Theo các tài liệu về lịch sử Phật giáo hiện
đại như Đại Thừa tư tưởng luận của Kimura-Taiken, cũng như một số tài
liệu khác, Phật giáo Đại thừa có mặt tại Ấn Độ vào khoảng thế kỷ thứ I
sau Tây lịch. Phật giáo Đại thừa phát triển mạnh vào thế kỷ thứ II trở
đi. Kinh Hoa Nghiêm cũng xuất hiện trong thời kỳ đó, tức vào khoảng thế
kỷ thứ II. Sự phát triển của Phật giáo Đại thừa là tất yếu đáp ứng nhu
cầu tâm thức và tâm linh hiện đại. Vào thời điểm Hoa Nghiêm hay trước
Hoa Nghiêm, kinh điển Đại thừa đã xuất hiện khá phong phú như “Bát Nhã,
Pháp Hoa, Niết Bàn”. Sự kiện kinh Hoa Nghiêm xuất hiện được xem như là
bước tiếp nối tổng hợp tư tưởng Đại thừa của các bộ kinh điển nói trên.
Tư tưởng của kinh Hoa Nghiêm trình bày “Vạn
pháp do tâm sanh”. Trong đó, tâm là một thực thể của vạn pháp. Tâm vọng
thì vạn pháp hoạt hiện sai biệt, hình hình, sắc sắc trùng trùng duyên
khởi, cái này có mặt, cái kia có mặt và ngược lại, cái này không có mặt,
có kia không có mặt… chằng chịt như lưới đế châu. Tâm chơn, thì pháp
giới với tâm là một, vạn pháp đồng nhất thể. Tâm thanh tịnh, thì thấu
đạt chân lý Phật tánh, suốt thông pháp giới vô ngại, thể nhập Bất Tư
Nghì Giải Thoát Hạnh Môn. Trong kinh Hoa Nghiêm, đức Phật còn chỉ cho
thấy rõ cội nguồn của sum la vạn tượng là do mê thức vọng tưởng điên đảo
của chúng sanh. Vì thế mà nghiệp duyên mới hình thành. Các pháp hiện
hành trong vũ trụ là huyễn hóa, như ảnh trong gương, như trăng dưới
nước, như hoa đốm giữa hư không… Tất cả vạn pháp trong pháp giới đều do
từ tâm sinh. Tâm trùm khắp cả pháp giới. Tất cả vạn pháp vũ trụ có thể
nằm gọn trong hạt cải. Hạt cải có thể thâu nhiếp tất cả vũ trụ vạn pháp.
Kinh nói rằng: “Dưới cặp mắt của các vị Phật và Bồ tát, những bậc đại
giải thoát đã vượt qua khỏi ba cõi dục giới, sắc giới và vô sắc giới,
thì hết thảy các pháp hữu vi có hình tướng sai biệt trong vũ trụ tương
đối và nhị nguyên đều như chiêm bao, mộng ảo, bóng chóp, sương mai.
Không có gì là thật cả. Bồ tát đã chứng được cảnh giới Bất Tư Nghì Giải
Thoát rồi thì thân tâm được tự tại, có thể qua lại bất cứ nơi đâu không
gì chướng ngại; có thể làm được những việc khó làm nổi; có thể kéo dài
một sát na trong muôn kiếp; lại có thể thu gọn muôn kiếp trong một sát
na; cũng có thể tóm thâu cả càn khôn nhét trong một hạt cải…” Về sau
này, các thiền sư Việt Nam cũng ảnh hưởng tinh thần đó mà nói rằng:
“Càn khôn tận thị mao đầu thượng
Nhật nguyệt
bao hàm giới tử trung”
Nghĩa là:
"Trời đất này rút lại bằng một mảy lông
Mặt
trời, mặt trăng nằm trong lòng hạt cải"
(Thiền Tông
Việt Nam, trang 312 - Hòa thượng Thích Thanh Từ)
Người chưa chứng được triết lý Hoa Nghiêm,
nhìn đời, nhìn chúng sanh, nhìn vạn vật bằng cặp mắt bình thường của
thiên nhiên tạo hóa. Còn người ngộ đạo, bậc Bồ tát thì nhìn vạn vật
thông suốt qua sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp… không lầm thấy tướng bề
ngoài sai khác mà chỉ thấu đạt tướng bên trong. Tức là các bậc ấy thấy
được cái lý tuyệt đối hay cái bản thể chân không vạn pháp. Nên kinh cũng
nói rằng:
Ưng quán pháp giới tánh
Nhất thiết duy
tâm tạo
Tức là:
Người ấy phải quán chiếu pháp giới
Tất cả đều
do tâm mà thôi.
(Nhật
Tụng thiền môn, trang 250 – Thiền sư Nhất Hạnh)
Nếu thể tánh của tâm thâu nhiếp tất cả, thì
tất cả là một, một là tất cả, “nhất tức nhất thiết, nhất thiết tức
nhất”. Đó là bản tánh vô ngại của tâm. Bản tánh chơn tâm suốt thâu vạn
pháp hữu tình và vô tình, hữu biên và vô biên, lấy toàn thể pháp giới
làm tánh, làm tướng; lấy xứng tánh Bất Tư Nghì Vô Ngại Giải Thoát làm
thể. Đó là ý nghĩa căn cốt của bộ kinh Hoa Nghiêm.
Bởi thế, nếu kinh
Đại Bát Nhã tiêu biểu cho tư tưởng Phật giáo Đại thừa về lý chơn không
vô ngại, thì kinh Hoa Nghiêm đại biểu cho tư tưởng Phật giáo Đại thừa về
lý hóa hữu duyên sinh của vạn pháp
Ngoài ra, kinh Hoa Nghiêm còn là một thông
điệp, một bài học phong phú sinh động muôn đời, trao gởi cho hành giả có
tâm hướng thượng Đại thừa. Nếu hành giả muốn đạt đến cảnh giới của sự
tu chứng thì cần phải suy nghiệm ra lý lẽ và điều tất yếu là phải tư duy
thiền định. Điều đó được thể hiện qua hình ảnh của nhân vật Thiện Tài
Đồng Tử dày công tham bái cầu học với năm mươi ba vị thiện tri thức.
Bằng chứng này cho ta thấy rằng: tu học đạo Bồ tát, điều tiên quyết là
cần phải phát tâm Bồ đề. Kinh nói:
Bồ Tát phát tâm, lượng công đức
Ức kiếp ca
ngợi không hết được
Vì xuất sanh các đức Như Lai
Và qủa Thanh văn,
qủa Duyên giác
Mười phương quốc độ, các chúng sanh
Ban cho an vui
vô lượng kiếp
Khiến dứt phiền não, thành La Hán
Những công đức đó
đều vô lượng
Cũng chẳng bằng công đức phát tâm
… Quá khứ, vị lai
và hiện tại
Bao nhiêu kiếp số, vô lượng biên
Những kiếp số này
còn biết được
Công đức phát tâm chẳng thể lường
… Mọi công đức đó
chẳng thể hết
Bởi ở nhà lớn của Như Lai
Các pháp thế gian không
sánh được
Muốn biết rõ tất cả Phật Pháp
Phải nên mau phát Bồ đề
tâm
Việc phát Bồ đề tâm là bước đầu trên con đường Bồ
tát đạo. Nếu hành giả còn rụt rè, lưỡng lự, chần chừ, chưa dám mạnh dạn
phát nguyện là còn chưa thành thật cầu đạo Bồ đề, chưa muốn nhất quyết
tự giải thoát cho mình. Nếu còn ta cam chịu sống ươn hèn trong cảnh tối
tăm của ngục tù nghiệp chướng thì thử hỏi làm sao thực hiện được tiêu
chí: “Trong phải khắc phục nội tâm, ngoài thân khiêm cung cầu tiến”. Bởi
vậy mới có câu:
“Ngoài không nhiễm là cảnh thiền
Trong không
nổi loạn là định”
Hành trì phương pháp Hoa Nghiêm tuyệt đỉnh, tìm
chân sư liễu ngộ, mới mong hiển lộ được Phật tánh chân tâm của mình.
Muốn được như thế, hành giả phải trải qua lộ trình hành Bồ tát hạnh. Vì
Bồ tát hạnh là điều thực hành tất yếu trên con đường thành Phật. Đối với
Đại thừa Phật giáo Bồ tát hạnh rất quan trọng, vì đó là con đường tích
cực nhập thế, làm cho sự hiện hữu của đạo Phật có ý nghĩa đối với cuộc
đời. Đó cũng là phương cách duy nhất thành tựu Phật quả. Một đức Phật
phải có đầy đủ 2 đức tính: tuệ giác viên mãn và tâm đại từ bi. Do vậy,
một Bồ tát cũng phải tu tập và hoàn thiện hai đức tính đó. Bồ tát nhập
thế là thể hiện tâm đại từ bi, đồng thời thể hiện tuệ giác siêu việt.
Nhập thế là xuất thế. Phật giáo Đại thừa không chấp nhận sự giải thoát
cá nhân vì đích nhắm của Đại thừa là tha nhân, là số đông, là vạn loại
chúng sanh. Vị tha tuyệt đối là tính cách của hành giả Đại thừa. Đó là
chủ trương “Thỏng tay vào chợ” của kinh Hoa Nghiêm.
Đối tượng của Bồ tát là con người nói riêng
và chúng sanh nói chung. Có chúng sanh nên có Bồ tát. Mối quan hệ giữa
chúng sanh với Bồ tát cũng tương tự như mối quan hệ của mẹ và con. Tình
thương của Bồ tát đối với chúng sanh như tình mẹ thương con, rất tự
nhiên và không bị giới hạn. Do vậy, nỗi đau khổ hay niềm hạnh phúc của
toàn chúng sanh cũng chính là nỗi đau và niềm vui của một vị Bồ tát. Đây
cũng chính là tâm niệm của người đi theo lộ trình tu tập theo kinh Hoa
Nghiêm:
“Tùy thuận thế duyên vô quán ngại
Niết bàn
sanh tử đẳng không hoa”
Dịch là:
“Tùy thuận thế duyên
thì tâm không vướng bận
Niết
bàn sanh tử
là hoa đốm giữa hư không”
Hay:
“Diệt trừ phiền não trùng tăng bịnh
Xu hướng
chân như tổng thị tà
Dịch là:
“Đem tâm diệt trừ phiền não thì càng thêm bệnh
Còn
chạy theo chân như chẳng khác đó là tà”
(Lược giải Kinh Hoa Nghiêm trang 70, Hòa thượng Thích Trí Quảng).
Bồ tát còn thiết lập một thế giới Tỳ Lô Hoa
Tạng để trang nghiêm Phật quốc, tịnh độ hay Bồ tát đạo tuy chưa thực ra
chỉ là một (Bất Nhị). Vì tất cả đều là pháp thân Tỳ Lô Giá Na hằng hữu
bất diệt.
Con đường Bồ tát hay nơi chốn mà Bồ tát trú
ở, lui tới, là nơi hồng trần đầy khát vọng, bất an và phiền lụy. Bồ tát
với tuệ giác và hạnh nguyện biết rõ rằng chính chốn phiền trược ấy là
nơi cung cấp chất liệu cho một Bồ tát giác ngộ và giải thoát. Như trong
kinh Duy Ma phẩm Phật đạo đã nói: “Bồ tát thấy rõ ràng sự khó khăn,
nghịch cảnh là nấc thang lên thánh đạo, nhờ nỗ lực vượt qua mọi chướng
ngại mà thành tựu công đức thù thắng”. Chứng tỏ con đường Bồ tát không
hề có sự an nhàn và hưởng thụ.
Kinh Hoa Nghiêm giới thiệu con đường Bồ tát
cho các hành giả muốn tu theo pháp Đại thừa nhập thế. Bởi vì, công hạnh
của Bồ tát là chiếc cầu bắt sang thế giới Diệu Quang của chư Phật, trong
đó chứa đựng tâm Phật, lời Phật và tuệ giác siêu việt. Công hạnh ấy là
điển hình cho hạnh nguyện của Bồ tát Phổ Hiền vậy.
Phổ Hiền hạnh nguyện là cửa ngõ để hành giả
thâm nhập vào thế giới Hoa Nghiêm một cách sâu sắc. Lời phát nguyện rộng
lớn của Phổ Hiền là tấm gương sáng, là thước đo chuẩn mực cho những ai
phát tâm thực hành hạnh nguyện Bồ tát.
Vì khắp thanh tịnh hạnh Phổ Hiền
Trí tuệ rộng
lớn của Văn Thù
Trọn sự nghiệp kia không hề sót
Đến kiếp vị lai
hằng không mỏi
(Lược giải
Kinh Hoa Nghiêm trang 343. Hòa thượng Thích Trí Quảng)
Trí Văn Thù và hạnh Phổ Hiền là hai điều tối
quan trọng trên bước đường hành Bồ Tát Đạo. Phổ Hiền thập hạnh nguyện
luôn theo sát người tu hạnh giải thoát như bóng theo hình từ lúc bắt đầu
sự nghiệp tu tập cho đến khi thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Nghĩa là Bồ tát bắt đầu từ một lý tưởng phải lập hạnh phát nguyện cho
đến khi thành tựu lý tưởng đó. Thệ nguyện lúc nào cũng cao hơn lý tưởng
vì nó phát xuất từ tự tâm để thúc đẩy hành giả tiến về phía trước. Lời
nguyện luôn gắn liền với niềm tin vững chắc, nên mang tính kiên thệ và
bản nguyện có sức mạnh hùng vỹ, vượt qua mọi gian nan thử thách để hoàn
thành mục tiêu tối hậu.
Điều cốt lõi trên tinh thần giải thoát viên
mãn theo lời Phật dạy là:
“Phật pháp tại thế gian
Bất ly thế gian giác”
Nghĩa là:
“Phật pháp ở thế gian
Chẳng lìa thế gian giác
(Kinh Pháp Bửu Đàn. Trang 165. Hòa thượng Thích Thanh Từ).
Vì thế, trong kinh Hoa Nghiêm đức Phật đã
vạch rõ một con đường đi đến vô thượng Bồ đề, không gì hơn là một cuộc
đồng hóa mình với ngài Phổ Hiền vậy. Bởi vì, cõi trần tục này là mảnh
đất tốt để trưởng dưỡng đạo tâm, củng cố đạo lực, phát triển đạo hạnh và
chứng thành đạo quả. Đây cũng là tâm nguyện lợi tha cụ túc của hành giả
Đại thừa hay Bồ tát hạnh.