Ngôn ngữ cần phải phân biệt trắng đen, cần phải biết là lời
nói chung hay lời nói riêng, lời nói liễu nghĩa hay bất liễu nghĩa.
Giáo liễu nghĩa phân biệt về thanh (trong), còn bất liễu
nghĩa phân biệt về trược (đục). Nói cấu bên pháp uế là phân biệt về phàm, nói
cấu bên pháp tịnh là phân biệt về Thánh. Từ chín bộ giáo nói thẳng ra chúng
sanh không có mắt, cần phải nhờ người gọt giũa. Nếu nói với người tục tai điếc,
cần phải dạy họ xuất gia trì giới, tu thiền học huệ. Nếu là người tục siêu xuất
thì không nên dạy họ như thế, như trường hợp các ngài Duy Ma Cật, Phó Đại Sĩ…
đối với bậc xuất gia đã thọ giới cụ túc, sức giới, định, huệ đã có mà nói như
thế thì gọi là phi thời ngữ (chẳng ứng cơ) cũng gọi là ỷ ngữ (nói thêu dệt),
nếu là bậc xuất gia phải nói cấu bên pháp tịnh, phải nói lìa các pháp có,
không, lìa tất cả tu chứng, cũng lìa cái lìa nữa. Nếu trong hàng xuất gia tẩy
trừ tập nhiễm tham, sân không được cũng gọi là kẻ tục tai điếc, phải dạy họ tu
thiền học huệ. Tăng sĩ Nhị thừa đã dứt được bệnh tham sân mà còn trụ nơi vô
tham, cho đó là đúng là thuộc về Vô sắc giới, là ngăn trở ánh sáng Phật, là làm
thân Phật chảy máu cũng phải dạy họ tu thiền học huệ.
Cần phải biện biệt rõ ràng lời nói thanh, trược. Pháp
trược là các danh từ tham, sân, ái, thủ… Pháp thanh là các danh từ Bồ đề, Niết
bàn, giải thoát… Cái giác chiếu soi hiện tại chỉ cần đối với hai dòng thanh
trược, các pháp Thánh, phàm, sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, các pháp thế
gian và xuất thế gian đều chẳng nên có mảy may ái thủ. Đã chẳng ái thủ mà y trụ
vào chẳng ái thủ cho đó là phải, ấy là Sơ Thiện, là trụ nơi điều phục tâm, là
hàng Thanh Văn, là người đã đến bờ rồi mà còn lưu luyến chiếc bè không chịu bỏ,
là đạo Nhị thừa, là quả Thiền na. Đã chẳng ái thủ cũng chẳng y trụ nơi chẳng ái
thủ, là Trung thiện, là bán tự giáo vẫn còn là Vô sắc giới khỏi sa vào đạo Nhị
thừa, khỏi lạc vào lối Ma Vương, vẫn còn là bệnh Thiền na, là còn bị trói buộc
vào Bồ Tát thừa. Đã không y trụ nơi chẳng ái thủ và cũng không khởi cái tri giải
về không y trụ, ấy là Hậu thiện, là mãn tự giáo, khỏi rơi vào Vô sắc giới,
tránh khỏi bệnh Thiền na, khỏi sa vào Bồ Tát thừa, khỏi bị đoạ vào địa vị Ma
vương, là trí chướng, địa chướng, hạnh chướng nên thấy Phật tánh của mình như
ban đêm thấy hình sắc. Như nói: Ở địa vị Phật dứt hai thứ ngu: Một là vi tế sở
tri ngu, hai là cực vi tế sở tri ngu. Cho nên nói: Có bậc đại trí đập vỡ hạt
bụi lấy ra quyển Kinh. Nếu thấu suốt nghĩa ba câu thì chẳng bị ba đoạn sơ,
trung, hậu thiện khống chế. Giáo môn thí dụ con hươu ba lần nhảy ra khỏi lưới, gọi
là làm Phật ngoại triền, không có vật gì ràng buộc được người này. Đây thuộc về
Phật sau đức Nhiên Đăng, là Tối thượng thừa, là Thượng thượng trí, là đứng trên
Phật đạo; người này là Phật, có Phật tánh, là Đạo sư, là điều khiển được vô sở
ngại phong, là vô ngại huệ, về sau được tự do sai khiến nhân quả phước trí, là
làm xe chuyên chở nhân quả, ở nơi sanh không bị sanh nhốt, ở nơi tử không bị từ
ngại, ở nơi ngũ ấm như cửa đã mở, không bị ngũ ấm ngăn trở, đi ở tự do, ra vào
không khó. Nếu được như thế, không luận thứ bậc hơn kém cho đến thân con kiến,
chỉ cần được như thế thì đều là cõi nước thanh tịnh vi diệu không thể nghĩ bàn.
Đó còn là lời nói mở trói, họ vốn không thương tích thì đừng làm cho bị thương.
Những cái thương tích Phật, thương tích Bồ Tát đều là thương tích (Có nghĩa là
chấp Phật là thương tích Phật, chấp Bồ Tát là thương tích Bồ Tát). Phàm nói các
pháp “có, không” đều là thương tích. “Có, Không” bao gồm tất cả pháp.
Hàng Thập địa là chúng ở trong dòng nước đục, tự cho là
dòng nước thanh, dựng tướng thanh để nói lỗi của tướng trược. Trước kia mười vị
đại đệ tử như Xá Lợi Phất, Phú Lâu Na, chánh tín như A Nan, tà tín như Thiện
Tinh… mỗi người có một cốt cách riêng, mỗi người có một phép tắc riêng đều bị
Đạo Sư (Phật) nói toạc ra là chẳng đúng. Tứ thiền, Bát định, A La Hán…. trụ
trong định tám muôn kiếp, họ là người tu hành theo kiến chấp vì bị rượu tịnh
pháp làm say nên hàng Thanh Văn nghe Phật pháp không phát được đạo tâm vô
thượng, do đó bị gọi là người đoạn thiện căn không có Phật tánh. Kinh nói: “Chỗ
gọi là hầm sâu giải thoát đáng sợ, nếu có một niệm tâm lui sụt thì rơi vào địa
ngục mau như tên bắn”. Chẳng được nhất định nói lui sụt, cũng chẳng được nhất
định nói không lui sụt, như các ngài Văn Thù, Quan Âm, Thế Chí… đến thị hiện
đồng loại với Tư Đà Hườn để dẫn dụ, chẳng được nói họ lui sụt, lúc bấy giờ chỉ
được gọi là người Tu Đà Hườn thôi. Hiện tại các giác chiếu soi chỉ cần chẳng bị
các pháp “có, không” khống chế, thấu suốt nghĩa ba câu và tất cả nghịch thuận
thì dầu có nghe trăm nghìn muôn ức đức Phật xuất hiện ở thế gian cũng như không
nghe, cũng không y trụ vào chỗ không nghe, cũng không khởi tri giải về sự không
y trụ, nói họ là người lui sụt chẳng được, vì số lượng không khống chế họ được,
ấy là Phật thường trụ thế gian mà chẳng nhiễm thế gian.
Nói Phật chuyển pháp luân, lui sụt cũng là phỉ báng Phật,
Pháp, Tăng. Nói Phật chẳng chuyển pháp luân, chẳng lui sụt cũng là phỉ báng
Phật, Pháp, Tăng. Ngài Tăng Triệu nói: “Đạo Bồ Đề không thể suy lường, cao vô
thượng, rộng vô cùng, sâu thăm thẳm”. Rơi vào lời nói là bệnh, nói giác chiếu
soi cũng còn là không đúng, chỉ là từ trược biện thanh (trong cái đục mà biện
biệt cái trong) mà thôi. Nếu cho nói giác chiếu soi hiện nay là đúng, tức là
ngoài cái giác chiếu soi còn có cái khác thì đều là ma thuyết. Nếu chấp lấy cái
giác chiếu soi hiện tại thì cũng đồng ma thuyết, cũng gọi là tự nhiên ngoại
đạo. Nói các giác chiếu soi hiện tại là Phật của chính mình, đó là lời nói
thước tấc, là lời tính toán, giống như con chồn (dã can) kêu, vẫn thuộc về cửa
keo sơn (chấp trước). Từ trước đến nay chẳng nhận cái tự tri, tự giác là Phật
của chính mình mà lại hướng ra ngoài tìm Phật, nhờ thiện tri thức nói ra cái tự
tri tự giác để làm thuốc trị cái bệnh hướng ngoại tìm cầu, bệnh hướng ngoại tìm
cầu đã lành thì thuốc cũng phải bỏ. Nếu chấp lấy cái tự tri tự giác thì đó là
bệnh Thiền na, là định tánh Thanh Văn, như nước đóng băng, toàn băng là nước
khó mong cứu được nạn khát; cũng nói: “Bệnh chắc chắn hết, lương y bó tay”.
Vô thỉ chẳng phải là Phật, chớ cho là Phật, Phật là thuốc
của chúng sanh, không có bệnh chẳng cần uống thuốc, thuốc và bệnh đều tiêu, thí
dụ: như nước trong, Phật là cam thảo hoà với nước, cũng như mật hoà với nước ấy
rất là ngon ngọt, nếu xem đó là cùng loại nước trong thì chẳng đúng, chẳng phải
không, vốn là sẵn có, nên cũng nói: Lý này mọi người đều vốn sẵn có. Chư Phật,
Bồ Tát được mệnh danh là người chỉ cho biết hạt châu. Từ xưa đến nay nó chẳng phải
là vật, chẳng cần biết nó, hiểu nó, không cần cho nó là phải hay chẳng phải,
chỉ cần cắt đứt câu đầu hai, cắt đứt câu có, câu chẳng có, cắt đứt câu không,
câu chẳng không, dấu vết hai đầu chẳng hiện. Hai đầu kéo ông chằng được, số
lượng chi phối ông chẳng được, chẳng phải thiếu thốn, chẳng phải đầy đủ, chẳng phải
phàm, chẳng phải Thánh, chẳng phải sáng, chẳng phải tối, chẳng phải hữu tri,
chẳng phải vô tri, chẳng phải rang buộc, chẳng phải giải thoát, phải tất cả
danh mục. Tại sao không phải là lời nói thật? Nếu cho rằng đục đẽo hư không làm
được tướng mạo Phật, hoặc cho rằng hư không là do xanh, vàng, đỏ, trắng làm
thành, như nói: Pháp không có so sánh, không thể ví dụ, nên Pháp thân vô vi bất
đoạ chư số; nên nói: Thánh thể vô danh chẳng thể nói được, lý như thật của
không môn khó ghé, thí dụ như con thái mạt trùng (tên một loại côn trùng đặc
biệt rất nhỏ), có thể đậu ở khắp mọi nơi, nhưng không thể đậu được trên ngọn
lửa. Ý thức của chúng sanh cũng vậy, có thể duyên ở mọi nơi, nhưng không thể
duyên trên Bát Nhã.
Tham học nơi Thiện tri thức để tìm cầu một tri, một giải
đó là thiện tri thức ma, vì sanh ngữ kiến. Nếu phát tứ hoằng thệ nguyện, nguyện
độ hết tất cả chúng sanh rồi sau ta mới thành Phật, đó là Bồ Tát pháp trí ma vì
thệ nguyện không buông bỏ; nếu trì trai giữ giới, tu Thiền học Huệ đều là thiện
căn hữu lậu, dẫu cho ngồi đạo tràng thị hiện thành Đẳng Chánh Giác độ chúng
sanh nhiều như số cát sông Hằng thảy đều chứng quả Bích Chi Phật, đó là thiện
căn ma, vì khởi tâm tham đắm, nếu đối với các pháp không tham nhiễm, thần lý
độc tôn trụ trong Thiền định sâu không còn tiến lên nữa, đó là Tam muội ma, vì
đam mê cái vui Thiền định. Niết Bàn chí thượng, ly dục tịch tịnh, là nghiệp ma.
Nếu trí huệ thoát lưới ma chưa triệt để thì dẫu cho hiểu được trăm bổn kinh
Phật thảy đều là cặn bã địa ngục, tìm sự tương tự như Phật không bao giờ có.
Như nay nghe nói chẳng chấp trước vào tất cả pháp thiện,
ác, có, không vv… liền cho đó là rơi vào không, mà chẳng biết rằng bỏ gốc theo
ngọn mới chính là rơi vào không. Cầu Phật, cầu Bồ Đề và tất cả pháp có, không…
là bỏ gốc theo ngọn, hiện tại chỉ cần ăn đạm bạc sống, mặc áo vá đỡ lạnh, khát
thì bụm lấy nước uống, ngoài ra đối với tất cả pháp có, không đều không có mảy
may hệ niệm (nghĩ tưởng), người này dần dần sẽ chút phần nhẹ nhàng sáng suốt.
Thiện tri thức chẳng chấp có, chẳng chấp không, thoát được
mười câu ma ngữ, nói ra không trói buộc người, có lời nói nào ra chẳng tự xưng
là Thầy nói, cũng như tiếng dội trong hang, tiếng nói trùm khắp thiên hạ mà
không có khẩu quá (lỗi do từ miệng mình nói ra), đủ sức làm y chỉ cho người.
Nếu nói ta biết thuyết, biết giải, nói ta là Hoà thượng, người là đệ tử, cái đó
đồng như ma thuyết. Vô cớ nói rằng: Mục kích đạo tồn (mắt thấy đạo còn). Phật
hay chẳng phải Phật, Bồ đề, Niết bàn, giải thoát… Vô cớ nói ra một tri, một giải,
giơ một cánh tay, dựng một ngón tay bảo là Thiền, là Đạo, lời nói này trói buộc
người không biết đến khi nào mới thôi, chỉ là chồng thêm dây trói buộc Tỳ Kheo.
Dẫu cho không nói cũng có cái khẩu quá. Thà làm thầy cho tâm, chẳng cho tâm làm
thầy.
Giáo bất liễu nghĩa có Thiên nhân sư, có Đạo sư. Trong
giáo liễu nghĩa chẳng làm Thiên nhân sự, chẳng cho phép làm thầy, chưa y được huyền
giám (tự tánh), tạm y được giáo liễu nghĩa còn có phần thân cận, nếu là giáo
bất liễu nghĩa thì chỉ thích hợp để nói trước bọn người tục tai điếc. Nay chỉ
cần chẳng y trụ tất cả pháp có, không, cũng không làm cái chẳng y trụ, cũng
không khởi cái tri giải về chẳng y trụ, cũng không khởi cái tri giải về chẳng y
trụ, đây gọi là đại thiện tri thức, cũng nói: Chỉ có một người đại thiện tri
thức là Phật, không có người thứ hai, ngoài ra đều gọi là ngoại đạo, cũng gọi
là ma thuyết. Nay chỉ cần nói phá câu hai đầu, không tham nhiễn tất cả cảnh
pháp có, không và việc mở trói, ngoài ra không có ngữ cú nào khác để dạy người.
Nếu nói ra có ngữ cú khác để dạy người, có pháp khác để cho người, đó gọi là
ngoại đạo cũng gọi là ma thuyết.
Cần phải biết lời giáo liễu nghĩa hay giáo bất liễu nghĩa,
cần phải biết lời nghịch tục hay lời tuỳ tục, cần phải biết lời nói sống hay
lời nói chết, cần phải biết lời thuốc hay lời bệnh, cần phải biết lời ví dụ
thuận hay nghịch, cần phải biết lời nói chung hay lời nói riêng. Nói do tu hành
được thành Phật, có tu có chứng, thị tâm thị Phật, tức tâm tức Phật, đấy là lời
Phật: Là lời nói giáo bất liễu nghĩa, là lời tuỳ tục, là lời nói chung, là lời
nhẹ như mang một lon một lít, là lời nói về bên pháp uế, là lời ví dụ thuận, là
lời nói chết, là lời nói trước kẻ phàm phu. Chẳng cho do tu hành mà được thành
Phật, không tu không chứng, phi tâm phi Phật cũng là lời của Phật: là lời giáo
liễu nghĩa, là lời nghịch tục, là lời nói riêng, là lời nặng như mang trăm tạ,
là lời nói ngoài giáo tam thừa, là lời ví dụ nghịch, là lời nói về bên pháp
tịnh, là lời nói sống, là lời nói trước ngoài có quả vị.
Từ Tu Đà Hườn trở lên thẳng đến bậc Thập địa hễ có lời nói
đều thuộc về pháp trần cấu, hễ có lời nói đều thuộc về bên phiền nào, hễ có lời
nói đều thuộc về giáo bất liễu nghĩa. Giáo liễu nghĩa là trì, giáo bất liễu
nghĩa là phạm. Phật địa không có trì, phạm, nên giáo liễu nghĩa và bất liễu
nghĩa và bất liễu nghĩa đều chẳng cho.
Do mạ mà biết đất, từ trược biện thanh. Cái giác chiếu soi
hiện tại nếu theo bên thanh mà đến thì có giác chiếu soi, cũng chẳng phải
thanh, cũng chẳng phải không thanh, không có giác chiếu soi, cũng chẳng phải
thanh cũng chẳng phải không thanh, chẳng phải Thánh, chẳng phải không Thánh;
không phải thấy nước đục rồi nói lỗi của nước đục, nếu nước trong thì không có
lỗi để nói, nói ra là làm đục nước rồi.
Nếu có cái hỏi mà
không hỏi cũng có cái nói mà không nói,
bởi Phật chẳng vì Phật mà nói pháp. Bình đẳng chân như pháp giới không có Phật
nào mà không độ chúng sanh. Phật không trụ Phật gọi là chân phước điền.
Cần phải biện biệt lời chủ khách, tham nhiễm tất cả cảnh
pháp có, không, bị tất cả cảnh có, không làm hoặc loạn thì tự tâm là ma vương,
chiếu dụng thuộc ma dâm. Cái giác chiếu soi hiện tại chỉ cần chẳng y trụ vào
tất cả pháp có, không, pháp thế gian, xuất thế gian; cũng không có tri giải về
chẳng y trụ; cũng chẳng y trụ nơi không tri giải thì tự tâm là Phật, chiếu dụng
thuộc Bồ Tát. Tâm tâm là chủ tể, chiếu dụng thuộc khách trần, như thấy sóng nói
nước, nước ấy chiếu vạn tượng mà không cho là công dụng. Nếu được tích chiếu,
chẳng tự do huyền diệu, thì tự nhiên thấu suốt cổ kim, như nói: “Thần vô chiếu
công, chí công thường tồn” (1). Người như thế được ở khắp mọi nơi làm Đạo sư.
(1) Thần dụ cho tự tánh; chiếu công = công dụng – chí công
= công dụng tối cao. (Công dụng của tự tánh không qua sự tác ý nhưng công dụng
ấy đạt đến cực điểm và luôn luôn được như thế).
Tánh thức chúng sanh là tánh keo sơn (chấp trước) vì chưa từng bước lên thềm
bực Phật nên thường dính khắn vào các pháp có, không, nay thình lình uống thuốc
huyền chỉ không được, thình lình nghe lời xuất cách họ tin chẳng nổi, cho nên
đức Phật ngồi dưới cội Bồ đề bốn mươi chín ngày lặng lẽ tư duy. Trí tuệ mênh
mông khó nói, không tỷ dụ được, nói chúng sanh có Phật tánh cũng là phỉ báng
Phật, Pháp, Tăng, nói chúng sanh không Phật tánh cũng là phỉ báng Phật, Pháp,
Tăng. Nếu nói có Phật tánh là chấp trướng báng. Nếu nói không Phật tánh là hư
vong báng. Như bảo: Nói Phật tánh có là tăng ích báng (nói thêm), nói Phật tánh
không là tổn giảm báng (nói bớt), nói Phật tánh cũng có cũng không là tương vi
báng (trái ngược nhau), nói Phật tánh chẳng có chẳng không là hý luận báng (nói
bông đùa); nếu không nói thì chúng sanh không có hy vọng giải thoát; còn nếu
nói thì chúng sanh lại theo lời nói mà sai tri giải, lợi ít mà hại nhiều. Do đó
Ngài nói: “Ta thà không nói pháp, mau nhập Niết Bàn”. Nhưng sau đó tìm về chư
Phật quá khứ, thấy các Ngài đều nói pháp tam thừa. Về sau, Phật mới giả lập kệ
thuyết, giả lập danh tự, vốn chẳng phải Phật nói với họ là Phật, vốn chẳng phải
Bồ Đề, nói với họ là Bồ Đề, Niết Bàn, giải thoát…. Biết họ gánh trăm tạ chẳng
nổi tạm cho họ gánh một lon, một lít, biết họ khó tin giáo liễu nghĩa tạm nói
với họ giáo bất liễu nghĩa, tạm được pháp lành lưu hành còn hơn là pháp ác.
Thiện quả mãn rồi thì ác quả đến, được Phật thì có chúng sanh đến, được Niết
Bàn thì có sanh tử đến, được sáng thì có tối đến, chỉ là nhân quả hữu lậu đối đãi
nhau; nếu muốn khỏi thấy sự đối đãi chỉ cần cắn đứt câu hai đầu thì số lượng
khống chế không được; không Phật, không chúng sanh, không thân, không sơ, không
cao, không thấp, bình thường, không đẳng, không đi, không đến, chỉ cần chẳng
chấp trước văn tự, cách xa hai đầu thì nó nắm bắt ông chẳng được, tránh khỏi
các sự khổ vui, sáng tối đối đãi nhau. Thật lý chân thật cũng chẳng chân thật,
hư vọng cũng chẳng hư vọng, không phải là vật có số lượng, thí dụ như không
chẳng thể tu sửa được, nếu tâm có một chút tri giải liền bị số lượng khống chế
cũng như keo sơn, năm chỗ (ngũ uẩn) đều bị dính mắc thì bị ma vương nắm bắt
được, chẳng được tự do về nhà.
Luận về giáo ngữ đều có ba câu liền nhau là sơ thiện,
trung thiện và hậu thiện. Sơ là dạy họ phát thiện tâm, trung là phá thiện tâm,
hậu mới là thiện tốt. Bồ Tát tức phi Bồ Tát thị danh Bồ Tát. Pháp, phi pháp,
phi phi pháp, tất cả đều phải như thế. Nếu chỉ nói một câu hoặc hai câu làm cho
chúng sanh vào địa ngục là tội của Pháp sư, nếu đồng thời nói cả ba câu mà họ
tự vào địa ngục thì việc ấy không liên can đến Pháp sư. Nói cái giác chiếu soi
hiện tại là Phật của mình, là sơ thiện, không chấp lấy cái giác chiếu soi này
là trung thiện, cũng không có cái tri giải về sự không chấp lấy là hậu thiện.
Những lời trên còn thuộc về Phật sau đức Nhiên Đăng, chỉ là không phàm cũng
không thánh chớ nói lầm Phật chẳng phải phàm chẳng phải Thánh. Sơ Tổ Trung Hoa
nói: “Vô năng, vô thánh là Phật tánh”. Nếu nói có thần thông biến hoá là Phật
thánh thì chín phẩm tinh linh rồng, súc sanh… cho đến các cõi Trời Thích, Phạm
trở lên cũng có tinh linh thượng phẩm cũng biết được việc xưa nay trăm kiếp đâu
được gọi là Phật ư? Như A Tu La Vương thân gấp đôi núi Tu Di vô cùng to lớn,
lúc cùng với trời Đế Thích giao chiến, tự biết sức không bằng bèn dắt trăm muôn
binh sĩ chui vào cọng sen ẩn núp, thần thông biện tài cũng không ít nhưng chẳng
phải là Phật.
Giáo ngữ có cấp bậc mau chậm, lên xuống bất đồng. Lúc chưa
ngộ, chưa giải thoát gọi là tham, sân, ngộ rồi gọi là trí huệ Phật, nên nói:
“Không khác người thuở trước, mà chỉ khác cái hành vi thuở trước”.
Hỏi: - Chặt cây cuốc cỏ, khai mương, đào đất có tướng tội
báo không?
Sư đáp: - Không thể nhất định nói là có tội hay không tội.
Việc có tội hay không tội là do nơi người đó. Nếu tham nhiễm tất cả pháp có,
không, có tâm lấy bỏ, không thấu suốt nghĩa ba câu thì nói người này nhất định
có tội. Nếu thấu suốt nghĩa ba câu tâm như hư không cũng chẳng có cái nghĩ
tưởng hư không thì người này nhất định là không tội, lại nữa, nếu tội đã tạo
rồi lại nói là không thấy có tội thật là vô lý. Nếu không tạo tội mà nói là có
tội thì cũng là vô lý. Như trong luật nói: “Người hôn mê giết người và chuyển
tướng giết người còn không bị tội giết huống là sự truyền thừa củaThiền Tông,
chẳng trụ một pháp nào, tâm như hư không, cũng không có tướng hư không thì đem
tội để ở chỗ nào?” Cũng nói: “Đạo Thiền chẳng cần tu, chỉ cần đừng ô nhiễm”.
Cũng nói: “Chỉ cần tiêu dung hết tâm trong ngoài là được”. Cũng nói: “Về sự
chiếu cảnh, đối với tất cả pháp có không đều không tham đắm cũng đừng chấp
trước”. Cũng nói: “Phải học như vầy, cái học đó giống như giặt áo dơ, áo là cái
sẵn có, dơ bẩn là từ bên ngoài đến”. Nghe nói tất cả pháp có, không, thanh,
sắc, như cáu bẩn đừng đem tâm bám lấy. dưới cội Bồ Đề, ba mươi hai tướng tốt,
tám mươi vẻ đẹp thuộc về sắc, mười hai phần giáo thuộc về thanh. Nay chỉ cần
cắt đứt tất cả dòng nước có, không, thanh, sắc, tâm như hư không, phải học như
thế, như cứu lửa cháy đầu mới được, vậy mà đến lúc lâm chung tìm đường quen
thuộc cũ để đi còn không được triệt để, huống là đến lúc đó mới điều tâm, mới
tập học thì có hy vọng gì!
Lúc lâm chung các cảnh tốt đẹp hiện ra trước mắt, tuỳ theo
tâm ưa thích, chỗ nặng chịu trước. Như nay không làm việc ác thì đến lúc đó
không có cảnh ác, dầu cho có cảnh ác cũng biến thành tốt đẹp. Nếu e lúc lâm
chung kinh sợ điên cuồng, không được tự do, thì cần hiện tại được tự do mới
được. Hiện tại đối với mỗi cảnh pháp đều không ái nhiễm, cũng chẳng y trụ vào
tri giải, mới là người tự do. Hiện tại là nhân, lúc lâm chung là quả. Nghiệp
quả đã hiện thì làm sao lo cho kịp! Lo là phải lo từ trước cho đến ngày nay.
Xưa nếu có nay thì nay cũng có xưa, nghĩa là ngày trước có Phật thì ngày nay
cũng có Phật. Hiện tại nếu được một niệm chẳng bị tất cả pháp có không quản
nhiếp, thì chẳng đến tận vị lai cũng được như vậy. Xưa cũng như nay, Phật chỉ
là người, người chỉ là Phật, cũng là Tam muội định, chẳng cần đem định nhập
định, chẳng cần đem Thiền tưởng Thiền, chẳng cần đem Phật tìm Phật. Như nói:
“Pháp chẳng cầu pháp, pháp chẳng đắc pháp, pháp chẳng hành pháp, pháp chẳng
thấy pháp, tự nhiên đắc pháp, chẳng lấy đắc để đắc thêm”. Cho nên Bồ Tát cần phải
chánh niệm như vầy: đối với pháp rỗng không độc tồn, cũng không biết cái pháp
độc tồn thì trí tánh tự như như, chẳng phải do nhân làm ra cũng gọi là thể kết,
cũng gọi là thể tập, chẳng phải là trí biết, chẳng phải là thức biết, bặt chỗ
suy lường, tột cái thể ngưng tịch, sự suy nghĩ dứt hẳn như nước biển cạn sạch,
sóng không còn sanh khởi nữa.
Cũng nói: Như lượn sóng lăn tăn không gió trên biển cả,
cái chợt biết cái lượn sóng lăn tăn ấy là thô trong tế. Quên cái biết ở nơi
biết vẫn còn là tế trong tế, là cảnh giới Phật. Từ đây cái biết đầu tiên được gọi
là cái đảnh của Tam muội,cũng gọi là vua Tam muội, cũng gọi là nhĩ diệm trí
(trí sở tri), nó sanh ra hết thảy các Tam muội, tưới trên đảnh của tất cả các
vị Pháp vương tử, Nơi tất cả cõi nước sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, cõi
nước đều thảnh Đẳng Chánh Giác, trong ngoài thông đạt đều không có trở ngại thì
một sắc một trần, một Phật một sắc, tất cả Phật tất cả sắc, tất cả trần tất cả
Phật, tất cả sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp, mỗi mỗi cùng khắp tất cả cõi
nước cũng đều như vậy.
Đây là thô trong tế, là cảnh giới thiệu, là tất cả thượng
lưu, kiến văn giác tri cũng là tất cả thượng lưu, xuất sanh nhập tử độ tất cả
có, không… là thượng lưu, có nói ra điều gì cũng là thượng lưu. Niết Bàn là đạo
Vô thượng, là Vô đẳng đẳng chú, là Thuyết đệ nhất, ở trong các thuyết rất là
sâu xa, không người nào có thể đến được, là chư Phật hộ niệm. Như thấy sóng
trong trẻo thì được nói tất cả nước là trong trẻo, từ đó chảy ra cái dụng công
rộng lớn mênh mông cũng là chư Phật hộ niệm. Kinh nói: “Đi, đứng, nằm, ngồi nếu
được như vậy, lúc ấy Ta liền hiện thân thanh tịnh quang minh” Lại nói: “Như ông
thân bằng, ngữ bằng, ta cũng như vậy, một Phật sát thanh (Phật sát thanh: Một
tam thiên đại thiên thế giới), một Phật sát hương, một Phật sát vị, một Phật
sát xúc, một Phật sát sự, thảy đều như vậy. Từ đây lên đến thế giới Liên Hoa
Tạng cao rộng thảy đều như vậy”.
Nếu giữ lấy cái biết đầu tiên làm tri giải, gọi là đảnh
kết, cũng gọi là đoạ cảnh kết, là căn bản của tất cả trần lao. Tự sanh tri
kiến, không dây mà tự trói; vì có sở tri nên bị ràng buộc vào thế giới thứ hai
mươi lăm cõi. Lại nữa cái làm tan tất cả cửa phiền não trói buộc người cũng là
cái biết đầu tiên này mà hàng Nhị thừa cho là Nhĩ diệm thức (thức sở tri), cũng
gọi là vi tế phiền não thì liền bèn dứt trừ. Đã dứt trừ xong, gọi là đem thần
tánh trở về cái hang không, cũng gọi là bị rượu Tam muội làm say, cũng gọi là
bị ma giải thoát buộc. Định lực Nhị thừa làm ra sự thành hoại trong thế giới
còn bị lọt vào quốc độ khác mà không biết, cũng gọi là chỗ hầm sâu giải thoát
đáng sợ. Còn hàng Bồ Tát thì xa lìa hết thảy.
Người đọc kinh xem giáo, ngữ ngôn đều phải uyển chuyển
quay về tự kỷ, bởi vì tất cả ngôn giáo chỉ đều nói về cái tánh giác chiếu soi,
nếu không bị tất cả cảnh có không chuyển ấy là Đạo sư của ông. Cái hay chiếu
soi tất cả cảnh có không kia là Kim Cang huệ, tức có phần tự do độc lập. Nếu
không hiểu được cái đó thì dẫu cho có tụng được mười hai bộ kinh Phật cũng chỉ
là thành kẻ tăng thượng mạn, là kẻ khinh Phật, chẳng phải là kẻ tu hành. Chỉ
cần lìa tất cả thanh sắc, cũng không trụ ở lìa, cũng không trụ vào tri giải, đó
là người tu hành.
Đọc kinh xem giáo nói theo thế gian thì đó là việc tốt,
nhưng nếu đem so với người thấu lý mà nói thì đó là người ngu si, bậc Thập địa
thoát ra không khỏi, còn bị trôi lặn vào dòng sanh tử. Song tam thừa giáo đều
dùng để trị bệnh tham, sân,… Như nay niệm niệm đều có cái bệnh tham, sân, … thì
trước tiên cần phải điều trị. Chẳng cần tìm tri giải về nghĩa cú, tri giải
thuộc về tham, tham lại biến thành bệnh. Nay chỉ cần lìa tất cả pháp có, không,
cũng lìa cả cái lìa, thấu suốt nghĩa ba câu, tự nhiên cùng Phật không khác. Đã
tự là Phật còn lo chi Phật không biết nói Pháp. Chỉ sợ chẳng phải Phật, nên bị
các pháp có không trói buộc, chẳng được tự do. Thế nên, lý chưa vững mà trước
tiên đã có phước trí thì sẽ bị phước trí lôi đi như kẻ hèn sai khiến người
sang, chẳng bằng đầu tiên ngộ lý rồi sau hãy có phước trí. Nếu cần phước trí
tức khắc làm ra được. Phước trí xài ra, nắm vàng thành đất, nắm đất thành vàng,
biến nước biển thành tô lạc, đập núi Tu Di làm bụi nhỏ, đem bốn biển để vào lỗ
chân lông, ở nơi một nghĩa làm vô lượng nghĩa, ở nơi vô lượng nghĩa làm một
nghĩa. Cũng nói: “Sẩy chân làm Chuyển Luân Vương, khiến cho nhân dân trong bốn châu
thiên hạ một ngày tu hành Thập thiện, phước trí này cũng không bằng phước trí
trên”. Cái giác chiếu soi của chính mình (Tự tánh) gọi là Vương (vua). Niệm
chấp trước cáp pháp có không, gọi là Chuyển Luân Vương. Hiện tại chỉ cần trong
tạng phủ không dung nạp tất cả pháp có không, lìa ngoài tứ cú gọi là “KHÔNG”,
“KHÔNG” gọi là thuốc bất tử, vì đối với Vương trước (Tự tánh) mới gọi là thuốc
bất tử. Tuy nói là thuốc bất tử với Vương cùng uống, nhưng cũng chẳng phải là
hai vật, cũng chẳng phải là một vật. Nếu cho là một, là hai, cũng gọi là Chuyển
Luân Vương. Như nay có người dùng phước trí tứ sự cúng dường tứ sinh lục đạo
khắp bốn trăm muôn ức a tăng kỳ thế giới, tuỳ theo sự ưa thích của chúng sanh
đến mãn tám mươi tuổi rồi, mới nghĩ rằng các chúng sanh này đã già yếu, ta nên
đem Phật pháp dạy dỗ họ khiến cho đều đắc quả Tu Đà Hườn cho đến A La Hán. Người
bố thí này trước kia bố thí cho chúng sanh tất cả đồ ưa thích, công đức còn là
vô lượng, huống chi sau này làm cho đắc quả Tu Đà Hườn cho đến A La Hán, công
đức càng thêm vô lượng vô biên mà cũng còn không bằng công đức nghe Kinh tuỳ hỷ
của người thứ năm mươi.
Kinh Báo Ân nói: “Ma Da phu nhân sanh năm trăm Thái tử đắc
quả Bích Chi Phật. Mỗi vị đều được xây tháp cúng dường lễ bái mà bà than rằng:
“Không bằng sanh một đứa con đắc Vô thượng Bồ Đề, ít phí tâm lực của ta” ”. Nay
tìm ở trong chúng trăm nghìn muôn đời, có một người đắc đạo thì giá trị bằng
tam thiên đại địa thế giới. Do đó ta thường khuyên mọi người phải nên huyền giải
tự lý (ngộ), tự lý nếu huyền thì sai khiến được phước trí như người sang sai
khiến kẻ hèn, cũng như xe vộ trụ (Phật thừa). Nếu chấp trước cái này làm tri giải
thì gọi là hạt châu thường trong búi tóc, cũng gọi là hạt châu có giá, cũng gọi
là chở phẩn vào. Nếu chẳng chấp cái này làm tri giải thì như hạt minh châu
trong búi tóc nhà vua cũng gọi là vô giá đại bảo, cũng gọi là chở phẩn ra.
Phật chính là người ở ngoài sự trói buộc, lại vào trong
vòng trói buộc mà làm Phật. Ngài chính là người bên kia bờ sanh tử, là người
bên kia bờ huyền tuyệt lại trở qua bờ bên này làm Phật. Người cùng khỉ, vượn
đều không thể làm được, người dụ cho hàng Thập địa, khỉ vượn dụ cho phàm phu.
Đọc kinh xem giáo, cầu tất cả tri giải chẳng phải là không
cho. Dù hiểu được tam thừa giáo là khéo được đồ anh lạc trang nghiêm, được ba
mươi hai tướng, nhưng tìm Phật thì chẳng phải. Kinh nói: “Người học giả tham
chấp tam tạng Tiểu thừa còn không cho thân cận, huống chi tự cho mình là đúng”.
Trong Kinh Niết Bàn, Tỳ Kheo phá giới và danh tự A La Hán bị liệt vào trong mười
sáu ác luật nghi, đồng với người săn bắn, lưới cá vì lợi dưỡng mà giết hại sinh
vật. Loại kinh Đại Thừa Phương Đẳng cũng như cam lồ mà lại cũng như thuốc độc,
tiêu được thì như cam lồ, tiêu không được thì như thuốc độc, Người học kinh xem
giáo nếu không hiểu được đó là lời nói sống hay lời nói chết (tử ngữ) thì chắc
chắn không thấu nghĩa cú, thà đừng học tốt hơn.
Cũng nói: Cần xem giáo mà cũng cần phải tham học với bậc thiện tri thức, nhất
là cần phải tự có mắt để biện biệt lời nói sống hay lời nói chết mới được. Nếu
biện tài chẳng được thì chắc chắn thấu qua không nổi, chỉ là chồng thêm dây
trói buộc Tỳ Kheo. Vì thế, dạy người học huyền chỉ, không cho học văn tự. Như
bảo: Nói thể chẳng nói tướng, nói nghĩa chẳng nói văn, người nói như vậy gọi là
chân thuyết. Nếu nói văn tự thì đều là phỉ báng đây gọi là tà thuyết. Bồ Tát
nếu nói thì phải nói đúng như Pháp cũng gọi là chân thuyết, phải làm cho chúng
sanh trì tâm chẳng trì sự, trì hạnh chẳng trì Pháp, nói người chẳng nói chữ,
nói nghĩa chẳng nói văn.
Nói Dục giới không có Thiền đó là lời nói của người chột mắt. Đã nói Dục giới
không có thiền thì dựa vào đâu để lên Sắc giới? Đầu tiên ở Nhân địa tu tập hai
thứ định, về sau mới lên đến Sơn thiền. Hai thứ định ấy là Hữu tưởng định và Vô
tưởng Thiền ở Sắc giới. Vô tưởng định sanh vào các cõi Trời Tứ không ở Vô sắc giới.
Dục giới hiển nhiên là có Thiền, Thiền chẳng phải chỉ ở Sắc giới mới có.
Hỏi: Hiện tại nói cõi này có Thiền, là như thế nào?
Sư đáp: Chẳng động chẳng Thiền là Như lai thiền, lìa cái khởi
ý tưởng thiền.
Hỏi: Thế nào là hữu tình không Phật tánh và vô tình có
Phật tánh?
Sư đáp: Từ người đến Phật là tính chấp Thánh, từ người đến
địa ngục là tình chấp phàm. Như nay đối với hai cảnh phàm, Thánh có tâm ái
nhiễm thì gọi là hữu tình không Phật tánh. Còn như nay đối với hai cảnh phàm,
Thánh và tất cả pháp có không đều không có tâm lấy bỏ, cũng không có luôn cả
cái trí giải về không lấy bỏ thì gọi là vô tình có Phật tánh. Do vì không bị
tình chấp ràng buộc nên gọi là vô tình chứ không đồng với loài vô tình như gỗ, đá,
hư không, hoa vàng, trúc biếc mà cho là có Phật tánh. Nếu nói các loài vô tình
ấy có Phật tánh, tại sao trong kinh không thấy thọ ký cho nó thành Phật? Chỉ
như cái giác chiếu soi hiện tại chẳng bị hữu tình cải biến, dụ như trúc biếc,
không lúc nào chẳng ứng cơ, chẳng bất tri thời, dụ như hoa vàng.
Lại nói “Nếu bước lên bậc thang Phật là vô tình có Phật tánh, còn chưa bước lên
nấc thang Phật là hữu tình không Phật tánh”.
Hỏi: - Đại Thông Trí Thắng Phật (Bích Chi Phật) mười kiếp
ngồi đạo tràng, Phật pháp chẳng hiện tiền, chẳng được thành Phật đạo là như thế
nào?
Sư đáp: - Kiếp nghĩa là mắc kẹt, cũng có nghĩa là trụ. Trụ
nơi một điều thiện, mắc kẹt nơi Thập thiện. Ấn Độ nói Phật, Trung Hoa dịch là
Giác, là cái giác chiếu soi của chính mình. Người mắc kẹt nơi thiện là người có
thiện căn mà không có Phật tánh nên nói Phật chẳng phải hiện tiền, chẳng được
thành Phật đạo.
Gặp ác trụ nơi ác, gọi là chúng sanh giác, gặp thiện trụ
nơi thiện gọi là Thanh Văn Giác. Chẳng trụ hai bên thiện ác và cho sự chẳng y
trụ là đúng, đây gọi là Nhị thừa giác, cũng gọi là Bích Chi Phật giác. Đã chẳng
y trụ hai bên thiện ác và cũng chẳng khởi tri giải về chẳng y trụ gọi đó là Bồ
Tát giác. Đã chẳng y trụ cũng không cái biết chẳng khởi cái tri giải về không y
trụ mới được gọi là Phật giác. Như nói Phật chẳng trụ nơi Phật, gọi là chân
phước điền, nếu ở trong nghìn muôn người chợt có một người được như thế thì gọi
là của báu vô giá, được ở khắp mọi nơi làm Đạo sư. Chỗ không có Phật nói là
Phật, chỗ không có Pháp nói là Pháp, chỗ không có Tăng nói là Tăng, đấy là
chuyển đại pháp luân.
Hỏi: - Từ trước Tổ Tông đều có mật ngữ lần lượt truyền cho
nhau là như thế nào?
Sư đáp: - Không có mật ngữ. Như Lai không có tạng bí mật.
Chỉ cái giác chiếu soi hiện tại, lời nói rõ ràng mà tìm hình tướng không được,
đó là mật ngữ. Từ Tu Đà Hườn lên đến Thập địa hễ có ngữ cú đều thuộc về pháp
trần cấu, hễ có ngữ cú đều thuộc về giáo bất liễu nghĩa, hễ có ngữ cú đều không
đúng. Giáo bất liễu nghĩa đều sai lại còn đòi mật ngữ gì nữa?
Hỏi: - Hư không sanh trong đại giác như một hòn bọt nổi
trong biển cả là như thế nào?
Sư đáp: - Hư không dụ cho bọt, nước biển dụ cho tự tánh. Tự tánh linh giác của
chính mình siêu việt hư không, nên nói hư không sanh trong đại giác như một hòn
bọt nổi trong biển cả.
Hỏi: - Đốn rừng chớ chặt cây là thế nào?
Sư đáp: - Rừng dụ cho tâm, cây dụ cho thân. Nhân vì nói là
“đốn rừng” nên sanh ra sợ hãi, do đó nói đốn rừng chớ chặt cây.
Hỏi: Lời nói như cái mô đất để chịu tên bắn. Lời nói sanh
ra không thể nào chẳng bị hại như cái mô đất kia (Mô đất dụ như thân, chịu tên
bắn dụ như bệnh, thân đã sanh rồi thì tất nhiên phải có bệnh). Tai hại đã đồng,
đúng sai làm sao biện biệt?
Sư đáp: Như hai người bắn tên nhau, hai đầu mũi tên đụng
nhau giữa đường, nếu như sai chệch một chút ắt sẽ có kẻ bị thương. Trong hang
tìm tiếng, nhiều kiếp cũng không có hình, tiếng ở bên miệng, đúng sai là ở nơi người
đến hỏi. Cái hỏi trở lại thì bị trúng
tên, cũng như cái biết huyễn chẳng phải huyễn. Tam Tổ nói: “Chẳng biết huyền
chỉ, uổng công niệm tịnh”. Cũng nói: Nhận vật làm cái thấy như nắm miếng ngói
bể dùng gì được đâu! Nếu nói chẳng thấy thì có khác gì gỗ đá. Thế nên thấy và
chẳng thấy cả hai đều có lỗi. Nay nêu lên một để làm ví dụ cho tất cả.
Hỏi: - Vốn không có phiền não thì ba mươi hai tướng là thế
nào?
Sư đáp: - Việc bên Phật vốn không có phiền não, có ba mươi
hai tướng chỉ là phàm tình hiện nay thôi.
Hỏi: - Bồ Tát Vô Biên Thân chẳng thấy đảnh tướng của Như
Lai là thế nào?
Sư đáp: - Do vì cái thấy hữu biên và vô biên nên chẳng
thấy được đảnh tướng của Như Lai. Chỉ như nay không có tất cả cái thấy có và
cũng không có cái thấy không, đó gọi là đảnh tướng hiện.
Hỏi: - Như hiện nay các thầy Sa Môn đều nói: Tôi y theo
lời Phật dạy học một kinh, một luận, một thiền, một luật, một tri, một giải,
đáng thọ nhận bốn sự cúng dường của đàn việt như thế có tiêu được không?
Sư đáp: - Theo như nay chiếu dụng, một thanh, một sắc, một
hương, một vị, đối với tất cả pháp có, không, ở trên mọi cảnh đều không có mảy
may đắm nhiễm, cũng chẳng y trụ vào sự không đắm nhiễm và cũng không khởi tri giải
về sự chẳng y trụ, người được như vậy mỗi ngày ăn muôn lượng vàng ròng cũng
tiêu. Như nay chiếu soi tất cả pháp có, không… nơi cửa lục căn dầu có cạo gọt
mà đối với tham ái có một mảy may trị chẳng hết thì người này dù cho đến xin
thí chủ một hạt cơm, một sợi chỉ, đều phải mang lông đội sừng, kéo cày chở
nặng, mỗi mỗi đều phải trả nợ thí chủ mới được, vì họ chẳng y theo Phật. Phật
là người vô trước, vô cầu, vô y, như nay cứ lăng xăng tham đi tìm Phật đều là
trái vậy. Cho nên nói:
“Nhiều kiếp gần bên Phật,
Mà chẳng biết Phật tánh.
Chỉ thấy người cứu thế (Phật tánh),
Luân hồi trong lục đạo.
Lâu mới thấy được Phật,
Lại nói Phật khó gặp”.
Ngài Văn Thù là Tổ Sư của bảy Đức Phật cũng gọi vị Bồ Tát
đứng đầu thế giới Ta Bà này vô cớ tác ý tưởng thấy Phật, tưởng nghe pháp, nên
bị sức oai thần của Phật đày xuống hai hòn núi Thiết Vi. Chẳng phải Ngài không
hiểu, nhưng đặc biệt để làm gương cho người học, để kẻ hậu học đừng có thấy
nghe như thế. Chỉ cần không có tất cả pháp, có, không, các kiến chấp có, không,
mỗi mỗi đều thấu suốt ngoài ba câu, đây gọi là ngọc báu như ý, cũng gọi là đặt
chân lên Bửu Liên Hoa. Nếu có tri kiến Phật, tri kiến Pháp, tri kiến có không gọi
là con mắt bệnh, vì cái năng kiến, sở kiến, cũng gọi là kiến trói buộc, cũng gọi
là kiến che lấp, cũng gọi là kiến tác nghiệt. Chỉ như nay niệm niệm cùng tất cả
kiến, văn, giác, tri và hết thảy trần cấu khử bỏ được hết thì một trần, một sắc
đều là một Phật. Dẫu khởi một niệm cũng là một Phật, niệm niệm của thân ngũ ấm
quá khứ, hiện tại, vị lai vô lượng vô biên, đây gọi là Phật lấp bít hư không,
cũng gọi là phân thân Phật, cũng gọi là Bảo Tháp hiện. Vì thế thường than rằng:
“Sinh mạng ngày nay bị tứ đại nắm chặt, thiếu một ngày không sống, thiếu một
ngày không chết, phải nhờ một hột gạo, một cọng rau, không được ăn thì bị chết
đói, không được uống thì bị chết khát, không được lửa sưởi ấm thì bị chết lạnh,
như thế chẳng bằng người đã đạt đạo vào lửa không bị cháy, xuống nước không
chìm, muốn cháy liền cháy, muốn chìm liền chìm, muốn sống liền sống, muốn chết
liền chết, đi ở tự do, người này có phần tự do vậy”.
Tâm nếu không loạn thì chẳng cần cầu Phật, cầu Bồ Đề, cầu
Niết Bàn. Nếu chấp trước cầu Phật là tham, tham biến thành bệnh, nên nói: “Bệnh
Phật rất khó trị”. Báng Phật, phỉ Pháp mới được lấy cơm ăn. Người ăn là tánh
linh giác của chính mình, cơm vô lậu, thức ăn giải thoát, những lời trên là trị
bệnh cho hàng Bồ Tát Thập địa.
Như nay hễ có tất cả tâm mong cầu đều gọi là Tỳ Kheo phá giới,
là danh dự A La Hán, đều gọi là con chồn, hiển nhiên là không tiêu được đồ cúng
dường của người.
Chỉ cần hiện tại nghe tiếng như vang, ngửi hương như gió,
lìa hết tất cả pháp có, không, cũng chẳng trụ nơi lìa, cũng không có tri giải
về chẳng trụ. Người này tất cả tội cấu không thể buộc ràng được.
Vì cầu Vô thượng Bồ Đề, Niết Bàn nếu gọi là xuất gia, vẫn
còn là nguyện tà, huống là sự tranh luận hơn thua ở thế gian, như nói: “Tôi làm
được, tôi hiểu được”. Tham thêm một môn đồ, thương một đệ tử, lưu luyến một chỗ
ở, kết duyên với một đàn việt, một manh áo, một chén cơm, một danh, một lợi mà lại
nói: “Ta được tất cả đều vô ngại”. Đó chỉ là tự dối mình.
Chỉ cần hiện tại đối với ngũ ấm của mình chẳng bị nó làm
chủ. Bị người chặt đứt thân thể ra từng khúc vẫn không có tâm oán tiếc, cũng
không phiền. Cho đến việc đệ tử của mình bị người đánh đập từ đầu đến chân,
những việc kể trên đều không có một niệm sanh tâm bỉ ngã. Song, nếu còn y trụ
nơi không có một niệm trên cho đó là đúng đây gọi là sự nhơ bợn của pháp trần.
Hàng Thập địa còn thoát chưa được nên còn bị trôi vào dòng sanh tử. Do đó ta
thường khuyên mọi người phải sợ phiền não của pháp trần như sợ tam đồ thì mới
có phần độc lập. Giải sử có một pháp nào hơn cả Niết Bàn đi nữa, cũng không
sanh ra ý tưởng quý trọng thì người này mỗi bước đi là Phật chẳng cần chân đạp
hoa sen, chẳng cần phân thân trăm ức. Nếu hiện tại đối với các pháp có không,
có tâm ái nhiễm bằng mảy lông thì dẫu cho chân có đạp hoa sen cũng đồng như ma
làm.
Nếu chấp vốn thanh tịnh, vốn giải thoát, tự là Phật, tự là
Thiền đạo, có kiến giải này, thuộc về phái ngoại đạo tự nhiên.
Nếu chấp nhân duyên tu thành, chứng đắc, tức thuộc về phái
ngoại đạo nhân duyên.
Chấp có tức thuộc về phái ngoại đạo thường kiến.
Chấp không tức thuộc về phái ngoại đạo đoạn kiến.
Chấp cũng có cũng không tức thuộc về phái ngoại đạo biên
kiến.
Chấp chẳng có chẳng không tức thuộc về phái ngoại đạo
không kiến cũng gọi là ngoại đạo ngu si.
Hiện nay chó khởi các kiến chấp Phật, Niết Bàn… Không có tất cả kiến chấp có
không, cũng không có cả cái không kiến chấp nữa, mới được gọi là chánh kiến.
Không có kiến chấp nghe và không nghe, cũng không có cái
không có kiến chấp nữa mới được gọi là chánh nghe, ấy gọi là dẹp trừ ngoại đạo.
Không có ma phàm phu đến là đại thần chú, không có ma Nhị
thừa đến là đại minh chú, không có ma Bồ Tát đến là vô thượng chú, không có ma
Phật đến là Vô đẳng đẳng chú.
Một biến chúng sanh là siểm khúc Tu La (B), hai biến Nhị
thừa là siểm khúc Tu La, ba biến Bồ Tát là siểm khúc tu la. Đó là tam biến Tịnh
độ (C). Tất cả pháp có, không, phàm, thánh… dụ như quặng vàng; tự mình đúng lý
dụ như vàng. Vàng với quặng tách rời nhau thì vàng thật lộ ra. Bỗng người muốn
tiền thì liền biến vàng thành tiền cho người ấy dùng. Cũng như bột mì thiệt,
nếu có người đến xin bánh liền làm thành bánh cho người đó. Cũng như viên quan
hầu cận có trí khéo hiểu được ý nhà vua, vua lúc muốn đi kêu “Tiên đà bà”, liền
đem ngựa đến; lúc muốn ăn kêu “Tiên đà bà”, liền đem muối đến. Những việc trên
dụ cho người học huyền chỉ khéo thông đạt được thì ứng cơ chẳng sai lầm, nên
cũng gọi là lục tuyệt sư tử (tự tánh). Ngài Chí Công nói: “Tuỳ người tạo tác
trăm sự biến hoá”. Hàng Bồ Tát Thập địa chẳng đói chẳng no, vào nước không
chìm, vào lửa không cháy, ví như muốn cháy cũng chẳng được cháy, vì các vị ấy
còn bị số lượng quản định. Phật thì chẳng phải như thế, vào lửa chẳng cháy, còn
như muốn cháy liền cháy, vào nước chẳng chìm, muốn chìm liền chìm. Ngài sử dụng
tứ đại được tự do, tất cả sắc là sắc Phật, tất cả thanh là thanh Phật, cặn bã
nhơ uế của tâm siểm khúc sạch hết, thấu vượt nghĩa ba câu được nói lời này: Bồ
Tát thanh tịnh, đệ tử sáng suốt, có nói ra điều gì chẳng chấp có không, tất cả
chiếu dụng chẳng lạc vào thanh hay trược.
Người có bệnh mà không uống thuốc là người ngu. Người
không bệnh mà uống thuốc là hàng Thanh Văn. Người chấp quyết định vào một pháp gọi
là định tánh Thanh Văn. Người luôn luôn đa văn gọi là Tăng thượng mạn Thanh
Văn. Người ham biết các Pháp ngoài tâm gọi là hữu học Thanh Văn. Người trầm
không trệ tịch và tự biết mình gọi là vô học Thanh Văn.
Tham, sân, si là độc, mười hai phần giáo là thuốc, độc
chưa tiêu hết, thuốc không được bỏ, không bệnh mà uống thuốc, thuốc trở thành
bệnh. Bệnh hết mà thuốc không bỏ nên nói bất sanh bất diệt là nghĩa vô thường.
Kinh Niết Bàn nói: “Có ba điều ác dục: Một là muốn được tứ chúng vây quanh; hai
là muốn mọi người làm môn đồ mình; bà là muốn cho mọi người biết ta là Thánh
nhân, là người có trí huệ cao”. Kinh Ca Diếp nói: “Một là muốn cầu thấy Phật vị
lai; hai là muốn cầu làm Chuyển Luân Vương; ba là muốn cầu vào dòng Sát Đế Lợi;
bốn là muốn được vào hàng Bà La Môn nhẫn đến chán sanh tử cầu Niết Bàn.” Những
điều ác dục như vậy trước hết phải dứt trừ. Hiện tại hễ có dấy niệm đắm nhiễm
đều gọi là ác dục, đều thuộc về sáu cõi trời dục bị ma Ba tuần cai quản.
Hỏi: - Trong hai mươi năm thường sai đi trừ phẩn là thế
nào?
Đáp: - Chỉ cần dứt hết thảy các tri kiến có không, chỉ cần
dứt tất cả các sự tham cầu, mỗi mỗi đều thấu suốt nghĩa ba câu thì gọi là trừ
phẩn. Còn như nay cầu Phật, cầu Bồ Đề, cầu tất cả pháp có không,… Thì đó là chở
phẩn vào, không gọi là chở phẩn ra. Nếu hiện tại khởi ra Phật kiến, Phật giải,
hễ có sở kiến, sở cầu, sở trước đều gọi là phẩn hý luận, cũng gọi là thô ngôn,
cũng gọ là tử ngữ. Như nói: “Biển lớn không chứa tử thi”. Bình thường nói
chuyện chẳng gọi là hý luận. Lời nói biện biệt thanh, trược, gọi là hý luận.
Văn trong kinh có nói chung hai mươi mốt thứ “không” là để gạn lọc trần luỵ của
chúng sanh.
Bậc Sa môn trì trai, giữ giới, nhẫn nhục, nhu hoà, từ bi,
hỷ xả là phép tắc thông thường của Tăng sĩ. Đã biết như thế là rõ ràng làm theo
lời Phật dạy, song không nên chấp trước. Nếu hy vọng được Phật, được Bồ Đề và
các pháp…. Thì khác nào để tay chạm vào lửa. Ngài Văn Thù nói: “Nếu khởi Phật
kiến, Pháp kiến thì sẽ tự hại mình”. Vì thế Ngài Văn Thù cầm gươm bên Phật, ông
Ương Quật cầm đao bên Thích thị (Phật). Như nói: “Bồ Tát làm ngũ vô gián mà
chẳng bị vào địa ngục Vô gián, vì các Ngài là người huyền thông Vô gián nên
không đồng như chúng sanh tạo tội ngũ nghịch Vô gián”.
Từ Ba tuần thẳng đến Phật đều là cáu ghét. Không có mảy
may y chấp như thế còn gọi là đạo Nhị thừa, huống chi tranh luận tìm sự hơn
thua, nói “Ta làm được, ta hiểu được” thì chỉ được gọi là tranh luận Tăng,
chẳng được gọi là Vô vi Tăng.
Hiện tại chỉ cần không tham nhiễm tất cả các pháp có không
thì gọi là vô sanh, cũng gọi là chánh tín. Tin mà còn chấp trước vào tất cả
pháp thì gọi là lòng tin chẳng đủ, cũng gọi là lòng tin không trọn vẹn, cũng gọi
là lòng tin lệch lạc. Lòng tin chẳng đủ cho nên gọi là Nhất xiển đề. Như nay
muốn được hoát nhiên ngộ giải thì chỉ cần nhân pháp đều bặt, nhân pháp đều đứt,
nhân pháp đều không, thấu suốt nghĩa ba câu đây gọi là người bất đoạ chư số
(không lọt vào số lượng), đó là tin pháp, đó là giới thí, văn huệ… Bồ Tát chịu
nhịn chẳng thành Phật, chịu nhịn chẳng làm chúng sanh, chịu nhịn chẳng trì giới,
chịu nhịn chẳng phá giới, cho nên nói là không trì, không phạm.
Trí trược chiếu thanh, huệ thanh biết trược. Nơi Phật gọi
là chiếu huệ, nơi Bồ Tát gọi là trí, nơi Nhị thừa và chúng sanh gọi là thức,
cũng gọi là phiền não. Nơi Phật gọi là trong quả nói nhân, nơi chúng sanh gọi
là trong nhân nói quả. Nơi Phật gọi là Chuyển pháp luân, nơi chúng sanh gọi là
Pháp luân chuyển. Nơi Bồ Tát gọi là đồ anh lạc trang nghiêm, nơi chúng sanh gọi
là ngũ ấm Tòng lâm. Nơi Phật gọi là bốn địa vô minh, do vì hiểu rõ vô minh nên
nói vô minh là đạo thể, chẳng đồng với ám muội vô minh của chúng sanh.
Kia là sở, đây là năng,
Kia là sở văn, đây là năng văn,
Chẳng một, chẳng khác,
Chẳng đoạn, chẳng thường,
Chẳng đến, chẳng đi.
Là lời nói sống, là lời nói vượt ra
ngoài khuôn khổ ngữ cú, chẳng sáng, chẳng tối, chẳng Phật, chẳng chúng sanh
cũng đều như vậy. Đến, đi, đoạn, thường, Phật, chúng sanh đều là lời nói chết.
Khắp hay chẳng khắp, đồng hay dị đoạn hay thường, … đều là cái nghĩa của ngoại
đạo. Bát Nhã Ba La Mật là Phật tánh của chính mình cũng gọi là Ma Ha Diễn (Đại
thừa). Nếu chấp giữ cái tri giác của mình thì thần ngoại đạo tự nhiên. Không
giữ cái giác chiếu soi hiện tại, không cầu Phật, nếu cầu cái khác thì thuộc về
ngoại đạo nhân duyên. Sơ Tổ nói: “Tâm có chỗ phải, ắt có chỗ quấy”. Nếu quý một
vật ắt thì bị một vật làm mê hoặc, nếu trọng một vật thì bị vật làm mê hoặc.
Tin thì bị lòng tin làm mê hoặc, không tin thì lại thành phỉ báng. Thế nên đừng
quý, cũng đừng không quý, đừng tin cũng đừng không tin.
Phật cũng chẳng phải là vô vi, tuy
chẳng phải là vô vi lại cũng chẳng phải là cái tối tăm yên lặng như hư không.
Phật là chúng sanh thân lớn, giác chiếu soi nhiều nhưng thanh tịnh, quỷ tham
sân bắt không được. Phật là người ở ngoài vòng trói buộc không có mảy may ái
thủ, cũng không có tri giải về không ái thủ, đây gọi là đầy đủ lục độ vạn hạnh,
nếu cần đồ trang nghiêm thì thứ nào cũng có, còn như không cần không dùng thì
cũng chẳng mất nó. Tự do sai khiến được nhân quả, phước trí là tu hành, chứ
chẳng phải nhọc nhằn mang nặng mới gọi là tu hành.
Ba thân một thể, một thể ba thân.
1. PHÁP THÂN THẬT TƯỚNG PHẬT:
Pháp thân Phật không sáng, không
tối. Sáng tối thuộc về huyễn hoá. Thật tướng là do đối với hư tướng mà đặt tên,
thật ra nó vốn không có tất cả tên gọi, như nói: Pháp thân vô vi bất đoạ chư
số, thành Phật cao quý, … đều là lời nhẹ như gánh một lon, một lít. Do tên
trược mới được đặt tên thanh nên nói thật tướng Pháp thân Phật, cũng gọi Thanh
tịnh Pháp thân Tỳ Lô Giá Na Phật, cũng gọi hư không Pháp thân Phật, cũng gọi
Đại Viên Cảnh Trí, cũng gọi đệ bát thức, cũng gọi là Tánh Tông, cũng gọi không
tông, cũng gọi là Phật ở cõi không tịnh, không uế, cũng gọi sư tử ở tại hang,
cũng gọi Kim cang Hậu đắc trí, cũng gọi Vô cấu đàn, cũng gọi Đệ nhất nghĩa
không, cũng gọi Huyền chỉ. Tam Tổ nói: “Chẳng biết huyền chỉ, uổng công niệm
định”.
2. BÁO THÂN PHẬT:
Báo thân Phật là Phật dưới cội Bồ
Đề, cũng gọi là huyễn hoá Phật, cũng gọi là tướng hảo Phật, cũng gọi là Ứng
thân Phật, cũng gọi là viên mãn Báo thân Lô Xá Na Phật, cũng gọi là Bình đẳng
tánh trí, cũng gọi là đệ Thất thực, cũng gọi là Thù nhân đáp quả Phật, đồng với
số năm mươi hai Thiền na, đồng với A La Hán, Bích Chi Phật, đồng với tất cả Bồ
Tát, đồng chịu các khổ sanh diệt mà không đồng nghiệp khổ ràng buộc của chúng
sanh.
3. HOÁ THÂN PHẬT:
Hiện tại đối với các pháp có, không
đều không tham nhiễm, cũng không cả cái không tham nhiễm, lìa ngoài tứ cú. Tất
cả ngôn thuyết biện tài đều gọi là Hoá thân Phật, cũng gọi là Thiên bá ức Hoá
thân Thích Ca Mâu Ni Phật, cũng đại thần biến, cũng gọi là Du hí thần thông,
cũng gọi là Diệu quan sát trí, cũng gọi là đệ Lục thức.
Cúng dường nghĩa là làm thanh tịnh
ba nghiệp. Tiền tế (quá khứ) không phiền não để đoạn, trung tế (hiện tại) không
tự tánh để giữ, hậu tế (vị lai) không Phật để thành, đó là Tam tế (tam thế)
đoạn, là ba nghiệp thanh tịnh, là Tam luân không, là tam đàn không (Tam đàn: người
bố thí, người nhận bố thí, tài vật bố thí). Thế nào là Tỳ Kheo hầu hạ Phật? Đó
là người lục căn chẳng lậu, cũng gọi là “Trang nghiêm vô chư lậu”, “Rừng cây
trang nghiêm vô chư nhiễm”, “Hoa quả trang nghiêm vô Phật nhãn”. Về pháp nhãn
của người tu hành biện biệt thanh trược, cũng không có tri giải về sự biện biệt
thanh trược, đây gọi là Ngũ nhãn (nhục nhãn cho đến Phật nhãn).
Kinh Bảo Tích nói: Pháp thân không
thể dùng kiến, văn, giác, tri để cầu, Nhục nhãn không thấy được vì nó vô sắc,
Thiên nhãn không thấy được vì nó vô vọng, Huệ nhãn không thấy được vì nói lìa
tướng, Pháp nhãn không thấy được vì nói lìa hành, Phật pháp nhãn không thấy
được vì nó lìa thức. Nếu không có những tri kiến trên thì gọi là Tri kiến Phật.
Đồng sắc mà chẳng phải hình sắc nên gọi là chân sắc. Đồng không mà chẳng phải
thái hư nên gọi là chân không. Sắc với không cũng là lời nói thuốc với bệnh để
trị nhau (chấp sắc lấy không trị, chấp không lấy sắc trị).
Pháp giới quan nói: “Chớ nói tức
sắc, chẳng tức sắc, cũng chớ nói tức không chẳng tức không”.
Nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý không
lãnh nạp tất cả pháp có không, gọi là chuyển vào đệ Thất địa. Bồ Tát Thất địa
không lui sụt thất địa. Từ Bồ Tát Bát địa đến Bồ Tát Thập địa, tâm địa trong
sạch để hiện diệu dụng của tự tánh, nói lửa lửa liền cháy.
Từ Sắc giới trở lên bố thí là bệnh;
bỏn xẻn tham làm là thuốc. Từ Sắc giới trở xuống bỏn xẻn tham lam là bệnh, bố
thí là thuốc.
Hữu tác giới là cắt dứt pháp thế
gian, chẳng phải thân tay làm thì không có lỗi. Vô tác giới, cũng gọi là Vô
biểu giới, cũng gọi là Vô lậu giới. Hễ có dấy tâm động niệm đều gọi là phá giới.
Nay chỉ cần không bị các cảnh có không làm hoặc loạn, cũng chẳng y trụ nơi
không hoặc loạn, cũng không có tri giải về chẳng y trụ, đây gọi là biến học
(phổ biến) cũng gọi là cần tán niệm (cần = siêng, tán = khen), cũng gọi là
Quảng lưu bố.
Lúc chưa ngộ, chưa hiểu gọi là mẹ,
ngộ rồi hiểu rồi gọi là con. Cũng không có cái tri giải về ngộ hay không ngộ,
hiểu hay không hiểu, đây gọi là mẹ con đều chết. Không có sự ràng buộc của
thiện, của ác, của Phật, của chúng sanh; số lượng cũng vậy, nhẫn đến không có
sự ràng buộc của tất cả số lượng. Cho nên nói Phật là bậc siêu việt số lượng,
vượt ra ngoài các sự ràng buộc.
Tham lam, ưa thích tri giải, nghĩa cú cũng như mẹ thương con, chỉ biết cho con
ăn nhiều sữa ngon mà con có tiêu hoá được hay không đều không biết. Những lời
này dụ cho:
- Hàng Thập địa thọ sự cúng dường
của trời, người là tôn quý phiền não.
- Thiền định sanh vào Sắc giới, Vô
sắc giới, là phước lạc phiền não.
- Được thần thông tự tại bay đi ẩn hiện khắp
tịnh độ mười phương chư Phật, là nghe pháp phiền não.
- Học từ bi hỷ xả là nhân duyên
phiền não.
- Học lý không, bình đẳng, là Trung
đạo phiền não.
- Học tam minh, Lục thông là Tứ vô
ngại phiền não.
- Học tâm Đại thừa là phát Tứ hoằng
thệ nguyện phiền não.
- Sơ địa, Nhị địa, Tam địa, Tứ địa
là minh giải phiền não. Ngũ địa, Lục địa, Thất địa là chư tri kiến phiền não.
Bát địa, Cửu địa, Thập địa là song chiếu Nhị đế (chân đế và tục đế) phiền não.
Cho đến học Phật quả là bá vạn A tăng kỳ chư hạnh phiền não. Chỉ biết tham
nghĩa cú tri giải chẳng biết đó là trói buộc phiền não, nên nói: “Dòng sông
kiến chấp hay cuốn trôi hương tượng” (loài voi lớn ở Hy Mã Lạp Sơn dụ cho hàng
Bồ Tát).
Hỏi: - Thấy chăng?
Đáp: - Thấy.
Lại hỏi: - Sau khi thấy thì thế
nào?
Đáp: - Cái thấy không hai.
Đã nói thấy không hai thì không
được lấy “kiến” để “kiến” cái “kiến”. Nếu “kiến” lại thêm “kiến” thì thành hai
câu đầu. Vậy cái “kiến” trước phải hay cái “kiến” sau phải? Cũng như Kinh Lăng
Nghiêm nói: “Kiến kiến chi thời, kiến phi thị kiến. Kiến do ly kiến, kiến bất
năng cập” (Hai chữ “kiến kiến” này là chỉ cho “kiến tánh”. Khi đã kiến tánh thì
kiến (- trước) không phải là năng kiến cho nên không có tánh để làm sở kiến (-
sau). Gọi là kiến còn phải lìa kiến, nếu có năng kiến thì không thấy được tự
tánh, cho nên nói: Kiến bất năng cập).
Vì thế không hành kiến pháp, không
hành văn pháp, không hành giác pháp, không hành tri pháp, thì chư Phật liền thọ
ký cho.
Hỏi: - Kiến pháp đã chẳng phải là
lời thọ ký thì dùng cái gì để thọ ký?
Sư đáp: - Người đã ngộ Tông thì
chẳng bị tất cả pháp có không trói buộc như giặt áo bẩn vậy, nên nói: Ly tướng gọi
là Phật, hư thật đều không còn; trung chỉ độc huyền, huyền đạt một lối (Trung
chỉ = tự tánh, độc huyền = bất khả tư nghì. Tự tánh huyền diệu bất khả tư nghì,
đạt đến cái huyền diệu ấy chỉ có một đường lối là phải tự ngộ mới được), kẻ
đồng đạo hậu tấn (hậu học) khế hợp đến bậc đó, nên nói thọ ký vậy.
Vô minh là cha, tham ái là mẹ. Tự
kỷ là bệnh, tự kỷ cũng là thuốc. Tự kỷ là dao giết cha vô minh, mẹ tham ái của
chính mình, nên nói giết cha hại mẹ. Đó là một cách nói để phá hết thảy pháp. Người
ăn phi thời thực cũng vậy. Hiện tại đắm nhiễm tất cả pháp có không đều gọi là
ăn phi thời thực cũng gọi là ác thực, là thức ăn nhơ đựng trong chén báu, là
phá giới, là làm nhơ chén, là tạp thực.
Phật là người không cầu, hiện nay
tham cầu tất cả pháp có không, hễ có sở tác đều là quấy cả, tức là phỉ báng
Phật. Hễ có tham nhiễm đều gọi là thọ thủ (trao tay). Còn như nay không tham
nhiễm, cũng chẳng y trụ vào không tham nhiễm, cũng không có tri giải về chẳng y
trụ, đây gọi là lửa Bát Nhã, lửa đốt ngón tay là không tiếc thân mạng, là cắt
thân ra từng mảnh, là xuất thế gian, là cầm thế gian trong lòng bàn tay ném qua
phương khác.
Hiện tại, nếu đối với mười hai phần
giáo và tất cả pháp có, không ở trong tạng phủ còn có một mảy may lưu giữ là
chưa ra khỏi lưới. Hễ có sở cầu, sở đắc, hễ có khởi tâm động niệm đều là con
chồn. Như nay chỉ cần trọng tạng phủ đều vô sở cầu, vô sở đắc thì người này là
đại thí chủ, là sư tử rống. Lại cũng chẳng y trụ vào Vô sở đắc, cũng không có
tri giải về chẳng y trụ, đây gọi là lục tuyệt sư tử.
Nhân ngã chẳng sanh, các điều ác
không khởi, đó là để núi Tu Di vào trong hạt cải, chẳng khởi tất cả tham sân và
bát phong, … Đó là hút được hết tất cả nước bốn biển lớn vào miệng. Chẳng thọ
nhận tất cả ngữ ngôn hư vong, đó là chẳng lọt vào lỗ tai. Chẳng cho thân tạo
các điều ác đối với người, đây là nạp tất cả lửa vào trong bụng. Hiện tại chỉ
cần đối với mọi cảnh chẳng mê lầm, chẳng tán loạn, chẳng giận, chẳng mừng, nơi
của lục căn của mình phải cạo gọt cho sạch sẽ, đó là người vô sự hơn hẳn tất cả
những người tri giải, Đầu đà tinh tấn, gọi là Thiên nhãn, cũng gọi là Liễu
chiếu nhãn, cũng gọi là Pháp giới tánh, cũng gọi là xe chở nhân quả.
Hỏi: - Phật xuất thế độ chúng sanh
là thế nào?
Đáp: - Niệm trước không sanh, niệm
sau không tiếp nối, nghiệp trong niệm trước đã hết gọi là độ chúng sanh. Niệm
trước nếu giận hờn thì liền đem thuốc hoan hỷ để trị tức gọi là có Phật độ
chúng sanh. Tất cả ngôn giáo chỉ là thuốc trị bệnh, vì bệnh chẳng đồng nên
thuốc có khác, cho nên có lúc nói có Phật, có lúc nói không Phật. Lời chân thật
dùng để trị bệnh, nếu trị lành được bệnh thời mỗi lần đều là lời chân thật, còn
nếu trị bệnh chẳng lành thì mỗi lời đều là lời hư vọng. Lời chân thật thành lời
hư vọng vì sanh kiến chấp; lời hư vọng thành lời chân thật vì dứt được điên đảo
của chúng sanh. Bởi vì bệnh là hư vong, nên dùng thuốc hư vong để trị.
Phật xuất thế độ chúng sanh là
chính bộ giáo ngữ, là giáo ngữ bất liễu nghĩa. Giận hờn và hoan hỷ, bệnh tật và
thuốc men đều là tự kỷ chứ không có ai khác, thì chỗ nào có Phật xuất thế, chỗ
nào có chúng sanh để độ? Như Kinh Kim Cang nói: “Thật không có chúng sanh được
diệt độ”. Cũng nói: “Không ưa thích Phật, Bồ Đề, không tham nhiễm các pháp có
không gọi là độ tha, cũng chẳng chấp lấy tự kỷ gọi là tự độ”. Vì bệnh không
đồng, thuốc cũng không đồng, cho toa cũng không đồng, không được cố chấp. Y
theo Phật, y theo Bồ Đề và các pháp, … đều là cơ sở y. Cho nên người trí chẳng
được y theo một pháp nào cả. Lời trong kinh dụ như lá vàng, chẳng biết lý này
thì gọi là đồng với vô minh. Như nói: “Bồ Tát thực hành Bát Nhã chẳng nên chấp
lấy lời ta và y theo lời dạy”.
Sân như cục đá, ái như nước sông.
Hiện nay chỉ cần không sân, không ái là thấu được núi sông, vách đá chỉ là trị
bệnh cho kẻ tục tai điếc thôi, còn đa văn biện thuyết là để trị bệnh đau
mắt.
Từ người lên đến Phật là đắc, từ người trở xuống địa ngục là thất. Thị phi cũng
vậy, Tam Tổ nói: “Đắc thất thị phi, nhất thời buông bỏ”.
Không chấp trụ vào tất cả pháp có
không thì gọi là bất trụ hữu duyên, chẳng y trụ vào không, y trụ thì gọi là bất
trụ không nhẫn.
Người có kiến giải chấp tự kỷ là
Phật, tự kỷ là Thiền, đạo gọi là nội kiến, chấp nhân duyên tu chứng mà thành gọi
là ngoại kiến, Ngài Chí Công nói: “Nội kiến, ngoại kiến đều sai”.
Mắt, tai, mũi, lưỡi mỗi cái không
tham nhiễm tất cả pháp có, không gọi là thọ trí bốn câu kệ, cũng gọi là Tứ quả
Lục nhập không dấu tích, cũng gọi là Lục thông. Hiện tại chỉ cần không bị các
pháp có, không làm ngại, cũng chẳng y trụ nơi vô ngại và cũng không có tri giải
về chẳng y trụ, đây gọi là Thần thông. Không chấp thần thông này là đúng gọi là
Không thần thông. Như bảo: Bồ Tát không thần thông, dấu chân không thể tìm là người
hướng lên Phật, là người không thể nghĩ bàn là tự kỷ.
Trời là trí chiếu soi. Khen ngợi
liền vui mừng, vui mừng thuộc về cảnh. Cảnh là trời, khen ngợi là người. Trời người
giao tiếp cả hai được thấy nhau. Cũng nói: Tịnh trí là trời, chánh trí là người,
vốn chẳng phải là Phật mà nói với họ là Phật, gọi là thể kết. Nay chỉ cần chớ
có tri giải Phật, cũng chẳng y trụ nơi không tri giải Phật, đây gọi là diệt
kết, cũng gọi là chân như, cũng gọi là thể như.
Cầu Phật, cầu Bồ Đề gọi là hiện
thân ý. Hiện tại hễ có tất cả tâm cầu thì gọi là hiện thân ý. Như nói: Cầu Bồ
Đề tuy là sự mong cầu tốt nhưng mà là chồng thêm trần luỵ. Cầu Phật là Phật
chúng, cầu tất cả pháp có không là chúng sanh chúng. Hiện tại đối với các môn
sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp… không yêu thích, đối với mọi cảnh không tham
đắm, hễ không có mười câu trược tâm là liễu chân thành Phật. Học văn cú, tìm
tri giải gọi là duyên nhân thành Phật.
Thấy Phật, biết Phật thì được, nói
Phật có biết, có thấy tức là phỉ báng Phật. Nếu nói Phật biết, Phật thấy, Phật
nghe, Phật nói thì không được, như nói thấy lửa thì được, mà nói lửa thấy thì
không được; như dao cắt vật thì được mà vật cắt dao thì không được. Người biết Phật,
người thấy Phật, người nghe Phật, người nói Phật thì trong muôn người không có
một, còn người nói Phật biết, Phật thấy, Phật nghe, Phật nói thì nhiều như số
cát sông Hẳng, chỉ vì tự mình không có mắt, mượn mắt người khác làm mắt, trong
kinh gọi là Tỷ lượng trí, như nay tham lam tri giải Phật cũng gọi là Tỷ lượng
trí.
Thí dụ của thế gian là thí dụ
thuận, giáo bất liễu nghĩa là thí dụ thuận, giáo liễu nghĩa là thí dụ nghịch,
xả bỏ đầu, mắt, não, tuỷ là thí dụ nghịch, như nay chẳng thích các pháp Phật, Bồ
Đề … là thí dụ nghịch rất khó buông bỏ; cái thí dụ về đầu, mắt, não, tuỷ có ý
nghĩa như sau: chấp trước tất cả các cảnh pháp có không gọi là đầu, bị tất cả
các cảnh pháp có, không làm nhiễm loạn gọi là tay, lúc chưa chiếu soi tiền cảnh
gọi là não tuỷ.
Bậc Thánh làm nhân phàm là Phật,
vào trong chúng sanh thị hiện đồng loại để dẫn dụ hoá đạo, đồng bọn với ngạ quỷ
chịu lửa đốt từng nóng xương thuyết pháp Bát Nhã Ba La mật cho chúng nghe,
khiến chúng phát tâm. Nếu cứ ở nơi địa vị Thánh thì làm sao đến chỗ họ để dạy
dỗ. Phật vào trong các loài để làm thuyền bè cho chúng sanh, cả bọn cùng nhau
chịu khổ, nhọc nhằn vô hạn; Phật vào chỗ khổ cũng chịu khổ đồng như chúng sanh,
nhưng Phật đi ở tự do chẳng đồng chúng sanh, Phật chẳng phải hư không thì lúc
chịu khổ đâu thể không khổ. Nếu nói không khổ thì lời này sai trái. Chớ nên nói
bậy: Nói Phật được thần thông tự tại hay không tự tại.
Vả lại, người biết hổ thẹn thì
không dám nói Phật là hữu vi hay vô vi, chẳng dám nói Phật là tự do hay không
tự do, trừ sự khen ngợi phương thuốc ra, chằng muốn để lộ ra hai điều xấu xí
(tương đối). Kinh nói: “Nếu người để Phật Bồ Đề ở bên đúng, người này mắc tội
lớn”. Cũng nói: “Như ở trước người không biết Phật pháp nói với họ như vậy thì
không lỗi”. Như sữa bò vô lậu hay trị bệnh hữu lậu, loài bò này không ở cao
nguyên cũng không ở nơi ẩm thấp, sữa bò này có thể làm thuốc, cao nguyên dụ cho
Phật, ẩm thấp dụ cho chúng sanh. Như nói: “Pháp thân Phật trí Như Lai không có
bệnh này”. Biện tài vô ngại, bay đi tự tại, bất sanh bất diệt, đây gọi là sanh,
già, bệnh, chết đau đớn chập chồng, là lối ăn canh nấm bị bệnh kiết lỵ cũng là
tối. Sáng ẩn thì tối bày. Sáng, tối đều quét chớ chấp lấy một bên cũng không có
cái không, chấp lấy vốn chẳng sáng chẳng tối. Phật từ cung vua sanh, cưới Da Du
Đà La cho đến bát tướng thành đạo, những thị hiện này, hàng Thanh Văn và ngoại
đạo vọng tưởng cho đó là thật, như nói: “Chẳng phải thân tạp thực”. Ông Thuần
Đà nói: “Tôi biết Đức Như Lai chắc chắn không thọ không ăn”. Nhất là cần phải
có đủ hai con mắt soi thấu cả hai đầu sự việc không nên chỉ dùng một con mắt
hướng bên này đi tức có bên kia đến. Công đức Thiên, Hắc ám Nữ, người chủ có
trí thì đối với cả hai đều không nhận. Hiện tại chỉ cần tâm như hư không thì sự
học mới thành.
Cao Tổ (ở Ấn Độ) nói: “Tâm tâm như
gỗ đá”.
Tam Tổ nói: “Thiện ác đều chớ
nghĩ”.
Tiên Sư (Mã Tổ) nói: “Như người lầm
đường chẳng biết phương hướng”.
Ngài Tăng Triệu nói: “Đóng chặt
trí, lấp thông minh, tánh giác làu làu”.
Ngài Văn Thù nói: “Tâm đồng hư
không nên sự kính lễ không có sở quán, kinh điển sâu xa chẳng nghe, chẳng thọ
trì”.
Nay chỉ cần đối với tất cả pháp có,
không đều chẳng thấy, chẳng nghe, lục căn lấp bít, nếu học được như thế, trì
kinh như thế mới có phần tu hành. Lời này nghe qua thật trái tai, đắng miệng
nhưng nếu làm được như thế thì đến đời thứ hai, đời thứ ba, có thể hướng đến
chỗ không có Phật, ngồi đại đạo tràng thị hiện thành đẳng chánh giác, biến ác
thành thiện, biến thiện thành ác. Dùng pháp ác để giáo hoá hàng Bồ Tát Thập
địa, dùng pháp thiện để giáo hoá địa ngục, ngạ quỷ, được hướng chỗ sáng để cởi
mở sự ràng buộc của sáng, được hướng chỗ tối để cởi mở sự ràng buộc của tối,
nắm vàng thành đất, nắm đất thành vàng, trăm thứ biến hoá tự do. Ở ngoài hằng
sa thế giới có người cầu cứu, Phật liền dùng ba mươi hai tướng hiện ra trước người
ấy, dùng tiếng giống họ để thuyết pháp, ứng cơ tiếp vật, tuỳ hình cảm hóa, biến
hiện vào các loài, lìa ngã, ngã sở là thuộc về việc bên kia còn là tiểu dụng
cũng là nằm trong các môn Phật sự. Đại dụng là thân lớn ẩn nơi vô hình, là
tiếng to giấu trong hy thanh (tiếng ngoài tần số nghe), như lửa trong gỗ, như
tiếng ở trong chuông trống; lúc nhân duyên chưa đến thì không thể nói là có hay
không. Báo thân sanh lên cõi trời, bỏ Báo thân này như bỏ đàm dãi. Lục độ, vạn
hạnh của Bồ Tát như cõi thây chết để qua sông, như ở lao ngục, trong lỗ cầu xí
được thoát ra. Phật mang tấm thân ba mươi hai tướng, tướng ấy bị gọi là áo bẩn
nhơ, cũng nói: Nếu nói Phật luôn luôn không thọ thân ngũ ấm thì thật vô lý,
Phật chẳng phải là hư không thì đâu thể luôn luôn không thọ, Phật chỉ đi ở tự
do không đồng với chúng sanh. Từ một cõi trời đến mội cõi trời, từ một Phật sát
đến một Phật sát là pháp thường của chư Phật.
Lại nói: Nếu căn cứ vào tam thừa
giáo thì thọ người tín thí cúng dường, họ ở trong địa ngục, Bồ Tát phải thực
hành tâm từ bi đồng loại hoá độ để báo ân, chứ chẳng nên thường ở Niết Bàn.
Lại nói: Như lửa, thấy lửa đừng mó tay vào thì lửa chẳng đốt người. Hiện tại
chỉ cần không có mười câu trược tâm: tâm tham, tâm ái, tâm nhiễm, tâm sân, tâm
chấp, tâm trụ, tâm y, tâm trước, tâm thủ, tâm luyến. Mỗi câu đều có ba câu, hễ
thấu suốt được nghĩa ba câu thì tất cả chiếu dụng mặc tình tung hoành, thì tất
cả cử động làm việc, nói, nín, khóc, cười đều là Phật huệ. Phiền các vị đã ứng
lâu, trân trọng cám ơn.
Hỏi: - Thế nào là pháp yếu nhập đạo
Đại thừa đốn ngộ?
Sư đáp: - Trước hết ông phải bặt
hết các duyên, dẹp bỏ muôn việc, các pháp thiện hay bất thiện, thế gian và xuất
thế gian thảy đều buông bỏ, đừng ghi đừng nhớ, đừng duyên đừng niệm, buông bỏ
thân tâm, đều cho tự tại, tâm như gỗ đá, miệng không biện luận, tâm không mống
niệm, tâm địa nếu không thì mặt trời trí huệ tự hiện, như tan lớp mây mù thì
mặt trời xuất hiện, chỉ cần dứt tất cả phan duyên thì các tình chấp tham sân,
ái, thủ, sạch, nhơ, đều hết; đối với ngũ dục, bát phong, tâm chẳng động, chẳng
bị cái kiến, văn, giác, tri làm chướng ngại, chẳng bị các pháp làm mê lầm thì
tự nhiên đầy đủ tất cả công đức, đầy đủ tất cả thần thông, diệu dụng, đó là người
giải thoát.
Đối với tất cả cảnh pháp, tâm không
tranh cãi loạn động, không nhiếp, không tan, thấu qua tất cả thanh sắc, không
bị vướng mắc gọi là đạo nhân.
Thiện ác, phải quấy đều không dùng,
cũng không mến một pháp nào, cũng không bỏ một pháp nào gọi là người Đại thừa.
Chẳng bị tất cả thiện ác, không
hữu, cấu tịnh, hữu vi vô vi, thế gian xuất thế gian, phước đức trí huệ, ràng
buộc gọi là Phật huệ.
Phải quấy, tốt, xấu, đúng lý, không
đúng lý, các thứ tình chấp tri giải đều sạch hết, chẳng còn ràng buộc được, nơi
nơi đều tự tại đây gọi là Bồ Tát mới phát tâm được lên địa vị Phật.
Hỏi: - đối với tất cả cảnh làm sao
để được tâm như gỗ đá?
Sư đáp: - Tất cả pháp vốn chẳng nói
không, chẳng tự nói sắc, cũng chẳng tự nói phải quấy, nhơ sạch, chẳng có tâm
trói buộc người, chỉ vì con người tự sanh hư vọng trói buộc, làm ra biết bao
thứ tri giải và lãnh hội, khởi ra biết bao loại tri kiến, sanh ra biết bao sự
yêu thương, sợ hãi, chỉ cần rõ biết các pháp chẳng tự sanh, đều từ một niệm
vọng tưởng điên đảo của mình chấp tướng mà có. Biết tâm và cảnh vốn chẳng đến
với nhau, ngay nơi đó chính là giải thoát, mỗi mỗi các pháp, ngay nơi đó là
tịch diệt, ngay nơi đó là đạo tràng.
Lại nữa tánh sẵn có, không thể đặt
lên, vốn chẳng phải phàm chẳng phải Thánh, chẳng phải nhơ sạch, chẳng phải
không hữu, cũng chẳng phải thiện ác, nếu nó cùng với các pháp nhiễm tương ưng gọi
là cõi người, cõi trời, cõi Nhị thừa, nếu tâm nhơ sạch đều dứt, chẳng trụ nơi
ràng buộc, chẳng trụ nơi giải thoát, không có tất cả tâm lượng hữu vi, vô vi,
ràng buộc, giải thoát, thì ở nơi sanh tử mà tâm vẫn tự tại, cứu cánh chẳng hoà
hợp với các pháp hư vong, huyễn hoá trần lao, sanh tử, ngũ uẩn, lục nhập… xa
lìa tất cả, không y trụ một nơi nào. Chẳng bị pháp nào ràng buộc, đi ở vô ngại,
qua lại trong sanh tử tử tương tự như cửa mở.
Người học đạo nếu gặp các thứ khổ
vui, việc vừa ý hay không vừa ý mà tâm vẫn không lui sụt, chẳng nghĩ đến tất cả
thứ danh tiếng, lợi dưỡng, ăn mặc, chẳng tham tất cả công đức, lợi ích, chẳng
bị các pháp thế gian làm vướng mắc, không thân, không mến, bình tâm trước mọi
sự khổ vui, áo thô ngừa lạnh, cơm hẩm đỡ lòng, ngây ngây như ngu, như điếc, như
câm, thì mới có chút phần tương ưng. Nếu trong tâm ham học rộng, biết nhiều,
cầu phước, cầu trí đều là sanh tử, đối với lý đạo vô ích lại bị gió tri giải
thổi trôi, chìm trong biển sanh tử.
Phật là người không cầu, nếu cầu
tức là trái lý – Lý là lý không cầu, nếu cầu liền mất, nếu chấp thì đồng với
hữu vi. Do đó Kinh Kim Cang nói: “Chẳng chấp lấy pháp, chẳng chấp lấy phi pháp,
chẳng chấp lấy phi phi pháp”. Lại nói: “Pháp mà đức Như Lai được, pháp này không
thực cũng không hư”, chỉ cần suốt đời tâm như gỗ đá, chẳng bị ấm giới các nhập,
ngũ dục, bát phong làm trôi chìm tức là nhân sanh tử đã được cắt đứt, đi ở tự
do, chẳng bị tất cả nhân quả hữu vi trói buộc, chẳng bị hữu lậu câu thúc, mai
kia sẽ trở lại dùng sự không tự trói buộc làm nhân, đồng sự lợi ích, dùng tâm
vô trước ứng tất cả vật, dùng huệ vô ngại mở tất cả sự trói buộc cũng gọi là
tuỳ bệnh cho thuốc
Hỏi: - Như nay xuất gia thọ giới,
thân miệng thanh tịnh, đã đủ các pháp có được giải thoát không?
Sư đáp: - Được chút phần giải thoát
mà chưa được tâm giải thoát, cũng chưa được tất cả chỗ giải thoát.
Hỏi: - Thế nào là tâm giải thoát và
tất cả chỗ giải thoát?
Sư đáp: - Chẳng cầu Phật, chẳng cầu
pháp, chẳng cầu Tăng, nhẫn đến chẳng cầu phước trí, tri giải … Tình chấp nhơ
sạch đều dứt hết, cũng chẳng chấp không cầu là phải, cũng chẳng trụ nơi chỗ dứt
hết, cũng chẳng mến thiên đường, sợ địa ngục, trói buộc và giải thoát đều vô
ngại, tức là thân tâm và tất cả chỗ đều được giải thoát.
Ông chớ cho rằng có được chút phần giới
thân miệng ý thanh tịnh là xong, đâu biết rằng: Môn giới, định, huệ như số cát
sông Hằng mà vô lậu giải thoát đều chưa dính một mảy lông.
Hãy nỗ lực tiến lên! Hãy dũng mãnh
tham cứu! Đừng đợi tai điếc, mắt mờ, mặt nhăn, đầu bạc, già khổ đến thân, buồn
thương vương vít rơi lệ dầm dề, trong lòng sợ hãi không có gì để nương tựa và
cũng không biết phải đi về đâu. Đến lúc ấy, muốn tay chân không run rẩy cũng
không được. Dẫu cho có phước trí, tiếng tăm, lợi dưỡng cũng không cứu được, vì
tâm huệ chưa mở, chỉ nghĩ đến các cảnh, chẳng biết phản chiếu, chẳng thấy Phật
đạo, nghiệp duyên thiện ác của một đời, tất cả nghiệp ác trong lục đạo, ngũ ấm,
hoặc vui, hoặc sợ, từ tham ái của tự tâm hiện ra, biến thành những cảnh thù
thắng: nhà cửa xe thuyền tốt đẹp chói lọi hiển hách, chỉ theo chỗ nặng của tham
ái, tuỳ nghiệp thọ sanh rồng, súc sinh tốt xấu chưa định được, chẳng chút tự
do.
Hỏi: - Thế nào là được phần tự do?
Sư đáp: - Như nay được thì được, hoặc đối với
ngũ dục, bát phong, tâm không lấy bỏ, bỏn xẻn, đố kỵ, tham ái, ngã sở đều sạch,
nhơ sạch đều quên, cũng như mặt trời trên hư không, chẳng duyên mà chiếu, tâm
tâm như gỗ đá, niệm niệm (tham thiền) như cứu lửa cháy đều cũng như voi lớn qua
sông cứ băng ngang dòng nước không chút nghi ngờ. Người này thiên đường, địa
ngục không câu thúc được.