TỔ BÁCH TRƯỢNG
Sư họ
Vương, húy Hoài Hải, người Trường Lạc, Phúc Châu. Sư xuất gia từ nhỏ, ba môn
học (giới,định, tuệ) sư đều luyện đủ. Bấy giờ ngài Đại Tịch (Mã Tổ) xiểng hóa ở
Giang Tây. Sư bèn dóc lòng nương tựa. Sư cùng với Tây Đường Trí Tạng, Nam Tuyền
Phổ Nguyện được coi hàng là đệ tử nhập thất, là rường cột trong hàng đệ tử của
Mã Tổ.
Bách
Trượng là người đầu tiên, trước sự ưng thịnh của Thiền tông, đã khai sáng qui
chế riêng cho các chùa Thiền, tách hẳn với chùa Luật, qua việc ngài soạn ra bộ
Bác Trượng thanh qui. Do đó người ta còn gọi ngài là tổ trung hưng của Thiền
tông vậy.
Một lần
sư theo hầu Mã Tổ, có một bày le le bay qua, tổ hỏi:
- Chi đó?
Sư đáp:
- Le le
- Bay đi đâu?
- Bay mất rồi.
Tổ quay
đầu, véo mũi sư một cái. Sư đau quá la lên, Tổ nói:
- Thế sao bảo bay mất rồi?
Sư tỉnh
ngộ, liền về liêu thị giả khóc hu hu. Người đồng sự hỏi:
- Chú nhớ cha mẹ chăng?
Sư đáp
- không
- bị mắng sao?
- không
- không thế thì khóc chi vậy?
- mũi tôi bị hòa thượng véo, đau
chịu không nổi.
- có điều chi không hợp chăng?
- chú cứ đi hỏi hòa thượng đi.
Đồng sự
đến hỏi Mã Tổ:
- Chú Hải có điều chi không hợp
mà khóc ở trong liêu, xin hòa thượng dạy cho nghe.
- Chuyện đó y biết, cứ đến mà hỏi
y.
Đồng sự về
liêu nói:
- Hòa thượng nói chú biết chuyện,
dạy tôi cứ hỏi chú.
Sư bèn
cười ha hả. Đồng sự nói:
- Mới khóc đó sao bây giờ lại
cười?
Sư nói:
- Mới khóc đó sao bây giờ lại
cười.
Đồng sự
ngơ ngác chẳng hiểu gì.
Hôm sau
Mã Tổ thăng đường, chúng vừa tụ tập, sư bèn bước ra cuốn chiếu. Tổ bèn hạ tòa.
Sư theo
vào phương trượng, tổ nói:
- Hồi nãy ta chưa nói chi sao ông
lại cuốn chiếu mất vậy?
- Hôm qua bị hòa thượng véo mũi
đau.
- Hôm qua tâm trí ông để đâu?
- Hôm nay mũi không đau nữa.
- Ông biết chuyện hôm qua đó.
Sư bái
lạy mà lui.
Một hôm
sư đứng hầu Tổ. Tổ nhìn cây phất trần ở góc giường, sư nói:
- Tức cái dụng này mà rời cái
dụng này.
Tổ nói:
- Sau này ông lấy chi mà dạy cho người
ta?
Sư liền
lấy phất trần đưa thẳng lên. Tổ hỏi:
- Tức cái dụng này hay rời cái
dụng này?
Sư gác
phất trần vào chỗ cũ. Tổ chấn uy quán một tiếng, sư ù tai ba ngày.
Từ đó
oai danh của sư vang như sấm dạy. Tín đò thỉnh sư đến trụ trì núi Đại Hùng ở
địa phận giữa Thiểm Tây và Tân Ngô. Vì ở đó địa thế núi non hiểm trở, có dòng
thác cao trên 1000 thước nên gọi là Bách Trượng. Sư đến đây chưa đầy một tháng,
Khách học đạo bốn phương tụ tập đông đảo. Qui Sơn, Hoàng Bá đứng đầu đồ chúng.
Hoàng Bá
đến tham học với sư, một hôm cáo từ, thưa:
- Tôi muốn đến tham bái Mã Tổ.
Sư nói:
- Mã Tổ đã tịch
Hoàng Bá
nói
- Không biết Mã Tổ có lời dạy chi?
Sư bèn
thuật cho Hoàng Bá nghe chuyện cây phất trần giữa sư và ngài Mã Tổ, rồi nói:
- Phật
pháp không phải chuyện nhỏ. Lão tăng hồi đó bị một tiếng quát của Mã Đại Sư, ù
tai ba ngày.
Hoàng Bá nghe chuyện bất giác lè lưỡi. Sư nói:
- Thế ông sau này chẳng phải kế
thừa Mã Tổ hay sao?
Hoàng Bá
nói:
- Không, nhân hôm nay nghe hòa
thượng thuất chuyện, thấy được cái dụng của đại cơ của ngài Mã Tổ, nhưng vẫn
không biết Mã Tổ. Nếu kế thừa Mã Tổ thì về sau tôi mất hết con cháu.
Sư nói:
- Đúng thế! đúng thế! Chỗ thấy
ngang bằng thầy thì giảm bớt nửa đức của thày. Chỗ thấy vượt hơn thày thì mới
có thể truyền thừa được. Ông thực có chỗ thấy hơn thày vậy.
Về sau
Qui Sơn hỏi Ngưỡng Sơn:
- Trong câu chuyện tái tham Mã Tổ
và dựng cây phất trần, ý chỉ hai vị ấy như thế nào?
Ngưỡng
Sơn đáp:
- Đó là hiển lộ cái dụng của cái
Đại cơ
Qui Sơn
hỏi:
- Từ Mã Tổ mà ra có đến 84 vị
thiện tri thức. Những ai được cái đại cơ, những ai được cái đại dụng?
Ngưỡng Sơn đáp:
- Bách Trượng được đại cơ, Hoàng
Bá được đại dụng. Còn lại toàn là thày chùa cả.
Qui Sơn
nói:
- Đúng thế, đúng thế.
Một hôm
Mã Tổ hỏi sư
- Đi đâu về đó?
Sư đáp:
- Sau núi
Tổ hỏi:
- có gặp ai không?
- sao không gặp?
- Nếu gặp tất trình hòa thượng.
Tổ nói:
- Thấy chuyện đó ở đâu vậy?
Sư nói
- Tôi có lỗi.
Tổ nói
- Đấy chính là lỗi của lão tăng.
Sư
thượng đường nói:
Linh
quang độc chiếu rạng ngời, vượt hẳn căn trần, lộ cái tâm chân thực, thường hằng
của bản thể hiển bày, không câu chấp vào ngôn ngữ, văn tự.
Tâm tính
không nhiễm, vốn tự viên mãn thành tựu.
Chỉ cần
xa rời vọng duyên tức Phật Như Như.
Có ông
tăng hỏi
- Sự lạ là
sao?
Sư đáp:
- Ngồi một mình trên núi Đại Hùng
Ông tăng
bái lạy, sư liền đánh.
Trước
kia có một lần Tây Đường hỏi sư:
- Sau này ông dạy học thế nào?
Sư co duỗi
tay hai lần.
Tây
Đường nói:
- Rồi sao nữa?
Sư lấy
tay gõ đầu ba cái.
Mã Tổ
sai người đem đến cho sư một phong thư và ba vò tương. Sư sai người bày ra
trước pháp đường, rồi thượng đường. Tăng chúng vừa mới tụ tập, sư cầm gậy trỏ
mấy vò tương mà nói:
- Nói được
thì khỏi, nói không được thì ta đập vỡ.
Chúng
không biết nói sao, sư đập vỡ rồi về phương trượng.
Hỏi:
- Y kinh giải
nghĩa thì oan cho chư Phật ba đời, rời một chữ trong kinh, tức như tà thuyết.
Vậy làm sao?
Sư nói:
- Cố chấp vào cái động, cái tĩnh
thì oan cho chư Phật ba đời, còn nếu cầu tìm chỗ khác tức như tà thuyết.
Có ông
tăng vào pháp đường khóc lóc, sư hỏi
- Sao vậy?
Ông tăng
nói
- Cha mẹ tôi đều mất. Xin hòa
thượng chọn ngày cho.
Sư nói:
- Ngày mai chôn luôn một lần.
Có lần
sư thuyết pháp xong, mọi người đều rời khỏi pháp đường. Sư gọi:
- Đại chúng
Mọi người
đều quay đầu lại, sư hỏi:
- Đó là gì?
Một hôm
sư bảo tăng chúng khẩn ruộng, sư bảo Hoàng Bá:
- Thầy Vận (Hy Vận) khẩn ruộng không phải
chuyện dễ.
Hoàng Bá
đáp
- Đây là công việc của tăng chúng
Sư nói
- Phiền hà quá nhỉ.
Hoàng Bá
nói
- Đâu
dám chối từ khổ nhọc.
Sư hỏi:
- Khẩn
được bao nhiêu ruộng?
Hoàng Bá
làm bộ dạng cuốc đất.
Sư bèn
quát.
Hoàng Bá
bịt tai mà ra.
Sư hỏi Hoàng Bá:
- Đi đâu về đó?
Hoàng Bá
đáp:
- Hái nấm dưới núi.
Sư bảo:
- dưới núi có một con cọp, ông
có thấy không?
Hoàng Bá
nhại tiếng cọp gầm. Sư rút cái búa đeo ở bụng ra, làm bộ chém. Hoàng Bá chụp
búa và tát sư một cái.
Tối đến
sư tượng đường nói:
- Này các người, dưới núi có một
con cọp,các người đi đứng phải coi chừng. Sáng nay chính ta bị một vố.
Sau này Qui Sơn hỏi Ngưỡng Sơn:
-
Câu chuyện con cọp của Hoàng Bá như thế nào?
Ngưỡng Sơn nói:
-
Theo hòa thượng thì sao?
Qui Sơn nói:
-
Bấy giờ Bách Trượng cứ chặt một cái cho chết. Sao lại phải để đến như
vậy.
Ngưỡng Sơn nói:
-
Chẳng phải vậy đâu.
-
Theo ông thì sao?
-
Chẳng những cưỡi đầu cọp, mà còn nắm đuôi cọp.
Qui Sơn nói:
-
Thầy Tịch quả có nhiều câu thực hiểm.
Mỗi lần sư thượng đường, có một
lão già đến nghe pháp, xong lại theo chúng mà lui ra. Một hôm lão không đi. Sư
bèn hỏi
-
Người nào đứng đó?
Lão già đáp:
-
Vào thời Phật Ca Diếp, tôi đã từng ở núi này. Có học nhân hỏi “Kẻ đại tu hành còn rơi vào nhân quả không?”
Tôi đáp “Không rơi vào nhân quả” Bèn bị đọa làm thân chồn hoang. Nay xin hòa
thượng cho tôi một lời chuyển ngữ.
Sư nói:
-
Ông cứ hỏi.
Lão gìa bèn hỏi:
-
Kẻ đại tu hành còn rơi vào nhân quả không?
Sư đáp:
-
chẳng mờ nhân quả.
Lão già nghe xong, đại ngộ, cáo
từ sư mà nói rằng:
-
Tôi đã thoát thân chồn hoang, hiện ở sau núi, xin hòa thượng thiêu cho
theo lệ tăng chết.
Sư sai duy na bạch chùy, báo chúng ăn xong sẽ làm lễ tống vong tăng.
Mọi người chẳng hiểu ra sao. Sư
dẫn chúng đến hang sau núi, khều ra một xác chồn, đem hỏa thiêu theo nghi lễ.
Tối đến
sư thượng đường, thuật chuyện lại. Hoàng Bá bèn hỏi:
- Người xưa đáp sai một lời
chuyển ngữ, bị đọa làm thân chồn hoang. Nay nếu đáp mà lời nào cũng không sai
thì sao?
Sư bảo:
- Lai gần đây ta nói cho nghe.
Hoàng Bá
đến gần, tát sư một tát. Sư vỗ tay cười, nói:
- Tưởng râu tên Hồ thì đỏ, ai ngờ
lại gặp tên Hồ đỏ râu.
Bấy giờ
Quy Sơn làm điển tòa. Tư Mã đầu đà đem chuyện chồn hoang mà hỏi:
- Theo ngài thì sao?
Quy Sơn
lay cánh cửa ba cái. Tư Mã nói:
- Thô lỗ quá.
Quy Sơn
nói:
- Phật pháp chẳng phải nói như vậy.
Về sau
Quy Sơn đem việc Hoàng Bá hỏi chuyện chồn hoang mà hỏi ý
Ngưỡng Sơn. Ngưỡng Sơn nói:
- Hoàng Bá vẫn hay dùng cái cơ
ấy.
Quy Sơn
hói:
- Theo ý ông do trời sinh mà được
như vậy hay do học người khác mà được như vậy?
Ngưỡng Sơn đáp:
- Cũng là thừa thọ của sư môn, mà
cũng là của tự mình.
Quy Sơn
nói:
- Đúng thế! Đúng thế!
Hoàng Bá
hỏi sư
- Cổ nhân đời trước lấy pháp gì truyền thọ
cho người ta?
Sư yên
lặng, chưa nói chi. Hoàng Bá nói:
- Con cháu đời sau lấy chi mà truyền thọ?
Sư nói:
- Thế mà ta cứ tưởng ông là đứa khá.
Có lần
sư cùng Qui Sơn làm việc, sư hỏi
- có lửa không?
Qui Sơn
đáp:
- Có.
Sư hỏi
- Đâu?
Qui Sơn
cầm một que củi, thổi đỏ, đưa qua cho sư. Sư cầm lấy bảo:
- Như mối
ăn cây.
Nhân một
buổi sư phổ thỉnh tăng chúng cuốc đất, có ông tăng nghe tiếng trống, vác cuốc
lên, reo cười mà về. Sư nói:
- Khá thay! Đây là pháp “Quán Âm
nhập lý”
Sau đó
sư gọi ông tăng đến mà hỏi:
- Hôm nay ông thấy được lẽ gì?
Ông tăng
đáp:
- Tôi sáng nay không ăn cháo,
nghe tiếng trống, về ăn cơm.
Sư cười
ha hả.
Tăng
hỏi:
- Phật là gì?
Sư nói
- Ông là ai?
- Là tôi
- Ông biết “Tôi” không?
- Rõ lắm
Sư giơ
cây phất trần hỏi:
- Ông thấy cây phất trần không
- Thấy
Sư làm
thinh.
Sư sai
một ông tăng đến gặp hòa thượng Chương Kỉnh và dặn
- Chờ ông ấy thượng đường thuyết pháp, ngươi
hãy mở tọa cụ ra, lễ bái xong đứng dậy, lấy một chiếc hài, dùng tay phủi bụi
rồi lật úp xuống.
Ông tăng
đến gặp Chương Kỉnh, làm đúng như lời sư dặn..
Chương
Kỉnh nói
- Lão tăng có lỗi.
Một hôm
Qui Sơn, Vân Nham, Ngũ Phong đứng hầu sư, sư hỏi Qui Sơn:
- Không được dùng cổ, họng, môi, miệng. Nói
ra mau.
Qui Sơn
nói:
- Tôi không nói được, thỉnh hòa thượng nói.
Sư nói:
- Ta không tiếc gì mà không nói với ông, chỉ
sợ về sau ta mất hết con cháu.
Sư quay
sang hỏi Ngũ Phong, Ngũ Phong nói:
- Hòa thượng cũng phải không được dùng những
thứ ấy mà nói ra.
Sư nói:
- Nơi nào không có người ta sẽ dập đầu lạy
ông.
Sư lại
hỏi Vân Nham, Vân Nham nói:
- Tôi có chỗ nói, xin hòa thượng hỏi đi.
Sư nói:
- Không được dùng cổ, họng, môi, miệng. Nói
mau.
Vân Nham
nói:
- Hòa thượng nay có hay chưa?
Sư nói:
- Mất con cháu.
Sư
thượng đường bảo chúng
- Ta cần một người đến nhắn với hòa thượng
Tây Đường, ai đi được đây?
Ngũ
Phong nói
- Tôi đi được
Sư hỏi:
- Ông
nhắn như thế nào?
Ngũ
Phong đáp:
- Chờ gặp Tây Đường sẽ nói:
Sư lại
hỏi:
- Gặp rồi nói cái gì?
Ngũ
Phong nói:
- Để khi về rồi tôi sẽ trình cùng hòa thượng
Có ông
tăng hỏi hòa thượng Tây Đường
- Chỗ có hỏi đáp thì hãy để dó, chỗ không hỏi đáp thì sao?
Tây
Đường nói
- Nói ra sợ mục nát mất.
Có người
thuật chuyện ấy với sư. Sư nói:
- Lâu nay ta vẫn nghi vị lão
huynh này.
Người ấy
bèn hỏi:
- Xin
hòa thượng nói
- Tướng hợp nhất không thể nắm
bắt được.
Sư dạy
chúng:
- Có một người không bao giờ ăn
mà không kêu đói. Có một người ăn cả ngày mà không kêu no.
Chẳng ai biết đáp sao.
Vân Nham
hỏi:
- Hàng ngày hòa thượng vất vả vì
ai?
Sư đáp:
- Có một người yêu cầu.
Vân Nham
hỏi:
- Sao không bảo y đích thân làm
lấy?
Sư đáp:
- Y không có đồ nghề.
Thưở nhỏ
sư theo mẹ vào chùa lạy Phật, chỉ tượng Phật mà hỏi mẹ:
- Cái gì đây?
Bà mẹ
đáp:
- Phật.
Sư nói:
- Hình dáng giống người, chẳng khác
chi con. Sau này con cũng sẽ làm Phật.
Phàm
những công việc lao lực, sư luôn luôn làm trước chúng. Mọi người không nỡ để
như thế. Từ sáng sớm đã thu dấu dụng cụ, cuốc xẻng, và xin sư nghỉ ngơi. Sư nói:
- Ta chẳng phước đức gì, há để người khác
gánh vác nhọc nhằn cho ta sao.
Sư tìm
dụng cụ khắp nơi, bữa ấy không ăn. Mọi người lại phải trả sư dụng cụ Hôm sau sư
đi làm như mọi người, rồi đến bữa vui vẻ ngồi vào bàn ăn.
Sư
thượng đường nói:
- Nhất nhật bất tác, nhất nhật bất thực.
(Một ngày không làm, một ngày không ăn).