Con đường của thiền định trong sáng
và cầu nguyện sùng kính
Được tâm-trí tuệ của các bậc giác
ngộ thấu suốt,
Đi theo con đường của đại dương các
vị thầy và người sùng mộ như vậy,
Là con đường luôn-an toàn đến cõi
tịnh độ hoặc một cõi hạnh phúc.
Những nghi lễ phục vụ cho người
chết và sắp chết là điểm đặc trưng chung của những tôn giáo thế gian. Chúng
thường phục vụ hai mặt mục đích: vì những người còn sống đau buồn chúng cung
cấp trợ giúp trong tiến trình chào tạm biệt người thân họ, về phần người chết;
chúng đưa ra hỗ trợ và giúp đỡ trong chuyến hành trình sau khi chết, thông qua
cầu nguyện và các nghi lễ biểu tượng. Những nghi lễ và phục vụ của đạo Phật mà
tôi phác thảo trong chương này cũng đều lợi ích cho cả hai người chết và người
còn sống. Mục tiêu chính của chúng không nhất thiết giúp người chết đạt giác
ngộ hoặc siêu vượt luân hồi. Thay vào đó, chúng có mục đích chủ yếu là làm giảm
hoặc chữa lành những khái niệm và cảm xúc tiêu cực, mà đó là nguyên nhân duy
nhất gây đau khổ, sợ hãi, và tái sanh vào những cõi thấp. Các nghi lễ chết của
đạo Phật cũng là một trợ giúp trong việc hoàn tất những việc làm công đức cho
người chết, qua năng lực của khái niệm và cảm xúc tích cực, là suối nguồn trực
tiếp của an bình, hoan hỷ, và tái sanh trong những cõi hạnh phúc (như cõi người
và trời) hoặc trong cõi biểu hiện tịnh độ.
TRUYỀN THỐNG CỦA NGHI LỄ CHO NGƯỜI
CHẾT
Những nghi lễ cho người chết của
đạo Phật Tây Tạng được các lama và người thường thực hiện trong nhiều cách khác
nhau tùy thuộc vào học phái Phật giáo và vùng địa lý của Tây Tạng. Các nghi lễ
cho người chết phác thảo trong chương này dựa căn bản trên truyền thống học
phái Nyingma được thực hành trong tỉnh Golok ở phía Đông Tây Tạng, ở đó tôi đã
được sinh ra và rèn luyện.
Những nghi lễ cho người chết thường
được một lama hướng dẫn, một vị đã thọ giới lâu năm hoặc một vị thầy ban nhập
môn tu hành, tương đương với một bộ trưởng hoặc giới tăng lữ khác trong văn hóa
phương Tây. Nếu vị lama đã rèn luyện tốt, sự thực hiện nghi thức chết rất hiệu
quả. Một lama chỉ có danh hiệu hoặc được chỉ định thì không có bất cứ năng lực
nào hơn người khác. Tuy nhiên, bất kỳ ai cũng có thể thực hành nghi thức chết
đề cập trong sách này, nếu họ có một số rèn luyện trong cầu nguyện và thiền
định.
Trong những bộ phận nào đó và trong
một số truyền thống của Tây Tạng, những nghi thức chết hoàn toàn đơn giản. Các
lama hoặc những người giúp đỡ bình thường, tụng niệm cầu nguyện, cúng dường, và
bố thí tiền của, thực phẩm, đồ trang sức, hay súc vật đến những tu viện hay ni
viện, với tư cách cá nhân cho tăng và ni, hoặc người nghèo. Thân xác được hỏa
thiêu hoặc cho chim kên kên ăn như một cúng dường đến chư Phật và Bổn Tôn. (Mặc
dù chư Phật và Bổn Tôn không ăn, thực hành này là một thiền định và luyện tập tán
thán để rèn luyện tâm chúng ta có nhận thức tích cực, thấy tất cả đều thanh
tịnh, và để trau dồi sự rộng lượng, lòng sùng kính, và buông xả.) Một trong
những nghi lễ tôn giáo quan trọng bắt phải lập lại nhiều lần bài nguyện khao
khát như “Vua của các bài nguyện khao khát, khao khát những hành động ưu tú,”
cùng với rất nhiều cúng dường của đèn, trầm hương, hoa, và đồ cúng.
Trong những phần khác của Tây Tạng,
các nghi lễ chết chi tiết hơn. Nhiều vị lama được mời đến nhà người chết để
thực hiện những nghi lễ trong nhiều tuần trước khi chết và bảy tuần hoặc hơn
sau khi chết. Độ dài và sự tỉ mỉ của nghi lễ tùy thuộc vào tài chánh của gia
đình người chết. Để bảo trợ nghi thức cho người chết, phần lớn gia đình sử dụng
tối thiểu phần tài sản của gia đình chia cho người chết và toàn bộ những gì
thuộc về người chết.
NHỮNG PHỤC VỤ TÔN GIÁO CHO NGƯỜI
SẮP CHẾT
Chúng ta thực hành Giáo Pháp khi
vẫn còn sống là điều quan trọng, vì điều đó sẽ đặt nền tảng cho con đường tâm
linh chúng ta và thấm nhuần tự tin trong nó. Do vậy, chúng ta sẽ sẵn sàng áp
dụng những kinh nghiệm thiền định của mình khi ngày chết đến với chúng ta. Ngài
Dodrupchen Rinpoche Đệ Tam viết:
Vào giờ khắc thực sự của cái chết,
rất khó gom lại bất cứ khả năng tâm thức nào để khởi đầu một thiền định. Do vậy
bạn phải chọn trước một thiền định và kết hợp nhuần nhuyễn tâm bạn với nó, càng
nhiều càng tốt. Sự thiền định có thể là sự nhớ tưởng một vị Phật, cảm nhận của
lòng bi, năng lượng của sùng kính, hoặc nhận thức của tánh Không.
Ngoài ra, hãy suy nghĩ nhiều lần,
“Vào giờ chết, tôi sẽ không cho phép mình dính líu vào bất kỳ tư duy tiêu cực
nào.” Để đạt được thiền định trong sáng và an bình trong tâm bạn, việc thiền
định nhiều lần là quan trọng, và thật rành rẽ trước khi cái chết đến. Do đó,
khi giờ chết đến, bạn sẽ có thể chết với những phẩm tính tâm thức đúng đắn.
Bất kỳ bạn thực hiện việc làm đạo
đức nào dù trong bản tánh của tâm hay thân – trong lúc còn sống và nhất là lúc
trên giường chết – sẽ lợi ích lớn lao cho cuộc sống tương lai bạn. Những nghi
thức như tịnh hóa, tạo công đức, quán đảnh, và hồi hướng là việc quan trọng để
thực hành trước khi chết và sau khi chết.
Tịnh Hóa
Để làm cho cuộc sống hiện tại,
chuyến hành trình sau khi chết, và sự tái sanh của bạn thoát khỏi những khó
khăn và chướng ngại, thì việc tịnh hóa những nghiệp quả tiêu cực từ quá khứ của
bạn là rất quan trọng. Mọi điều xấu của cuộc sống và kiếp tương lai bạn là sản
phẩm của nghiệp quả tiêu cực. Chỉ bằng cách tịnh hóa những nghiệp phiền não này
có thể cải thiện cuộc sống bạn. Nó có thể so sánh với việc phục hồi sức khỏe
thân thể bạn bằng việc tịnh hóa những hệ thống bị nhiễm độc. Qua tịnh hóa, bạn
hủy bỏ những việc làm sai lầm của bạn và những hậu quả của nó.
Bất cứ hành động tích cực hoặc
luyện tập khác nhau nào đều có thể hiệu quả như phương tiện của tịnh hóa. Những
thực hành tịnh hóa bao gồm thiền định về chư Phật và cầu nguyện cho lợi ích của
tất cả bà mẹ-chúng sanh. Đòi hỏi phải tụng niệm cầu nguyện và thực hành bất cứ
thiền định nào để tịnh hóa từ tận đáy lòng bạn. Các phần của nghi lễ chết cũng
được thiết kế để hoàn tất sự tịnh hóa.
Giữa những thực hành được thiết kế
đặc biệt của đạo Phật nhất là cho việc tịnh hóa có tên “Sám Hối Trước Ba Mươi
Lăm Đức Phật Tịnh Hóa” (Tạng, tung shag, lTung bShags) và sự cầu nguyện, thiền
định của Đức Phật Kim Cương Tát Đỏa. Thực hành sau này bao hàm bốn “năng lực”.
Cái đầu tiên là năng lực của nguồn ban phước, Phật Vajrasattva. Khi bạn quán
tưởng Đức Phật Vajrasattva trong bầu trời phía trên bạn, tin tưởng vào Ngài như
hiện thân của tánh giác ngộ và những phẩm tính của tất cả đấng giác ngộ xuất
hiện như nguồn tịnh hóa. Thứ hai là năng lực của sự hối lỗi. Nếu cảm thấy hối
tiếc to lớn về những hành động sai lầm của bạn đã phạm trong quá khứ, sự tịnh
hóa sẽ xuất phát tận đáy lòng bạn. Thứ ba là năng lực của sự cam kết. Có nghĩa
lập một cam kết mạnh mẽ không lập lại bất kỳ hành động xấu nào trong tương lai.
Thứ tư là năng lực tự thân của tịnh hóa. Tụng niệm cầu nguyện – như OM
VAJRASATTVA HUNG (hoặc HUM). “Ôi, Đức Vajrasattva, xin ban ân phước của Ngài” –
bạn hãy thấy, cảm nhận, và tin tưởng rằng một dòng cam lồ ban phước tuôn ra từ
thân Phật Vajrasattva, tẩy sạch mọi nhiễm ô của hành động tiêu cực thuộc thân,
khẩu, ý bạn, thậm chí không để lại một dấu vết nào. Tương tự, bạn có thể tịnh
hóa cho người chết hay người khác. Hãy rèn luyện tâm bạn bằng một tiến trình
tịnh hóa như vậy với những hình ảnh tích cực, tẩy tịnh, cảm nhận sâu sắc, và
tin tưởng mãnh liệt sẽ giúp tẩy tịnh những hậu quả của nghiệp tiêu cực ngay nền
tảng của chúng.
Mặc dù những thực hành như vậy đặc
biệt hiệu quả để tịnh hóa, thì bất cứ hành động tốt nào cũng đều là phương tiện
của sự tịnh hóa, nhất là nếu bạn có ý định hoặc hồi hướng công đức cho mục tiêu
như vậy. Một số ví dụ xa hơn của việc thực hành tịnh hóa là cứu giúp sinh mạng
và thương yêu, bảo vệ người khác khỏi nguy hiểm; đem cho bất cứ thứ gì người
khác cần hoặc cho những dự án tu hành với tấm lòng rộng lượng, tài trợ những dự
án phúc lợi xã hội hoặc phục vụ tôn giáo với một quan điểm thanh tịnh; xây dựng
những nơi trú ẩn hoặc công trình kỷ niệm của tôn giáo với mục tiêu phục vụ
người khác.
Chúng ta cũng có thể giúp người
khác tịnh hóa hành động xấu. Nếu chúng ta tụng niệm cầu nguyện, thiền định,
hoặc thực hiện những thực hành riêng để tịnh hóa người khác, hay hồi hướng công
đức để tịnh hóa hành động xấu của người khác, thì chúng ta có thể hoàn thành
điều này. Nhưng hiệu quả của nỗ lực chúng ta sẽ là bao nhiêu? Nếu hành động xấu
của người đó mạnh mẽ, nỗ lực giới hạn của chúng ta có thể không nhiều chỉ hàn
gắn được một vết mẻ. Nếu người đó không rộng mở với chúng ta bằng niềm tin hoặc
thậm chí một chút thái độ ưa thích; nếu họ và chúng ta không cùng chia sẻ bất
cứ một nghiệp kết nối nào như một nguồn cho sự giúp đỡ đó; hoặc nếu cầu nguyện
của chúng ta yếu hay bất tịnh, thì sự thực hành tịnh hóa của chúng ta có thể
không thực sự hiệu quả. Tuy nhiên, chúng vẫn sẽ đem lại một số ích lợi. Nếu
hành động xấu của người đó là cái “có thể tẩy tịnh”, nếu họ tin chúng ta hoặc
tối thiểu giống như chúng ta, và những gì chúng ta làm nếu kết nối nghiệp với họ,
và nếu thực hành của chúng ta mạnh mẽ, thì chắc chắn sẽ có thể tịnh hóa những
hành động xấu của họ. Nếu một vị thầy thành tựu thực hiện những cầu nguyện,
thiền định, và nghi lễ đặc biệt, thì thậm chí nếu người chết đã phạm những hành
động xấu mạnh mẽ, tất cả đều sẽ được tịnh hóa và người đó được dẫn dắt đến giải
thoát, vì năng lực của vị thầy và sự thanh tịnh của thiền định. Do vậy, không
có một câu trả lời đơn giản, và tất cả đều tùy thuộc vào nhiều nguyên nhân và
điều kiện, như trong mọi khía cạnh của cuộc sống. Thậm chí nếu chúng ta không
thể hoàn toàn tịnh hóa họ, thì ngay cả một giúp đỡ tẩy tịnh nhỏ cũng sẽ giúp
ích rất nhiều vào mối nối của cái chết. Ngoài ra, nếu một người sắp chết gợi
cảm hứng cho chúng ta thực hiện tịnh hóa cho họ với lòng sùng kính to lớn đến
Đức Phật, chúng ta sẽ tạo được rất nhiều công đức, và điều đó sẽ lần lượt là
nguyên nhân tạo công đức cho người gợi cảm hứng. Hãy lập lại nhiều lần, nếu
chúng ta tạo công đức, những công đức này làm mạnh mẽ những phẩm tính tích cực
và làm yếu đi hoặc tịnh hóa những tính chất tiêu cực của chúng ta.
Tạo Công Đức
Để có được một cuộc sống và tái
sanh thanh bình và hạnh phúc, điều cốt lõi là tích lũy công đức và trau dồi
những phẩm tính tích cực. Bất cứ hạnh phúc và an bình nào bạn được hưởng hôm
nay đều là kết quả trực tiếp của tư cách đạo đức bạn trong quá khứ. Để cải
thiện cuộc sống tương lai bạn được tốt hơn, bạn phải tiếp tục tạo công đức
nhiều hơn nữa bằng việc thực hiện những hành động đạo đức. Giống như bạn có
thân thể khỏe mạnh nhờ được nuôi dưỡng và luyện tập đúng, do vậy bạn phải quan
tâm đến sự lành mạnh tâm linh của bạn bằng việc tạo công đức.
Bất cứ việc làm hoặc phục vụ tích
cực nào đều sẽ hoạt động như phương tiện tạo công đức. Bạn có thể tích lũy công
đức bằng việc tụng niệm cầu nguyện và thiền định. Bạn có thể tạo công đức bằng
cách phục vụ người nghèo, cúng dường cho những dự án tôn giáo, cứu giúp và
chuộc những sinh mạng (như mua và giải thoát gia súc, phóng sanh), xây dựng và
dọn sạch đường xá, xây dựng và phục hồi đền chùa và những công trình kỷ niệm
của tôn giáo, và tài trợ hoặc thực hiện cầu nguyện, thiền định với tình thương,
sùng kính, và tôn trọng.
Quán Đảnh
Quán đảnh hay sự nhập môn đều hiệu
quả cao như phương tiện tịnh hóa những tác động xấu của hành động bất thiện,
củng cố những hành động đạo đức trong quá khứ, làm nhớ lại những kinh nghiệm và
thành tựu tâm linh ở quá khứ, hiển bày con đường đến giải thoát hoặc cõi tịnh
độ, giới thiệu đến chư Phật và những cõi tịnh độ, được chư Phật ban phước, và
đánh thức trí tuệ nguyên sơ, hoặc Phật tánh dễ lãnh hội. Những quán đảnh như
“Sự giải thoát khỏi sáu cõi” (Tạng, ne dren, gNas ‘Dren) có thể được thực hiện
với những người trong tiến trình cận tử. Những nghi lễ như vậy tịnh hóa chủng
tử nghiệp tiêu cực của người sắp chết, nếu không thì chúng sẽ gây ra tái sanh
vào những cõi thấp. Những nghi lễ này sẽ giúp tích lũy công đức, nguyên nhân
của việc tái sanh vào những cõi hạnh phúc. Chúng sẽ nhanh chóng đem đến ân
phước của chư Phật để đánh thức tâm đến giác ngộ hoặc được tái sanh trong một
cõi tịnh độ.
Có thể hiểu rằng người chỉ huy hoặc
người thực hiện nghi lễ chết đã thành tựu trong thiền định hoặc tối thiểu đã
được rèn luyện kỹ trong những nghi lễ đặc biệt này là rất quan trọng. Ngoài ra,
nếu có một liên hệ tâm linh tích cực giữa người thực hiện và người chết, lợi
ích sẽ đạt hiệu quả nhất. Ở mức tối thiểu, cũng phải có một liên hệ hài hòa
giữa họ.
Nếu những nghi lễ chi tiết như quán
đảnh không thể thực hiện được, thì bất kỳ bài nguyện hoặc thiền định nào được
thực hiện với tình thương cho tất cả bà mẹ-chúng sanh, sẽ có lợi ích cao, nhất
là nếu được một thiền giả đã thành tựu hướng dẫn. Một phục vụ thích hợp có thể
gồm việc tụng niệm cầu nguyện, niệm hồng danh của chư Phật và bồ tát, niệm
mantra, hoặc thực hiện bất kỳ nghi lễ đơn giản nào. Rất nhiều bản văn nghi thức
tế lễ và cầu nguyện được sử dụng ở Tây Tạng; tôi cung cấp một nghi thức rất vắn
tắt sau này về Cõi Tịnh Độ Cực Lạc, trong phần phụ lục A. Ngoài ra, sự thực
hiện phowa bởi một vị thầy thành tựu là một thực hành đặc biệt lợi ích, trong
cả hai tiến trình cận tử và sau khi chết. Một bản văn phowa ngắn với giải thích
sẽ cung cấp trong phụ lục B.
Sự Hồi Hướng Và Những Cầu Nguyện
Khao Khát
Sau khi làm bất kỳ việc tốt nào như
cầu nguyện, điều quan trọng là hồi hướng công đức và lập nguyện khao khát. Việc
hồi hướng công đức sẽ nhân đôi năng lực của chúng theo cấp số nhân. Phạm vi hồi
hướng càng lớn, thì năng lực càng lớn. Do vậy, việc hồi hướng công đức không
chỉ cho người chết, mà còn cho tất cả bà mẹ-chúng sanh, như nguyên nhân của
hạnh phúc và giác ngộ của họ. Thế nên, công đức khổng lồ sẽ đến họ.
Kế tiếp lập nguyện khao khát. Đây
là một cách đầu tư công đức cho một mục đích riêng và khuếch đại chúng nhiều
hơn. Sử dụng việc hồi hướng công đức của bạn như hạt giống (chủng tử), hãy lập
nguyện khao khát rằng tất cả bà mẹ-chúng sanh có thể có được kết quả của hạnh
phúc và tái sanh vào tịnh độ.
Nói riêng, những chúng sanh trong
bardo cần chúng ta hồi hướng công đức và lập nguyện khao khát cho họ. Nếu lập
lại hồi hướng nhiều lần bất cứ công đức nào chúng ta và người chết đã tích lũy
– thì bất kể chúng sơ sài ra sao – cho người chết và tất cả những bà mẹ-chúng
sanh để họ tái sanh vào tịnh độ, chúng ta có thể bảo đảm rằng công đức sẽ gây
ra kết quả đó.
Bạn cũng có thể tụng niệm và thiền
định về những bài nguyện hồi hướng và khao khát khác nhau, như là
Bhadracharya-pranidhanaraja Sutra (Sutra của Vua Ước Nguyện Về Hành Động Ưu
Tú). Bản văn Đại Thừa này là một phần của Buddhavatamsaka Sutra (Sutra Tràng
Hoa Của Chư Phật), dạy chúng ta làm sao hồi hướng công đức và lập nguyện khao
khát như Đức Phổ Hiền đã làm. Người sắp chết có thể được ban những vật liệu đã
ban phước để nếm như cam lồ (Tạng, dudtsi, bDud Rinpoche’Tsi), và những phần để
dành còn lại hoặc những vật liệu của nghi lễ đã ban phước, hay những món để đặt
lên người chết. Những thành viên của truyền thống Nyingma gắn đồ hình mật
truyền được ban phước có ý nghĩa đặc biệt hoặc những chủng tự linh thiêng viết
bằng văn tự Ấn Độ cổ hoặc Tây Tạng, được biết như “Sự Giải Thoát bằng Tiếp Xúc”
(Tạng, tag trol, b’Tags Grol), và đặt những chủng tự thiêng liêng khác tại ngực
hay những bộ phận khác của thân người chết.
NHỮNG PHỤC VỤ TÔN GIÁO VÀO GIỜ CHẾT
Vào lúc chết, bất cứ phục vụ tôn
giáo nào – cầu nguyện, và thiền định cung cấp một không khí an bình, yêu thương
và ban phước – đều rất lợi ích. Những nghi thức sau là một số phục vụ đáng kể
mà những lama Tây Tạng cống hiến.
Những Hướng Dẫn Cho Người Bình
Thường
Thời gian tốt nhất để nhận hướng
dẫn, lời khuyên, hoặc giáo lý là lúc chúng ta vẫn còn sống, để chúng ta có thể
nghe và hiểu những gì người hướng dẫn nói. Người hướng dẫn phải ban giáo lý lúc
tâm chúng ta mở rộng và chúng ta có thể suy nghĩ kỹ lưỡng. Nếu người sắp chết
phản kháng lại việc chấp nhận cái chết sắp đến, thì việc ban bất cứ hướng dẫn
nào vào thời điểm này là không khôn ngoan. Thay vào đó, tốt hơn nên nói về
những giáo lý chung hoặc giáo lý về chữa lành. Điều đó sẽ không làm họ sợ, lại
được cung cấp một số cảm giác an bình và tỉnh thức.
Nếu người sắp chết sẵn sàng nghe về
cái chết của họ, nên nhắc lại những thiền định của họ và nguồn ban phước. Người
hướng dẫn nên để họ biết những gì chờ đợi trong lộ trình cận tử, bản tánh tối
thượng, và bardo, và làm thế nào điều khiển những kinh nghiệm này.
Ngài Dodrupchen Rinpoche tóm tắt
những điều quan trọng cho người sắp chết chú tâm vào lúc chết:
Bạn phải suy nghĩ về điều sau đây nhiều lần. Hãy nghĩ rằng cái chết, giờ đây đã
đến với bạn và nó xảy ra cho tất cả. Hãy buông bỏ mọi bám luyến đến người
thương, của cải và quyền lực. Trước các Đấng Giác ngộ, hãy sám hối và tịnh hóa
mọi hành động xấu bạn đã phạm trong đời này và trong những kiếp trước – cả hai
biết và không biết. Tự bạn lập nguyện và đến các Đấng Giác Ngộ rằng sẽ không
bao giờ tái phạm những hành động xấu như vậy nữa. Nhờ đó, hãy nâng cấp tâm bạn
với một cảm giác hỷ lạc trong đó không có lo lắng. Hãy nhớ mọi hành động đạo
đức bạn đã làm trong quá khứ và hoan hỷ vì chúng nhiều lần, không có bất cứ
kiêu mạn hoặc tự cao tự đại nào.
Và Ngài thêm vào:
Hãy hồi hướng công đức và lập
nguyện khao khát, nhiều lần, suy nghĩ và nói, “Suốt các kiếp sống liên tiếp của
con, cầu mong con có thể thực hành tinh túy của con đường giác ngộ. Cầu mong
con được dẫn đắt bởi các vị thầy đức hạnh. Cầu mong con được ban niềm tin,
siêng năng, trí tuệ, và tỉnh giác. Cầu mong con không bao giờ bị tác động bởi
bạn bè xấu và những cảm xúc phiền não.”
Có được tư duy đạo đức vào lúc chết
là điều rất quan trọng, Ngài Dodrupchen nói:
Trong kinh điển, Đức Phật Thích Ca
Mâu Ni đã kể nhiều câu chuyện để minh họa việc tại sao có người trở thành đệ tử
của Ngài hoặc tại sao có người đặc biệt trở thành một trong những đệ tử tài
năng của Ngài. Trong nhiều trường hợp, Ngài cho biết rằng những người này đã
lập nguyện đạo đức khi họ sắp chết. Vậy những gì bạn mong muốn làm vào lúc chết
sẽ có một tác động to lớn về sự tái sanh của bạn.
Như đã nhắc đến ở trên, sự thiền
định quan trọng gọi là phowa có thể thực hiện trước và sau khi chết.
Nếu bạn có thể nhớ lại những vị
thầy tâm linh mà bạn có niềm tin, giáo lý của các Ngài, những Bổn Tôn và các
kinh nghiệm tâm linh mà bạn quen thuộc là rất lợi ích. Ngoài ra, với lòng bi,
hãy phát triển khao khát đem những bà mẹ-chúng sanh đến Phật quả.
Những Hướng Dẫn Và Phục Vụ Của Cái
Chết Cho Các Thiền Giả Đã Thành Tựu
Nếu người sắp chết là một thiền giả
thành tựu cao, thì một thiền giả đã kinh nghiệm hoặc một người bạn đưa ra
“hướng dẫn” (Tạng, ngo trod, Ngo sProd). Trong hướng dẫn bạn nhắc vị thầy sắp
chết và nhận ra sự thiền định hay nhận biết của họ và an trụ trong đó. Nếu
người giúp đỡ chưa thành tựu, điều tốt nhất là hãy để vị thiền giả chết yên
lặng không có bất cứ quấy rối nào. Những đệ tử và bạn bè của vị thầy nên thiền
định và cầu nguyện yên lặng hoặc ở cách xa thân. Duy trì một không khí tâm linh
và an bình chung quanh vị thầy sắp chết càng nhiều càng tốt trong nhiều giờ
hoặc thậm chí nhiều ngày là điều quan trọng.
Một số vị thầy trụ trong thiền định
thể nhập trong nhiều giờ hoặc nhiều ngày thậm chí hơi thở họ đã ngưng. Sẽ không
có chuyển động của hơi thở hoặc mạch đập, nhưng sẽ có một chút hơi nóng ở ngực.
Đó là dấu hiệu vị thầy chưa rời bỏ thân và đang trụ trong thiền định. Nếu như
vậy, điều khôn ngoan là giữ thân xác không bị khuấy động và duy trì một không
khí an bình chung quanh nó. Nhưng nếu bạn di chuyển xác, thì ai đó nên đưa ra
“hướng dẫn” hoặc tối thiểu một số nghi lễ tôn giáo. Điều đó sẽ đánh thức vị
thầy một cách tự nhiên từ trạng thái thiền định. Nếu không ai có thể đưa ra bất
cứ hình thức nghi lễ nào thì chỉ rung chuông lễ hay thực hiện âm nhạc tôn giáo
hoặc ca hát, điều đó sẽ đánh thức vị thầy từ sự thể nhập. Sau đó có thể chăm
sóc thân xác tùy theo khả năng bạn. Một số trang bị có thể được cất giữ thân
xác với sự sắp xếp tỉ mỉ, trong lúc người khác có thể chỉ sắp xếp. Với một vị
thầy, sự sắp xếp đơn giản hay tỉ mỉ sẽ chẳng khác biệt, nhưng những người có
điều kiện thuận lợi không nên bỏ qua việc lo liệu nơi cất giữ linh thiêng thích
hợp.
Song, Ngài Tsele viết: “Theo một số
học giả và người thông thạo, mặc dù sự suy đoán chung là tất cả người nào trụ
trong thân một thời gian dài sau khi chết đều trong thiền định, điều này không
luôn chắc chắn. Một số có thể bám vào thân họ vì bám luyến.”
Một cách truyền thống, những đệ tử
của vị thầy có thể thực hiện “thiền định sùng kính về vị thầy” (Phạn, guru yoga
– du già đạo sư) và tiếp nhận bốn bậc quán đảnh (như đã mô tả cho thiền định
Vajrasattva ở trên). Hoặc họ có thể tập trung trên “nghi thức sùng kính đạo sư”
(Phạn, guru puja – cúng dường đạo sư) và tiếp nhận sự tự-quán đảnh. Họ cũng có
thể thực hiện những nghi thức tịnh hóa và tạo công đức cho vị thầy. Ngay cả nếu
sự tịnh hóa và công đức không cần thiết cho một vị thầy đã thành tựu cao, thì
chúng sẽ lợi ích cho những người mà vị thầy có thể còn mắc nợ nghiệp. Điều quan
trọng nhất, các đệ tử nên thiền định về sự hợp nhất tâm họ với tâm giác ngộ của
vị thầy và suy niệm nó trong hợp nhất. Nếu không có nghi lễ chính thức nào, hãy
tụng niệm bất kỳ bài nguyện nào và thực hành thiền định mà bạn quen thuộc đều
lợi ích.
Một điều quan trọng để nhớ là trái
lại với người thường, vị thầy không cần và có thể không muốn có nghi lễ chết.
Đó là điều tại sao nhiều vị thầy thậm chí mong muốn “chết như một con chó” như
họ đã nói. Giống như một con chó lang thang có thể chết bên lề đường mà chẳng
ai thèm chú ý, nên các vị thầy này hy vọng không ai chú ý đến cái chết của họ
để họ sẽ tự do đi khỏi cuộc sống này theo cách họ có.
NHỮNG PHỤC VỤ TÔN GIÁO SAU KHI CHẾT
Nghi Thức Chết Mười Ba Bước là một
nghi lễ mà chúng ta sử dụng để thực hành khi tôi lớn lên ở miền Đông Tây Tạng.
Nó được thực hiện cho người chết bởi các thiền giả đã tu hành hoặc người sùng
mộ bình thường. Nó cũng có thể thực hiện truớc khi chết. Nghi thức này có một
vài danh hiệu khác nhau ở Tây Tạng. Nó được ám chỉ như “nghi thức của xác chết”
(ro chog, Ro ch’og), được thực hiện bởi các lama trước tử thi. Nó cũng được gọi
là “nghi thức hình nộm” (chang chog, Byang ch’og), vì nghi lễ có thể thực hiện
với một hình nộm thay vì thân xác. Một số nhắc đến nghi thức như sự “giải thoát
khỏi các cõi” (ne dren, gNas ‘dren), trong đó các lama tịnh hóa những chủng tử nghiệp
sẽ gây tái sanh vào sáu cõi của người chết, một tên khác đơn giản là “nghi thức
cho cái chết” (shin chog, gShin ch’og).
Những nghi lễ chết của Tây Tạng đòi
hỏi thực hành một nghi thức về một hay nhiều dạng Bổn Tôn và các mandala của
các Ngài hoặc những cõi tịnh độ. Chúng bao gồm những nghi lễ của Đức Phật Vô
Lượng Quang (Amitabha), Đức Phật của Lòng Bi (Avalokiteshvara), Đức Phật Tịnh
Hóa (Vajrasattva), Một Trăm Bổn Tôn Phẫn Nộ Và Hiền Minh (Tạng, zhi thro, Zhi
khro), Đức Phật Tẩy Tịnh Của Những Cõi Thấp (Sarvavid Vairochana), và Bậc Loại
Trừ Của Các Tử Thần (Vajrabhairava).
Tuy nhiên, nghi thức sẽ hiệu quả
nhất nếu người thực hiện chọn một vị Phật và nghi thức mà họ quen thuộc và đã
nối kết.
Một Tóm Tắt Nghi Thức Mười Ba-Bước
Của Cái Chết
Trước tiên, trong phần chuẩn bị của
nghi lễ chết, những lama hay người giúp đỡ tụng niệm và thiền định về thọ quy y
nơi Tam Bảo và sau đó phát triển quan điểm giác ngộ của bồ đề tâm.
Thứ hai, họ quán tưởng và suy niệm
chính họ là vị Bổn Tôn, như Đức Phật Lòng Bi, trong cõi tịnh độ của Ngài tràn
đầy vô lượng bậc giác ngộ. Tụng niệm mantra của đức Phật – OM MANI PADME HUM
(hay HUNG) – họ thấy, nghe, và cảm nhận ân phước hiện diện và năng lượng của
Bổn Tôn và tịnh độ. Sau đó họ chia sẻ ân phước trong dạng thành tựu và ánh sáng
với toàn thể pháp giới. Điều này được làm bằng cách quán tưởng ánh sáng ban
phước tràn đầy mọi chúng sanh, cũng như toàn bộ pháp giới, và sự thành tựu đó
cũng tràn đầy tất cả họ, chuyển hóa mọi người thành một bậc trí tuệ, bi mẫn, và
năng lực.
Thứ ba, họ quán tưởng trên bàn thờ
một Bổn Tôn và tịnh độ trong bình thiêng liêng đầy cam lồ. Để tạo công đức, họ
cúng dường những thứ hữu ích và đẹp đẽ như hoa, hương thơm, thực phẩm, và âm
nhạc (thực tế hoặc quán tưởng) và tụng niệm tán thán đến Bổn Tôn với suy nghĩ
đại tôn kính. Tụng niệm mantra, họ thiền định Bổn Tôn. Vị Bổn Tôn ban phước cam
lồ trong bình bằng cách gởi một luồng ánh sáng –trí tuệ vào nó. Sau đó Bổn Tôn
hòa nhập vào cam lồ trong bình và trở thành một.
Thứ tư, họ tiếp nhận tự-quán đảnh
từ Bổn Tôn của mandala bên ngoài, bình linh thiêng. Nói khác đi, qua sự thiền
định về bình đầy-cam lồ như một vị Phật tịnh độ với sắc tướng, âm thanh, và
kinh nghiệm thanh tịnh, tràn đầy sự hiện diện của tập hội chư Phật, các phẩm
tánh-Phật, bình mandala là một nguồn ban phước vĩ đại.
Thứ năm, với năng lực thiền định và
những lời của chân lý, họ triệu hồi ý thức của người chết (nếu đã chết) vào một
hình nộm (hoặc thân nếu vẫn còn hiện diện) và củng cố nó. Sau đó họ đưa giáo lý
đến người chết về sự quan trọng của việc tập trung tâm họ vào Bổn Tôn và các
con đường tâm linh, chư Phật và các cõi tịnh độ, Giáo Pháp và những vị thầy của
Giáo Pháp. Họ giảng dạy người chết đừng bám luyến vào người thân ở thế gian
hoặc nên bỏ lại những sở hữu, vì điều đó chỉ phát sinh cảm xúc phiền não và
ngăn cản tiến bộ trên con đường tâm linh.
Thứ sáu, họ thực hiện nghi lễ “giải
thoát khỏi các cõi”. Đây là một nghi lễ phức tạp tập trung trên việc giải thoát
người chết khỏi chu trình tái sanh trong sáu cõi bằng cách tịnh hóa sáu cảm xúc
phiền não từng cái một. Sau đó, những người tham dự ban quán đảnh hoặc ban
phước của thân, khẩu, và ý chư Phật.
Thứ bảy, sau đó họ cúng dường sur,
đốt thực phẩm và đồ uống. Theo nhiều bản văn phần lớn chúng sanh trong bardo
không thể hưởng được thực phẩm đặc, mà họ cảm thấy thỏa mãn với mùi của thực
phẩm được đốt.
Trong
Ayushpatti-yathakara-paripriccha Sutra (Sutra về những gì xảy ra sau khi chết),
Đức Phật giải thích rằng cho thực phẩm đến người chết là không lợi ích, vì
không có thân thô nặng nên họ không thể hưởng thụ thực phẩm thô. Nếu với một
tâm tiêu cực hay buồn phiền, bạn sắp xếp một số thực phẩm cho người chết trên
một cái bàn, như đã được làm trong một số nền văn hóa, bạn sẽ không thỏa mãn
cơn đói của người chết, cũng như sẽ không tạo được nhiều công đức nếu không bao
gồm cảm hứng tâm linh, cầu nguyện, lòng bi, hoặc rộng lượng. Do vậy, trong nghi
lễ sur, hành giả ban phước mùi của thực phẩm với thiền định và hồi hướng đến
người chết với cảm hứng thanh tịnh.
Trong một nơi thoáng đãng, chuẩn bị
một bếp than, không có khói từ gỗ hoặc dầu sử dụng như nhiên liệu, ở đó người
ta đốt thực phẩm đặc và rắc nước uống chung quanh ngọn lửa. Những mảnh vụn của
quần áo mới cũng có thể đem đốt như những cúng dường.
Trong số thực phẩm cúng dường trong
nghi lễ sur, thịt phải được tránh vì nó có thể lôi cuốn những thế lực tinh linh
bạo động và gây hại. Ngoài ra theo ý kiến của tôi, người ta không nên dùng trái
cây tươi hoặc bất cứ thực phẩm nào tạo ra mùi khó chịu khi đem đốt. Ở Tây Tạng,
món chính được dùng là bột lúa mạch nướng trộn với bơ và một số mảnh vụn của
quần áo mới biểu tượng cho quần áo. Ở phương Tây có thể dùng bánh quy làm vụn
và một cặp mảnh vải của quần áo mới là thích hợp. Tuy nhiên, nếu không thể làm
cúng dường bằng cách đốt, bạn có thể sắp xếp thực phẩm chay và nước uống trên
bàn trong suốt nghi lễ và sau đó đem bỏ trong rừng hoặc ở một nơi sạch sẽ và cô
lập.
Trong nghi lễ sur, với lòng bi chân
thành mạnh mẽ, năng lực của thiền định, và lực của mantra, chúng ta tịnh hóa
mọi bất tịnh của vật liệu sur, phóng đại vật liệu thành khối lượng khổng lồ đầy
thế gian, và chuyển hóa chúng thành vật liệu-như ý để người chết được hưởng và
lợi ích từ đó. Do đó, khói không chỉ xuất hiện đến người chết như thực phẩm và
nước uống, mà còn nhận được hình tướng của bất cứ gì họ cần và mong ước. Thậm
chí nếu người thực hiện không thể theo thiền định trong chi tiết, nếu họ có
lòng sùng kính đến chư Phật, ban phước cho sur với cầu nguyện, và hồi hướng nó
cho người chết với tình thương trong sạch, thì sự cúng dường sur sẽ trở thành
một nguồn thỏa mãn và lợi ích.
Nếu chúng ta cúng dường sur cho tất
cả chúng sanh đau khổ với tình thương và rộng lượng, điều đó sẽ tạo ra công đức
to lớn. Nếu hồi hướng và khao khát cho nhiều chúng sanh, người chết sẽ có được
công đức to lớn, tạo cảm hứng cho chúng ta phát triển mọi loại tư duy vị tha và
cúng dường rộng rãi.
Trong bước thứ tám, phowa được thực
hiện để chuyển di tâm thức hoặc tâm người chết vào tâm giác ngộ của đức Phật để
họ có thể tái sanh trong cõi tịnh độ của đức Phật.
Bước thứ chín là phục vụ đám tang
trong đó thân xác được đem bỏ. Ở Tây Tạng có hai cách chính để thân xác hòa
nhập với tự nhiên: là đem thiêu và cho chim kên kên ăn (một thực hành mà người
phương Tây có thuật ngữ là “táng trên không”). Các lama thực hành nghi lễ thiền
định để ban phước cho thân như cam lồ-trí tuệ và giàn thiêu hay chim kên kên là
Bổn Tôn và cõi tịnh độ của các Ngài. Sau đó họ cúng dường thân xác như cam lồ
đến Bổn Tôn để tịnh hóa nghiệp tiêu cực và hoàn thiện công đức, trí tuệ của
người chết. Họ cũng thiêu xác (hoặc hình nộm) để biểu tượng hóa sự tiêu tán bản
ngã dối gạt, cảm xúc phiền não, và nghiệp tiêu cực với mọi dấu vết của chúng
bởi ngọn lửa của năm trí, đó là bản tánh và phẩm chất tối thượng của tâm. Hoặc
có thể cho chim kên kên ăn như những cúng dường. Thậm chí sau đó họ sẽ đốt một
mảnh xương nhỏ cho nghi lễ sau đó.
Thứ mười, họ thu gom tro xương và
tổ chức nghi lễ đặc biệt tịnh hóa xương (Tạng, ru jong; Rus sbyong) trong một
tuần hay hơn. Họ thực hiện “sự giải thoát khỏi các cõi” như đã đề cập trước đó.
Nó là một cơ hội khác để tịnh hóa nghiệp tiêu cực của người chết, sử dụng phần
còn lại trong dạng tro.
Thứ mười một, sau khi xương được
tẩy tịnh, tro được trộn với đất sét và làm thành nhiều tháp nhỏ (Tạng, tsatsa;
Tsa-tsha) để biểu tượng tâm và thân người chết chuyển hóa thành những phẩm tính
của chư Phật. Một tháp là biểu tượng của tâm-trí tuệ Phật. Một nghi lễ ban
phước (Tạng, tsa drub, Tsa sgrub) được thực hiện trong một tuần hay hơn để ban
phước và thánh hóa những tháp nhỏ như thân-trí tuệ của Phật.
Thứ mười hai, những tháp nhỏ được
đặt như những cúng dường trong một sông hay biển và để nó hòa nhập với thiên
nhiên, không gì còn lại của người chết. Không để lại bất cứ gì thô nặng sót lại
cho phép khởi hành đến một nơi an bình không bị những cảm xúc phiền não giữ lại
hoặc lôi kéo như bám luyến những người thân. Tuy nhiên, đạo Phật bảo tồn những
gì còn lại của một số vị thầy vĩ đại trong dạng đài kỷ niệm tôn giáo để các
Ngài sẽ là đối tượng của sùng kính, truyền cảm hứng và là một nguồn ban phước.
Cuối cùng, những người tham dự hồi
hướng tất cả công đức đã tích lũy bởi hoặc cho người chết và mọi bà mẹ-chúng
sanh như nguyên nhân của một lộ trình chuyển tiếp an bình và một tái sanh hạnh
phúc (chẳng hạn như trong Cõi Tịnh Độ Cực Lạc của Đức Phật Vô Lượng Quang). Hồi
hướng tất cả công đức như hạt giống, họ niệm nhiều bài nguyện khao khát để nhận
ra những mục tiêu đặc biệt này.
Các Nghi Lễ Khác
Với một thiền định và phục vụ cầu
nguyện đơn giản và vắn tắt, hãy xem phụ lục B.
Với nghi lễ chết của những vị thầy
tôn kính đã thành tựu cao, những lama khác hay các đệ tử thực hiện nghi lễ kỷ
niệm, thường do sùng kính tự nhiên trong nhiều ngày hoặc nhiều tuần. Chúng bao
gồm nghi thức tôn kính vị thầy, thiền định sùng mộ về vị thầy, bữa tiệc cúng
dường (Phạn ganachakra), và nghi thức thân thiêng liêng (Tạng, dung chog, gDung
ch’og) với nghi quỹ (Phạn, sadhana) tịnh hóa, tạo công đức, và lập nguyện khao
khát.
Cùng với các nghi lễ này, gia đình
và bạn bè có thể tài trợ tạo-công đức và phục vụ lợi ích cho người chết. Bao
gồm tụng niệm cầu nguyện và thực hành thiền định, bố thí tặng phẩm vật chất và
tinh thần, bảo vệ sức khỏe và sinh mạng, tài trợ những nghi lễ và cầu nguyện,
xây dựng những đài kỷ niệm tinh thần và nơi trú ngụ, treo cờ và bánh xe cầu
nguyện, hỗ trợ trường học và thiền định, và đem an bình, hòa hợp đến xã hội.
Sau khi thực hiện bất kỳ phục vụ
nào, hãy hồi hướng công đức của nó như nguyên nhân của hạnh phúc và giác ngộ
cho tất cả bà mẹ-chúng sanh, và lập nguyện tương tự. Do vậy, kinh nghiệm của
bardo và tái sanh của người chết sẽ trở thành một hành trình từ hạnh phúc đến
hạnh phúc.
Trong truyền thống Phật giáo Tây
Tạng, sự đóng góp vật chất bất cứ quy mô nào cho các tu sĩ tôn giáo, học viện,
và cơ sở từ thiện càng nhiều càng tốt là điều phổ thông, để tạo công đức cho
người chết, với sự khẩn cầu các tăng, ni, người mộ đạo bình thường, tu viện,
hoặc ni viện cầu nguyện và hồi hướng công đức cho họ. Thậm chí nếu bạn không có
tiền hay vật chất tốt để dâng cúng, bạn có thể quán tưởng cúng dường tài sản to
lớn và cúng dường bằng tinh thần cho họ với sự rộng lượng và hoan hỷ vĩ đại.
Những cúng dường tinh thần như vậy cũng sẽ tạo ra một lượng công đức to lớn.
Đạo Phật tin rằng ngay cả việc bạn
đóng góp một số lượng nhỏ cho một mục đích lớn, công đức của bạn có thể trở nên
bao la như công đức của chính mục đích đó – giống như những giọt nước rớt vào
biển sẽ không khô cạn cho đến khi đại dương khô cạn. Ngoài ra, nếu bạn hình
thành một nghiệp nối kết với một bậc vĩ đại, thậm chí nếu sự cúng dường nhỏ như
một tách trà, nó có thể tác động và kết quả vô tận, vì sự thiêng liêng của
người mà bạn cúng dường.