THIỀN
NGÔN
Tuệ Thiền (Lê Bá Bôn)
1) Kinh luận Đại thừa đốn giáo và công án Thiền là ngọn đèn
soi rọi tự tâm. Đọc chỉ để hiểu và thực hành tạo thiện nghiệp là đọc bằng trí
hữu sư (trí vọng tưởng). Đọc để thấy biết và tỏ ngộ tự tâm là đọc
bằng trí vô sư, bằng năng lực dò tìm tự tâm, bằng khát vọng tiếp xúc chân lí sự
sống. Biết đọc bằng trí vô sư là có tác dụng tự ấn chứng; là đọc để thấy tâm –
như soi gương để thấy mặt.
2) Trí hữu sư là tâm ngôn tâm hành; là trí hiểu về, nghĩ
về, nhận thức về, diễn đạt về điều gì đó (tức là vọng tưởng). Trí vô sư là năng
lực nghe và thấy vọng tưởng về đạo về đời, là tấm gương trí năng. Trí vô sư
hiện tiền do có khát vọng giác ngộ tự tâm tự tánh; do có khát vọng giác
ngộ sự sống vĩnh hằng.
3) Tánh Không là tâm Không, là trường tiềm năng, là “trường
của trường”. Từ tánh Không sinh khởi vọng niệm là tạo tác thế giới (“tam giới
duy tâm”). (Theo một số nhà khoa học hiện đại, hạt quark chỉ là cấu trúc tâm
thức).
4) Thượng Đế là chân lí tối thượng. Chân lí tối thượng là
ánh sáng của tâm vô niệm trùm khắp, là giải thoát tâm trí khỏi những nghĩ tưởng
của kiến chấp vô minh.
5) Vọng tưởng vô minh là tâm nói năng tạo tác (tâm ngôn tâm
hành) mà không có ánh sáng tự thấy tự biết. “Chứng ngộ” là cách nói chỉ sự
hiện tiền ánh sáng vô ngôn vô tác ở tự tâm. “Kiến tánh khởi tu” là chú
tâm thụ động nghe trạng thái biết-vô niệm (tức là “trưởng dưỡng thánh thai”).
Viên giác là ánh sáng thấy biết vô niệm soi sáng niệm khởi tuỳ duyên.
6) Ngã chấp là tâm nói năng tạo tác (tâm ngôn tâm hành)
trong trạng thái vô minh. Vô ngã là ánh sáng vô ngôn vô tác hiện tiền ở tâm.
7) Sống là niệm (nhớ-nghĩ). Vọng niệm là sống với vọng
tưởng luân hồi vô minh. Thấy biết-vô niệm là sống với chân niệm tỏ ngộ “bổn lai
diện mục” (sự sống vĩnh hằng). “Thấy biết-vô niệm sáng giữa muôn lời” là sống
với Viên Giác bất sinh bất diệt.
8) Chú tâm tỉnh giác vô niệm là thể nhập sự sống vĩnh hằng,
là “một nghe nghìn ngộ”.
9) Nghe vọng tưởng (những nói năng về đạo về đời trong tâm)
tỏ rõ, vọng tưởng im lặng, thấy-nghe vô niệm hiện tiền. Đó là “kiến tánh khởi
tu”, là đốn ngộ Phật tính (tánh giác, tánh Không, tâm phi thời gian, tâm bất
sinh bất diệt).
10)Tánh Không là trường tiềm năng; ánh sáng tri giác vô
niệm hiện tiền là ngộ nhập tánh Không (tâm Không, “bổn lai vô nhất vật”).
11)Nghe cái thấy một cách thụ động là “quán Không bất
chứng”.
12)Thấy rõ vọng tưởng thì tự tâm có sự chuyển y, vọng tưởng
im bặt, tánh Không hiện tiền. Đó là “Bồ tát độ tất cả chúng sinh vào vô dư niết
bàn mà không có chúng sinh được độ”.
13)Tâm ngôn tâm hành trong trạng thái vô minh là tâm sinh
tử luân hồi. Ánh sáng thấy biết vô niệm hiện tiền là tâm phi thời gian, là tâm
bất sinh bất diệt, là tuệ giác tối thượng.
14)Quán tâm vô niệm là công đức vô lượng với Đạo, với vũ
trụ; là phước đức vô biên, là cực lạc thiên đường.
15)Chú tâm thụ động nghe vọng tưởng là đại từ bi, là tự do
tự tại; là hành động mang năng lượng ý giáo cực kì quan trọng đối với thế giới,
vũ trụ.
16)Chấp ngã là trạng thái tâm (ý chí, báo thân) tự mê theo
vọng tưởng. Tự tri tỉnh thức là vô tưởng, là vô niệm, là vô ngã, là chân ngã,
là tâm thấy tâm, là gương sáng thấy gương sáng.
17)“Tự tri-tỉnh thức-vô ngã” là đạo lí của vũ trụ, là mẫu
số chung của ý nghĩa cuộc sống, là Thiền; mang năng lượng tích cực có lợi cho
toàn vũ trụ, cho sự thăng hoa trí tuệ-tâm linh chung của tất cả. (Đường Về
Minh Triết; Yoga.net.vn).
18)Thấy biết vô niệm hiện tiền là tâm giải thoát kiến chấp
và phiền não, là thiện mĩ hiện tiền, là tâm thái hoà bình hiện tiền.
19)“Tri huyễn tức li” là thấy nghe tỏ rõ vọng tưởng thì
tướng vọng tưởng tự lìa; “li huyễn tức giác” là tướng vọng tưởng tự lìa thì
tánh Viên Giác hiện tiền (tức là thấy biết-vô niệm hiện tiền).
20)Thấy biết vô niệm hiện tiền thì khởi niệm khởi nghĩ tuỳ
duyên gọi là chánh trí, chơn thức.
21)Vô niệm hiện tiền với ánh sáng thấy biết (tri giác nội
tại) thanh tịnh, đó là tâm phi thời gian, là sự sống bất sinh bất diệt.
22)Tri giác (thấy biết) vô niệm hiện tiền là gương sáng
thấy gương sáng, là mở mắt tâm. Vô niệm là thể, vọng niệm là dụng; bản thể
chiếu sáng thì có diệu dụng minh triết, có sáng tạo bất khả tư nghì.
23)Sự chuyển y (đột chuyển) tâm thức gắn liền với sự chuyển
hoá não, tạo ra phẩm chất mới cho nhãn quan tinh thần. Chuyển y xuất sinh đốn
ngộ.
24)Lời giảng nhằm giúp người nghe hiểu về lí đạo lí thiền,
lời đó chỉ có “phẩm chất giảng sư” (vì “hiểu về” khác với “thấy biết trực
tiếp”). Lời chỉ thẳng nhằm giúp người nghe (đã từng dò tìm tự tâm) tự thấy lại
tâm mình (không suy nghĩ, đốn kiến), lời đó mang “phẩm chất thiền sư” đích
thực. Ví dụ: “Vô niệm, niệm tức chánh”, đây là lời nói mang “phẩm chất thiền
sư” đích thực, giúp người nghe trực ngộ và tự ấn chứng (vì không thể suy nghĩ
để hiểu câu nói này).
25)Ý chí là báo thân, là sinh mệnh cá thể. Ý chí hướng về
và đồng hoá với lục trần, là trạng thái ngã chấp vọng tưởng. Ý chí tự tri tự
ngộ, thấy nghe-vô niệm hiện tiền, là trạng thái vô ngã (vô ngã là chân ngã).
26)Người “đốn ngộ tiệm tu” (“kiến tánh khởi tu”) là đã hiện
tiền Phật tính (tánh giác). Pháp thân Phật là tâm vô niệm hiện tiền với ánh
sáng thanh tịnh; hoá thân Phật là khởi niệm tuỳ duyên; báo thân Phật là tuệ
nhãn vừa thấy tâm vô niệm, vừa thấy niệm khởi; đó là “tam thân nhất thể”. Nếu
tự tâm không hiện tiền ánh sáng vô niệm thì nhãn quan tinh thần bị che mờ và si
mê theo niệm khởi, gọi là chúng sinh vô minh.
27)Cái thấy vô niệm là hiện hữu thường hằng, là chân ngã,
là ông chủ minh triết. Cái thấy vô niệm là nhãn quan tinh thần vô trụ vô trước,
là nhân cách tự-do-tinh-thần.
28)”Chiếu kiến ngũ uẩn” là soi thấy năm uẩn (sắc, thọ,
tưởng, hành, thức) như thấy rõ vật trong lòng bàn tay; năm uẩn là cấu trúc của
vọng tưởng.
29)”Chiếu kiến ngũ uẩn giai Không” là soi thấy ngũ uẩn
(giáp mặt ngũ uẩn, “quán tâm nơi tâm”) thì tánh Không hiện tiền - tức là ánh
sáng vô niệm vô ngôn hiện tiền.
30)Thấy rõ niệm khởi thì vô niệm hiện tiền, đó là “sắc tức
thị Không”; từ ánh sáng vô niệm khởi niệm tuỳ duyên, đó là “Không tức thị sắc”.
31)”Cái thấy như tưởng” là kiến chấp theo cái khuôn kiến
thức-kinh nghiệm, là tâm ngôn tâm hành, là vọng tưởng. “Cái thấy như thực” là
thấy biết vô niệm, là tri kiến giải thoát, là Phật tri kiến.
32)Tự tri toàn diện là Phật thấy Phật.
33)Kiến chiếu cái Không là tâm thấy tâm.
34)”Giữa vầng trăng một niệm vô ngôn” là “tri kiến vô kiến
tự tức niết bàn”.
35)Soi thấy ngũ uẩn thì vô niệm hiện tiền với ánh sáng
thanh tịnh.
36)Chú tâm thụ động nghe cái thấy biết vô niệm là “trưởng
dưỡng thánh thai”.
37)Nghe cái thấy là “phản văn văn tự tánh”.
38)“Con đường trước tiếng nghìn thánh không truyền” là
“giữa vầng trăng một niệm vô ngôn”. Đó là tự tri tự ngộ với khát vọng chân lí,
với khát vọng giải thoát sinh tử, với trí vô sư.
39)Tâm tu hành là tâm tạo tác điều thiện tương đối để cải
thiện nghiệp. Tâm vô tu vô sở đắc là tâm vô niệm vô tác, là tâm đốn ngộ (sơ
ngộ).
40)Ánh sáng vô niệm hiện tiền là nhất niệm sinh động, là
chân niệm, là “niệm chân như vô nhị tướng”.
41)Tri giác (thấy biết) vô niệm hiện tiền là vô ngã, vô
ngôn, vô kiến chấp, vô tác, vô tướng, vô thủ đắc, vô hành, vô thủ, vô chấp, vô
trụ, vô tu, vô chứng, vô vi. Thấy biết vô niệm là tâm Không; là tuệ nhãn của sự
sống vĩnh hằng. Mắt tỏ sáng thì tuỳ duyên khởi niệm tạo tác.
42)Thấy nghe vô niệm là tri giác giác ngộ, tỉnh thức; là
giải thoát phiền não vô minh.
43)Cái thấy của tâm hiện hữu ở mắt. Mắt thấy vật nhưng
không tự thấy mắt; nhưng cái thấy của tâm thì vừa thấy vật (ngoại cảnh và nội
tâm), vừa tự thấy chính mình. Cái thấy đó chính là chân ngã.
44)Tâm là ánh sáng tinh thần (năng lượng tinh thần) vô biên
và vĩnh hằng. Bản thể của tâm là tánh Không.
45)Nên biết nương theo ngọn đèn ngôn từ giác ngộ để thấy
(ngộ) tự tâm tự tánh, chứ đừng đeo bám ngôn từ để suy diễn về tự tâm tự tánh.
“Nương theo ngón tay kinh giáo để thấy mặt trăng Viên Giác”.
46)Ngã chấp là con dao trong tâm. Thấy nghe tỏ rõ vọng
tưởng (tâm ngôn tâm hành) thì vọng tưởng dừng lại-im lặng, vô niệm vô ngã (viên
giác) hiện tiền. Đó là “buông dao xuống liền thành Phật”.
47)Muốn ngộ chân tâm phải thấy nghe vọng tâm. Muốn ngộ Phật
tâm phải thấy nghe chúng sinh tâm. Muốn ngộ vô niệm (tánh Không) phải thấy nghe
vọng niệm. Muốn ngộ tâm vô sở đắc phải thấy nghe tâm thủ đắc. Muốn ngộ tri kiến
Phật phải thấy nghe tri kiến chúng sinh. Muốn ngộ “bờ kia” phải thấy nghe “bờ
này”. Thấy nghe (tri giác nội tại) là giác. Thấy nghe tỏ rõ tâm phàm phu thì
tâm Phật hiện tiền (“phàm phu tức Phật”); thấy nghe tỏ rõ tâm phiền não thì
Viên Giác hiện tiền (“phiền não tức bồ đề”). Soi thấy ngũ uẩn thì tánh Không
hiện tiền (“chiếu kiến ngũ uẩn giai Không”)… Nói tóm lại, biết thấy nghe mọi
nói năng trong tâm (tâm ngôn) thì ánh sáng vô ngôn vô niệm hiện tiền (Viên Giác
hiện tiền).
48)Giác ngộ không khó; điều rất khó là thật sự có khát vọng
giác ngộ, thật sự thao thức tìm kiếm Ông Chủ minh triết (vô lượng diệu dụng từ
bi) của sự sống vĩnh hằng.
49)Muốn ngộ nhập Viên Giác (tâm phi thời gian, tâm bất sinh
bất diệt, tâm linh vĩnh hằng) phải có khát vọng giác ngộ vì mình, vì Đại Đạo,
vì thiện ích cho tất cả chúng sinh; phải thao thức dò tìm tìm kiếm ở chính
mình. Khi nội tâm có chút tỉnh sáng thì phải biết thấy-nghe tâm niệm dò tìm tìm
kiếm. Giây phút thấy-nghe tỏ rõ tâm niệm kiếm tìm thì tâm linh có sự đột
chuyển, vọng niệm dừng lại, Viên Giác hiện tiền; đó là sơ ngộ… Không nhiệt tình
tìm kiếm thì không bao giờ giác ngộ đích thực; nhưng còn tìm kiếm, còn tạo tác
ở tâm vô minh thì không thể giác ngộ.
50)Mọi phương tiện tu tập thăng hoa trí tuệ tâm linh, nếu
muốn giác ngộ đích thực thì phải hướng về mẫu số chung “tự tri-tỉnh thức-vô
ngã”. Bất kì ai cũng có khả năng giác ngộ nếu có khát vọng. Khát vọng hướng về
mẫu số chung “tự tri-tỉnh thức-vô ngã”, khát vọng đó là minh sư vĩ đại
nhất của chính mình.
04-01-2012