2.
Trí tuệ bậc thánh có thể thấy được quá khứ
Phật
Pháp vô biên. Chỉ có Phật giáo mới có thể nói rõ được nguyên nhân vì sao
xảy ra chiến tranh. Chúng ta đưa ra một ví dụ: Gieo hạt giống dưa xuống
đất, đó gọi là nhân. Sau hạt giống nảy mầm, lớn lên ra trái, gọi đó là
quả. Trợ duyên chính là điều kiện sinh trưởng. Giống như sau khi gieo
hạt giống xuống, phải tưới nước, bón phân, có ánh sáng mặt trời mới sinh
ra quả. Cho nên, chắc chắn có nhân, có duyên mới có quả. Như vậy, xem
ra rõ ràng hơn rất nhiều. Thấy quả thì biết ngay nhân, giống như thấy
dưa thì biết ngay dưa là từ hạt giống dưa mà có. Hiện tại, sở dĩ bị quả
báo chiến tranh, là do đời trước tạo nhân chiến tranh. Quý vị phải biết,
quả báo của chiến tranh là chết chóc, thì nhân của nó chắc chắn phải là
nhân giết chóc. Lại thêm trợ duyên của bọn dã tâm và chủ nghĩa đế quốc,
nên đã xảy ra quả báo chiến tranh. Nhưng rất tiếc, phàm phu không biết
được nhân này, chỉ có Phật, Bồ tát mới hiểu rõ được. Điều này không phải
nói dóc hay suy đoán. Phật, Bồ tát có thiên nhãn thông, cho nên thấy
rất rõ nhân quả của chiến tranh, thấy được chúng sinh từ xưa đến nay
luôn tạo nghiệp sát, không ai là không sát sinh. Và sát sinh được phân
làm hai: một là trực tiếp giết, hai là gián tiếp giết. Tạo hai nghiệp
sát này, lâu này gặp duyên tất kết thành quả chiến tranh. Vậy thì, thế
nào là trực tiếp giết và gián tiếp giết? Đồ tể trực tiếp giết heo, dê,
bò gọi là trực tiếp giết. Vì ngày nào chúng ta cũng ăn thịt nên đồ tể
mới giết. Vì chúng ta họ mới giết, nên gọi là gián tiếp giết. Hai loại
này đều là nhân sát.
3.
Thủ phạm giết chính
Mọi người đều cho rằng, tội
của người giết nặng còn tội của người ăn nhẹ, điều này không đúng. Luật
pháp chính phủ, phạm tội cũng chia làm hai loại, đó là chủ phạm và tòng
phạm.
Chủ phạm chính là tự tay mình làm, tòng phạm là hùa theo.
Vậy thì người trực tiếp giết là chủ phạm hay là người ăn là chủ phạm?
Điều này không nhất định. Thí như lúc đồ tể giết heo đi bán, lúc này đồ
tể chính là chủ phạm, người mua thịt là tòng phạm. Nhưng thịt không đủ
bán, người mua thịt nhiều quá, đồ tể bèn giết thêm, lúc này người mua
thịt trở thành chủ phạm, và đồ tể là tòng phạm. Cho nên, có nhân như thế
nào thì mỗi người tự chịu quả báo như thế ấy. Người thời nay không tin
lý nhân quả báo ứng bằng người xưa. Trước đây, không những dân lành sợ
nhân quả, mà ngay cả kẻ đồ tể cũng sợ nhân quả báo ứng, nên lúc sắp giết
heo, miệng họ luôn nói thế này: “Heo này! Heo này! Mày đừng hận tao,
mày là món ăn của thế gian, họ không ăn tao không giết, mày hãy đòi nợ
người ăn thịt ấy!”. Bạn xem, chẳng phải người giết heo cũng sợ heo đến
đòi mạng sao? Và rốt cuộc heo đòi nợ người ăn hay là đòi nợ người giết?
Tục ngữ có câu nói rất hay: “Oan có gia trái có chủ”. Cho nên ăn có quả
báo của ăn, giết có quả báo của giết.
4.
Tình cảnh của chiến tranh
Nói đến đây, chúng ta đã
hiểu rõ được nguyên do đưa đến chiến tranh. Vậy thì rốt cuộc chiến tranh
đáng sợ ra sao? Có người đã từng sống trong chiến tranh, nhưng thời
gian qua lâu cũng quên mất. Có người chưa từng chứng kiến, không biết sự
đáng sợ của chiến tranh là gì, cho nên nay chia tình huống của
chiến
tranh làm bốn loại để thuyết minh.
Thứ nhất: giết
người
Thời xưa lúc đánh nhau, nhân dân sống chết cùng với binh
lính. Một khi đối phương chiếm thành thì nhân dân vô tội cũng bị giết
như binh lính. Việc “đổ thành bi thảm” chính là như thế.
Có người
sẽ nói: “Thời xưa đã qua rồi, bây giờ không còn chuyện “làm cỏ cả
thành” nữa”. Nên biết chiến tranh hiện tại là chiến tranh “quy mô lớn”,
còn ghê gớm, bi thảm hơn thời xưa nhiều. Bây giờ nước A chế bom nguyên
tử thì nước B cũng chế bom nguyên tử. Vậy thì thử nghĩ, mục đích của
việc chế tạo bom nguyên tử là để dùng vào việc gì? Có phải cất bom mãi
trong kho không? Giả như một trái bom từ trên không rơi xuống thì ai có
thể bảo đảm chắc chắn mình không bị chết trong khói lửa?
Thứ
hai: phóng hỏa
Từ xưa đến nay, hễ có chiến tranh là
có lửa cháy. Thời nay có đủ thứ vũ khí chuyên dùng để đốt phá đối
phương như bom dầu, bom cháy... Một khi phát cháy, nếu không chết người
thì cũng đốt hết nhà cửa, tài sản.
Thứ ba:
nhà tan
Mọi người vì muốn tránh thương vong chiến tranh nên phải
bỏ chạy, cho nên nhà tan cửa nát.
Thứ tư:
loạn lạc
Pháo hỏa ầm ầm bên mình, mọi người đều vội vàng bỏ chạy.
Tay dắt con, tay bế cháu, ùn ùn chật cả bến xe, đường xá. Xe chạy rồi,
tai nghe tiếng con khóc cũng chẳng biết làm gì. Cha mẹ, vợ chồng, anh em
đều ly tán. Tình trạng chiến tranh là như thế.
Hiện tại, tuy
chiến tranh còn chưa xảy ra, nhưng nhân chiến tranh đã tạo quá lâu rồi,
một mai gặp duyên tất sẽ bạo phát. Và khi duyên chiến tranh còn chưa
đến, tạm thời cũng có biện pháp cứu vãn. Nhưng phần nhiều người ta không
tin nhân quả, nên thương cũng chẳng giúp được gì. Người xưa nói: “Hòa
khí đưa đến an lành, hung ác dẫn đến tai ương”. Nghĩa là: Hòa khí sẽ an
lành, tốt; hung ác mang tai họa, xấu. Oan hồn chắc chắn sẽ đến đòi mạng.
Những lời của người đồ tể như đã nói trên, bạn thử nghĩ xem, muốn đòi
nợ người ăn thịt, bởi nợ nó quá lâu, nó phải đòi. Đòi nợ gì? Đó chính là
kiếp can qua.
Nói đến đây e mọi người còn chưa tin, đưa ra thêm
một sự thật nữa để chứng minh: đời nhà Tống, có một cao tăng sau khi
nhập định, quán sát biết được huyện An Dương sắp xảy ra chiến tranh. Vào
thời vua Tống Huy Tông, Kim binh phương Bắc đánh xuống phía Nam. Đến
đâu Kim Binh cũng tàn sát, đốt phá tan hoang, nhất là huyện An Dương,
tỉnh Hà Nam bị tai họa tổn hại nặng nề nhất.
Bấy giờ, ở An Dương
có một vị cao tăng nhập định quán sát được việc nhân quả. Người An Dương
không biết tai nạn thảm hại như thế nguyên nhân do đâu, nhưng chắc chắn
là phải có duyên cớ, liền đi thỉnh vấn vị cao tăng ấy. Cao tăng bèn nói
với mọi người: “Bởi quá khứ người An Dương tạo nghiệp sát nhiều hơn
những nơi khác, nên đời nay bị quả báo chiến tranh nặng hơn các nơi
khác. Nhưng sự báo ứng của nghiệp sát này chưa hết, tai hại của chiến
tranh vẫn còn tiếp tục xảy ra. Quý vị mau mau hồi tâm chuyển ý giới sát
ăn chay, mới có thể giảm nhẹ quả báo ác trong tương lai!”. Nhưng người
An Dương đều không tin lời của cao tăng, vẫn cứ sát sinh như cũ. Sau
này, mấy năm liên tục, binh lửa liên miên, người An Dương đều bị sát hại
thảm khốc. Về sau mới tin lời của vị cao tăng này là đúng, nhưng đã quá
trễ. Công án này đã chứng minh cho sát sinh là nhân, chiến tranh là
quả.
5.
Thứ tự của giới sát
Giới sát là biện pháp căn bản
để dập tắt chiến tranh. Hiện tại, kiếp can qua đã bày ra trước mắt.
Chiến tranh là do nhân sát hại mà ra. Chúng ta cần phải dứt ngay nhân
sát, nghĩa là “giới sát” để tránh nỗi đau khổ bị chiến tranh cho tương
lai. Đây là biện pháp căn bản.
Lại nữa, chiến tranh là “cộng
nghiệp”, nhưng cũng có “biệt nghiệp” trong cộng nghiệp. Nghĩa là, tất cả
mọi người đều tạo nghiệp sát, chỉ có ta không sát thì ta sẽ không bị
quả báo khổ chung với mọi người. Nhưng chúng ta thường nghe nói: “Tôi
không làm đồ tể, tôi cũng không sát sinh, nhưng bắt tôi không ăn thịt
thì không thể được, phải làm thế nào?”. Bạn không sát sinh, rất tốt! Vậy
tôi sẽ bày cho bạn một cách. Bởi vì tai nạn chiến tranh có ba tầng bậc,
công đức giới sát cũng có ba tầng bậc. Công đức bậc thượng sẽ dứt trừ
tai nạn bậc thượng, công đức bậc trung sẽ dứt trừ tai nạn bậc trung,
công đức bậc hạ sẽ dứt trừ tai nạn bậc hạ.
Công đức bậc thượng là
trường trai. Nếu không làm được cũng cần phải thấy quả sợ nhân. Công
đức bậc trung là tháng 6, tháng 12, mỗi tháng đều phải ăn chay. Vậy nếu
vẫn không làm được thì làm công đức bậc hạ. Công đức bậc hạ là mỗi tháng
ăn chay 10 ngày, 6 ngày và các ngày vía của chư Phật, Bồ tát, ít nhất
cũng phải ăn “tam tịnh nhục”.
Thế nào gọi là tam tịnh nhục? Tam
tịnh nhục là không thấy giết, không nghe tiếng kêu, không phải giết cho
mình ăn. Có một tiệm cơm chay treo câu đối rất lý thú. Câu trên: “Một
ngày ăn chay, thiên hạ giết nhau ta không bị”. Câu dưới: “Nợ có ai hay
đội sừng mang lông xưa nay trả”. Nghĩa là: Ăn chay một ngày, ngày nay
hàng vạn chúng sinh bị giết không có ta trong đó, đòi nợ trả nợ nào có
mấy ai hay! Bạn xem hai sừng trên đầu trâu bò, từ xưa đến nay đều là đòi
rồi trả, trả rồi đòi. Chúng ta thử nghĩ có đáng sợ không? Chí thành
khuyên quý vị, để tiêu diệt tai kiếp chiến tranh đáng sợ khi còn chưa
đến, hãy mau ăn chay, hãy mau giới sát!
Nên biết:
“Xưa nay trong một bát canh
Oán
sâu như bể hận thành non cao
Muốn hay nguồn gốc binh đao
Lắng
nghe lò mổ tiếng gào đêm thanh”.
Đây là lời nói thật!
6.
Nhân quả có thể thay đổi định luật nhân quả
a.
Định luật nhân quả không mất
Chắc chắn có người sẽ nghĩ:
“Nhân quả mà thay đổi được thì không hợp với lý nhân quả trong đạo
Phật”. Đạo Phật nói có nhân có quả, lý nhân quả không bao giờ mất, tại
sao lại nói nhân quả có thể thay đổi? Đúng, đạo lý nhân quả không bao
giờ mất. Trong kinh cũng có một bài kệ rằng: “Cho dù trăm ngàn kiếp,
nghiệp tạo ra hãy còn. Lúc gặp phải nhân duyên, quả báo phải nhận chịu”.
Nghĩa là: Giả sử có trải qua trăm ngàn kiếp đi nữa, một thời gian lâu
dài như thế, thì những nghiệp tốt xấu mà mỗi người ra tạo cũng không
mất. Nên biết, giữa nhân và quả còn có cái duyên, khi nhân gặp duyên thì
mình vẫn phải chịu quả báo.
b. Định luật nhân quả không thể
đánh đổi
Chắc chắn có người sẽ nghĩ: “Nếu đời trước tạo
ác quá nhiều, hôm nay làm nhiều việc thiện để bù lại e cũng không được”.
Đúng, không được. Bởi vì định luật nhân quả là không thể đánh đổi.
Thiện có thiện báo, ác có ác báo, đây là định luật tất nhiên. Giống như
trên một mảnh đất, cùng một lúc gieo hai giống dưa và đậu. Sau này dưa
nhất định ra dưa, đậu nhất định ra đậu. Dưa không thể ra đậu, đậu cũng
không thể ra dưa. Nhưng hiện tại lại nói nhân quả có thể thay đổi, là
thay đổi thế nào?
7.Biết nhân, dứt
duyên, quả thay đổi
Phải hiểu rõ sự lý.
Quý
vị nên biết: nhân là nhân, duyên là duyên, quả là quả. Chia làm ba đoạn
như thế để thuyết minh. Nhân nhờ duyên mới ra quả. Điều mà hiện tại muốn
nói là duyên. Thế nào gọi là duyên? Chúng ta thử nghĩ, chiến tranh có
xảy ra không? Chắc chắn quý vị sẽ trả lời: không xảy ra. Đó là duyên của
chiến tranh chưa đến. Lúc mà duyên chưa thành thục thì mới có thể thay
đổi nhân quả. Nếu đoạn được duyên chiến tranh khi còn chưa thành thục
thì có thể thay đổi được quả báo chiến tranh. Nhưng một khi duyên chiến
tranh đã chín muồi thì không có cách gì cứu được, bởi quá khứ cộng
nghiệp tạo duyên đã chín mùi. Dù bạn có thần thông quảng đại cũng không
cách gì giải quyết nổi.
a. Phải vận
dụng phương pháp
Vậy thì khi duyên chiến tranh còn chưa
chín muồi, phải dùng cách gì để cứu vãn? Phải dùng phương pháp “tăng
thượng duyên” tiêu diệt, như bác sĩ trị bệnh “tùy bệnh cho thuốc” vậy.
Nếu bệnh nhân bị sốt thì phải cho thuốc giải nhiệt, bệnh nhân mắc chứng
hàn thì phải cho Ôn Bổ Tể. Cho nên, đối bệnh cho thuốc đúng là lương
dược. Giả như bệnh nhân bị sốt lại cho thuốc bổ, bị mắc chứng hàn lại
cho thuốc giải nhiệt. Bác sĩ như thế là đã giết người ta mất rồi. Nên
biết quả báo bị chiến tranh là đời trước đã tạo nhân sát, cho nên phải
chịu quả báo bị giết. Hiện tại, chỉ cần dứt nhân sát thì không có duyên
sát; không có duyên sát thì không có quả báo bị sát. Như thế sẽ không có
chiến tranh.
Vấn đề dứt duyên, nếu mọi người vẫn còn chưa hiểu,
ngay đây sẽ đưa ra một câu chuyện để dẫn chứng:
Ngày xưa, ở làng
nọ có một ngôi chùa, có một pháp sư giảng kinh ở đó. Trong hội chúng có
một người đã từng tạo đại ác nghiệp. Sau khi nghe kinh xong bèn hỏi pháp
sư rằng: “Ngày xưa con sát sinh hại mạng, đã tạo đại ác nghiệp. Bây giờ
phải làm thế nào?”. Pháp sư dạy rằng: “Phải chân thành phát lồ sám hối.
Hiện tại quả còn chưa đến, đoạn duyên có thể kịp”. Nhưng người này chỉ
biết có nhân và quả, không hiểu lý duyên sinh. Pháp sư bèn phương tiện
khéo léo, đưa cho anh ta một bọc giống cỏ gai, bảo anh ta vãi trên hai
luống đất trống phía Đông Tây sau chùa, và nói: “Hạt gai vãi trên luống
đất phía Đông, chỉ vãi tro, không tưới nước. Hạt gai vãi trên luống đất
phía Tây ngày nào cũng tưới nước”. Pháp sư lại dặn dò: “Cứ mỗi 5 ngày đi
chân trần dẫm tới dẫm lui trên luống một lần, hai luống Đông Tây cũng
đều như thế!”.
Người này lần đầu dẫm trên cả hai luống, nhưng
không thấy có cảm giác gì. Pháp sư lại bảo anh ta: “Luống phía Tây vẫn
cứ tưới nước mỗi ngày, còn luống phía Đông vẫn như cũ, không tưới”. Cách
5 ngày sau, cũng chân trần hai bên đều dẫm. Lại cách 5 ngày nữa, người
này cũng vẫn như thế dẫm tới dẫm lui. Lúc này, anh ta bỗng thấy những
hạt gai ở luống đất phía Tây đã nứt mầm. Lại qua 5 ngày sau, thấy mầm đã
lớn hơn 3 tấc và đã ra hoa vàng, anh ta vẫn cứ dẫm tới dẫm lui. Lại qua
5 tuần sau nữa, trên luống phía Tây không thể đi chân đất được nữa, vì
gai chích không đi được. Pháp sư bèn hỏi: “Lúc đi trên luống đất phía
Đông con có cảm giác thế nào?”. Người ấy trả lời: “Không có cảm giác
gì!”. Pháp sư lại hỏi: “Cả hai luống đất đều vãi giống gai, tại sao
luống đất phía Đông dẫm được, mà luống phía Tây không dẫm lên được?”.
Lúc này, anh ta mới vỡ lẽ. Thì ra, luống đất phía Đông chỉ vãi tro không
tưới nước, vì đoạn mất duyên nên mất tác dụng. Còn luống đất phái Tây
ngày ngày đều tưới nước. Tăng thượng duyên nước này đã sinh ra sức mạnh.
Cho nên, rõ ràng là cùng gieo giống, nhưng luống phía Đông không nảy
mầm mà luống phía Tây lại rất xanh tốt. Đây chính là lý nhân quả có thể
chuyển đổi. Có duyên thì sinh, không duyên thì diệt.
b. Tầng
cấp thứ tự đoạn duyên
Phải dùng cách gì để đoạn duyên?
Thứ tự đoạn duyên có thể chia làm thượng, trung, hạ ba cấp công phu.
Công phu bậc hạ là bắt đầu từ hôm nay không sát sinh nữa, ăn tam tịnh
nhục – ăn thịt không thấy giết, không nghe tiếng kêu, không phải giết
cho mình ăn. Công phu bậc trung là không những không sát sinh mà còn
trường trai, làm được như thế là đã bằng với A-la-hán tự lợi. Công phu
bậc thượng là không những không sát, trường trai mà còn tiến thêm một
bước là phóng sinh cứu mạng. Hạng người này đã bằng với Bồ tát lợi tha.
Ba cấp công đức trên có thể tùy duyên lượng sức mà làm. Bây giờ chúng ta
phân biệt thêm như sau:
* Công phu bậc hạ đoạn duyên giới sát, dễ
hành, nghĩa là tùy duyên tiêu nghiệp cũ, không tạo thêm nghiệp mới.
Chúng ta giải thích công phu bậc hạ dễ hành trước. Phải hành từ đoạn
duyên giới sát. Cổ đức có hai câu kệ rằng: “Tùy duyên tiêu nghiệp cũ,
không tạo thêm nghiệp mới”. Nghĩa là: Có thịt thì ăn, không thịt thì
thôi. Tùy duyên thì sẽ tiêu trừ tội cũ, nhất thiết không nên vì thèm
thịt mà lại sát sinh hại mạng, tạo thêm nghiệp mới để rồi bị tai ương.
Trong
Đại Tạng Kinh có bộ luận Bà-sa. Trong đó có câu rằng: “Nếu trì trai giữ
giới trong một ngày đêm, thì trong các đời tới, chắc chắn không bị gặp
ác báo chiến tranh”. Bạn xem, công đức trì trai giữ giới chỉ có một ngày
đêm mà lại lớn như vậy, huống hồ gì công đức trường trai không sát cả
đời, chẳng lẽ không lớn sao? Nói đến đây, có lẽ có người sẽ hỏi: “Nghe
thầy nói không sát sinh tránh được ác báo cho đời sau, nếu mong đời này
không bị có được không?”. Câu trả lời của tôi là được. Có một câu chuyện
có thể làm chứng:
Ngày xưa, có một người đáp thuyền đi xa. Trên
thuyền, thấy trong thùng của chủ thuyền có hai con cá đang bơi lội rất
vô tư, có thể đến trưa sẽ bị giết thịt. Người ấy mới nói với chủ thuyền:
“Anh bán hai con cá này cho tôi đi!”. “Được!” – Chủ thuyền nói – “Nhưng
đắt lắm, hai con giá 300 đồng. Lúc nào anh muốn ăn, tôi sẽ làm thịt nấu
nướng cho!”. Người ấy bèn lấy ra 300 đồng đưa cho chủ thuyền để mua hai
con cá. Nhất thời không đành lòng ăn thịt chúng nên nói: “Hôm nay tôi
không thích ăn cá, xin ông đừng nấu!”. Cách một ngày sau, chủ thuyền lại
hỏi: “Hôm nay nấu cá cho anh nha?”. Người ấy bèn trả lời: “Đừng! Đừng!
Hôm nay tôi ăn chay!”. Thật ra, anh ấy không có ăn chay, chẳng qua là
anh ta thấy hai con cá bơi lội trong thùng dễ thương quá, cho nên không
nỡ ăn thịt chúng. Giết chúng càng cảm thấy tội, cho nên mới nói dối mình
ăn chay. Cuối cùng, anh ta thả cá xuống sông, trả tự do cho chúng.
Lại cách một ngày sau, thuyền đang giong buồm trên sông, bỗng cuồng
phong nổi dậy, sóng cao ngút trời, cả thuyền đều sợ khiếp vía. Đang lúc
quỳ lạy cầu cứu cứu mạng, bỗng nhiên từ trong mây ló ra hai chữ “giả
chay”. Mọi người ai cũng thấy rất rõ. Có người hỏi lớn: “Trên thuyền
chúng ta người nào giả ăn chay? Ai?”. Hỏi đến mấy lần như thế. Người ấy
nghĩ: “Mình giả ăn chay, nhất định đã xúc phạm luật trời. Nếu giấu không
nói, như thế không phải đã hại mọi người sao?”. Nên lập tức lớn giọng
trả lời: “Là tôi! Là tôi!”. Mọi người đều nói: “Ngươi nhảy xuống đi!”.
Rồi đẩy anh ta xuống nước. Lúc đó cũng kỳ lạ, không biết từ đâu trôi đến
một miếng ván. Người bị đẩy xuống sông ấy lại an nhiên bám chặt tấm ván
một cách vô sự. Một trận gió lớn đẩy anh vào bờ và được người cứu sống.
Nhìn lại chiếc thuyền kia không chịu nổi sóng to gió lớn đã lật úp,
toàn bộ người trên thuyền đều bị chìm nghỉm làm mồi cho cá. Chúng ta thử
nghĩ xem, người giả ăn chay này, chỉ khởi lên một niệm từ tâm đã cứu
sống được mình.
* Công phu bậc trung, đoạn duyên kiêm ăn chay, hơi
khó hành.
Lại nói công đức công phu bậc trung. Không chỉ phải
giữ giới sát đồng thời còn phải ăn chay, thực hành có khó hơn công đức
bậc hạ một chút. Bởi lúc sinh ra, con người đã có thói quen ăn thịt, nên
bỏ ăn thịt rất khó. Không đoạn được phải làm sao? Điều này cần phải
quán tưởng mấy điều sau đây:
a. Lo sợ gặp phải chiến tranh
Xin hỏi mọi người có sợ chiến tranh xảy ra không? Nếu sợ, lúc đặt chén
thịt trước mặt, mình nên quán: “Lúc con vật này bị người giết, nó sợ sệt
thế nào thì giống như chiến tranh đến vậy. Vì muốn để tránh chiến
tranh, tôi dứt khoát không ăn chén thịt này”. Đây là quán tưởng bước
đầu.
b. Sợ bị bắt trói khi giặc cướp đến
Quán tưởng bước hai: Một mai chiến loạn xảy ra, giặc đến, nhân dân bị
bắt, bị trói thật là đáng sợ. Lúc này nên quán tưởng: “Chén thịt này,
con vật lúc bị người mua bắt trói dắt đi đáng thương biết bao. Vì để
tránh sự bắt trói của giặc giã, tôi dứt khoát không ăn chén thịt này”.
c. Gia đình bị bắt trói, ly tán
Quán tưởng bước thứ ba: Mỗi
gia đình đều đầy đủ lục thân quyến thuộc: cha mẹ, vợ chồng, anh em. Một
khi bị giặc bắt trói dắt đi, sự bi thương gia đình ly tán, đau khổ biết
bao. Lúc này nên quán: “Sau khi con vật bị người bắt trói dắt đi, hình
ảnh tội nghiệp kêu gào của quyến thuộc của nó, chén thịt này tôi không
nỡ ăn”.
d. Chính mình bị giết
Quán tưởng bước thứ
bốn: Giả sử thân ta khi sắp bị người khác giết, bản thân mỗi người có
muốn hay không? Lúc này nên quán tưởng: “Sự đổ máu của con vật khi bị
giết, cho đến nỗi đau khổ khi bị hầm nấu, bằm xắt chiên nướng… Để tránh
thân mình khỏi bị như thế, chén thịt này tôi thật không dám ăn nữa”.
Nếu quán được bốn bước này, không những không muốn ăn thịt mà còn tiến
thêm một bước, là phát lồ sám hối những hành vi bất chánh trong quá khứ,
đồng thời về sau phát nguyện trường trai.
* Công phu bậc thượng
đoạn duyên phóng sinh. Khó mà dễ.
a. Vượt hơn xây tháp 7 tầng
Lại nói công đức bậc thượng. Ngoài đoạn duyên cần phải từ tâm phóng
sinh. Nhà Phật có câu: “Cứu một chúng sinh phước hơn xây tháp 7 tầng”.
Vậy xem ra, thì biết công đức cứu một chúng sinh to lớn nhường nào. Bởi
tâm niệm của Phật lúc nào cũng muốn cứu độ chúng sinh, cho nên cứu một
mạng chúng sinh, công đức lớn như báo đáp ân Phật. Tôi tin có người tất
sẽ nghĩ: “Súc sinh tại sao lại có thể so sánh với người?”.
b. Tất cả chúng sinh đều là quyến thuộc quá khứ, đều là
Phật tương lai
Chúng ta nên biết, chúng sinh trong sáu đường
đều là cha mẹ, vợ chồng, anh em của chúng ta. Sáu đường là: trời,
người, A-tu-la, súc sinh, ngạ quỷ và địa ngục. Bản tính của chúng sinh
trong sáu đường này, xưa nay vốn thanh tịnh sáng suốt. Do từ vô thỉ, bị
vô minh che đậy nên điên đảo mê lầm. Sống rồi chết, chết rồi sống trong
sáu nẻo. Một lần đầu thai là một lần có cha mẹ, lục thân quyến thuộc
khác. Từ vô lượng kiếp đến nay, quyến thuộc cha mẹ nhiều đến nỗi không
thể tính đếm. Vì phàm phu, hễ đầu thai là bị mê cách ấm, tự mình không
thấy ra được. Không thấy ra được thì làm sao biết? Nên biết lời này
chính đức Phật nói ra. Đức Thích Ca Mâu Ni là bậc Thánh nhân, trí tuệ
thấu biết sáng suốt, Phật nhãn thấy rất rõ ràng. Ngài nói: “Tất cả chúng
sinh đều có Phật tính, chúng sinh một khi gặp được Phật pháp, tín giữ
phụng hành tức được thành Phật”. Cho nên nói: Tất cả là cha mẹ quá khứ
cũng là chư Phật tương lai. Nếu giải thoát tính mạng cho chúng thì bạn
chính là Bồ tát. Nên biết, không làm Bồ tát không thể thành Phật.
“Nhân tuy đáng sợ
Không
duyên không sinh
Hạt gai tuyệt nước
Không thành cây gai”.
Bài kệ này ý nói: Nhiều ác nghiệp
đã tạo trong quá khứ, cố nhiên là đáng sợ. Nhưng nếu không có tăng
thượng duyên thì không thể sinh ra quả ác, giống như câu chuyện trên đã
nói. Pháp sư dạy người ấy gieo giống cỏ gai trên hai luống phía Đông Tây
sau chùa. Gai dụ cho quả ác, đạp phải tất bị rách da chảy máu. Nếu
không tưới nước, thì khó mong sinh trưởng thành gai, đạp chân lên cũng
không bị rách da chảy máu. Ý này muốn nói: quá khứ tuy đã tạo rất nhiều
ác nghiệp sát sinh hại mạng, chỉ cần đời nay giới sát hộ sinh thì sẽ
giảm nhẹ ác quả. Cho nên, thành tâm khuyên chư vị, mọi người hãy nhanh
quy Phật, mau mau chuyển đổi nhân quả!
8.
Nguyên nhân của an lành và tai nạn
a. Hòa khí đưa đến an lành
Quý vị nên biết, sát sinh đứng đầu muôn ác. Không những
tàn bạo hung ác, mà còn là vô nhân tính. Tục ngữ nói: “Tam tài: trời,
đất, người cùng chung một dòng mạch”. Nghĩa là: Lòng người ví như lòng
trời đất. Tâm ác là người ác, tâm thiện là người thiện. Lòng người hung
bạo thì trời đất cũng biến thành hung bạo, lòng người hòa khí thì trời
đất cũng trở nên hòa khí. Nhưng lòng người thiện ác, làm sao thấy được?
Rất dễ. Tâm lành thì sẽ hiện ra ở tướng làm những việc lành, tâm ác thì
sẽ làm những việc ác. Trời đất hòa bình chính là hòa khí, trời đất bất
hòa chính là hung bạo. Người tốt, trời đất tốt chính là an lành; người
ác, trời đất xấu liền trở thành tai ương. Nhưng an lành và tai ương hoàn
toàn không phải tự nhiên mà có. Vậy thì an lành từ đâu đến? An lành nhờ
hòa khí mà có. Người xưa có câu tục ngữ rằng: “Hòa khí dẫn đến an
lành”. Ý là: hòa ái, từ bi đến cùng cực, lòng từ trong lòng đạt đến đỉnh
điểm. Không những không hại người mà ngay cả động vật cũng không có ý
giết hại, thì ngay đó có hòa khí.
Ví dụ: Chu văn Vương thời xưa là
một đức vua nhân từ. Ngài “thị dân như thương” – thấy mỗi người dân đều
đáng thương như chính mình bị thương, chính mình bị đại thống khổ. Lòng
Ngài không những chỉ thương người sống như thế, mà ngay cả những hài cốt
người chết Ngài cũng không nỡ thấy chúng bị nắng gió mưa sa. Có một
lần, Chu Văn Vương ra ngoài thành thị sát, thấy hài cốt tử thi tứ tán
bày đầy mặt đất, Văn Vương lập tức mệnh lệnh lượm nhặt hết chôn cất đàng
hoàng. Chu Văn Vương từ bi thế đấy! Ngài không những chỉ yêu thương bảo
bọc người sống, ngay cả người chết Ngài cũng yêu thương. Cho nên, Ngài
đáng là một Thánh vương nhân từ.
Lại nói đến 72 vị đệ tử của Khổng
Tử, trong đó có một người họ Cao tên Sài. Ngài là một đại hiền nhân.
Lòng từ bi thương xót của Cao Sài không những chỉ đối với động vật, ngay
cả với thực vật Ngài cũng từ bi, yêu thương bảo vệ.
Thời niên
thiếu, Cao Sài thường lên núi đốn củi, thấy cây cối mùa Đông rụng lá rồi
nứt những chồi non, Ngài không đành lòng đốn, chỉ đốn chặt những cây,
nhánh khô. Cho nên nói: Cao Sài “chồi non không chặt”, đến nay vẫn còn
lưu danh thiên cổ. Chư vị nghĩ coi, từ tâm của Văn Vương và Cao Sài có
phải hòa khí không? Đương nhiên là hòa khí. Hòa khí đưa đến an lành. Cho
nên, có Văn Vương và Cao Sài thời đó là thiên hạ thái bình, nhân dân an
lạc, hòa khí cát tường.
b. Hung ác
chiêu ương
Quý vị nghe đến đây thì biết ngay hòa khí đưa
đến an lành là rất tốt, và loại tương phản của nó là “tàn nhẫn chiêu
ương”. Nghĩa câu này thế nào? Ví như một người mang lòng hiểm ác. Người
này nhất định sẽ mắc tai họa. Nếu một gia đình hung ác, gia đình này sẽ
mắc tai ương. Một quốc gia nham hiểm, thì nhân dân phải bị tang thương.
Hung ác nghĩa là gì? Hung ác là hung bạo. Hung bạo quá độ tất sẽ sát hại
chúng sinh. Ban đầu chỉ giết hại những động vật nhỏ; động vật nhỏ giết
thành thói quen thì sẽ giết động vật vừa; giết được động vật vừa rồi thì
cũng giết được động vật lớn. Tay nhúng máu nhiều rồi nên sau này, ngay
cả người cũng dám giết. Như vậy, cấp độ giết càng lúc càng lớn. Tiếp đó,
giết luôn cả cha mẹ, thầy tổ. Đây chính là điềm báo trước thiên hạ đại
loạn, gọi đó là “hung bạo chiêu ương”. Nhưng thiên hạ có người trí cũng
có kẻ ngu. Người trí thì nhất cử nhất động đều thấy được quả báo trong
tương lai, người ngu thì không những không biết quả báo mà cho dù có
nhắc đi nhắc lại với họ cả ngàn lần, rằng: anh gieo nhân bất chánh này,
về sau sẽ phải gặt ác báo, anh ta cũng không nghe. Cho nên, trong kinh
có câu rằng: “Bồ tát sợ nhân, phàm phu sợ quả”. Nghĩa là: Người trí thấy
nhân, biết ngay quả sau này, nên không dám làm ác. Còn phàm phu không
biết sự ghê gớm của việc gieo nhân ác, nên cứ tạo ác, đến khi bị quả báo
thì có sợ cũng không kịp nữa.
9. Tri
cơ kỳ thần
Không những nhà Phật nói “tri cơ
kỳ thần”, mà Thánh nhân xưa cũng nói “tri cơ kỳ thần”. Cơ là động cơ,
thần là sáng suốt. Nghĩa là giống như người trí vừa nói ở trên, nhất cử
nhất động đều biết ngay hậu quả của sự việc như thế nào. Lại cũng như
người thông minh, giả sử thấy bậc đá dưới thềm nổi lên ẩm thấp thì biết
ngay trong vòng ba ngày sẽ có mưa; thấy trăng có quần đen thì biết ngay
sắp có gió. Chưa mưa mà biết sẽ mưa, chưa gió mà biết gió nổi, đó chính
là “tri cơ kỳ thần”. Vậy có người sẽ hỏi: “Biết trước những việc chưa
đến phỏng có ích gì?”. Nếu biết trước được những việc chưa xảy ra, họ
chính là người có “tính dự kiến”. Nắm chắc được tính dự kiến là điều rất
tốt. Giống như trước khi gió chưa nổi lên, lo thu hoạch hết lương thực;
trời chưa mưa chuẩn bị trước đồ che mưa. Những việc dẫn đến tai ương
chuẩn bị tốt trước. Nếu như gặp đói kém hoặc mưa bão lâu ngày thì cũng
có thể tránh được khủng hoảng tạm thời.
10.
Phòng vi đổ tiệm
Nghĩa của câu này là: Một việc
không luận là lớn hay nhỏ, lúc mới phát sinh phải dự phòng ngay, không
để nó bành lớn, đó gọi là phòng vi. Đỗ tiệm nghĩa là chặn đứng, không để
nó sinh trưởng. Người xưa có câu: “Từng giọt nước nhỏ cũng thành sông,
đóm lửa như sao thiêu ngàn mẫu”. Ý nói là: “Từng giọt nước nhỏ, tích ít
thành nhiều, lâu ngày cũng trở thành sông lớn; một đóm lửa nhỏ như sao
băng, có ngày cũng thiêu rụi cả thảo nguyên bạt ngàn”. Cho nên, không
thể coi thường tuy chỉ là giọt nước nhỏ, cũng không thể lơ là dù chỉ là
đóm lửa như sao băng. Một điểm xin chư vị ráng chú ý là: hiện nay, quả
thật các nước đang ôm ấp chiến tranh. Nếu không tin, hãy coi nước A có
bom nguyên tử, nước B cũng có bom nguyên tử. Họ phát minh ra vũ khí hiện
đại rốt cuộc để dùng vào việc gì? Chính là để dùng vào việc giết người
hàng loạt. Đây là điềm báo trước tai ương.
Có lẽ có người sẽ nói:
“Vậy thì có liên quan gì?”. Hiện tại, chiến tranh còn chưa đến mà! Thưa
quý vị: xin đừng nói thế! Phải chú ý: Giống như những giọt nước nhỏ,
cần phải chặn đứng nó ngay; phòng bị đóm lửa nhỏ như sao có ngày thiêu
rụi, cần phải dập tắt nó trước, như vậy mới không xảy ra đại hoạn.
Nghe đến đây, e rằng có người sẽ nói: “Đệ tử Phật các ông có cách gì
chặn đứng được đại thế chiến không?”. Điều này, chúng tôi không dám
khoác lác, cũng không thể ngăn chặn được đại thế chiến, vì đại chiến thế
giới là chiêu cảm bởi cộng nghiệp của chúng sinh, phải chịu quả báo
chung. Nhưng chúng tôi có thể dự phòng cá nhân không bị quả báo, cũng
chính là lý biệt nghiệp trong cộng nghiệp như đã nói ở trên. Bởi không
tạo nhân sát hại thì tất nhiên không bị quả báo sát hại, đây chính là
chặn đứng khởi nguyên của nó. Vậy những nhân sát sinh đã tạo trước đây
thì phải làm sao? Bắt đầu từ hôm nay, bạn phải dứt tuyệt đối nhân sát,
đó chính là dứt tuyệt đối duyên tạo tội sát, đó chính là biện pháp tốt
nhất.
11.
Triết nhân phóng sinh
Người đời thường nói: Phật giáo
các ông đương nhiên phải nói giới sát phóng sinh. Nên biết, trên thực tế
hoàn toàn không phải như thế. Không chỉ riêng Phật giáo đề xướng giới
sát phóng sinh, ngay cả chư Thánh hiền ngày xưa của Trung Quốc cũng đã
nói rất nhiều đạo lý về giới sát phóng sinh. Nếu chư vị không tin, tôi
sẽ đưa ra câu chuyện lịch sử để chứng minh.
Giản Tử tết nguyên đán
thả chim
Thời đại hưng thịnh nhất ở Trung Quốc là thời nhà Chu,
xuất hiện rất nhiều hiền nhân. Vào thời Ngũ Bá Thất Hùng, chư hầu lúc
đó, mỗi mồng 1 tết hàng năm đều bắt rất nhiều chim Ngói về ăn nhậu say
sưa.
Bấy giờ, Triệu Giản Tử có một lúc mua hết chim Ngói về thả.
Có người kiến nghị rằng: “Ngài định kỳ vào mồng 1 tết như vậy chỉ là
biện pháp một ngày phóng sinh, chưa triệt để”. Triệu Giản Tử nghe xong
thấy rất có lý, bèn lập tức hạ lệnh cấm bắt chim Ngói, triệt để nghiêm
cấm bất kỳ ai giết hại chim Ngói, đồng thời còn khuyến khích khen thưởng
phóng sinh.
12.
Tai tường cấm tể
Thời xưa, nếu thiên tai hạn hán
thì phải cầu mưa. Muốn cầu mưa thì không được sát sinh, cấm chỉ giết
chóc. Thời đó cũng biết sát sinh là hung bạo. Nếu sát sinh thì cầu mưa
sẽ không linh, cho nên cần phải cấm chỉ sát hại sinh vật cho đến khi cầu
được mưa mới thôi. Và pháp luật nhà Đường có một quy định: vào tháng
giêng, tháng 5, tháng 9, đây là những tháng trường trai của Phật giáo
nên không được sát sinh, và ngày thập trai mỗi tháng cũng không được sát
sinh. Trong thời gian đó mà sát sinh là phạm tội. Nhưng cấm chỉ sát
sinh xem ra vẫn còn tiêu cực, phải tiến thêm một bước tích cực nữa là
phóng sinh.
Vua Càn Nguyên triều Đường nước ta là một đức vua
nhân từ. Ngài cũng đề xướng giới sát phóng sinh. Nhưng cá phóng sinh
phải thả ở đâu? Thế là Ngài liền nghĩ ra một cách, ra lệnh cho tất cả
các địa phương đều đào ao phóng sinh. Cả nước tổng cộng có đến 81 nơi
đào ao phóng sinh. Mỗi ao phóng sinh đều khắc bia. Văn khắc bia đều là
các nhà học giả thư pháp nổi tiếng viết, như danh nhân Nhan Chân
Khanh...
Hiện tại, văn bia của họ vẫn lưu
truyền tại thế.
Hoàng đế Chân Tông giữa năm Thiên Hy thời nhà
Tống, cũng là một vị vua nhân từ. Sau loạn Vương An Thạch, Ngài liền ra
Thánh chỉ triệu lệnh trong dân chúng, mỗi huyện đào một ao phóng sinh.
Ví như Tây Hồ của tỉnh Chiết Giang, hiện tại chính là ao phóng sinh lớn
nhất của quốc gia. Nhưng rất tiếc, bây giờ biến thành ao sát sinh nuôi
cá để câu giải trí. Nhìn trên lịch sử, hai triều Đường, Tống có thể nói,
là hai thời đại phóng sinh thịnh vượng nhất.
13.
Trọng trách sát quả mỗi người phải mang
Nghe đến
đây có người sẽ nói: “Chưa đến nỗi! Từ lâu tôi đâu có sát sinh. Trên
nhân quả, tôi không bị quả báo sát sinh”. Thưa bạn! Xin bạn khoan vội
mừng. Nói rằng: “Tôi không bị quả báo sát sinh. Nên biết, nghiệp sát của
mỗi người trùng trùng lớp lớp, quả thật khó tính biết hết. Bạn nói bạn
không sát sinh, bây giờ tôi sẽ tính thử giúp bạn. Vừa ra khỏi bào thai,
mẹ bạn sợ không đủ sữa bú đã giết mấy con gà để tẩm bổ, rồi đầy tháng
lại khách khứa cũng sát sinh. Đến khi lớn lên, đính hôn lại sát sinh.
Ngày cưới lại càng đại sát sinh. Ngày xưa lúc đi học, mời thầy giáo cũng
phải sát sinh. Về sau, ra đời tạo lập sự nghiệp cũng phải sát sinh mời
khách. Đến 40, 50 tuổi lúc mừng thọ cũng sát sinh. Một năm bốn mùa ăn
tết ăn lễ, như tiết Thanh minh tháng 3, tết Đoan ngọ tháng năm, tiết
Trung nguyên tháng 7, tiết Trùng dương tháng 9, tất cả đều phải sát sinh
cúng tế. Đột ngột khách đến cũng phải sát sinh đãi khách, rồi lại lúc
bệnh tật, lạt miệng ăn không ngon lập tức sát sinh để đổi món. Bệnh lành
cũng phải sát sinh, làm vịt tiềm để bồi dưỡng. Bệnh lành rồi đáp tạ bác
sĩ cũng sát sinh. Và con người có sống tất có chết. Ngày đám ma ấy, lại
càng đại sát hơn”… Chư vị thử nghĩ, vậy có đúng không? Mười mấy điều
kiện nêu trên, cho dù một người không sát sinh đi nữa thì cũng là sát
sinh nhiều. Người mà một ngày không có thịt không chịu ăn cơm thì lại
càng sát nhiều hơn. Những người như thế lại càng không thể nói hết.
Đời nay, chúng ta làm người sát sinh tạo nghiệp. Đời trước làm người
cũng sát sinh tạo nghiệp. Thậm chí, có rất nhiều đời trước đã tạo sát
nghiệp trùng trùng vô tận. Giết một sinh mạng là đã kết một oan trái.
Oan hồn ấy lúc nào cũng ở bên bạn đợi thời cơ đòi mạng. Không những oan
nghiệp bên ngoài đang đòi nợ, mà sát nghiệp của chính mình trồng trong
thức thứ 8, bất cứ lúc nào cũng có thể manh tâm hiện hành, cũng chính là
hạt giống tạo tộïi, lúc nào cũng muốn dẫn bạn đi chịu báo. Chư vị nên
biết, nếu hòa khí thì dẫn đến an lành. Còn hung bạo, hiểm ác tất phải
chịu tai ương. Nếu ngày nào cũng sát sinh, đại sát sinh là an lành hay
hung bạo? Những oan hồn bị giết, ngày ngày muốn đòi mạng là an lành hay
tai ương? Xin mọi người hãy tự nghĩ xem!
Có thể sẽ có người nói:
“Nghe thầy nói như vậy tôi rất lo sợ, vậy phải làm sao?”. Thưa bạn, bạn
cũng không nên quá lo. Hiện tại, họa hoạn còn chưa tới, tai ương cũng
chưa bắt đầu. Chỉ cần từ nay trở đi không sát sinh nữa. Giống như đóm
lửa nhỏ bị tưới nước lên phải bị tắt ngay không thể cháy lan được. Vậy
thì oan hồn đến đòi mạng phải làm sao? Bạn phải tin rằng: Phật pháp vô
biên, tự có sức mạnh không thể nghĩ bàn để siêu độ chúng. Vì bạt độ
khiến nó chuyển thân làm người hoặc làm trời, nhờ thế nó không đến đòi
nợ bạn nữa. Tôi nói như vậy chắc chắn có người sẽ hỏi: “Thầy nói giới
sát chặn được nguồn loạn thì tôi có thể tin được. Nhưng nhà Phật các
thầy nói, kinh Phật có thể siêu độ người chết thì tôi không tin”. Nếu
mọi người không tin, tôi sẽ đưa ra hai sự thật để chứng minh cho rõ:
Đại sư Liên Trì là tổ sư của tông Tịnh độ. Trong Trúc Song Tùy Bút của
Ngài, có ghi một đoạn công án thế này: Có một tiểu thư họ Tào được gả
làm vợ cho một thanh niên họ Văn. Trong nhà họ Văn nuôi rất nhiều bồ
câu. Một hôm, không biết từ đâu xuất hiện một con rắn rất lớn muốn bắt
bồ câu. Lúc đó cô tỳ nữ thấy được, bèn chọi một viên đá lớn vào đầu, con
rắn chết ngay lập tức. Ai ngờ con rắn sau khi chết, oan hồn không chịu
đi. Hai hôm sau, hồn rắn nhập vào tỳ nữ nói mấy câu điên điên khùng
khùng: “Trả mạng cho tôi! Trả mạng cho tôi!”. Tiểu thư họ Tào thấy vậy
rất sợ. Đàn ông con trai trong nhà đều đi vắng hết, Tào tiểu thư bèn
chạy về nhà mẹ dẫn cha qua nhà chồng, mắng lớn vào tỳ nữ: “Mày náo loạn
cái gì ở đây?”. “Không phải tôi náo loạn, tôi muốn tỳ nữ trả mạng cho
tôi, vì hai hôm trước tôi muốn ăn thịt bồ câu, nó không cho tôi ăn, lại
còn đánh chết tôi, cho nên tôi muốn đòi mạng nó!”. “Mày là rắn, muốn ăn
bồ câu. Mày là một mạng, nó cũng là một mạng. Cứu mạng nó, giết mạng
mày, một mạng đổi một mạng cũng đáng. Mày là súc sinh, nó cũng là súc
sinh, mày đòi nó là được rồi, sao mày bắt người đền mạng cho mày, điều
này không thỏa đáng!”. “Tôi không phải là rắn, tôi là võ tướng Kinh Châu
của Lương Võ Đế sau triều Tấn, vì đánh nhau với Hầu Cảnh chết ở sa
trường, tại sao ông nói tôi là rắn?”. “Hầu Cảnh là chuyện của sáu đời
trước, bây giờ đã là đời Minh rồi. Ông đã biến thành rắn mà không biết,
còn muốn tạo thêm tội nghiệp, thật là đáng thương quá! Thân người đã mất
còn không biết, hiện nay đang là thân rắn cũng không hay, oán chỉ được
giải không được kết thêm!”. “Tôi đã biến thành rắn, bây giờ phải làm
sao? Xin ông hảo tâm, hảo ý cứu tôi!”. “Ông là người thời Lương Võ Đế.
Ông có biết chuyện Lương Võ Đế vì siêu độ cho hoàng hậu Hy Thị bị làm
thân rắn mà viết cuốn Lương Hoàng Bảo Sám không?”. “Biết! Biết!”. “Bộ
Lương Hoàng Bảo Sám rất vĩ đại. Vậy thì tôi tụng bộ Lương Hoàng Bảo Sám
để siêu độ cho ông được không?”. “Tốt lắm! Tốt lắm! Cảm ơn ông lắm!”.
Ông già họ Tào liền kiền thành cung kính lễ bái tụng bộ Lương Hoàng Bảo
Sám, vừa tụng kinh xong, tỳ nữ lập tức tỉnh ngay. Quý vị thấy, Phật
pháp vô biên, thật là bất khả tư nghì!
Sau đây, sẽ kể thêm một sự
thật nữa để chứng minh:
Giữa năm Canh Thần đời Sùng Trinh nhà Minh,
tể tướng họ Hạ ở Giang Hạ. Có một buổi tối, cập thuyền ở cửa sông Tầm
Ngư Chủy. Đêm hôm đó, Hạ tể tướng nằm mộng, thấy thần miếu đến nói với
ông rằng: “Tôi là Tống đại vương, thần sông Cửu Giang. Đời trước cùng Hạ
tể tướng và pháp sư Tam Muội, ba người là huynh đệ, thầy trò. Pháp sư
Tam Muội đời nay là quốc sư, Ngài thì làm tể tướng, còn tôi do một niệm
tham rượu thịt, cho nên đọa lạc làm thần sông. Khách thương buôn qua lại
toàn dùng rượu thịt cúng tế tôi, đời sau chắc chắn tôi sẽ bị đọa lạc
trong ba đường khổ. Pháp sư Tam Muội là người đạo hạnh cao thâm, từng
siêu độ những người bị đọa lạc rất nhiều. Tối mai thuyền của pháp sư sẽ
dừng ở đây, xin Ngài ngày mai hãy khoan đi, nán lại thêm một ngày nữa,
giúp tôi thỉnh pháp sư Tam Muội cầu siêu bạt độ cho tôi, lạy Phật sám
hối cho tôi, khiến tôi tiêu trừ nghiệp chướng, thoát ly tội báo! Trông
cậy hết nơi Ngài! Trông cậy hết nơi Ngài!”.
Hạ tể tướng trong
mộng nghe ông ta nói một hơi, đồng ý giúp ông ta thỉnh pháp sư Tam Muội
làm đàn tràng bạt độ. Hôm sau, thuyền của pháp sư Tam Muội quả nhiên đến
thật. Hạ tể tướng bèn kể hết tự sự nguyên nhân ham rượu thịt quá khứ
của thần miếu và việc thần miếu muốn cầu siêu độ. Pháp sư Tam Muội bèn
tức tốc kiến lập Thủy đạo tràng, trai tăng cúng phúng cho thần miếu.
Đang lúc siêu độ, bỗng nhiên vị tăng đầu bếp nói: “Thần sông cũ nhờ công
đức này đã được thoát khổ. Hiện tại, thần sông mới đến cũng đã quy y
Tam bảo Phật Pháp Tăng và thọ trì ngũ giới. Từ nay trở đi, cúng thần
miếu phải dùng đồ chay, không nhận rượu thịt nữa! Trong đó có một quái
nhân, không tin lời vị thần mới nhậm chức, liền nhập vào người vị tăng
đầu bếp, vội vàng đi chuẩn bị rượu thịt đến miếu thần cúng. Lúc người ấy
trong tay đang cầm hương định lạy xuống, bỗng trượt chân té ngữa, đồng
thời tự vả vào mồm mình nói: “Tôi đã quy y pháp sư Tam Muội, không nhận
thức ăn mặn. Hôm trước đã nhờ vị tăng đầu bếp nói rồi, sao lại phá giới
tôi? Sau này nhất định phải chú ý đó! Không được sát sinh cúng tôi
nữa!”. Người ấy sau khi tỉnh lại, lập tức cầu xin sám hối. Từ đó về sau,
không bao giờ dám nghĩ, nói bậy nữa.
Thưa quý vị! Hai câu chuyện
trên, đã chứng minh được sức mạnh của Phật pháp to lớn như thế. Tuy quả
đã chín muồi, nhưng chỉ cần thành khẩn sám hối cũng có thể làm nó thay
đổi, huống gì hiện tại quả còn chưa thành thục. Bắt đầu từ nay giới sát,
lập chí làm một con người mới, cải đổi lỗi xưa, tu tập quy chánh.
Hai câu đầu của bài kệ này:
“Tâm như lò lửa
Tội như
phiến băng
Buông xuống đồ đao
Tức khắc thành Phật”.
Đây là nói về lý. Ngày xưa, lúc Phật
Thích Ca còn tại thế. Có một người đồ tể, trong tay cầm con dao mổ bò
dính đầy máu, đến đạo tràng nghe Phật thuyết pháp. Người đồ tể sau khi
nghe pháp, lập tức tâm khai ý giải, miệng vừa nói rất có lý, tay vừa
quăng con dao đi. Lúc đó, lập tức chứng được quả vị. Sau này, cuối cùng
cũng thành Phật. Cho nên, thành tâm khuyên quý vị: Bây giờ, chiến tranh
còn chưa đến, mọi người hãy nhanh nhanh tu sửa, hãy mau mau giới sát
phóng sinh. Hiện tại, chúng ta đã nhận thức rõ ràng, bị quả báo chiến
tranh là do nhân sát đã tạo trong quá khứ, cho nên phải bị quả báo chết
chóc. Bây giờ phải dứt ngay nhân sát thì không có duyên sát; không có
duyên sát thì không có quả báo bị sát, và sẽ không xảy ra chiến tranh.