4 ngàn năm thì chư Tăng lúc bấy giờ như người thế, vì hội nhau lại bàn rằng, mặc y xùng xình khó bề làm công việc rồi đồng lòng bỏ y cà-sa, chỉ mặc quần áo như kẻ thế mà lấy một miếng vải vàng (ca-sa) cột vào cổ tay hoặc vắt trên vai, hoặc dắt mép tai cho biết người tu thôi, vì bận việc làm ruộng rẫy bán buôn như người thế tục. Trong lúc ấy có ít người tu đi hóa trai (trì bình khuất thực), chỉ lấy hai cái quảo (thúng nhỏ lớn hơn cái ô) thoa dầu chai, đề lên 2 cái giống, quảy đi khuất thực như người gánh đồ đi bán (Tam tạng, quyển 28 trang 226).
5 - DHÀTU ANTARADHÀNA: là tiêu hoại xá lợi, hiện nay xá lợi rãi rác khắp nơi cho chư Thiên và nhân loại chiêm bái, khi đúng 5 ngàn năm thì tất cả những xá lợi ấy bay về đóng thành khối, hoá thành 1 vị Phật tại Bồ Đề Đạo Tràng (BUDDHAGAYA) tại Trung Ấn Độ, thuyết pháp độ chúng sanh đắc thành đạo quả vô số kể trong 7 ngày rồi lửa tự nhiên trong kim thân phát cháy tiêu Xá lợi. Kể từ ấy, giáo pháp ngài hoàn toàn tiêu diệt.
Sau khi mãn thời kỳ Phật pháp rồi, tâm chúng sanh không phân biệt tội phước chi cả, lần lần hung dữ độc ác, tuổi thọ lại giảm lần lần xuống cho đến khi 10 tuổi hoặc ít hơn chút ít. Như hiện nay ai biết lo tu hành, đức hạnh hiền từ, thì người ta khen ngợi, trái lại lúc ấy chúng sanh ai hung dữ độc ác, bất lương thì người lại khen (mà ác thì dễ làm hơn thiện) nên con người càng ngày càng hung dữ, nhìn nhau như các loài thú dữ muốn cắn nhiều xé ăn thịt nhau. Lúc ấy sanh lên một trận tàn sát lẩn nhau (SATTHANTARA KAPPA - Tam tạng quyển 18, chư Thiên, trang 148), thây chết đầy đặc trên quả địa cầu, chỉ còn lại ít người lương thiện không ưa thích sự sát hại, chạy trốn vào rừng sâu núi thẩm, khi yên trận tàn sát ấy rồi, ra ngoài gặp ai còn sót lại, cũng đồng xin đừng sát hại lẫn nhau nữa (đã giữ được 1 giới sát sanh) nên con những người ấy tuổi lên được 20 hoặc 25 tuổi, rồi lại hứa không lấy của ai (lại giữ giới không trộm cắp) những người con cháu lại thêm tuổi lên đến 50 năm, cứ thế mãi lần lần giữ cả ngũ giới là không sát sanh, trộm cướp, tà dâm, nói láo, uống rượu thì tuổi thọ của những con cháu sau sau ngày càng càng thêm lên mãi cho đến tuổi 1 A-tăng-kỳ năm mới chết.
Sống mãi không chết cũng chán, mới có 1 hạng người nói rằng mình làm theo ông bà hoài nên không thấy ai chết hết, lại bắt đầu sát sanh nên con cháu lại hạ xuống còn nữa A-tăng-kỳ rồi lần lần bỏ bớt giới hạnh thì tuổi lại càng hạ xuống mãi mãi cho đến khi chúng sanh tuổi còn 10 muôn năm.
Lúc ấy Đức Phật Di Lặc mới giáng sanh dạy đạo. Ngài giáng sanh tại xứ KETU METTÌ, cha tên SUBRAMA, mẹ tên BHRAMAVATÌ, lúc ở thế có 30 muôn cung phi mỹ nữ hầu hạ. Khi thấy 4 điềm rồi chán nản xuất gia, lúc xuất gia thì bay cả lâu đài có vô số vua, chư hầu và quan quân đồng xuất gia theo ngài hành đạo, trong 7 ngày thì đắc quả dưới cây Mù u, tuổi thọ 8 muôn năm, bề cao ngài 44 thước. Ngài dòng Bà-la-môn, hào quang ở nơi ngực, hai bàn tay và đầu gối ngài sáng ra cả ngày và đêm thấu đến 10 thế giới sa bà, người ta không thể phân biệt ngày đêm vì hào quang che lắp cả mặt trời và mặt trăng, người ta chỉ thấy bông nở hoặc tàn, hoặc là nghe tiếng gà gáy mà phân biệt ngày đêm luôn luôn cho đến khi ngài nhập diệt. Ngài đã thực hành tu 10 pháp Ba-la-mật 16 A-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp.
Này Xá Lợi Phất, Như Lai chỉ kể về 1 pháp Ba-la-mật của Ngài là: có 1 kiếp sanh làm Chuyển luân vương tên SANGHA CAKKA. Bồ-tát có 7 báu trị vì thiên hạ 101 nước chư hầu trên thế giới, khi hay tin một vị sa di cho hay rằng có Đức Phật, Pháp, Tăng đã ra đời, Ngài vui mừng đến ngất người ba lần, sau lại bố thí ngôi báu, cho ông sa di ấy, bèn đi chân không đến nơi Phật ngự, đi một ngày đầu lỡ cả hai chân, máu chảy ròng ròng đi không được nữa, qua ngày sau ngài bò bằng hai tay và hai đầu gối, được 1 ngày cũng chảy máu cả, qua ngày sau ngài bò không được bèn trường đi bằng ngực, lả ngực máu chảy ròng ròng, không thể trường được nữa, nhưng chưa gặp Đức Phật, chỉ mới nữa đường.
Lúc ấy Đức Phật SIRIMATTI biết được bèn hóa ra người đánh xe chạy tới bảo tránh, Bồ-tát nói tôi không thể nào tránh được vì mình mẩy lở hết. Đức Phật bèn hỏi người đi đâu. Bồ-tát nói tôi muốn đi gặp Phật. Đức Phật nói: thôi để tôi đưa dùm cho. Rồi ngài xuống xe bồng Bồ-tát để lên xe giả. Đánh xe 1 chút thì nói đây tới cửa chùa, mời ông xuống, lúc ấy có vị trời Đế Thích biết được bèn mang 1 gói cơm và 1 bầu nước tới cho, phần thì bịnh và đói nên lảnh cơm nước, khi thọ thực xong thì tất cả vết thương đều lành lại hết và khỏe mạnh lại như thường. Bèn vào yết kiến Phật nhằm lúc đang thuyết pháp người ta hằng vạn vạn, nhưng êm như tờ. Bồ-tát vào đãnh lễ xong xin Đức Phật thuyết pháp cho nghe, khi nghe được một câu kệ lại bạch Phật xin ngừng để ngài bố thí pháp. Ngài bèn lấy móng tay nguyện bén như gươm rồi cắt lấy đầu mình để trên hai bàn tay mà cúng dường cho Pháp bảo, sau khi Phật thuyết xong thì ngã xuống chân ngài mà chết. Nầy Xá lợi phất, vì Bồ-tát không kể đến thân mình bò trường đến lở hết, nên khi thành chánh quả có hào quang túa ra nơi ngực, hai bàn tay và hai đầu gối luôn luôn thấu đến 10 ngàn thế giới và không tiếc mạng sống, dám bố thí cho pháp bảo nên khi thành chánh quả tuổi thọ đến 8 muôn năm.
Sau khi Đức Phật Di Lạc nhập diệt rồi thì tuổi thọ chúng sanh càng ngày càng giảm xuống cho tới khi tuổi chỉ còn 10 năm là già rồi, lần lần không còn chúng sanh nào sanh lên quả địa cầu cả. Trước khi 100.000 năm tới kiếp hoại thì chư thiên bay trên không trung kêu la báo tin cho biết còn mấy năm nữa thì sẽ tiêu hoại quả địa cầu. Khi ấy chúng sanh sợ sệt chán nản, ai ai cũng ráng lo tu hành lần lần sanh về cõi trời dục giới, chư thiên ở cõi trời nầy cũng hải hùng kinh khủng quả địa cầu cháy thì cũng cháy luôn cả 6 từng trời dục giới và 2 cõi trời sắc giới là: PÀRISAJJÀ và POROHITTA nữa, nên kinh sợ rồi ráng tham thiền cho đắc các cõi thiền bực trên, cho đến khi sanh về hết trên cõi trời sắc giới. Khi quả địa cầu không còn ai ở nữa thì mặt trời lần lần mọc lên 2 mặt trời, 1 thời gian thật lâu, lại mọc lên 3, 4, 5, 6, 7 mặt trời thì lúc ấy bấy giờ nước biển khô khan không còn 1 giọt. Chừng ấy, lửa phát lên cháy cả quả địa cầu rồi tiêu hoại và cháy luôn cả 6 cung trời dục giới và 2 cõi trời sắc giới từng dưới chót. Kể từ đó chỉ còn khí hư u minh cho đến khi cấu tạo quả địa cầi mới khác. Từ đó 1 thời không gian là A-tăng-kỳ kiếp không có vị Phật tổ nào ra đời dạy đạo cả.
-oOo-
Kế sau đó có quả địa cầu có 2 vị Phật tổ giáng sanh là: RÀMADEVA và DHAMMARÀJÀMUNI.
Vị thứ nhất tên RÀMADEVA khi thấy 4 điềm rồi chán nản xuất gia, thành đạo dưới gốc cây thị, tuổi thọ 9 muôn năm, bề cao ngài 40 thước, hào quang túa ra sáng khắp cả thế giới luôn luôn ngày đêm chớp nháng tới lui trên hư không chẳng ngừng nghỉ. Do nhờ pháp Bà-la-môn có cây Như ý thọ (Kàlabriksa) mọc lên rất nhiều để cho chúng sanh cần dùng. Cây như ý thọ này có mãnh lực phi thườøng, là bất cứ ai muốn điều chi, như y phục, vật thực, đồ trang điểm chi chi... lại tới cây ấy ước thì sẽ được theo như ý muốn. Đây là nhờ pháp nguyện lực Ba-la-mật của Đức Phật. Cho nên, chúng sanh lúc ấy khỏi cực nhọc nên ai ai cũng đều tu hành, vì chúng sanh nào sanh ra kịp Phật thì ngài độ tận chúng sanh, ít lắm cũng được sanh về cõi trời hết thảy.
Nói về 1 pháp Ba-la-mật của ngài: có 1 kiếp sanh ra tên là NÀRADA gặp Đức Phật KASSAPA (Ca diếp) ra đời, vào nghe pháp thấy hào quang trong mình Đức Phật phóng ra sáng ngời rực rở bèn phát tâm trong sạch bố thí mạng sống mình, cúng dường cho Phật và nguyện cho thành 1 vị chánh giác có nhiều hào quang như ngài. Nguyện xong liền lấy miếng vải nhúng dầu quấn vào mình đốt lên cúng dường cho Đức Phật. Khi lửa cháy lên thì mùi bay lên thơm bát ngát. Khi cháy xong chổ ấy mọc lên 1 bông sen bằng ngọc, mọi người đều cho là ông NÀRADA sẽ thành một vị Phật tổ như ý nguyện.
-oOo-
Kế sau đó, Đức Phật DHAMMARÀJÀ-MUNI (chính là đức vua Ba tư nặc, PASEMANDI KOSALA) khi thấy 4 điềm rồi chán nản xuất gia, đắc đạo dưới cây Dừng, tuổi thọ 5 muôn năm, bề cao ngài 8 thước. Khi ngài đi đâu mỗi bước đều có bông sen bằng bánh xe mọc lên đở bàn chân ngài, khi ngồi thì có bông sen bằng 7 thứ ngọc mọc lên làm bảo tọa cho ngài ngồi. Do nhờ pháp Ba-la-mật của Đức Phật mà có cây Như ý thọ mọc lên rất nhiều để cho bá tánh cần dùng có đủ thực phẩm và đồ trang sức.
Nói về 1 pháp Ba-la-mật: có 1 kiếp ngài sanh làm người nghèo khổ lắm, tên là SUDDHÀ MÀNAVA, ở mướn coi giữ ao sen cho người. Họ cho phép mỗi bữa chỉ được hái 2 bông sen đổi gạo mà chỉ độ thôi. Một hôm đang đem 2 bông sen đi bán gặp Đức Phật KONÀGAMANA, Đức Phật thấy bèn chúm chiếm cười. Y liền bạch Phật tại sao ngài cười. Phật đáp: Người là em ta, vì ta đã thành Chánh giác, còn người sẽ thành Chánh giác trong ngày vị lai vậy. Nghe xong hết sức vui mừng, tính nhịp đói bữa đó để đem 2 bông sen dâng cho Phật và nguyện cho thành Chánh giác như ngài. Đức Phật thọ lấy bông sen và trãi ra ngồi lên trên. Thấy nắng lắm ngài bèn nguyện cho đừng nắng Đức Phật . Liền khi ấy có 4 cây mọc lên và 2 khổ vãi kết thành một tấm trần che Đức Phật cho khỏi nắng. Đức Phật bèn cầu chúc và thọ ký cho. Khi ấy tất cả chư thiên và phạm thiên nghe Đức Phật cầu chúc thì đều đồng nhau hoan hô và cầu chúc theo, tiếng nghe rền vang inh ỏi cả trời. Do sự hy sinh nhịn đói ấy nên khi thành chánh quả có cây như ý thọ mọc lên có đủ vật thực cho chúng sanh dùng và bố thí bông sen cho Phật, nên sau thành chánh quả, đi mỗi bước đều có bông sen mọc lên đở bàn chân ngài.
-oOo-
Kế tiếp, quả địa cầu sau có 1 vị Phật tổ ra đời tên là DHAMMASÀMI (chính là Ma vương thành Phật vậy) khi còn Bồ-tát thấy 4 điềm rồi chán nản xuất gia, đắc đạo dưới cây long thọ (SALA) tuổi thọ 10 muôn năm, bề cao ngài 40 thước, hào quang trong mình Phật luôn luôn phóng ra sáng ngời như mặt trời mặt trăng, luôn luôn chớp nhoáng tới lui không ngớt. Do nhờ pháp Ba-la-mật, khi Đức Phật đi, đứng nằm ngồi đều có cây lọng bề cao 16 do tuần che ngài luôn, và có hầm vàng hầm bạc mọc lên để cho chúng sanh cần dùng.
Nói về một pháp Ba-la-mật: khi ấy tiền kiếp ngài sanh lên tên là BODHINÀMA làm quan đại thần. Một hôm Đức Phật Ca Diếp (KASSAPA) nhập đại định, đức vua trong xứ ấy hay bèn cho quan quân canh giữ không cho ai được phép làm phước tới Đức Phật khi ngài xả định, nếu ai phi phép thì bị xử trảm. Lúc ấy vị đại thần BODHINÀMA bèn biểu vợ con sửa soạn thực phẩm và 1 lá y định đem dâng cho Đức Phật. Sáng ra ông đem vật thực và lá y tới trước chùa thấy quân lính bao vây dày đặc, thấy ông đem đồ lại thì hỏi ông thì ông nói thật rằng đem đồ dâng cho Phật, quân lính liền bắt ông đem về cho vua, vua truyền lịnh xử trảm. Lúc ấy Đức Phật vừa xả định biết được liền phóng hòa quang ra cho vị ấy thấy ngài ở trước mặt, ông rất mừng và đem vật thực và lá y dâng cho Phật, Đức Phật có vỗ đầu ông và nói xin cho nhà ngươi vô hại, rồi ngài thọ thực. Vị quan ấy dâng xong nguyện cho thành được 1 bậc chánh giác trong thời vị lai. Đức Phật thọ ký cho vừa xong thì quân lính đem ông ra xử trảm. Lúc chém ông thì mặt đất rung rinh làm cho đền đài nhà vua đều sụp đổ. Vua sợ hải bèn truyền lệnh cho đóng mấy cửa thành. Lúc ấy chỗ chém Bồ-tát liền mọc lên một tòa lâu đài bằng 7 thứ ngọc có 1 ngàn tiên nữ chầu chực và 16 hầm vàng bạc mọc lên 4 góc thành và cây Như ý thọ cũng mọc lên do oai lực phước báu của Bồ-tát. Còn vị quan ấy thì sống lại như thường, tuổi được 5 trăm, có cả vợ con và quan quân hầu hạ. Do phước báu liều mạng sống dâng cơm cho Phật, khi sanh ra kiếp nào cũng có thứ lúa sali mọc lên hằng hà sa số cho bá tánh gặt, cần dùng bao nhiêu cũng không hết.
-oOo-
Sau khi ấy, có 1 quả địa cầu có 2 vị Phật tổ ra đời. Vị thứ nhất tênlà NÀRADA (chính là RAHULA ASURIN là chúa của bọn ATULA thành Phật). Khi ấy thấy 4 điềm rồi chán nản bỏ nhà xuất gia, đắc đạo dưới cây trầm hương, bề cao ngài 60 thước. Hào quang phóng ra luôn luôn như chớp nháng, có thứ hào quang hình như bông sen sáng ngời phóng ra quanh quẩn luôn chung quanh Đức Phật. Do phước Ba-la-mật của Đức Phật mà mặt địa cầu trở thành thực phẩm, có 7 vị ngọt ngon chúng sanh móc lấy mặt đất mà dùng như vật thực.
Nói về một pháp Ba-la-mật: có 1 kiếp Bồ-tát sanh ra làm vua tên SIRIGUTTA có 8 vị Bà-la-môn tới nghe về pháp nguyện thành một Bà-la-môn cho vua nghe, rồi xin ngài cho ngôi vua, đức Bồ-tát cho hết rồi dẫn vợ và 2 con đem ở trên núi và thọ trì 6 giới theo các đạo sĩ và ẩn tu nơi ấy. Lúc ấy, có 1 con Dạï xoa bề cao 60 thước, tới trước mặt Bồ-tát xin 2 đức con để về ăn thịt. Bồ-tát liền cho 2 đức con và nói tôi đã ăn 7 con tượng, 14 con ngựa, 20 con thú rừng mà còn đói lắm xin ngài tội nghiệp cho 2 đứa con để ăn thịt. Bồ-tát liền cho 2 đứa con cho chằng rồi nguyện cho thành 1 vị Phật tổ để độ tận chúng sanh. Lúc ấy mặt địa cầu rung rinh, rúng động, tất cả chư thiên và phạm thiên đều vỗ tay hoan nghênh sự toàn thắng của Bồ-tát, tiếng nghe vang rền cả trời, lại giông mưa sấm chớp gầm thét nghe inh ỏi. Vừa lúc con Dạï xoa đem 2 đức con ra sau sala ngài mà ăn tươi nuốt sống, vừa cho Bồ-tát ngó thấy, nhưng ngài không buồn giận, lại vui thích với phước báu ngài đã làm (lời soạn giả, chúng ta phần đông đều nói từ bi, tội nghiệp mà chỉ từ bi với vợ con mình thôi, còn vợ con người có điều chi khổ sở, mình chỉ lấy con mắt ngó mà cười, chớ không tội nghiệp. Đừng nói chi tới bố thí vợ con cho người, mà dầu có ai rũ đi xuất gia tu hành, thì nói tôi vì lòng từ bi, tội nghiệp vợ con bỏ đi không đành, nói nghe cho cao thượng, chớ không lẽ nói mình vì quyết luyến hoặc vì ái tình mà dứt bỏ đi không được thì sợ thẹn. Còn trái lại các vị Bồ-tát ngài không vì từ bi, tội nghiệp vợ con mình, mà lại từ bi thương xót tất cả chúng sanh hơn là thương mình và vợ con mình. Vì thấy cái khổ chúng sanh chịu không được rồi không nghĩ tới mình hoặc vợ con mình mới dứt bỏ mà bố thí được).
-oOo-
Kế sau đó Đức Phật RANGSI MUNI (chính là SONABRÀHMA), khi thấy 4 điềm rồi chán nản xuất gia, đắc đạo dưới cây sơn, tuổi thọ 5 ngàn năm, bề cao ngài 30 thước. Hào quang trong mình Phật phóng ra luôn luôn, lúc ban ngày thì màu vàng, ban đêm thì màu xanh, sáng ngời như ngọc, nhờ hào quang của Đức Phật nên chúng sanh khi ấy màu da đẹp như vàng ròng, không dơ bẩn. Nhờ pháp Ba-la-mật của Phật mà chúng sanh chỉ lấy hột bông cải trồng xuống rồi mọc lên đủ thứ vật thực phẩm và đồ vật dụng đủ thứ không thiếu món chi.
Nói về một pháp Ba-la-mật của ngài: có 1 kiếp Bồ-tát sanh làm người lái buôn tên MÀGHA MÀNAVA rất thông thạo về nghề buôn bán một lời mười, nhưng 4 lần bị tai hại là bị chìm thuyền, nhà cháy, cướp giựt, sau lại bị nhà vua tịch thâu gia sản. Bồ-tát chán nản, bỏ đi chỉ lấy được 1 lá y vàng và 10 muôn lượng vàng đem theo để làm vốn. Gặp một vị tỳ khưu Thượng thinh văn của Đức Phật KAKUSANDHA nhập đại định 7 ngày, MÀGHA MÀNAVA trong sạch đem y và của bố thí hiến cho ngài và nguyện cho thành vị Phật tổ để độ tận chúng sanh. Vị A-la-hán cầu chúc xong chổ ấy bèn mọc lên một cây như ý thọ có 1 cái đền bằng ngọc cho ông ở nơi ấy.
-oOo-
Kế quả địa cầu sau đó có 2 vị Phật tổ ra đời, vị thứ nhất tên DEVADEPA (chính là SUBHA BRAHMA) khi thấy 4 điềm bèn chán nản xuất gia, đắc đạo dưới cây Cầy, tuổi thọ 8 muôn năm, bề cao ngài 40 thước, hào quang trong mình Phật túa ra luôn luôn màu vàng rực rở do nhờ phước Ba-la-mật của Phật mà bụi trần trên mặt đất biến thành gạo sali và cây như ý thọ mọc lên có đủ thực phẩm cho chúng sanh dùng.
Nói về 1 pháp Ba-la-mật: có 1 kiếp Bồ-tát sanh làm tượng (voi chúa) tên là CHADANTA có 6 ngà, gặc xác một vị A-la-hán nhập Niết bàn gần chổ ở, bèn nguyện cưa trên hư không rớt xuống rồi cưa ngà làm chổ để thiêu xác vị A-la-hán ấy và làm phước trong 7 ngày rồi nguyện cho thành Phật tổ, sau khi mãn kiếp ấy liền sanh về cung trời Đâu suất.
-oOo-
Kế sau đó Đức Phật NARASI MUNI (chính là TOTÌ BRAHMA thành đạo), khi thấy 4 điềm rồi chán nản xuất gia, thành đạo dưới cây cẩm lai, tuổi thọ 80 năm, bề cao ngài 30 thước, hào quang trong kim thân Phật túa ra luôn ban ngày ánh sáng như ngọc mani trắng, ban đêm thì màu vàng rực rở. Do phước Ba-la-mật của ngài, có lúa sali và cây như ý thọ mọc lên để cho bá tánh cần dùng, người ta lúc ấy do hào quang của Phật mà màu da như vàng ròng. Khi Đức Phật ngự nơi nào đều có cây lọng bằng bảy thứ ngọc báu cao 3 do tuần luôn luôn ở trên hư không, che Đức Phật.
Nói về một pháp Ba-la-mật: có 1 kiếp Bồ-tát sanh làm NANDA MÀNAVA, gặp Đức Phật độc giác bèn phát tâm trong sạch đem y cà sa đáng giá 100.000 đồng, dâng cho ngài và nguyện cho thành 1 bực chánh giác để độ tận chúng sanh.
Sau khi Đức Phật NARASI MUNI nhập diệt rồi có 1 thời không gian là 1 A-tăng-kỳ đại kiếp không có Đức Phật nào ra đời.
-oOo-
Kế sau đó có 2 vị Phật tổ ra đời, vị thứ nhất tên là TISSA (chính là voi NÀLÀGIRI thành đạo), khi thấy 4 điềm rồi chán nản xuất gia, đắc đạo dưới cây da, tuổi thọ 8 muôn năm, bề cao ngài 40 thước.
Hào quang trong mình Phật phóng ra đủ thứ, có thứ sángrực như lữa cả ngày và đêm, có thứ trắng xóa nhìn giống như chiếc thuyền, có thư như cây lọng, có thứ như cây phướn, có thứ túa ra theo 1000 lông mày của ngài, luôn luôn quay cuộn theo ngài. Do phước Ba-la-mật của ngài có nhiều cây như ý thị mọc lên có đủ thực phẩm và đồ trang sức cho chúng sanh dùng theo ý muốn.
Nói về một pháp Ba-la-mật: Có 1 kiếp ngài sanh làm vua tên DHAMMA SENA một hôm đi dạo vườn hoa với 2 con và vợ, có hai con Dạ xoa tới xin đứa con, khi về gần tới thành có 1 ông già lụm cụm tới xin hoàng hậu. Đứùc vua cho luôn, ông than mình nghèo khổ không có chi nuôi bà, vua bèn cho cả ngôi báu cho ông già ấy. Khi tôn vương xong, đức Bồ-tát bèn xuất gia theo đạo sĩ, đắc các pháp thần thông.
Một hôm nghe tin Phật KONÀGAMANA ra đời bèn bay tới đãnh lễ nghe pháp. Khi Đức Phật thuyết được một câu kệ thì ông xin Phật nghỉ, để ông bố thí pháp bảo, bèn lấy móng tay, nguyện cho bén như gươm cắt đầu bố thí pháp và nguyện cho thành 1 vị Phật tổ để độ chúng sanh thoát khỏi khổ, lúc ấy toàn thể địa cầu đều rung rinh lạ lùng ghê gớm.
-oOo-
Kế sau đó, có 1 vị Phật tổ ra đời tên là SUMANGANA (là voi tượng PÀLILÀYA thành đạo) khi thấy 4 điềm rồi chán nản xuất gia dưới cây Mù u, tuổi thọ 10 muôn năm, bề cao Đức Phật 30 thước, hào quang Đức Phật phóng ra luôn luôn quanh quẩn theo ngài, ban đêm thì màu trắng ngời như bạc, ban ngày thì màu sáng ánh như vàng ròng. Do phước Ba-la-mật của ngài có nhiều cây như ý thọ mọc lên, có đủ thực phẩm và đồ trang sức cho chúng sanh dùm không thiếu món chi, người ta lúc ấy sung sướng vô cùng, nhu cảnh trời vui mừng hát múa theo những tiếng nhạc du dương khi gió cuốn đưa chạm vào lá những cây như ý thọ ấy.
Nói về 1 pháp Ba-la-mật: khi ngài còn làm Bồ-tát, có 1 kiếp sanh làm chuyển luân vương, Bồ-tát có báu giàu sang trong 4 biển. Một hôm vua sai vị bá hộ bảo đi tìm vàng ngọc, ông đi tới một nước kia, khi hay tin Đức Phật KAKUSANDHA, đã ra đời, ông bèn vẽ hình Phật và về tâu cho vua nghe tự sự, vua hềt sức vui mừng đến chết giấc 3 lần. Khi tỉnh lại ngài bèn nhường ngôi cho vị bá hộ ấy vì có công cho ngài hay tin Đức Phật ra đời, rồi ngài đi chân không tới 1 cây đại thọ ngồi nghỉ, rồi thành tâm đãnh lễ Đức Phật từ phương xa và nguyện 8 món đồ xuất gia bay tới cho ông. Đức Phật biết được tâm ông bèn sai 8 món phụ tùng bay đi tới chổ vua nghĩ, vua rất vui mừng và thọ lãnh xuất gia tại chổ ấy. Đoạn ông lấy mão ngọc thảy lên không trung và sai đi bạch Phật rằng: ông đã xuất gia và đi đến đãnh lễ Phật. Mão ấy bay đến nơi Phật ngự và bạnh y như lời vua sai, rồi đức vua lần vào xóm đi khuất thực xin ăn, độ xong, tham thiền và đắc thiền, rồi bay tới nơi Phật ngự. Khi tới chùa gặp Phật, hết sức vui mừng đến chết giấc 3 lần. Khi tỉnh lại xin Đức Phật thuyết pháp cho nghe được 1 câu kệ, bèn xin Đức Phật ngưng thuyết để cho ông bố thí pháp bảo, vì pháp bảo quý giá, vô giá, rồi ông lấy móng tay nguyện cho bén như gươm cắt đầu mình để lên 2 bàn tay mà bố thí pháp cho Đức Phật và nguyện xin cho đắc thành chánh quả để độ tận chúng sanh, Đức Phật thọ ký cho.
-oOo-
Đức Phật Thích Ca bèn giảng giải thêm cho Xá Lợi Phất rằng: - Này Xá Lợi Phất, nếu ai chưa đắc đạo quả trong giáo pháp của Như Lai thì nguyện cho đắc đạo quả trong thời kỳ của 10 vị Phật tổ sau này sẽ được y như nguyện không sai vậy.
(Theo Chú giải, như ai tạo được phước lành là bố thí, trì giới, thì nên nguyện như vầy: IDAM VATTA ME PUNNAM ÀSAVAKKHAYO VAHAM HOTU ÀGÀGATE; nghĩa: do sự phước báu mà tôi đã làm đây xin kết được duyên để diệt tận các pháp trầm luân trong ngày vị lai. Khi đã nguyện như thế thì thế nào cũng gặp được 1 Đức Phật trong ngày vị lai chẳng sai vậy.)
Này Xá Lợi Phất, chư Bồ-tát đã được thọ ký 10 vị còn 500 vị nữa pháp Ba-la-mật chưa tròn đủ nên chưa có Đức Phật nào thọ ký cho.
10 HUỆ LỰC
Tất cả chư Phật đều có 10 huệ lực như nhau, có 32 tướng lạ in nhau, có 3 ân đức và 8 cái minh (cái giác) và 15 cái hạnh in nhau hết thảy.
10 huệ lực ấy là:
1- THÀNÀTHÀNA NÀNA: huệ biết rõ cái nhân để đưa chúng sanh đến chổ vui hoặc khổ đúng theo sự thật.
2- VIPÀKA JÀNANA NÀNA: huệ biết rõ cái quả của chúng sanh trong quá khứ, vị lai và hiện tại đều do nghiệp lành hoặc dữ mà trả quả.
3- SABBATTHA GÀMINÌ PATIPADÀ NÀNA: huệ biết rõ tất cả các pháp hành-vi thế nào để đưa chúng sanh đến chổ vui hoặc khổ trong tam giới.
4- NÀNÀDHÀTU JÀNANA NÀNA: huệ biết rõ tất cả nguyên chất khác nhau là: chất đất, nước, gió, lữa, hư không và chất thức v.v....
5- NÀNÀDHIMUTTI NÀNA: huệ biết rõ tất cả chúng sanh có căn cơ thấp hèn hay cao thượng.
6- PAROPARIYA NÀNA: huệ biết rõ biết rõ tất cả chúng sanh đều có tư cách và trình độ khác nhau.
7- JHÀNA VIMOKKHA SAMÀPATTI NÀNA: huệ biết rõ tất cả sự trong sạch hay dơ bẩn các sắc thiền và sự giải thóat.
8- PUBBENIVÀSÀNUSSATI NÀNA: huệ biết rõ tất cả những tiền kiếp của mình và của chúng sanh tới vô lượng vô biên kiếp, khi sanh ra dòng giống thế nào, tên họ chi, hình dáng ra sao, vui khổ thế nào đều biết rõ không sai v.v...
9- CUTÙPAPÀTANNÀNA: có huệ nhãn biết rõ tất cả sự sanh tử luân hồi của chúng sanh đều do theo duyên nguyện lành dữ cấu tạo.
10- ÁSAVAKKHAYA NÀNA: huệ biết rõ tất các các pháp trầm luân (là pháp làm cho chúng sanh chìm đắm mãi mãi không thoát khỏi khổ) và diệt tận các pháp ấy, không cho phát sanh lên nữa.
32 TƯỚNG LẠ:
1 - SUPATITTHITA PÀDÀ: hai lòng bàn chân bằng phẳng, phần đông phần bàn chân đều hủng (trủng vô) người lòng bàn chân ít hủng là người ít phiền não.
2 - ÀHIKO PANASSA PÀDATALESU CAKKÀNI: 2 lòng bàn chân đều có 2 bánh xe có 1000 cây căm.
3 - AYATAPANHI: gót chân thật dài bằng 3 lần của người bậc trung.
4 - DÌGHANGULI: ngón tay và ngón chân thật dài và nhọn lần như dùi trống.
5 - MUDUTARUNA HATTHAPADO: bàn tay và bàn chân thật mềm mại.
6 - JALA HATTHAPÀDO: 2 bàn tay và bàn chân có chỉ lẫn lộn như lưới giăng thật đẹp.
7 - USSANKHAPÀDO: cổ chân nổi lên rõ rệt trên lưng bàn chân.
8 - ENIJANGHO: ống quyển dài và tròn như ống chân con nai.
9 - THITAKOVA ANOMAMANTO: 2 cánh tay thật dài, ngài đứng không cuối xuống nhưng 2 bày tay rờ tới đầu gối
10 - KOSOLITA VATTHAGUYHO: ngọc hành (dương vật) ẩn vào trong bọc da (như dương vật con bò).
11 - SUVANNO VANNA: màu da ngài sáng như vàng ròng (kim thân)
12 - SUKHUMACCHAVI: da thịt mịn, bụi rớt không dính được.
13 - EKEKALONG: mỗi lỗ chân lông chỉ mọc 1 sợi lông đều nhau mỗi lỗ.
14 - UDDHAGGA LOMO: tất cả sợi lông đều dựng đầu trở lên toàn màu xanh như bông biếc (người thườøng thì sợi lông đều thòng xuống)
15 - BRAHMUJUGATTO: thân hình ngay thẳng giống như mình trời Phạm thiên (đều đặn và ngay thẳng).
16 - SUTTUSSADO: có 7 chỗ thịt đều bằng phẳng là: thịt cần cổ, thịt hai lưng bàn tay, 2 lưng bàn chân, và 2 chả vai đều bằng thẳng đầy đủ chớ không hủng.
17 - SIHAPUBBADDHA KÀYO: có thân hình phía trước giống như thân hình sư tử hẩu.
18 - PÌTANTARAMSO: thịt giữa khoảng hai chả vai đều bằng phẳng.
19 - NIGRODHA PARIMANDALO: thân hình ngài giống như cây da (là sải tay dài bao nhiêu là thân hình cũng cao in như vậy).
20 - SAMAVATTHAKKHANDHO: cần cổ đều và tròn trịa
21 - RASAGGA SAGGÌ: có 700 sợi gân thật nhỏ châu đầu lại cuốn lưỡi ở cần cổ để lãnh lấy vị trần khi để vô lưỡi liền đem khắp châu thân.
22 - SIHAHANU: có cằm tròn như cằm sư tử hoặc giống như trăng bữa 12.
23 - CATTÀLÌSA DANTO: có 40 cái răng (hàm trên 20, hàm dưới 20)
24 - SAMADANTO: những cái răng ấy đều đặn và bằng nhau.
25 - AVIVARADANTO: những răng ấy đều khít nhau cả
26 - SUSUKKHA DATHO: 4 cái răng nhọn trắng và sạch.
27 - PAHUTAJIVATO: có lưỡi mềm thật dài và lớn, có thể le ra che đậy cả mặt, hay là xỏ vào lỗ mủi hoặc lổ tai.
28 - BRAHMARASO: tiếng nói trong trẻo êm dịu như tiếng đại Phạm thiên hay là chim KÀKAVEKA.
29 - GOPAKHUMO: những lông nheo giống lông bò con.
30 - ABHINÌLA NETTO HOTI: tròng con mắt xanh đậm như mắt bò con.
31 - UNNÀ BHAMUKKHANATARO JÀTA: những lông mày màu trắng, nghi thức mềm mại như bông gòn.
32 - UNHISASISO: cái trán và cái đầu tròn trịa và tóc bao phủ đều khoanh lại phái nghi thức mặt coi như là đội mão.
CÁC PHÉP LẠ TỰ NHIÊN TRONG LÚC BỒ-TÁT GIÁNG SANH
Tất cả Bồ-tát quá khứ, vị lai, hiện tại, khi giáng sanh vào lòng mẹ trong kiếp chót đều tự nhiên có những phép lạ xảy ra.
Khi Bồ-tát từ trên cung trời đâu xuất giáng sanh vào lòng Phật mẫu thì toàn cả quả địa cầu đều rung rinh chuyển động và hào quang sáng ngời chiếu cả 10 ngàn thế giới sa bà, làm cho tất cả chúng sanh thấy nhau rõ ràng.
Có chúng sanh khi vào lòng mẹ, biết ta đương vào lòng mẹ, nhưng khi ở trong bựng mẹ và khi lọt lòng mẹ thì không biết mình, có chúng sanh khi vào cũng biết, khi ở trong bụng mẹ cũng biết. Còn tất cả chư Bồ-tát thì khi vào lòng mẹ, khi ở trong bụng và khi lọt ra khỏi lòng mẹ đều biết mình cả. Lúc ở trong lòng mẹ thì luôn có 4 vị chư thiên hộ trì gìn giữ.
Chúng sanh khi ở trong bụng mẹ thì 2 tay nắm lại đở cằm, mặt day vào lưng mẹ, còn Bồ-tát ở trong bụng mẹ thì day mặt ra phía trước, ngồi xếp bằng như vị pháp sư.
Khi Bồ-tát giáng sanh vào lòng mẹ rồi thì từ ấy Phật mẫu không muốn người đàn ông nào gần gũi, chán nản tình dục và tự nhiên nguyện giữ ngũ giới và thân thể hằng được an vui mạnh khỏe. Khi Bồ-tát ở trong lòng thì Phật mẫu thấy rõ ràng như ở ngoài, chúng sanh ở trong lòng mẹ khoảng 8, 9 tháng hoặc là 9 tháng 10 ngày, còn chư Bồ-tát thì chẳn 10 tháng mới ra khỏi lòng. Khi ra khỏi lòng thì cũng như vị pháp sư từ trên pháp tọa ngay hai chân ra rồi đi xuống (là khi sổ lòng hai chân ra trước). Đây là sự tự nhiên khi Bồ-tát lọt ra khỏi lòng chưa rớt tới đất thì có 4 vị Phạm thiên ở trên cung SUDDHÀVASA xuống đở lấy Bồ-tát ẳm đem lại trước mặt Phật mẫu mà tâu rằng: Ngài đây là con cao thượng quý báu của ngài đã trổ sanh, rồi mới để xuống đất. Bồ-tát đứng vững xong rồi đi 7 bước đều có bông sen mọc đở lên bàn chân, day mặt về hướng bắc, nhìn khắp nơi, chỉ tay thiên, chỉ tay địa và nói:
AGGOHAMASMI, JETTHOHAMASMI, SETTHOHAMASMI LOKASSA AYAMANTIMÀ ME JÀTI NATTHIDÀNI PUNABBHAVOTI.
Trên trời dưới đất chỉ có ta đây là lớn, cao thượng và quý báu, kiếp này là kiếp chót của ta vậy.
Rồi mới tới mấy cô hầu rữa ráy cho.
Phần đông phụ nữ khi sanh con, nằm nghi thức hoặc ngồi sanh cũng có, còn Phật mẫu thì vẫn đứng hái bông như thườøng rồi sanh Bồ-tát ra, khi sanh ra thì có 2 giọt nước nóng và mát từ trên hư không chảy xuống cho Phật mẫu và Bồ-tát tắm rữa.
Chúng sanh khi sanh ra thì thân thể dơ bẩn, còn Bồ-tát thì thân mình sạch sẽ như cục ngọc mani mà thợ đã trau dồi rồi để trên tầm lụa đỏ vậy. Khi lọt ra khỏi lòng thì toàn quả địa cầu đều rung rinh chuyển động cả núi sông và hào quang chiếu sáng khắp nơi, vô lượng vô biên thấu cả trong tam giới.
Tự nhiên sau khi Phật mẫu sanh được 7 ngày thì thăng hà (từ trần) đặng sanh về cõi trời Đâu xuất để hưởng sự thanh nhàn hơn trần gian, đây là các pháp tự nhiên khi chư Bồ-tát giáng sanh đều in như hết thảy.
BA ÂN ĐỨC CỦA PHẬT
Tất cả chư Phật đều có Aân đức vô lượng vô biên không ai có thể nào kể cho hết được, nhưng nói tóm lại có 3 ân đức là:
1) PARISUDDHI GUNA: Có ân đức là hoàn toàn trong sạch cả thân, khẩu, ý, dầu trước mặt hay sau lưng người cũng vậy.
2) KARUNÀ GUNA: có lòng bi mẫn thương xót tất cả chúng sanh như mẹ thương con (Phật ái chúng sanh như mẫu ái tử, còn thường nhơn thì thương yêu tội nghiệp vợ hơn là thương xót đến chúng sanh khác).
3) PANNÀ GUNA: có ân đức là trí tuệ hoàn toàn sáng suốt không có vật chi che án trí tuệ ngài, thông cả tam giới thấu cả 4 loài, biết rõ ái dục phiền não, biết rõ nguyên nhân sanh ra ái dục phiền não, biết rõ nơi diệt tận ái dục phiền não, biết rõ phải thực hành thế nào để diệt tận ái dục phiền não. Ngài có 3 ân đức ấy mới có thể hóa độ chúng sanh luôn Chư thiên và nhân loại một cách dễ dàng được.
MINH VÀ HẠNH CỦA ĐỨC PHẬT
Tất cả chư Phật đều có 8 Minh hay là Giác và 15 Hạnh (sự hành vi) in nhau.
8 MINH HAY 8 GIÁC (VIJJÀ):
1) VIPASSANÀ NÀNA: Minh sát minh là tuệ biết rõ 10 pháp minh sát.
2) MANO MAYIDDHI: Hóa tâm minh là biết biến hóa tâm mình ra nhiều người hoặc nhiều người ra 1 nguời.
3) IDDHIVIDHANNÀNA: Thần thông minh là biết biến hóa các pháp thần thông.
4) DIPASOTANNANÀ: Thiên nhĩ minh là có lỗ tai nghe được những tiến nói xa hoặc gần của người và Chư thiên.
5) PAROPARIYANNÀNA: Tha tâm thông là biết rõ tâm của kẻ khác hoặc là tham, sân, si vv....
6) PUBBE NIVÀSÀNUSATI NÀNA: Túc mạng minh là biết rõ những tiền kiếp mình và tất cả chúng sanh.
7) CUTTOPAPÀTANNÀNA: Sanh tử minh là có nhãn thông thấy rõ sự sanh tử luân hồi của chúng sanh đều do theo duyên nghiệp mà cấu tạo.
8) ÀSAVAKKHAYA NÀNA: Lậu tận minh là huệ biết rõ các pháp trầm luân mà diệt tận.
15 HẠNH (CARANA)
1) SÌLA SAMVARO: Thu thúc theo giới hạnh.
2) INDRIYA SAMVARO: Thu thúc lục căn cho thanh tịnh là không cho tâm vui hay buồn, khi lục căn tiếp xúc với lục trần.
3) BHOJANE MATTANNUTÀ: Tư cách biết tiết độ trong vật thực (chỉ ăn một buổi ngọ thôi).
4) JÀGARIYÀNUYOGO: Luôn luôn thức tỉnh ít mê ngủ.
5) SADDHA: Có đức tin chân chánh theo lý nhơn quả và Bồ đề giác.
6) SATI SAMPAJJANNA: Luôn luôn có sự ghi nhớ và biết mình.
7) HIRI: Hổ thẹn tội lỗi.
8) OTTAPPA: Ghê sợ tội lỗi.
9) BÀHUSACCA: Sự nghe nhiều học rộng.
10) VIRIYA: Sự tinh tấn đúng theo pháp Tứ chánh cần
11) PANNÀ: Trí tuệ thấy rõ lý Tứ diệu đế.
12) PATTHAMA JHÀNA: Rành mạch trong Sơ thiền.
13) DUTIYA JHANÀ: Rành mạch trong Nhị thiền.
14) TATIYA JHÀNA: Rành mạch trong Tam thiền
15) CATTUTHA JHÀNA: Rành mạch trong Tứ thiền.
Viết xong tại Tam Bảo Tự, Đà Nẳng
mùa thu 15-10-1954 -- Phật lịch 2498
--- o0o ---