-08-
Niệm Ân Đức Tam Bảo
Bình Anson
Hằng
ngày, vào buổi sáng sớm và buổi tối, các Phật tử trong truyền thống Nam tông
thường tụng các bài kinh văn căn bản, trong đó, có bài tụng về các ân đức Tam
Bảo, Phật-Pháp-Tăng. Ở đây, xin mạo muội trình bày sơ lược về ý nghĩa các lời
tán dương Tam Bảo đó, dựa theo một tập sách học tiếng Pàli của Tỳ-khưu Nguyệt
Thiên Indacanda.
Bắt đầu mỗi buổi lễ, chúng ta thường nghe tụng câu:
Namo tassa bhagavato arahato sammà sambuddhassa
Trong đó,
Namo
tassa: Xin cung kính đến vị ấy.
bhagavato: đức Thế Tôn, đức Phá-ga-va.
arahato: bậc A-la-hán, Ứng Cúng.
sammà sambuddhassa: đấng Chánh Biến Tri, Chánh Đẳng Giác, Bậc Tự Giác
Ngộ hoàn toàn, không ai chỉ dạy.
Nghĩa toàn câu: "Cung
kính đến Ngài là đức Thế Tôn (Phá-ga-va), bậc A-la-hán (Ứng Cúng), đấng Chánh
Biến Tri".
Tiếp theo, là các câu tụng về ân đức Tam Bảo như sau:
1) Ân đức Phật Bảo:
Itipi so Bhagavà Araham Sammàsambuddho Vijjàcaranasampanno
Sugato Lokavidù Anuttaro Purisadammasàrathi Satthà devamanussànam Buddho
Bhagavàti
Itipi
so: Thật vậy, vị ấy là ...
Bhagavà: đức Thế Tôn.
Araham: người không còn ô nhiễm, bậc A-la-hán, bậc Ứng Cúng.
Sammàsambuddho: đấng Chánh Biến Tri, Chánh Đẳng Giác, Bậc Tự Giác Ngộ
hoàn toàn, không ai chỉ dạy.
Vijjàcaranasampanno: Minh Hạnh Túc, người có trí tuệ và đức hạnh thành
tựu một cách trọn vẹn.
Sugato: bậc Thiện Thệ, vị đã ra đi một cách trọn vẹn, đã Niết-bàn.
Lokavidù: người hiểu biết rõ ràng về thế gian, Thế Gian Giải.
Anuttaro: không gì hơn được, Vô Thượng Sĩ.
Purisadammasàrathi: người có khả năng điều khiển, huấn luyện kẻ khác,
Ðiều Ngự Trượng Phu.
Satthà devamanussànam: vị thầy của chư thiên và loài người, Thiên Nhân
Sư.
Buddho: bậc đã giác ngộ, đức Phật.
Bhagavà: Đức Thế Tôn.
Nghĩa toàn câu: "Thật vậy, bậc đáng
kính trọng ấy là A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian
Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn."
Đây là đoạn văn rất thường gặp trong các bài kinh thuộc Đại Tạng Kinh
do ngài Hòa thượng Thích Minh Châu dịch sang Việt ngữ. Đó cũng là 10 Danh hiệu
của Đức Phật. Tuy nhiên, trong một vài kinh sách, chúng ta chỉ thấy đề cập đến
9 danh hiệu, đó là vì 2 danh hiệu Vô Thượng Sĩ và Ðiều Ngự Trượng Phu
đôi khi được gộp chung thành một, như có giải thích trong bộ luận Thanh Tịnh
Đạo, Chương VII, của ngài Phật Âm (Buddhaghosa).
Ngoài ra, trong nhiều kinh sách Bắc tông, có thấy thêm vào danh hiệu Như
Lai, tạo ra 11 danh hiệu. Để có được con số 10 danh hiệu, có sách gộp chung
Vô Thượng Sĩ và Điều Ngự Trượng Phu thành một, hay gộp chung Phật
và Thế Tôn thành một danh hiệu.
Trong quyển "Nghi thức tụng niệm" của chùa Pháp Luân, Texas,
Hoa Kỳ, có dịch là:
Hồng
danh Phật nhiệm mầu Ứng Cúng,
Chánh Biến Tri, Minh Hạnh đủ đầy,
Ðức ân Thiện Thệ cao dày,
Bậc Thế Gian Giải chỉ bày lý chân,
Vô Thượng Sĩ pháp âm tịnh diệu,
Bậc Trượng Phu Ðiều Ngự độ sanh,
Thiên Nhân Sư đấng cha lành,
Phật Ðà toàn giác, Thế Tôn trong đời.
2) Ân đức Pháp Bảo:
Svàkkhàto bhagavato dhammo sanditthiko akàliko ehipassiko
opanayiko paccattam veditabbo vinnùhìti
Svàkkhàto: đã
khéo được thuyết giảng.
bhagavato: của đức Thế Tôn.
dhammo: giáo pháp.
Svàkkhàto bhagavato dhammo: Pháp của đức Thế Tôn đã khéo được thuyết
giảng
sanditthiko: hoàn toàn hiển nhiên, được thấy rõ ràng.
akàliko: không đợi thời gian, không bị chi phối bởi thời gian.
ehipassiko: hãy đến và hãy thấy, mời đến để thấy.
opanayiko: có khả năng hướng thượng, dẫn dắt về hướng thượng (Niết-bàn).
paccattam: tự cá nhân, riêng rẽ.
veditabbo: nên được hiểu biết.
vinnùhì: bởi các bậc trí tuệ.
Nghĩa toàn câu: "Pháp của đức Thế Tôn
đã khéo được thuyết giảng, hoàn toàn hiển nhiên, không bị chi phối bởi thời
gian, hãy đến và hãy thấy, có khả năng dẫn dắt về hướng (Niết-bàn), và nên được
hiểu biết tự cá nhân bởi các bậc trí tuệ."
Trong các bộ kinh Nikàya, Hòa thượng Minh Châu dịch là "Ðây là
Pháp do Thế Tôn khéo thuyết, thiết thực hiện tại, có quả tức thời, đến để mà
thấy, có khả năng hướng thượng, do người trí tự mình giác hiểu."
Trong quyển "Nghi thức tụng niệm" của chùa Pháp Luân, Texas,
Hoa Kỳ, có dịch là:
Pháp vi
diệu, cha lành khéo dạy,
Lìa danh ngôn, giác ngộ hiện tiền,
Vượt thời gian, chứng vô biên,
Sát na đại ngộ, hoát nhiên liễu tường,
Ðạo vô thượng, đến rồi thấy rõ,
Hướng thượng tâm, thoát ngõ vọng trần,
Trí nhân tự ngộ giả chân,
Diệu thường tịnh lạc, Pháp ân nhiệm mầu.
3) Ân đức Tăng Bảo:
Supatipanno
bhagavato sàvakasangho
ujupatipanno bhagavato sàvakasangho
nàyapatipanno bhagavato sàvakasangho
sàmìcipatipanno bhagavato sàvakasangho
yadidam cattàri purisayugàni atthapurisapuggalà
esa bhagavato sàvakasangho
àhuneyyo pàhuneyyo dakkhineyyo anjalikaranìyo
anuttaram punnakkhettam lokassàti
Supatipanno: đã tu
hành tốt đẹp trong thiện đạo (thiện hạnh)
bhagavato: của đức Thế Tôn.
sàvakasangho: Tăng chúng đệ tử.
bhagavato sàvakasangho: Tăng chúng đệ tử của đức Thế Tôn.
ujupatipanno: đã tu hành trong trực đạo (trực hạnh)
nàyapatipanno: đã tu hành trong chân đạo (như lý hạnh).
sàmìcipatipanno: đã tu hành trong chánh đạo (chân chánh hạnh).
yadidam: điều trên có nghĩa là thế này.
cattàri: bốn (số đếm).
purisayugàni: (bốn) cặp / đôi hạng người: Đạo quả Dự lưu, Đạo quả Nhất
lai, Đạo quả Bất lai, Đạo quả A-la-hán (Đạo và Quả tính chung thành một đôi).
atthapurisapuggalà: tám hạng người, nếu tính đơn, đó là Đạo và Quả tách
rời ra.
esa: nhóm người ấy, nhóm người đã nói ở trên.
bhagavato: của đức Thế Tôn.
sàvakasangho: Tăng chúng đệ tử.
àhuneyyo: đáng được cung kính.
pàhuneyyo: đáng được thân cận.
dakkhineyyo: đáng được cúng dường.
anjalikaranìyo: đáng được chắp tay, đáng được lễ bái.
anuttaram: không gì hơn được, vô thượng.
punnakkhettam: nơi để gieo nhân phước báu, phước điền.
lokassà: của thế gian.
Nghĩa toàn câu: Trong các bộ kinh Nikàya, Hòa
thượng Minh Châu dịch là "Chúng Tăng đệ tử Thế Tôn là bậc Thiện hạnh;
chúng Tăng đệ tử Thế Tôn là bậc Trực hạnh; chúng Tăng đệ tử Thế Tôn là bậc Như
lý hạnh; chúng Tăng đệ tử Thế Tôn là bậc Chân Chánh hạnh; tức là bốn đôi, tám
chúng. Chúng Tăng đệ tử này của Thế Tôn đáng được cung kính, đáng được thân
cận, đáng được cúng dường, đáng được chấp tay chào, là phước điền vô thượng ở
trên đời."
Trong quyển "Nghi thức tụng niệm" của chùa Pháp Luân, Texas,
Hoa Kỳ, có dịch là:
Bậc diệu
hạnh, thinh văn Thích Tử,
Bậc trực hạnh, pháp lữ thiền gia,
Bậc như lý hạnh, Tăng Già,
Bậc chân chánh hạnh, dưới toà Thế Tôn,
Thành đạo quả bốn đôi, tám chúng,
Ðệ tử Phật ứng cúng tôn nghiêm,
Cung nghinh kính lễ một niềm,
Thánh chúng vô thượng, phước điền thế gian.
Trì tụng, ghi nhớ và thông hiểu rõ ràng 3 câu tụng trên là một pháp
hành căn bản nhưng rất quan trọng. Khi thông hiểu ý nghĩa, chúng ta tăng trưởng
niềm tín thành nơi Tam Bảo. Khi ghi nhớ và trì tụng đều đặn, thường xuyên,
chúng ta dưỡng nuôi sự định tâm.
Trong Tương Ưng Bộ 11.3, kinh Đầu Lá Cờ, Đức Phật khuyên các vị
Tỳ-khưu khi hành thiền, sống độc cư trong rừng vắng, nên thường xuyên tụng niệm
và quán tưởng đến ân đức Tam Bảo qua các câu trên để giúp các vị ấy có thêm tự
tin, không còn lo âu, sợ hãi. Ngài tóm tắt trong câu kệ:
"Này
các vị Tỳ-khưu,
Trong rừng hay gốc cây,
Hay tại căn nhà trống,
Hãy niệm bậc Chánh Giác.
Các Ông có sợ hãi,
Sợ hãi sẽ tiêu diệt.
Nếu không tư niệm Phật,
Tối thượng chủ ở đời,
Và cũng là Ngưu vương,
Trong thế giới loài Người,
Vậy hãy tư niệm Pháp,
Hướng thượng, khéo tuyên thuyết.
Nếu không tư niệm Pháp,
Hướng thượng, khéo tuyên thuyết,
Vậy hãy tư niệm Tăng,
Là phước điền vô thượng.
Vậy này các Tỳ-khưu,
Như vậy tư niệm Phật,
Tư niệm Pháp và Tăng,
Sợ hãi hay hoảng hốt,
Không bao giờ khởi lên".
Đức Phật cũng khuyên hàng đệ tử cư sĩ có những tùy niệm tương tự như
thế. Trong Tăng Chi Bộ 11.12, Ngài dạy vị cư sĩ Đại Danh (Mahànàma) về 6
tùy niệm: niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm Giới, niệm Thí (Bố thí), và
niệm chư Thiên. Về niệm Phật-Pháp-Tăng, Ngài nói:
--"Này Mahànàma, trong khi vị Thánh đệ tử tùy niệm Tam Bảo
(Phật-Pháp-Tăng), tâm của vị ấy không bị tham ám ảnh, không bị sân ám ảnh,
không bị si ám ảnh. Tâm của vị ấy được chánh trực nhờ duyên Tam Bảo. Vị Thánh
đệ tử ấy, với tâm chánh trực, có được nghĩa tín thọ, có được pháp tín thọ, có
được hân hoan liên hệ đến pháp. Khi có hân hoan, hỷ sanh; khi có hỷ, thân được
khinh an; khi thân được khinh an, cảm giác được lạc thọ; khi có lạc thọ, tâm
được định tĩnh. Này Mahànàma, như vậy gọi là bậc Thánh đệ tử sống đạt được bình
đẳng với chúng sanh không bình đẳng, sống đạt được vô sân với chúng sanh có
sân, nhập được pháp lưu, tu tập tùy niệm Tam Bảo".
Trong bộ luận Thanh Tịnh Đạo, Chương VII, ngài Phật Âm đề cập đến các
lợi ích của pháp niệm ân đức Tam Bảo như sau:
-- "Khi vị hành giả chú tâm đến việc suy niệm đấng Giác Ngộ như
vậy, suy niệm Chánh Pháp như vậy, suy niệm chư Thánh Tăng như vậy, vị ấy có
lòng tôn kính đức Phật, tôn kính Giáo Pháp của Ngài, tôn kính chư Thánh Tăng đệ
tử của Ngài. Vị ấy đạt đến sự viên mãn về đức tin, chánh niệm, trí tuệ và công
đức. Vị ấy có nhiều hạnh phúc và an lạc, nhiếp phục được sự sợ hãi khủng bố, và
có khả năng kham nhẫn, chịu đựng các khổ đau. Vị ấy có cảm giác như mình đang
sống trước mặt đấng Đạo sư, đang sống trong Chánh Pháp, đang sống với các bậc
Thánh Tăng. Trong khi an trú suy niệm những đức tính đặc biệt của Tam Bảo, thân
thể của vị hành giả ấy trở thành một nơi đáng tôn trọng như một đền thờ. Tâm vị
ấy hướng về chư Phật, hướng về Pháp vô thượng, hướng về chư Thánh Tăng. Hành
giả ấy cảm thấy hổ thẹn và e sợ (tàm và quý) trước các ác pháp, và như thế giúp
vị ấy không phạm giới. Nếu vị ấy không chứng đạt được quả vị cao thượng trong
kiếp này, thì ít nhất, vị ấy cũng sẽ tái sinh vào một cảnh giới an lạc sau khi
chết".
Đa số Phật tử Việt Nam chúng ta, thường không quen thuộc
với các bài kinh tụng trong truyền thống Phật giáo Nam tông, có lẽ sẽ cảm thấy
bỡ ngỡ, khó khăn khi bắt đầu tụng niệm các câu ân đức Tam Bảo trình bày ở trên.
Tuy nhiên, nếu có dịp gần gũi với chư Tăng Nam tông và các cộng đồng Phật tử
trong vùng Nam Á và Đông Nam Á như: Thái Lan, Cam-pu-chia, Lào, Miến Điện và
Tích Lan, và nếu chúng ta thường xuyên tham dự các khóa tu thiền, dần dần,
chúng ta sẽ quen nghe các câu tụng căn bản đó. Các bài tụng nầy đã được thu âm
và quảng bá rộng rãi trên các trang web Phật Giáo của mạng Internet, qua các
băng audio-cassette và đĩa CD; và điều đó sẽ giúp chúng ta học thuộc và tụng
đọc dễ dàng hơn, nếu có quyết tâm học tập.
Qua kinh nghiệm bản thân cũng như qua các trao đổi với các bạn thiền
sinh khác, một khi chúng ta thông hiểu ý nghĩa và trì tụng ân đức Tam Bảo thuần
thục đều đặn mỗi ngày, chúng ta sẽ thấy được nhiều lợi lạc do pháp hành tùy
niệm đó mang đến cho sự hành thiền và làm phong phú thêm cho đời sống tinh thần
của mình, như Đức Phật đã thường khuyên dạy cho hàng đệ tử, khi Ngài còn tại
thế.
Tháng 9-2004