"Sự tĩnh lặng làm khởi sinh
lên trí tuệ và trong sáng nhiều hơn gấp bội sự suy nghĩ".
Trong Phần 1, tôi đã phác họa mục
tiêu của hành thiền, tức là sự tĩnh lặng vi diệu, sự an định và trong sáng của
tâm, làm thai nghén cho các minh triết thật thâm sâu. Kế đó, tôi có nêu rõ
đường lối chủ yếu, như một sợi tơ bền chắc luồn suốt qua sự hành thiền, là sự
buông bỏ tất cả những gánh nặng về vật chất và tinh thần. Sau cùng, trong Phần
1, tôi đã mô tả tỉ mỉ sự thực tập đưa đến điều mà tôi gọi là giai đoạn thứ nhất
của sự hành thiền, và giai đoạn đó xem như đã đạt đến, khi nào hành giả đã an
trú thoải mái vào thời khắc hiện tại, trong một khoảng thời gian dài và chẳng
đứt đoạn. Tôi đã nhấn mạnh rằng, "Thực tại hiện tiền rất huy hoàng và kỳ
diệu.... Đạt đến đấy, bạn đã thực hiện rất nhiều điều. Bạn đã buông bỏ được
gánh nặng đầu tiên, vốn đã cản trở mức thiền định thâm sâu." Nhưng dù đã
thành công được nhiều như thế, thiền sinh cần phải tiến xa thêm vào sự tĩnh
lặng đẹp đẽ và chân thật hơn của tâm thức.
Ở đây, chúng ta cần phải hiểu rõ về
sự khác biệt giữa sự giác niệm tĩnh lặng về thời khắc hiện tại và sự suy tư về
trạng thái đó. Thí dụ như xem một trận đấu quần vợt trên màn ảnh truyền hình.
Khi đang xem trận đấu ấy, rất có thể bạn để ý rằng, thật ra, có hai trận đấu
cùng xảy ra một lượt -- một trận bạn đang nhìn thấy trên màn ảnh, và một trận
bạn đang nghe bình luận viên mô tả. Thật vậy, nếu Úc-đại-lợi đấu với
Tân-tây-lan, giọng điệu lời bình luận của xướng ngôn viên người Úc hoặc của
xướng ngôn viên người Tân-tây-lan, sẽ khác nhau nhiều so với trận đấu đang thật
sự diễn ra. Bình luận thường hay thiên vị. Trong thí dụ này, việc nhìn màn ảnh
mà không có lời bình luận, tương đương với sự giác niệm tĩnh lặng trong thiền;
còn để tâm chú ý vào lời bình luận trong khi đang xem trận đấu, tương đương với
việc suy tư về sự giác niệm tĩnh lặng đó. Bạn nên biết rằng, bạn sẽ gần Chân Lý
hơn, khi bạn chỉ quan sát mà không bình luận, khi bạn chỉ thể nghiệm đơn thuần
một sự giác niệm tĩnh lặng về thời khắc hiện tại.
Đôi khi, qua sự bình luận trong nội
tâm, ta cứ tưởng rằng ta biết được chuyện thế gian. Thật ra, lời bình luận đó
chẳng biết gì đến thế giới bên ngoài! Các lời nói trong nội tâm đã dệt nên
những ảo tưởng mê lầm, tạo ra khổ não. Chính nó khiến ta sân hận với những ai
mà ta xem như kẻ thù, và tạo mối luyến ái nguy hiểm với những ai mà ta thương
mến. Lời nói nội tâm tạo ra tất cả mọi vấn đề khó khăn cho cuộc đời. Nó tạo ra
sợ hãi và mặc cảm tội lỗi. Nó tạo ra lo âu và chán chường. Nó xây dựng nên các
ảo tưởng, cũng như các bình luận viên khéo léo trên màn ảnh truyền hình, đã
dùng thủ đoạn lèo lái thính giả phải tức giận, hay buồn bã, nhỏ lệ nữa. Vậy, nếu
bạn muốn tìm Chân Lý, bạn phải quý trọng sự giác niệm tĩnh lặng, và trong khi
hành thiền, hãy xem sự giác niệm đó quan trọng hơn bất cứ suy tư nào khác.
Cũng chỉ vì thiên hạ đã đặt nặng
giá trị thái quá nơi các tư tưởng của họ, mới khiến cho sự giác niệm tĩnh lặng
vướng phải một chướng ngại trầm trọng. Hãy cẩn thận gạt bỏ tầm quan trọng mà ta
đặt vào tư tưởng của mình, và hãy nhận thức giá trị chân thực của giác niệm
tĩnh lặng, đó chính là sự minh triết để giúp cho giai đoạn thứ hai -- sự giác
niệm tĩnh lặng về thời khắc hiện tại -- có thể thành tựu được.
Một trong những cách hay nhất để
khuất phục được các lời bình luận trong nội tâm, là phát triển sự giác niệm
thật tế nhị vào thời khắc hiện tại, tế nhị đến mức bạn phải theo dõi mỗi phút
giây thật cẩn thận, và không còn có thì giờ để kịp bình luận về điều vừa xảy
ra. Một tư tưởng thường là ý kiến về một việc vừa mới xảy ra, thí dụ như,
"Điều đó đã tốt đấy!" hoặc "Điều đó đã xấu đấy!" "Cái
gì đã xảy ra đấy?" Tất cả lời bình luận đó đều liên quan đến một kinh
nghiệm vừa mới trải qua. Khi ghi nhận, bình luận về một kinh nghiệm vừa mới
trải qua, bạn không thể đặt sự chú ý vào kinh nghiệm vừa mới đến. Bạn tiếp các
vị khách cũ đã đến trước, và bỏ lơ các vị khách vừa mới đến, ngay bây giờ!
Hãy tưởng tượng tâm bạn như là vị
chủ trong bữa tiệc, đang đứng đón khách trước cửa. Nếu một vị khách bước vào,
bạn chào và bắt đầu nói với ông ta hết chuyện này đến chuyện nọ, thì bạn đâu có
làm tròn phận sự là chú ý tới các vị khách khác vừa bước qua cửa. Bởi vì mỗi
lúc, khách khứa cứ lần lượt đến, bạn chỉ có thể chào người này xong, liền quay
sang chào người kế tiếp. Bạn không có đủ thì giờ để khơi chuyện, dù là chuyện
ngắn ngủi nhất, với một người nào, vì điều đó có nghĩa là bạn sẽ bỏ sót vị
khách mới đến ngay sau đó. Trong hành thiền, tất cả các kinh nghiệm đều đi vào
nội tâm qua cửa của các giác quan, cái này theo sau cái kia. Nếu bạn tiếp đón
một kinh nghiệm nào đó với sự tỉnh thức và rồi bắt chuyện (bình luận) với vị
khách (kinh nghiệm) đó, thì bạn sẽ bỏ lỡ mất cái kinh nghiệm vừa mới đến tiếp
theo sau.
Nếu bạn hoàn toàn sống trong từng
giây khắc với mỗi kinh nghiệm, với mỗi vị khách đến viếng tâm bạn, bạn không
còn chỗ nào dành cho các lời bình luận trong nội tâm nữa. Bạn không thể nào trò
chuyện với chính bạn, bởi vì bạn hoàn toàn bận bịu với sự đón tiếp một cách
tỉnh thức tất cả những gì vừa đến với tâm bạn. Đó là sự tỉnh thức tinh tế vào
thời khắc hiện tại, tinh tế đến mức nó trở thành một sự giác niệm tĩnh lặng về
hiện tại trong từng giây phút.
Bạn khám phá ra, trong việc phát
triển mức tinh tế của sự im lặng nội tâm, đó cũng tựa như vứt bỏ một gánh nặng
to lớn khác nữa. Cũng giống như bạn đã luôn luôn vác cái ba lô trên vai từ bốn
mươi, năm mươi năm nay, và trong thời gian dài đó, bạn đã lê lết qua nhiều dặm
đường. Giờ đây, bạn thấy có đủ can đảm và sáng suốt để chịu cởi cái ba lô ra và
đặt nó xuống đất trong một lúc. Bạn cảm thấy thoải mái vô cùng, thật là nhẹ
nhõm và thật là tự do, bởi vì từ nay, bạn không còn bị đè trĩu dưới cái ba lô
nặng nề của lời lải nhải trong nội tâm nữa.
Một cách khác để phát triển sự giác
niệm tĩnh lặng là ghi nhận khoảng cách giữa các tư tưởng, giữa các lời thì thầm
trong nội tâm. Bạn cẩn thận theo dõi, với sự tỉnh thức thật bén nhạy, khi một
tư tưởng này vừa chấm dứt và trước khi một tư tưởng kia khởi lên -- Đấy! Khoảng
giữa đó chính là giác niệm tĩnh lặng! Lúc đầu, có thể khoảng cách đó chỉ tạm
thời trong một chốc lát, nhưng một khi bạn đã nhận chân được sự tĩnh lặng ngắn
ngủi phớt qua đó, bạn sẽ quen dần với nó; và khi bạn đã quen với nó rồi, sự
tĩnh lặng ấy sẽ kéo dài thêm ra. Bạn bắt đầu vui hưởng sự tĩnh lặng, rốt cuộc
rồi bạn đã tìm nhận ra được nó, và cũng vì thế, nó sẽ nẩy nở thêm lên. Nhưng
hãy nhớ điều này: sự tĩnh lặng ấy rất thẹn thùng. Nếu sự tĩnh lặng mà nghe bạn
nói đến nó, nó liền biến mất lập tức!
Thật là tuyệt diệu cho mỗi người
chúng ta, nếu ta có thể buông bỏ được các lời thì thầm trong nội tâm, và an trú
vào sự giác niệm tĩnh lặng về phút giây hiện tại, đủ lâu, để nhận thức ra được
nó mang lại niềm hỷ lạc đến mức nào. Sự tĩnh lặng sẽ tạo khởi minh triết và trí
tuệ, nhiều hơn là sự suy tự Khi ta nhận thức được rằng sự tĩnh lặng nội tâm rất
thú vị và có giá trị, thì nó sẽ trở nên quan trọng và hấp dẫn đối với ta. Sự
tĩnh lặng trở thành nơi mà tâm hướng về đó. Tâm liên tục tìm đến sự tĩnh lặng,
cho đến mức mà nó chỉ suy nghĩ khi thực sự cần thiết, chỉ khi nào việc đó có ý
nghĩa. Bởi vì, ở giai đoạn này, bạn đã nhận thức rằng, hầu hết các sự suy nghĩ
của chúng ta đều chẳng có nghĩa lý chi cả, chẳng đưa ta tới đâu cả, chỉ làm cho
ta đau đầu; và từ đó, bạn sẽ hân hoan, dễ dàng dành thêm nhiều thì giờ để sống
trong nội tâm an tịnh.
Do đó, giai đoạn thứ nhì của pháp
hành thiền này, là "sự giác niệm tĩnh lặng về thời khắc hiện tại".
Bạn có thể dùng phần lớn thì giờ của bạn để phát triển hai giai đoạn trên; bởi
vì nếu bạn đạt đến mức độ như thế, bạn đã vượt qua một đoạn đường dài trong
việc hành thiền. Trong sự giác niệm tĩnh lặng của "Ngay Bây Giờ", bạn
sẽ thể nghiệm được rất nhiều an tịnh, hoan hỷ, và theo sau là trí tuệ.
Nếu bạn muốn đi xa hơn thế nữa,
thay vì chỉ chú tâm thầm lặng về bất cứ những gì khởi đến trong tâm, bạn chọn
sự chú tâm thầm lặng vào chỉ mỗi một đối tượng thôi. Mỗi một đối tượng đó có
thể là thể nghiệm về hơi thở, về lòng Từ (mettà), về một vòng tròn có màu sắc hiển
thị trong tâm (kasina, biến xứ), hay là những đối tượng khác, ít phổ thông hơn,
làm đề mục của sự giác niệm. Ngay đây, tôi sẽ mô tả sự giác niệm tĩnh lặng
trong thời khắc hiện tại về hơi thở, tức là sang giai đoạn thứ ba của pháp hành
thiền.
Chú tâm vào mỗi một đối tượng có
nghĩa là buông bỏ sự đa dạng phiền toái để đi tới đối cực của nó là sự hợp
nhất. Trong khi tâm bắt đầu hợp nhất lại, duy trì chú ý vào một đối tượng thôi,
thì kinh nghiệm về an tịnh, hỷ lạc và năng lực sẽ gia tăng lên một cách rõ rệt.
Bạn sẽ thấy rằng, ngay tại đây, sự đa dạng của ý thức cùng lúc phải chăm lo cho
cả sáu giác quan khác nhau -- tựa như có sáu cái điện thoại trên bàn cùng reo
lên một lượt -- là một gánh nặng to lớn. Buông bỏ tính đa dạng -- chỉ đặt trên
bàn một điện thoại thôi, một đường dây cá nhân riêng biệt -- quả thật là một sự
nhẹ nhõm và sẽ đưa đến an lạc. Thấu hiểu rằng tính đa dạng chỉ là một gánh
nặng, là một điều tối cần thiết để tâm có thể an trụ vào hơi thở.
Nếu đã phát triển được sự giác niệm
tĩnh lặng vào thời khắc hiện tại trong một thời gian dài rồi, bạn sẽ thấy rất
dễ dàng khi muốn chuyển sự giác niệm tĩnh lặng đó sang chú tâm vào hơi thở, và
có thể theo dõi hơi thở từng giây, từng phút, không bị gián đoạn. Đó là vì hai
trở ngại to lớn của pháp hành thiền về hơi thở đã được khuất phục xong. Trở
ngại thứ nhất là tâm trí thường có khuynh hướng cứ hay đi lang thang, trở lại
với quá khứ hoặc hướng về tương lai. Trở ngại thứ hai là các lời thì thầm trong
tâm. Chính vì vậy mà tôi đã giảng rằng hai giai đoạn tiên khởi của sự giác niệm
về thời khắc hiện tại và giác niệm tĩnh lặng về thời khắc hiện tại, được xem
như là sự chuẩn bị vững chắc cho mức thiền thâm sâu hơn về hơi thở.
Tôi thường thấy nhiều thiền sinh
hay bắt đầu hành thiền về hơi thở khi tâm trí họ còn nhảy nhót giữa dĩ vãng và
tương lai, và khi giác niệm của họ bị nhận chìm bởi các lời bình luận thì thầm
trong tâm. Thiếu sự chuẩn bị cần thiết, họ thấy hành thiền về hơi thở rất khó
khăn, khó thực hành, và rồi họ bỏ cuộc trong sự bực bội. Họ bỏ cuộc vì họ không
bắt đầu đúng chỗ. Họ không làm xong các công tác chuẩn bị, trước khi lấy hơi
thở làm tiêu điểm cho sự chú tâm. Vì thế, khi tâm đã được chuẩn bị chu đáo bằng
cách hoàn tất cả hai giai đoạn tiên khởi, bạn sẽ thấy khi quay sang với hơi
thở, bạn có thể nuôi dưỡng sự chú tâm vào hơi thở một cách dễ dàng. Nếu thấy
còn khó khăn để giữ bền sự chú tâm vào hơi thở, thì đó là dấu hiệu bạn đã bước
quá vội qua hai giai đoạn chuẩn bị. Bạn hãy trở lại thực tập thuần thục hai
giai đoạn tiên khởi đó đi! Sự kiên nhẫn đầy cẩn thận là con đường tiến nhanh
nhất.
Khi chú tâm vào hơi thở, bạn quan
sát hơi thở hiện đang xảy ra vào ngay lúc này. Bạn cảm nhận "cái cho bạn
biết hơi thở đang làm gì", nó đang ra, hoặc đang vào, hoặc đang ở giữa
chừng. Vài vị thiền sư dạy nên canh chừng hơi thở tại chót mũi, vài vị khác bảo
theo dõi ở bụng, và vài vị khác nữa bảo phải theo nó di động đến chỗ này, rồi
đến chỗ kia. Qua kinh nghiệm bản thân, tôi thấy theo dõi hơi thở ngay tại chỗ
nào cũng được. Thật ra, tốt nhất là chẳng cần định một chỗ nào cho hơi thở cả!
Nếu bạn đặt hơi thở ở chót mũi, đó là giác niệm về chót mũi, không phải giác
niệm về hơi thở; và nếu bạn đặt hơi thở ở bụng, đó lại là giác niệm về bụng.
Ngay bây giờ, chỉ cần tự hỏi câu này: "Tôi đang thở vào hay là đang thở
ra?" Làm sao bạn hay biết được điều đó? Đấy! Kinh nghiệm ấy bảo cho bạn
biết hơi thở hiện đang làm gì, đấy chính là điều mà bạn cần đặt tiêu điểm của
sự chú tâm vào quán niệm hơi thở. Không cần quan tâm về kinh nghiệm đã xảy ra
tại chỗ nào; chỉ cần chú tâm đến chính kinh nghiệm đó mà thôi.
Một trở ngại thông thường trong
giai đoạn này là khuynh hướng muốn kiểm soát hơi thở, và điều đó khiến cho hơi
thở trở nên thiếu thoải mái. Để vượt qua trở ngại đó, hãy tưởng tượng rằng bạn
chỉ là một hành khách đang ngồi nhìn hơi thở qua khung kính cửa xe. Bạn chẳng
phải là tài xế đang lái, cũng chẳng phải là tài xế ngồi ở ghế sau. Vậy, hãy
ngưng việc ra lệnh, cứ buông thỏng và hưởng lấy thú vị của chuyến đi xe. Hãy để
cho hơi thở tự nó làm công việc thở của nó, trong khi bạn cứ giản dị quan sát
mà chẳng hề can thiệp vào.
Khi biết hơi thở đang vào và hơi
thở đang ra, chừng một trăm hơi thở liên tiếp, chẳng sót hơi nào, bạn đã thành
tựu được điều mà tôi gọi là giai đoạn thứ ba của pháp thiền, tức là "sự
chú tâm vững bền vào hơi thở". Đây lại càng an tịnh và hỷ lạc hơn giai
đoạn trước. Để đi sâu vào hơn nữa, giờ đây, bạn nhắm đến sự hoàn toàn chú tâm
vững bền vào hơi thở.
Giai đoạn thứ tư này, "hoàn
toàn chú tâm vững bền vào hơi thở", diễn ra khi bạn chú tâm bám sát theo
mỗi phút giây của hơi thở. Bạn biết hơi thở vào, ngay ở thời điểm đầu tiên,
đúng lúc mà cảm giác về hơi thở đó vừa khởi lên. Rồi bạn quan sát các cảm giác
ấy từ từ phát triển qua trọn tiến trình của một hơi thở vào, chẳng bỏ sót một
lúc nào khi hơi thở đang đi vào. Khi hơi thở vào chấm dứt, bạn biết ngay lúc
đó, bạn thấy trong tâm cái cử động chót của hơi thở vào đó. Kế đến, bạn thấy,
tiếp theo, có sự ngưng nghỉ một lúc ngắn giữa các hơi thở, và nhiều chặp ngừng
nghỉ nữa cho đến khi hơi thở ra bắt đầu khởi lên. Bạn thấy rõ lúc mới bắt đầu
của hơi thở ra và các cảm giác khởi lên tiếp theo sau, theo tiến trình hơi thở
ra, cho đến khi hơi thở đó biến mất lúc xong phận sự. Tất cả những sự việc đó
đều được làm trong im lặng và ngay trong thời khắc hiện tại.
Bạn thể nghiệm mỗi phần của mỗi hơi
thở vào và mỗi hơi thở ra, một cách liên tục, trong nhiều trăm hơi thở cùng một
loạt. Vì thế, giai đoạn này được gọi là "hoàn toàn chú tâm vững bền vào
hơi thở". Bạn không thể đạt đến giai đoạn này bằng sự ép buộc, bằng sự nắm
bắt hay bám níu. Bạn chỉ có thể đạt được mức độ an định đó bằng cách buông bỏ
tất cả mọi sự vật trong toàn thể vũ trụ này, ngoại trừ cái kinh nghiệm tức thời
về hơi thở hiện đang xảy ra trong thầm lặng. Không phải là "Bạn" đạt
đến giai đoạn này, mà chính là Tâm mới đạt đến đấy. Tâm, tự nó, làm nhiệm vụ
của nó. Tâm nhận chân thấy giai đoạn này là nơi trú nhập rất an tịnh và dễ
chịu, chỉ vì nó được "ở một mình" với hơi thở. Đây là nơi mà
"tác nhân" (người làm, người tạo tác), cái thành phần quan trọng
trong tự ngã con người, bắt đầu biến đi mất dạng.
Trong giai đoạn hành thiền này, bạn
để ý thấy rằng sự tiến triển diễn ra hầu như chẳng cần nỗ lực. Bạn chỉ cần đứng
tránh sang một bên, buông bỏ, và cẩn thận quan sát tất cả những gì đang xảy ra.
Nếu bạn để yên cho nó, tâm sẽ tự động hướng về sự giản dị, an hòa và sảng khoái
của việc được "hòa làm một" với hơi thở trong mỗi một thời khắc. Đó
là sự hợp nhất của tâm, hợp nhất trong thời khắc, hợp nhất trong an định.
Giai đoạn thứ tư được tôi gọi là
"tấm ván lấy đà để nhảy" (springboard) của sự hành thiền, bởi vì từ
nơi đây, bạn có thể lấy đà để nhảy sâu vào các trạng thái hỷ lạc. Khi bạn chỉ
đơn thuần duy trì sự hợp nhất của tâm thức, bằng cách không xen vào hơi thở,
hơi thở sẽ bắt đầu biến mất. Hơi thở xem ra dường như phai mờ dần dần, trong
khi tâm vẫn tập trung vào điểm chính của sự thể nghiệm về hơi thở, tức là sự an
tịnh kỳ diệu, tự do và hạnh phúc.
Đến giai đoạn này, tôi dùng từ
"hơi thở mỹ lệ" (hơi thở tuyệt đẹp!). Ở tại đây, tâm nhận ra cái hơi
thở an hòa đó thật là vô cùng mỹ lệ. Bạn nhận thức liên tục cái hơi thở mỹ lệ
đó, từng lúc, từng lúc, chẳng gián đoạn, trong chuỗi các kinh nghiệm. Bạn giác
niệm vẻ mỹ lệ của hơi thở, chẳng cần chút nỗ lực nào, và trong một thời gian
rất dài lâu.
Giờ đây, bạn để hơi thở tự nó biến
mất, và những gì còn lại chỉ là "vẻ mỹ lệ". Cái vẻ mỹ lệ phi thể chất
đó trở nên đối tượng duy nhất của tâm. Giờ đây, tâm lấy chính tâm làm đối tượng
của mình. Hiện giờ, bạn chẳng còn hay biết gì đến hơi thở, thân thể, tư tưởng,
âm thanh, hoặc cả thế giới bên ngoài. Những gì bạn đang hay biết là vẻ mỹ lệ,
sự an hòa, hạnh phúc, ánh sáng, hoặc bất cứ những gì mà tri giác của bạn sẽ đặt
tên. Bạn đang thể nghiệm chỉ riêng về vẻ mỹ lệ, một vẻ mỹ lệ trừu tượng, một
cách liên tục, không cần cố gắng. Từ lâu rồi, bạn đã buông bỏ sự thủ thỉ rù rì
bên trong, buông bỏ mọi sự mô tả và đánh giá. Ngay đây, tâm rất an định, bất
động đến mức bạn chẳng còn có thể thốt lên lời nào.
Bạn đang thể nghiệm sự đơm hoa kết
trái đầu tiên của hạnh phúc trong tâm. Hạnh phúc đó sẽ nẩy nở, lớn lên và trở
nên thật vững chắc và mạnh mẽ. Như thế, bạn bước vào các trạng thái thiền được
gọi là Thiền-na (Jhàna). Nhưng đó là Phần 3 của tập sách nhỏ này.