"Tuyệt đối đừng làm gì, và cứ xem hơi thở êm dịu, đẹp
đẽ và phi thời gian xảy ra như thế nào."
Phần 1 và 2 mô tả bốn giai đoạn đầu của sự hành thiền. Đó là:
1) Chú tâm vững bền vào thời khắc hiện tại.
2) Giác niệm tĩnh lặng vào thời khắc hiện tại.
3) Giác niệm tĩnh lặng trong hiện tại về hơi thở 4)
Hoàn toàn chú tâm vững bền vào hơi thở.
Mỗi giai đoạn cần được tập luyện và phát triển đầy đủ,
trước khi bước sang giai đoạn kế tiếp. Khi một người quá vội vàng đi lướt qua
các "giai đoạn xả ly" này, người ấy không thể nào đạt đến các giai
đoạn cao hơn. Cũng tựa như xây cất ngôi nhà lầu cao với một nền móng không đủ
vững chắc. Tầng thứ nhất được xây quá nhanh, và tầng thứ hai, thứ ba cũng vậy.
Đến khi xây thêm tầng thứ tư, cả kiến trúc bắt đầu thấy lung lay. Khi gắng xây
thêm tầng thứ năm, cả ngôi nhà đổ sập xuống. Vậy, xin hãy dành thật nhiều thì giờ
cho bốn giai đoạn tiên khởi, làm cho chúng thật kiên cố và vững chắc, trước khi
bước sang giai đoạn thứ năm. Bạn phải có đủ khả năng để duy trì giai đoạn thứ
tư, "hoàn toàn chú tâm vững bền vào hơi thở", theo dõi mỗi lúc của
hơi thở, không gián đoạn lần nào, trong hai hay ba trăm hơi thở luôn một loạt,
một cách thật thoải mái. Tôi không nói là phải đếm hơi thở trong giai đoạn này,
nhưng tôi chỉ đưa ra một ước tính về khoảng thời gian mà thiền sinh cần an trụ
trong giai đoạn thứ tư, trước khi tiến xa hơn. Trong việc hành thiền, kiên nhẫn
bao giờ cũng là phương cách nhanh nhất!
Giai đoạn thứ năm được gọi là "hoàn toàn chú tâm vững
bền vào hơi thở tuyệt đẹp". Thông thường, giai đoạn thứ năm trôi chảy một
cách tự nhiên, thông suốt, từ giai đoạn trước. Khi thiền sinh hoàn toàn chú tâm
thể nghiệm hơi thở, một cách liên tục thoải mái và không có điều chi làm gián
đoạn dòng chảy giác niệm, hơi thở sẽ trở nên êm dịu. Từ dạng thô kệch, tầm
thường, hơi thở biến thành êm dịu, an hòa và "tuyệt đẹp". Tâm nhận ra
ngay hơi thở tuyệt đẹp đó và thích thú với nó. Tâm thể nghiệm được một sự hài
lòng sâu sắc. Tâm hoan hỷ, chỉ ở đấy để quan sát hơi thở tuyệt đẹp này. Tâm
không cần phải bị thúc dục hay ép buộc. Nó tự ý an trụ nơi hơi thở tuyệt đẹp.
"Bạn" chẳng cần làm gì cả. Nếu bạn cố thử làm chút gì vào giai đoạn
này, bạn sẽ khuấy rối toàn bộ tiến trình, sự đẹp đẽ sẽ bị mất ngay; cũng tựa
như trong trò chơi "con rắn và cái thang", bạn lọt vào ô vuông
"đầu rắn" thì bạn phải trở ngược lại nhiều ô vuông ở phía sau.
"Tác nhân" (người làm, người tạo tác) cần phải biến mất từ giai đoạn
hành thiền này trở về sau, chỉ còn "Tri nhân" (người nhận biết) đang
quán sát một cách thụ động.
Có một xảo thuật tốt để giúp ta đạt đến giai đoạn này, là
phá vỡ sự im lặng nội tại, chỉ một lần thôi, bằng cách nhẹ nhàng tự nhủ:
"Hãy êm dịu!". Chỉ thế thôi! Ở giai đoạn này của sự hành thiền, tâm
thường rất nhạy cảm, đến nỗi chỉ cần nhắc nhở nhẹ nhàng như thế, cũng đủ khiến
cho tâm tuân theo chỉ thị một cách ngoan ngoãn. Hơi thở dịu lại, và hơi thở
"tuyệt đẹp" liền khởi lên.
Khi bạn đang thụ động quán sát hơi thở tuyệt đẹp trong
thời khắc này, sự nhận biết về hơi thở vào, hơi thở ra, hoặc hơi thở ở đoạn
đầu, đoạn giữa, hay đoạn cuối, kể như đã được cho phép biến mất. Những gì đang
được hay biết chỉ là sự thể nghiệm về hơi thở tuyệt đẹp đang diễn ra đây. Tâm
không còn chú ý đến việc hơi thở đang ở trong giai đoạn nào của chu trình hô
hấp, hoặc đang xảy ra tại nơi nào trong cơ thể. Ngay đây, ta đang đơn giản hóa
đề mục của sự hành thiền, tức là sự thể nghiệm về hơi thở trong hiện tại, lột
bỏ hết tất cả các chi tiết không cần thiết, vượt qua tính nhị nguyên của
"vào" và "ra", và chỉ giác niệm về hơi thở tuyệt đẹp, đang
xảy ra rất êm dịu và liên tục, hầu như chẳng thay đổi chút nào.
Tuyệt đối đừng làm gì cả, mà chỉ ngắm nhìn hơi thở êm dịu,
đẹp đẽ và phi thời gian xảy ra như thế nào. Hãy xem bạn có thể để cho nó được
êm dịu đến mức nào. Hãy để thì giờ ra mà thưởng thức vị ngọt của hơi thở tuyệt
đẹp, càng êm dịu, ngọt ngào hơn bao giờ hết.
Giờ đây, hơi thở sẽ biến mất, chẳng phải khi
"bạn" muốn nó phải như thế, mà khi nó đã có đủ mức êm dịu, và chỉ lưu
lại sự "đẹp đẽ" thôi. Một thí dụ trong văn chương Anh có thể giúp ta
hiểu rõ thêm. Trong quyển Alice in Wonderland (Alice ở xứ sở diệu kỳ) của Lewis Carroll, cô Alice và Hồng Hậu nhìn thấy một ảo ảnh giống hình chú mèo Cheshire, đang mỉm cười,
hiện lên trên nền trời. Khi họ quan sát, thì trước hết, đuôi mèo biến mất, kế
đó đến các móng nhọn, rồi tiếp theo là các phần còn lại của bốn chân. Chẳng mấy
chốc, thân hình mèo cũng hoàn toàn mất dạng, chỉ sót lại đầu mèo thôi, mà vẫn
nở nụ cười. Rồi thì cả cái đầu cũng mờ hẳn, từ đôi tai cho đến chòm râu vểnh
ngược vào trong, và sau cùng, cả đầu chú mèo cũng tiêu tan hết -- ngoại trừ nụ
cười vẫn còn lưu lại trên nền trời! Đó là một nụ cười chẳng thấy có đôi môi để
nở thành nụ, tuy vậy, vẫn là một nụ cười còn trông thấy được. Đây là một sự
tương đồng rất chính xác với tiến trình xả ly xảy ra ở vào giai đoạn này của sự
hành thiền. Chú mèo với nụ cười trên gương mặt tượng trưng cho hơi thở tuyệt
đẹp. Chú mèo biến mất tượng trưng cho hơi thở mất dạng. Nụ cười phi thể chất mà
vẫn còn thấy được trên nền trời, tượng trưng cho đối tượng tâm thuần tịnh,
"vẻ đẹp" có thể thấy rõ ràng trong tâm.
Đối tượng tâm thức thuần tịnh đó được gọi là một định
tướng -- nimitta. Chữ Pàli "nimitta" có nghĩa là một dấu hiệu; ở đây,
là một dấu hiệu trong tâm. Đây là một đối tượng có thật trong tâm (citta), và
khi xuất hiện lần đầu, nó rất lạ lùng. Từ trước, ta chưa hề có kinh nghiệm về
một đối tượng nào như vậy. Tuy nhiên, hoạt động của tâm mà ta gọi là "sự
tri giác" -- hay tưởng uẩn, đã tìm tòi, trong ngân hàng ký ức của kinh
nghiệm sống, một chút gì tương tự để cống hiến một sự mô tả cho tâm. Đối với
nhiều thiền sinh, cái "vẻ đẹp phi thể chất" đó, cái niềm vui tinh
thần đó, được cảm nhận như một ánh sáng huy hoàng. Nó thực sự chẳng phải là ánh
sáng. Đôi mắt được nhắm kín và nhãn thức cũng đã đóng lại từ lâu rồi. Đó chính
là tâm thức lần đầu tiên được thoát khỏi cảnh giới của năm giác quan. Đó cũng
tựa như vầng trăng tròn -- tượng trưng cho cái tâm rạng chiếu -- vừa ló ra khỏi
một đám mây -- tượng trưng cho cảnh giới của năm giác quan. Đó chính là tâm tỏ
rạng, không phải là ánh sáng, nhưng với đa số chúng ta thì nó hiện ra như một
ánh sáng, nó được cảm nhận như ánh sáng, bởi vì sự mô tả chưa hoàn hảo này là
sự mô tả khá nhất mà tri giác có thể cung hiến được.
Đối với các thiền sinh khác, để mô tả sự xuất hiện đầu
tiên của tâm thức, tri giác thường chọn dạng các cảm giác thể chất, ví dụ như
một sự an tịnh thâm trầm hay là sự xuất thần đê mê (ectasy). Lại nữa, thân thức
(sự hay biết và cảm nhận được lạc thú hay đau khổ, nóng hay lạnh, v.v...) được
khép kín từ lâu, và vì thế, đây chẳng phải là một cảm giác vật chất. Nó chỉ
được "cảm nhận" giống như những lạc thú. Vài người khác lại thấy một
ánh sáng trắng, hoặc một ngôi sao vàng, hoặc một viên bích ngọc, v.v...; điều
quan trọng nên biết là họ đang mô tả cùng chung một hiện tượng. Họ đều thể
nghiệm chung một đối tượng tâm thức thuần tịnh, và các chi tiết không giống nhau
đó đã được sự tri giác khác biệt của từng người đem thêm vào.
Bạn có thể nhận chân ra một định tướng (nimitta) do sáu
đặc điểm:
1) Nó chỉ hiện ra sau giai đoạn thứ năm của hành thiền,
sau khi thiền sinh an trú với hơi thở tuyệt đẹp trong một thời gian dài;
2) Nó hiện ra khi hơi thở biến mất;
3) Nó chỉ đến khi năm giác quan bên ngoài về hình sắc, âm
thanh, mùi, vị và xúc chạm hoàn toàn vắng mặt;
4) Nó chỉ khởi hiện trong một tâm thức tĩnh lặng, khi các
tư tưởng mô tả (lời nói nội tâm) hoàn toàn vắng bặt;
5) Nó rất lạ lùng, nhưng hấp dẫn mạnh mẽ; và
6) Nó là một đối tượng đơn giản và tuyệt đẹp.
Tôi nêu các đặc điểm đó để bạn có thể phân biệt được định
tướng (nimitta) thực sự với những "tướng" do tưởng tượng mà có.
Giai đoạn thứ sáu được gọi là "thể nghiệm định tướng
mỹ lệ". Chúng ta đạt đến giai đoạn này khi ta buông bỏ được thân thể, tư
tưởng, và năm giác quan (kể cả sự giác niệm về hơi thở), một cách thật hoàn
toàn, cho đến mức chỉ còn riêng có định tướng mà thôi.
Đôi khi, khi định tướng khởi lên lần đầu, nó có vẻ còn lờ
mờ. Trong trường hợp này, ta nên quay lại ngay với giai đoạn trước của sự hành
thiền, tức là giai đoạn của sự giác niệm tĩnh lặng liên tục về hơi thở tuyệt
đẹp; vì ta đã đi đến định tướng quá sớm. Đôi khi, định tướng tỏ rạng, nhưng lại
chẳng vững, chớp tắt giống như tia sáng của ngọn hải đăng, rồi biến mất. Đây
cũng cho thấy bạn đã rời hơi thở tuyệt đẹp sớm quá. Bạn phải đủ khả năng nuôi
dưỡng sự chú tâm đến hơi thở tuyệt đẹp một cách thoải mái trong thời gian thật
dài, thật lâu, trước khi tâm đủ sức duy trì sự chú ý rõ ràng đến định tướng,
vốn tế nhị bội phần hơn nữa. Vì vậy, bạn hãy huấn luyện tâm về hơi thở tuyệt
đẹp, huấn luyện kiên nhẫn và mẫn cán, rồi khi đến lúc hướng đến định tướng, nó
sẽ rạng chiếu, vững chắc, và dễ nuôi dưỡng lâu bền.
Lý do chính khiến cho định tướng còn lờ mờ là vì sự hài
lòng vẫn còn nông cạn. Bạn vẫn còn đang "muốn" một điều gì. Thông
thường, bạn muốn có một định tướng sáng tỏ, hay bạn muốn đắc Thiền-na (Jhàna).
Nên nhớ, và điều này rất quan trọng, Thiền-na là những trạng thái của xả ly,
những trạng thái bằng lòng thỏa ý vô cùng sâu xa. Vậy, bạn hãy vất đi cái tâm
khao khát, hãy phát triển sự thỏa ý với hơi thở tuyệt đẹp, và rồi, định tướng
và Thiền-na sẽ tự khắc xảy đến.
Nói cách khác, lý do tại sao định tướng còn yếu ớt là vì
"tác nhân" cứ xen vào mãi, chẳng chịu ngừng. "Tác nhân" là
kiểm soát viên, là tài xế ở ngồi ghế sau, luôn xen vào các việc chẳng ăn nhập
đến mình, và làm cho mọi việc càng rối rắm thêm. Sự hành thiền là một tiến
trình tự nhiên tiến đến nghỉ ngơi, và nó đòi hỏi bạn phải hoàn toàn tránh sang
một bên. Sự hành thiền thâm sâu chỉ thực hiện được khi bạn thực sự buông bỏ; và
thực sự buông bỏ có nghĩa là đến mức mà trọn cả tiến trình hành thiền trở nên
hoàn toàn ngoài vòng xâm nhập của "tác nhân".
Một phương tiện khéo léo để đạt được sự buông bỏ tuyệt đối
đó, là thành tâm đặt trọn lòng tin vào định tướng. Bạn hãy làm gián đoạn sự
tĩnh lặng lại trong một lát, và bằng một cách thật hết sức dịu dàng, nói rỉ
tai, như thể là nó đang ở trong tâm bạn, rằng bạn đem trọn lòng tin đặt vào
định tướng, khiến cho "tác nhân" phải từ bỏ tất cả sự kiểm soát và
biến mất. Tâm, được biểu hiện ở đây bằng cái định tướng trước mắt bạn, sẽ đảm
đương trọn cả tiến trình, trong khi bạn chỉ quan sát mọi việc tuần tự xảy ra.
Bạn không cần phải làm gì ở đây, vì vẻ đẹp rực rỡ của định
tướng dư sức để duy trì sự chú tâm mà chẳng cần bạn giúp đỡ. Đến đây, nên cẩn
thận đừng khởi lên nhận định phê phán. Các câu hỏi như: "Cái gì
vậy?", "Đó có phải là Thiền-na chăng?", "Rồi ta phải làm gì
nữa đây?", v.v..., đều là những công cụ để "tác nhân" tìm cách
xen vào lần nữa. Chúng khuấy rối cả tiến trình. Bạn chỉ có thể nhận định, phê
phán, một khi cuộc hành trình đã chấm dứt. Một nhà khoa học giỏi chỉ nhận định
khi thí nghiệm đã xong, với các dữ kiện được nắm vững. Vậy thì, giờ đây, bạn
đừng nhận định, cũng đừng cố giải thích. Bạn không cần phải chú ý đến đường nét
của định tướng, "Nó tròn hay bầu dục?", "Đường viền của nó rõ
hay mờ?"... Những điều đó chẳng cần thiết chi, mà chỉ đem đến nhiều sự bất
đồng hỗn tạp, nhiều nhị nguyên đối đãi "nội tại" với "ngoại
tại", và nhiều sự phiền nhiễu khác.
Hãy để cho tâm hướng về nơi mà nó muốn, thông thường là
hướng về trung tâm điểm của định tướng. Trung tâm điểm đó là nơi điểm cao của
vẻ mỹ lệ, nơi mà ánh sáng rạng rõ và tinh thuần nhất. Hãy đi và tận hưởng
chuyến nhàn du thích thú, trong khi sự chú ý được kéo về trung tâm điểm và rơi
đúng vào trong định tướng; hoặc trong khi ánh sáng rạng rỡ tỏa khắp chung
quanh, bao trùm trọn người bạn. Thật ra, đó cùng là một kinh nghiệm cảm nhận từ
các góc độ khác nhau. Bạn hãy để tâm tràn ngập trong hỷ lạc. Hãy để cho giai
đoạn thứ bảy của con đường hành thiền này, Thiền-na thứ nhất (Sơ Thiền), diễn
ra.
Có hai trở ngại thông thường tại ngưỡng cửa đi vào
Thiền-na: mừng rơn và sợ hãi. Mừng rơn là trở nên quá khích động. Nếu vào lúc
ấy, tâm nghĩ, "Chà! Chà! Chính là nó đấy!", thế là Thiền-na sẽ khó
xuất hiện. Cái phản ứng "Chà! Chà!" đó cần phải được dẹp bỏ, để giúp
cho tâm được thụ động tuyệt đối. Hãy gát cái "Chà! Chà!" lại cho đến
khi nào bạn xuất ra khỏi Thiền-na, rồi thốt lên thì mới thật đúng lúc. Nhưng
trở ngại quan trọng hơn, có lẽ là sự sợ hãi. Sợ hãi khởi lên ngay tại lúc nhận
diện ra sức mạnh và hỷ lạc của Thiền-na, hoặc ở sự nhận thức rằng, để đi vào
trọn vẹn trong Thiền-na, cần phải bỏ lại phía sau một cái gì đó -- và cái đó
chính là... Bạn! "Tác nhân" tuy đã im lặng trước khi nhập Thiền-na,
nhưng nó vẫn còn đó. Bên trong Thiền-na, "tác nhân" hoàn toàn biến
mất. "Tri nhân" vẫn còn hoạt động, bạn vẫn hoàn toàn hay biết, nhưng
tất cả quyền kiểm soát, giờ đây, vuột khỏi tầm tay rồi. Bạn chẳng thể khởi lên
mỗi một tư tưởng nào, nói chi là lấy một quyết định. Ý chí bị đông cứng lại, và
điều này dường như rất đáng sợ cho người mới bắt đầu. Từ trước đến nay, trong
trọn đời bạn, có bao giờ bạn thể nghiệm một tình trạng bị tước hết mọi quyền
kiểm soát, trong khi vẫn còn hoàn toàn tỉnh táo, không? Sự sợ hãi đó chính là
sự sợ hãi phải dâng nộp một điều thật thiết yếu, thật riêng tư, đó là ý chí
muốn tác động.
Sự sợ hãi này có thể khuất phục được bằng lòng tin vào lời
dạy của Đức Phật, cùng với sự hỷ lạc đầy quyến rủ mà thiền sinh xem như là phần
thưởng còn đang chờ đón. Đức Phật thường bảo, "Sự hỷ lạc của Thiền-na,
chẳng nên lo sợ, mà cần nên thuận theo, phát triển và thực tập luôn."
(Kinh Latukikopama - Ví dụ chim Cáy, kinh số 66, Trung bộ kinh). Vậy, trước khi
sự sợ hãi khởi lên, bạn hãy đặt trọn niềm tin vào sự hỷ lạc đó và giữ vững niềm
tín thành nơi lời giáo huấn của Đức Phật và các vị Đại đệ tử của Ngài. Tin
tưởng nơi Chánh Pháp, và cứ để cho Thiền-na nồng nàn ôm lấy bạn để có được một
kinh nghiệm chẳng cần nỗ lực, phi thân thể, phi tự ngã, hỷ lạc sâu xa nhất
trong đời bạn. Hãy có đủ can đảm để vứt bỏ quyền kiểm soát trong một chốc, và
thể nghiệm được tất cả các điều đó cho riêng bạn.
Nếu thật sự đó là Thiền-na, thì nó kéo dài một thời gian
lâu. Chẳng đáng gọi là Thiền-na, nếu chỉ kéo dài chừng vài phút. Thông thường,
các cấp Thiền-na cao hơn sẽ kéo dài nhiều giờ. Một khi đã vào trong Thiền-na
rồi, thì chẳng còn sự chọn lựa gì nữa. Bạn sẽ xuất Thiền-na khi nào tâm sẵn
sàng đi ra khỏi, khi chất "nhiên liệu" về sự từ khước, được gom góp
để dành bấy lâu, nay được dùng cạn hết. Các trạng thái tâm an định và sung mãn,
do tự bản chất của chúng, sẽ kéo dài một thời gian thật lâu. Một đặc điểm khác
là Thiền-na chỉ khởi lên khi nào định tướng được nhận ra thật rõ ràng, như đã
mô tả ở trên. Hơn nữa, bạn cũng nên biết, trong Thiền-na, không thể nào thể
nghiệm được chính thân thể (ví dụ như sự đau đớn thể chất), nghe tiếng động bên
ngoài hoặc phát lên một tư tưởng nào, dù là một tư tưởng thiện đi nữa. Bấy giờ
chỉ là một tri giác trong sáng duy nhất, một thể nghiệm hỷ lạc phi nhị nguyên
kéo dài, không thay đổi trong một thời gian thật lâu. Đó không phải là một
trạng thái xuất thần (trance), nhưng là một tình trạng tỉnh thức cao độ. Tôi
nói ra như thế là để giúp bạn có thể tự mình biết được những gì bạn cho đó là
Thiền-na, có phải thực sự là Thiền-na không, hay chỉ là do tưởng tượng.
* * *
Pháp hành thiền còn rất nhiều việc nữa, nhưng ở đây chỉ mô
tả phương pháp căn bản qua bảy giai đoạn, với đỉnh cao là Sơ Thiền. Còn nhiều
điều nữa có thể bàn đến, như về Năm Triền Cái (Nìvarana) và làm cách nào để
khuất phục chúng, về ý nghĩa của sự giác niệm và cách ứng dụng, Bốn Niệm Xứ
(Satipatthàna), Bốn Như Ý Túc (Iddhipàda), Năm Căn (Indriya), và dĩ nhiên, về
các tầng Thiền-na cao hơn. Tất cả các điều đó đều liên quan đến sự thực tập
hành thiền này, nhưng xin dành lại cho một dịp khác.
Với những ai hiểu lầm rằng đây chỉ là Samatha (thiền Chỉ),
không liên hệ chi đến Vipassanà (thiền Quán), xin hãy biết cho rằng đây không
phải Samatha hay Vipassanà gì cả. Pháp hành này được gọi là Bhàvanà (pháp Tu
Thiền), phương pháp được Đức Phật chỉ dạy và được thực hành trong truyền thống
Sơn Lâm (Forest Tradition) ở miền Đông Bắc Thái Lan, mà Thầy tôi, ngài Ajahn
Chah là một thành viên. Ngài Ajahn Chah thường dạy, Chỉ và Quán không thể nào
tách rời ra được, và cũng không thể nào phát triển cặp đôi đó mà bỏ qua Chánh
Kiến, Chánh Tư duy, Chánh Nghiệp và các chi kế tiếp của Bát Chánh Đạo. Thật
vậy, để có thể tiến bộ trong bảy giai đoạn trên, thiền sinh cần phải thấu hiểu
và thực hành giáo pháp của Đức Phật, và giữ giới hạnh thật thanh tịnh. Sự minh
triết rất cần cho mỗi giai đoạn, và đó là sự minh triết về buông bỏ, xả ly. Thiền
sinh tiến triển càng xa trên bảy giai đoạn đó, thì trí tuệ minh triết càng thâm
viễn, và nếu bạn đã đạt tới Thiền-na, thì Thiền-na sẽ làm thay đổi toàn thể sự
hiểu biết của bạn. Cũng tựa hồ như, Minh triết múa quanh Thiền-na và Thiền-na
cũng múa quanh Minh triết. Đây là con đường đi đến Niết-bàn, bởi vì Đức Phật có
nói, "Người nào sống hỷ lạc trong Thiền-na, có thể sẽ có bốn kết quả: Dự
lưu, Nhất lai, Bất lai và A-la-hán" (Kinh Thanh tịnh - Pàsadìka Sutta,
kinh số 29, Trường bộ kinh).
Đối chiếu thuật ngữ Anh-Việt
Ajahn (Acariya) A-xà-lê, Thầy, Sư
Attention Chú tâm, chú ý.
Bhavana Tu thiền, luyện tâm
Beautiful breath Hơi thở mỹ lệ, hơi thở tuyệt đẹp.
Deep meditation Mức thiền thâm sâu.
Experience Kinh nghiệm, thể nghiệm
First Jhana Thiền-na thứ nhất, Sơ Thiền
Full sustained attention on the breath Hoàn toàn chú tâm
vững bền vào hơi thở.
Insight Minh triết
Interview Phỏng vấn, trình pháp
Jhana Thiền-na
Meditation Hành thiền
Meditation retreat Khóa thiền ẩn cư, thiền tích cực
Nimitta Định tướng
Perception Tri giác
Present moment awareness
(mindfulness sustained in the present moment) Giác niệm về
thời khắc hiện tại
Samatha Thiền chỉ, thiền an chỉ
Silent awareness of the present moment Giác niệm tĩnh lặng
về thời khắc hiện tại
Stillness An trụ, an định, bất động
Sustained attention on the breath Chú tâm vững bền vào hơi
thở.
The Doer Tác nhân, người tạo tác.
The Knower Tri nhân, người nhận biết.
Vipassana Thiền quán, thiền minh sát