Những thiền định và cầu nguyện được cung cấp trong phụ lục
A đều từ giáo lý, hoặc kinh điển phổ thông của Phật giáo (dựa căn bản trên
sutra, những lời dạy của Đức Phật lịch sử Thích Ca Mâu Ni). Nếu tâm bạn được
truyền cảm hứng bởi những thực hành này, bạn nên sẵn sàng học và rèn luyện
trong chúng.
Chúng là những rèn luyện cầu nguyện và thiền định về bốn
nguyên nhân để nhận tái sanh vào Cõi Tịnh Độ Cực Lạc. Những rèn luyện này sẽ
lót đường cho bạn để nhận tái sanh vào tịnh độ. Chúng cũng sẽ trang bị cho bạn
thực hiện các nghi lễ chết cho người khác.
Theo những nguồn của Đạo Phật, vô số kiếp về trước, Đức
Phật Vô Lượng Quang trở thành một người sùng mộ bồ tát đạo. Tên Ngài là
Dharmakaya. Trước một vị Phật tên là Lokeshvara, Ngài bắt đầu chuyến hành trình
tâm linh của Ngài bằng việc thọ nguyện bồ tát. Ngài nguyện dẫn dắt tất cả ai
nghe, nhớ lại, và cầu nguyện danh hiệu Ngài với lòng sùng kính và niềm tin đến
cõi tịnh độ tương lai của Ngài khi Ngài thành Phật:
Tất cả chúng sanh nào nghe danh hiệu Ta
Sẽ đến tịnh độ của Ta.
Nếu bạn có niềm tin, tin tưởng vào nguyện, trí tuệ, và lòng
bi của đức Phật, bạn sẽ tiếp thu những hiệu quả của năng lực nguyện. Vì năng
lực của lý duyên sinh của nguyện đức Phật, nếu bạn cầu nguyện danh hiệu Ngài,
hoan hỷ tái sanh trong tịnh độ của Ngài – bên trong và bên ngoài bạn – sẽ chắc
chắn xảy ra. Vị Thầy Shinran người đặt nền tảng Jodo Shinsu ở thế kỷ mười hai,
hay Học Phái Tịnh Độ Thực Sự của Nhật Bản, đã nói: “Ngay chính lúc này, khi
chúng ta bắt đầu niệm Nembutsu [mantra của Đức Phật Vô Lượng Quang] bằng một
lòng tin kiên cố rằng sự tái sanh của chúng ta trong cõi Tịnh Độ chỉ đạt được
bởi đức hạnh của hoạt động không thể nghĩ bàn của Nguyện Nguyên Thủy Đức Amida
[Amitabha], chúng ta có thể chia sẻ trong những lợi ích của nguyện rằng bao gồm
tất cả và không quên một ai.”
Nếu tâm bạn hoàn toàn tin tưởng và chú tâm vào Đức Phật Vô
Lượng Quang, Ngài là hiện thân của lòng bi và trí tuệ, và trên năng lực của
việc cầu nguyện hồng danh Ngài, toàn bộ cuộc sống bạn sẽ trở nên an bình, thanh
tịnh và tỉnh thức. Bạn sẽ trở thành một nguồn cùng phẩm tánh cho tất cả chung
quanh bạn. Những nhận thức tiêu cực và cảm xúc phiền não sẽ không có chỗ bám
trong bạn. Do đó bạn không cần phương tiện nào khác để đạt giải thoát. Một tâm
tự nhiên như vậy tiêu biểu các phẩm tánh của tất cả sáu hoàn thiện: bố thí, trì
giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, và trí tuệ.
Nếu có niềm tin nơi đức Phật, bạn phải áp dụng nó như
phương tiện cải thiện cái chết và tái sanh của bạn qua thiền định như phowa.
Bạn phải chuẩn bị lâu dài trước khi bạn chết và cũng trước khi thực hiện nghi
lễ chết cho một người sắp chết. Nếu trước đây bạn không có kinh nghiệm thiền
định, bạn không thể tiếp nhận hoặc cống hiến nhiều giúp đỡ qua cầu nguyện hay
thiền định. Nếu bạn không có thiền định nối kết với Đức Phật Vô Lượng Quang và
Cõi Tịnh Độ Cực Lạc của Ngài, thì làm sao bạn có thể tái sanh vào tịnh độ hoặc
dẫn dắt bất cứ người sắp chết nào đến đó?
Một người sắp chết đã rèn luyện trong thiền định này trước
đó có thể thiền định và cầu nguyện một mình và có thể không cần nhờ vào sự hỗ
trợ của người khác. Hoặc nếu một người sắp chết đã kinh nghiệm và người giúp đỡ
đã rèn luyện tốt kết hợp cùng nhau cầu nguyện và thiền định, thì sinh vào tịnh
độ là điều chắc chắn.
Do vậy, điều quan trọng là đã rèn luyện trước trong bốn
nguyên nhân, vì sự thành công tùy thuộc vào kinh nghiệm tâm linh của bạn. Bạn
có thể rèn luyện trong bốn nguyên nhân như thiền định và cầu nguyện hàng ngày
trong nhiều tháng và nhiều năm. Bạn có thể duy trì việc cầu nguyện hồng danh và
mantra một trăm ngàn hoặc một triệu lần.
Nếu đã rèn luyện trong bốn nguyên nhân, bạn sẽ tái sanh
vào tịnh độ ngay cả nếu bạn phạm những hành động xấu, nhưng với sự loại trừ hai
hành động xấu trầm trọng. Một là hành động từ bỏ Giáo Pháp. Nếu bạn từ bỏ Giáo
Pháp, sẽ không thể có sùng kính đến Đức Phật Vô Lượng Quang, vì nguyên nhân gốc
của tái sanh trong tịnh độ là tin tưởng vào Giáo Pháp. Hành động xấu thứ hai là
vi phạm bất kỳ năm tội vô gián nào: giết cha mẹ mình, giết một vị thánh (Phạn,
arhat), gây chia rẽ trong cộng đồng tâm linh, và tấn công một vị Phật với ý
định hiểm ác.
Trọng điểm chính của bốn nguyên nhân là cầu nguyện và
thiền định về Đức Phật Vô Lượng Quang và Cõi Tịnh Độ Cực Lạc của Ngài. Đức Phật
là hiện thân của tất cả Đấng giác ngộ và là biểu hiện của chân lý phổ quát. Cõi
Tịnh Độ Cực Lạc là sự xuất hiện của ánh sáng trí tuệ và năng lượng trí tuệ của
đức Phật như cõi tịnh độ. Thậm chí nếu bạn là người không sùng mộ Đức Phật Vô
Lượng Quang, ngay cả là một Phật tử, việc thực hành bốn nguyên nhân sẽ phát
sinh công đức to lớn. Dòng tâm thức bạn và mọi biểu hiện trong lời nói và hành
động sẽ trở nên an bình và hoan hỷ, chắc chắn sẽ được tái sanh hạnh phúc.
Hãy quán tưởng toàn bộ không gian trước bạn bây giờ như
Cõi Tịnh Độ Cực Lạc đã mô tả trong chương 7: sáng chói và đẹp đẽ tột bậc, thịnh
vượng và rộng lượng, được làm bằng ánh sáng trí tuệ và năng lượng trí tuệ. Tại
trung tâm, hãy quán tưởng sự hiện diện trang nghiêm của Đức Phật Vô Lượng Quang
toàn giác. Giống như một núi ánh sáng vĩ đại. Ánh sáng trí tuệ vô lượng lưu
xuất từ thân Ngài, chiếu sáng vô biên vũ trụ và những tịnh độ với đại an bình
và hoan hỷ. Ngài đang nghĩ và nhìn bạn và mỗi chúng sanh với trí tuệ toàn giác,
năng lực vô biên, và lòng bi không điều kiện, giống như người mẹ dành cho đứa
con duy nhất của bà.
Bạn có thể tự mình cầu nguyện và thiền định trên bốn
nguyên nhân, hoặc người khác có thể làm cho bạn, để chính bạn được tái sanh vào
cõi Tịnh Độ Cực Lạc. Bạn có thể thực hiện cho người khác, dù họ sắp chết hay
còn sống. Hoặc bạn và người khác có thể cùng nhau thực hiện cho chính bạn hay
người khác. Tuy nhiên, nghi thức sau đây được diễn đạt như thể bạn đang thực
hành cho chính mình và cho lợi ích của tất cả bà mẹ-chúng sanh.
Với niềm tin, sùng kính, rộng mở, và hoan hỷ to lớn, hãy
tập trung vào đức Phật và thiền định trên bốn nguyên nhân. Nghi thức này có bốn
khía cạnh: thực hành chuẩn bị, thực hành chính về bốn nguyên nhân tái sanh vào
cõi Tịnh Độ Cực Lạc, mantra và bài nguyện hồng danh, và thực hành kết thúc.
SUKHAVATI, CÕI TỊNH ĐỘ CỰC LẠC CỦA PHẬT A DI ĐÀ
THỰC HÀNH CHUẨN BỊ
Thọ quy y
Từ tận đáy lòng bạn, thọ quy y tối thượng nơi Đức Phật Vô
Lượng Quang; nơi Giáo Pháp, giáo lý, con đường của rèn luyện và thành tựu tâm
linh, và trong Tăng Đoàn, cộng đồng tâm linh của chư bồ tát, a la hán, và người
sùng mộ.
Lập lại ba lần:
Sang-gye ch’o-tang tshog-kyi ch’og-nam-la
Đến Phật, Pháp, và Tăng đoàn tôn quý
Chang-ch’ub par-tu dag-ni kyab-su-ch’i
Con thọ quy y cho đến khi đạt giác ngộ.
Dag-kee jin-sog gyee-pe sod-nam-kyee
Bởi [1] *công đức của bố thí và những thứ khác,
Dro-la phen-ch’ir sang-gye drub-par-shog
Cầu mong con đạt Phật quả vì lợi ích của tất cả chúng sanh.
Phát triển lòng tốt-tình thương, lòng bi, hoan hỷ cảm
thông, và thanh thản hướng đến tất cả chúng sanh như hướng đến mẹ bạn. Hãy nghĩ
rằng bạn đang cầu nguyện và thiền định cho lợi ích của tất cả bà mẹ-chúng sanh
được tái sanh vào cõi Tịnh Độ Cực Lạc.
Lập lại ba lần:
Sem-chen tham-ch’ed de-wa tang de-we gyu-tang den-par kyur-chig
Cầu mong tất cả chúng sanh có được hạnh phúc và nguyên nhân của hạnh
phúc.
Duk-ngal tang dug-ngal kyi gyu-tang tral-war kyur-chig
Cầu mong tất cả thoát khỏi đau khổ và nguyên nhân gây đau khổ.
Dug-ngal med-pe de-wa tam-pa tang mi-dral-war kyur-chig
Cầu mong tất cả không bao giờ tách rời hạnh phúc tối cao, được thoát
khỏi đau khổ.
Nye-ring ch’ag-dang nyee tang tral-we tang-nyom tshed-med-pa la ne-par
kyur-chig
Cầu mong tất cả an trụ trong thanh thản vô biên, thoát khỏi bám luyến
người thân và thù hận kẻ địch.
BỐN NGUYÊN NHÂN THỌ TÁI SANH VÀO CÕI TỊNH ĐỘ CỰC LẠC
Để nhận tái sanh vào bất cứ tịnh độ nào, bạn phải tự mình
chuẩn bị nghiêm chỉnh. Điều này bao gồm tịnh hóa nghiệp tiêu cực và hoàn thiện
hành động công đức với phương pháp của bốn nguyên nhân, tóm tắt sau đây đặt căn
bản trên bản viết tay của Ngài Dodrupchen Rinpoche đệ tam, Ngài đã dựa trên
Amitabhavyuha Sutra, mô tả sự quan trọng của bốn (hoặc tối thiểu là ba) nguyên
nhân thọ tái sanh vào Cõi Tịnh Độ Cực Lạc của Đức Phật Vô Lượng Quang.
Nguyên Nhân Thứ Nhất: Nhớ Tưởng Đến Cõi Tịnh Độ
Nguyên nhân thứ nhất là suy nghĩ về và nhớ tưởng kết cấu
đẹp đẽ kỳ lạ, không khí an bình, và cảm nhận hoan hỷ của Cõi Tịnh Độ Cực Lạc
nhiều lần.
Cõi Tịnh Độ Cực Lạc là một không gian an bình và hỷ lạc
siêu phàm, rực rỡ và đẹp đẽ, một thiên đường thịnh vượng và nhân từ, ở đó không
biết đến đau khổ. Không có khái niệm hoặc biểu lộ của cảm xúc phiền não, như
tham lam, sân hận, và si mê. Tất cả đều được tạo bằng năng lượng trí tuệ và ánh
sáng trí tuệ của an bình và hỷ lạc cực điểm. Đó là một thiên đường vô biên của
những rặng núi và cánh đồng ánh sáng, sông; hồ của ánh sáng, cây; trái của ánh
sáng, đường xá và lâu đài của ánh sáng. Ở đó vô số các bậc linh thiêng tỏa sáng
rực rỡ trong nhiều hình tướng, trang phục, và hoạt động khác nhau. Các Ngài bay
và di chuyển qua hư không trong an bình và hỷ lạc tuyệt đối. Các Ngài thăm
viếng các biểu hiện tịnh độ khác nhau và tiếp nhận ban phước và giáo lý. Bất cứ
những gì bạn mong ước đều xuất hiện. Âm thanh của giáo lý và âm nhạc của Giáo
Pháp tràn đầy toàn bộ không gian. Tất cả những ai hiện hữu ở đây đều trong
trạng thái an bình và hỷ lạc cực độ.
Tại trung tâm, bên dưới một Cây Giác Ngộ khổng lồ, là Đức
Phật Vô Lượng Quang. Thân tươi trẻ và trang nghiêm màu hồng sáng của Ngài được
trang hoàng với những dấu hiệu của bậc tối thượng. Ngài ở giữa một đại dương
các bậc giác ngộ như tám bồ tát, bao gồm Avalokiteshvara và Mahasthamaprapta.
Toàn bộ không gian tràn đầy ánh sáng rực rỡ tỏa ra từ thân Ngài. Tình thương
không điều kiện, trí tuệ toàn giác, và năng lực ở khắp nơi của Ngài phục vụ tất
cả không ngưng nghỉ.
Bạn phải áp dụng bốn năng lực chữa lành – hình ảnh, lời
nói, cảm nhận, và niềm tin tích cực – nhiều lần để làm mạnh mẽ nhớ tưởng về cõi
tịnh độ của bạn:
1. Hãy quán tưởng chi tiết Cõi Tịnh Độ Cực Lạc như đã nêu
trong chương 7.
2. Hãy suy nghĩ chi tiết cõi tịnh độ và các phẩm tánh bằng
lời nói và cầu nguyện.
3. Hưởng thụ cảm giác về sự hiện diện và ban phước của
tịnh độ tận đáy lòng bạn.
4. Tin tưởng rằng Cõi Tịnh Độ Cực Lạc của Đức Phật Vô
Lượng Quang ở phía trước bạn, và tin vào năng lực của nguyện đức Phật dẫn dắt
bạn tái sanh vào cõi tịnh độ của Ngài.
Vào lúc chết, tâm sẽ thoát khỏi những giới hạn áp đặt của
thân vật chất và văn hóa của môi trường bạn. Do vậy, trong lúc còn sống, nếu
bạn trau dồi thói quen thấy và cảm nhận tịnh độ trong tâm bạn, thì vào lúc chết
nhận thức bạn sẽ xuất hiện tự nhiên như cõi tịnh độ có thật, và sẽ thấy chính
bạn trong đó. Thế nên, sự tái sanh của bạn vào Cõi Tịnh Độ Cực Lạc là điều tự
nhiên.
Không phải mọi người sẽ thấy Đức Phật Vô Lượng Quang và Cõi Tịnh Độ Cực Lạc của
Ngài đều giống nhau. Nhận thức của chúng ta tùy thuộc vào thành tựu tâm linh
của mình. Một số sẽ thấy tịnh độ như nó thực sự là; số khác sẽ thấy như một
biểu hiện tịnh độ – dù trong thực tế cả hai điều trên, tức Cõi Tịnh Độ Cực Lạc
là một.
Nếu đã giác ngộ, bạn sẽ thấy Đức Phật Vô Lượng Quang như
vị Phật của trí tuệ nguyên sơ luôn-hiện diện. Bạn sẽ thấy tịnh độ của Ngài như
cõi tịnh độ luôn-hỷ lạc, năng lực và ánh sáng của trí tuệ nguyên sơ của tự thân
tịnh độ. Mọi sắc tướng và kinh nghiệm đều hiện diện tự nhiên như tánh giác bất
nhị. Mọi hình tướng như thật tánh và phẩm tính thanh tịnh, đúng như chúng là.
Giáo lý đạo Phật gọi tịnh độ này là “tịnh độ của thân hoan hỷ” (Báo Thân) của
Phật quả. Nhận tái sanh vào tịnh độ này không có nghĩa được tái sanh vào một
thế giới khác nào tốt hơn. Nó là sự nhận ra Phật tánh toàn giác, phổ quát với
tịnh độ bất khả phân của nó.
Trái lại, nếu là người sùng mộ bình thường, bạn sẽ thấy
Đức Phật và tịnh độ của Ngài như một thế giới an bình và hạnh phúc đầy những
bậc giác ngộ của tình thương không điều kiện, trí tuệ toàn giác, và năng lực vô
hạn – nhưng nếu bạn tiếp nhận thế giới này như một thế giới nào khác, như thể
một cõi khác. Bạn cũng sẽ có được an bình và hạnh phúc không thể tả – mà bạn
vẫn sẽ kinh nghiệm những điều này với một tâm nhị nguyên, dùng giác quan và cảm
xúc. Mọi thứ sẽ là chủ đề để thay đổi. Giáo lý gọi trạng thái của tịnh độ này là
“tịnh độ của thân biểu hiện: (Hóa Thân). Điều phi thường là người như bạn và
tôi – trong thực tế, tất cả bà mẹ-chúng sanh - đều có thể tái sanh vào đây. Và
một khi ở đó, bạn sẽ không bao giờ lui sụt mà luôn tiến bộ trên sự tăng trưởng
tâm linh, để một ngày nào đó chúng ta sẽ nhận ra tịnh độ của thân hóa hiện của
Phật tánh.
Để thọ tái sanh trong biểu hiện tịnh độ này, chúng ta phải
rèn luyện trong bốn (hoặc ba) nguyên nhân.
Nguyên Nhân Thứ Hai: Tích Lũy Công Đức
Bạn phải tạo công đức như hạt giống của việc nhận tái sanh
vào Cõi Tịnh Độ Cực Lạc. Nghiệp tích cực hay công đức tích lũy với toàn bộ niềm
tin của tâm thức và hành động của thân tích cực là trọng yếu cho bất cứ kết quả
an bình và hạnh phúc nào, nhất là cho việc tái sanh vào Cõi Tịnh Độ Cực Lạc. Có
thể tạo cúng dường, cho tặng vật, phục vụ người khác, tụng niệm cầu nguyện,
tịnh hóa việc làm xấu, bảo vệ mạng sống, lòng bi, quan tâm, hòa nhã, an bình,
sùng kính, tỉnh thức và thiền định.
Nguyên Nhân Thứ Ba: Phát Triển Quan Điểm Giác Ngộ
Để phát triển quan điểm giác ngộ hoặc bồ đề tâm, bạn phải
nguyện hay quyết định dẫn dắt tất cả bà mẹ-chúng sanh, không loại trừ ai, đến
Cõi Tịnh Độ Cực Lạc mà không có bất cứ ích kỷ nào và phải đưa nguyện đó vào
thực hành qua thiền định và những hành động có lợi ích.
Tuy nhiên, trích dẫn từ sutra, Ngài Dodrupchen chỉ ra rằng
sự phát triển bồ đề tâm không là một điều quan trọng để nhận tái sanh vào Cõi
Tịnh Độ Cực Lạc. Tuy vậy, việc phát triển quan điểm giác ngộ sẽ giúp bạn chắc
chắn được tái sanh trong tịnh độ và cũng sẽ giúp bạn trở nên hiệu quả hơn một
khi được sinh vào đó. Ngài Dodrupchen thêm rằng tạo một lời hứa hoặc quyết tâm
thì hùng mạnh hơn tạo một khát vọng. Ngài viết: “Để hoàn thành bất kỳ khát vọng
nào, điều quan trọng là phát triển một ý định hoặc cam kết mạnh mẽ, như suy
nghĩ, ‘Trong mọi kiếp sống liên tiếp, tôi sẽ rèn luyện trong tinh túy của lòng
bi và tánh Không, con đường của Phật giáo.’ Bạn biết đấy, suy nghĩ “Tôi sẽ thức
dậy vào sáng sớm’ có một tác động về việc thức dậy đúng giờ hơn là suy nghĩ
‘Cầu mong tôi thức dậy vào sáng sớm.’”
Nguyên Nhân Thứ Tư: Hồi Hướng Và Khao Khát
Nguyên nhân thứ tư là hồi hướng tất cả công đức như nguyên
nhân tái sanh vào Cõi Tịnh Độ Cực Lạc và lập nguyện khao khát cho cùng mục
đích. Ngay cả nếu đã có công đức, bạn cần đầu tư chúng cho mục tiêu riêng bằng
việc hồi hướng chúng và lập nguyện khao khát nhiều lần. Sự hồi hướng và khao
khát không chỉ là phương sách để đầu tư như những hạt giống của tái sanh vào
tịnh độ, chúng cũng là phương tiện hùng mạnh của việc tạo công đức trong chính
chúng.
Nếu quán tưởng một vị Phật phía trước bạn, lắng nghe và ban phước nguyện khao
khát của bạn, kết quả việc cầu nguyện của bạn sẽ ngày càng hùng mạnh và hiệu
quả hơn.
Để hoàn thiện nguyện khao khát, điều trọng yếu là dựa trên
một nguồn năng lực. Do vậy dựa trên một Bổn Tôn như Đức Phật Vô Lượng Quang, Vị
Phật của Lòng Bi, hoặc Đức Liên Hoa Sanh là điều rất quan trọng. Các nguồn năng
lực này phải là bậc mà bạn sùng kính và hoàn toàn có nối kết qua thiền định và
cầu nguyện. Bạn phải thấy nguồn năng lực như hiện thân của tất cả các Đấng Tôn
Quý. Cầu nguyện đến Ngài vì sự thành tựu mọi nguyện ước của bạn.
Giảng dạy về bốn nguyên nhân thọ tái sanh vào Cõi Tịnh Độ
Cực Lạc, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni nói:
Này, Ananda, có những người [1] suy nghĩ kỹ lưỡng về Đức
Phật [Vô Lượng Quang và tịnh độ của Ngài] nhiều lần. [2] Họ tạo nhiều công đức
vô lượng. [3] Họ phát triển tâm giác ngộ. [4] và họ hồi hướng công đức và tạo
khao khát nhận tái sanh vào Cõi Tịnh Độ Cực Lạc. Khi họ sắp chết, trước bậc
toàn giác, Đức Phật Vô Lượng Quang – Đấng an định và thắng lợi kẻ thù – sẽ xuất
hiện với quyến thuộc gồm rất nhiều vị khổ hạnh, xem xét họ. Được Phật Vô Lượng
Quang thấy, họ sẽ chết với tâm trong sáng to lớn. Nhờ đó họ sẽ tái sanh vào Cõi
Tịnh Độ Cực Lạc.
Hoặc; như trong cùng sutra dạy, bạn cũng có thể tự rèn
luyện trong “ba nguyên nhân” (thứ nhất, thứ hai, và thứ tư, không phát triển bồ
đề tâm), vẫn thọ tái sanh vào Cõi Tịnh Độ Cực Lạc. Suy nghĩ về những phẩm tính
của tịnh độ nhiều lần, tạo nhiều công đức khi có thể, và sau đó hồi hướng công
đức và lập khao khát, nói, “Cầu mong tôi được tái sanh vào Cõi Tịnh Độ Cực
Lạc.”
Những Nghi Thức Của
Bốn Nguyên Nhân
Suy nghĩ hoặc quán tưởng sự hiện diện của Cõi Tịnh Độ Cực
Lạc, một thế giới đại an bình và hoan hỷ như đã mô tả trong chương 7. Trong
trung tâm tịnh độ là Đức Phật Vô Lượng Quang, Ngài nhìn và suy nghĩ về bạn và
tất cả chúng sanh với trí tuệ, lòng bi, và năng lực. Tịnh độ này tràn đầy vô số
các bậc giác ngộ trong nhiều hình tướng, tư thế, và hoạt động khác nhau. Với
sùng mộ hoàn toàn, hãy tỏ lòng tôn kính:
Di-ne nub-kyi chog-rol teng-ki-cha
Nơi xứ sở tôn quý ở hướng Tây,
Sang-gye zhing-kham nam-tag de-wa-chen
Đó là Cõi Tịnh Độ Cực Lạc hoàn toàn thanh tịnh của Đức Phật
Mon-lam phun-tshog yong-trub gyal-we-chog
Thành tựu bởi khát vọng quang vinh của Ngài, và đó là Đức Phật Tối
Thượng
Se-che sam-mi-khyab la chag-tshal-lo
Và những đệ tử của Ngài. Tất cả đều siêu phàm phi thường. Đến Ngài con
đảnh lễ
Rồi với một tấm lòng sùng kính và âm điệu du dương, tụng
niệm hoặc hát những dòng sau đây, và thiền định nhất tâm về ý nghĩa của chúng
nhiều lần:
Chom-den-de od-pag-med la ch’ag-tshal-lo
Con kính lễ Đấng Ban Phước, Đức Vô Lượng Quang!
SUY NGHĨ VỀ NHỮNG PHẨM TÍNH CỦA TỊNH ĐỘ
Yang-yang tren-no zhing-kham de-wa-chen
Con nhớ tưởng Cõi Tịnh Độ Cực Lạc nhiều lần
Nying-ne tren-no dren-pa od-pag-med
Con nhớ tưởng Đức Thế Tôn, Vô Lượng Quang từ tận đáy lòng
con
Tse-chig tren-no gyal-se gya-tshoo-khor
Con nhớ tưởng đại dương các đệ tử chiến thắng với chú tâm
một điểm
Chin-kyee lob-shig kyab-med kyob-pe-tshog
Tập hội, các vị thủ hộ của những người chưa được bảo vệ –
xin ban phước cho chúng con.
BẢY BẬC TÍCH LŨY CÔNG ĐỨC
Thuk-jee dag-nyid gon-po khyed-nam-la
Đấng Bi Mẫn, Thủ Hộ, đến các Ngài
Koo-pe ch’ag-tshal ch’od-trin gya-tshoo-ch’od
Con tôn kính đảnh lễ, con dâng cúng đại dương các đám mây
cúng dường.
Dig-tung kun-shag ge-la jey-yi-rang
Con sám hối mọi khiếm khuyết và hành động xấu. Con hoan hỷ
trên mọi đức hạnh.
Ch’o-khor kor-zhin mya-ngen mi-da-sol
Xin hãy chuyển Pháp Luân, mong các Ngài trụ thế đừng nhập
niết bàn.
PHÁT TRIỂN QUAN ĐIỂM GIÁC NGỘ
Dag-kee kha-nyam dro-we don-led-du
Cho lợi ích của tất cả chúng sanh, vô biên như hư không vô
giới hạn
Yang-dag dzog-pe chang-ch’ub drub-che-ch’ir
Để đạt được trạng thái toàn giác,
Sang-gye zhing-kham yong-su jong-wa-yi
Sự thành tựu hoàn toàn của tịnh độ Phật,
Nam-thar mon-lam gya-tsho dzog-kyur-chig
Với đại dương khao khát và hành động giác ngộ – cầu mong
con được hoàn thiện
HỒI HƯỚNG VÀ KHÁT VỌNG
Dee-tshon ge-we dag-sog yid-chen-kun
Nhờ năng lực công đức, bao gồm điều này, cầu mong tất cả
chúng sanh và con,
Ch’i-ma tag-pe zhing-kham de-wa-chen
Trong cõi kế tiếp, nơi Cõi Tịnh Độ Cực Lạc,
Med-chung ngo-tshar kod-pe rab-dzey-par
Đẹp đẽ với với sắp đặt kỳ lạ phi thường,
Kyey-ne theg-ch’og ga-ton nyong-wa-shog
Thọ tái sanh và hưởng thụ bữa tiệc của Thừa Tối Thượng
[Đại Thừa].
MANTRA VÀ CẦU NGUYỆN HỒNG DANH
Mantra của Đức Phật Vô Lượng Quang
OM [2] *AMI-TABHA HRI
Om! Vô Lượng Quang. Hri!
Ý nghĩa chung của mantra là: “Thân, khẩu, và ý của Đức
Phật, Vô Lượng Quang, xin ban ân phước của Ngài lên chúng con.”
Ý nghĩa từng chữ của mantra trong tiếng Phạn như sau:
OM (a, o, m): Thân, khẩu, và ý của
Đức Phật và ba cửa của chính hành giả. (Hoặc Ô!)
AMI (Vô tận): Tỏa khắp, vô biên
TABHA (Ánh sáng): Ban phước, chiếu sáng, năng lực
HRIH: Chủng tự tâm của Đức Phật Vô Lượng Quang. Bằng việc
niệm HRI, bạn đạt đến hoặc cầu thỉnh tâm-trí tuệ bi mẫn của Đức Phật.
Lập lại mantra này hàng trăm, hàng ngàn, và hàng triệu
lần.
Cầu Nguyện-Hồng Danh Đến Đức Phật Và Chư
Bồ Tát
Khẩn cầu Đức Phật Vô Lượng Quang, (Phạn; Amitabha, Tạng ;
Opagme) bằng tụng niệm cầu nguyện-hồng danh Ngài bằng tiếng Tây Tạng hay Phạn
văn. Lập lại 21 lần, hàng trăm, và hàng ngàn lần.
TIẾNG TÂY TẠNG
Chom-den-de de-zhin-sheg-pa dra-chom-pa yang-dag-par
dzog-pe sang-gye gon-po od-pag-du-med-pa la ch’ag-tshal-lo ch’od-do kyab-su
ch’i-o.
TIẾNG PHẠN
Namo bhagavate tathagataya-arhate samyak-sambuddhaya
natha-amitabhaya pujayami sharanam gacchami.
DỊCH NGHĨA
Đến đấng ban phước, đấng “như lai”, đấng vô giá, viên mãn,
bậc bảo hộ hoàn toàn tỉnh giác, đức Phật Vô Lượng Quang, con kính lễ, cúng
dường, và thọ quy y.
Cầu khẩn Bồ Tát của Lòng Bi (Phạn; Avalokiteshvara, Tạng;
Chenrezig) bằng tụng niệm cầu nguyện-hồng danh Ngài trong tiếng Tây Tạng hoặc
tiếng Phạn. Lập lại bài nguyện bảy hoặc hai mươi mốt lần.
TÂY TẠNG
Chang-ch’ub sem-pa sem-pa ch’en-po nying-je ch’en-po dang
den-pa phag-pa chen-re-zig wang-ch’ug la ch’ag-tshal-lo ch’od-do kyab-su-ch’i-o
PHẠN
Namo bodhisattva-mahasattva-mahakarunika
arya-avalokiteshvaraya pujayami sharanam-gacchami.
DỊCH NGHĨA
Đến đại bồ tát [đại anh hùng], đấng đại bi,
Avalokiteshvara tôn quý, con kính lễ, cúng dường, và thọ quy y.
Cầu khẩn Bồ Tát của Năng Lực (Phạn, Mahasthamaprapta;
Tạng,Thubchenthob) bằng việc tụng niệm cầu nguyện-hồng danh Ngài trong tiếng
Tây Tạng hay tiếng Phạn. Lập lại bài nguyện bảy hoặc hai mươi mốt lần.
TÂY TẠNG
Chang-ch’ub sem-pa sem-pa-ch’en-po phag-pa thu-ch’en-thob
la ch’ag-tshal-lo ch’od-do kyab-su-ch’i-o.
PHẠN
Namo bodhisattva-mahasatvaya arya-mahasthamapraptaya pujayami sharanam
gacchami.
Dịch nghĩa
Đến đại bồ tát, bậc đại năng lực tôn quý, con kính lễ,
cúng dường, và thọ quy y
THỰC HÀNH KẾT THÚC:
HỒI HƯỚNG VÀ CẦU NGUYỆN MONG ƯỚC
Jam pal pa woo chi tar khyen pa tang
Như nhận biết quang vinh của Đức Văn Thù,
Kun tu zang po te yang te zhin te
Cũng như của Đức Phổ Hiền,
Te tag kun kyi jey su dag lob ch’ir
Để chính con rèn luyện bằng cách đi theo các Ngài,
Ge wa di tag tham ched rab tu ngo
Con hồi hướng mọi công đức [cho tất cả bà mẹ-chúng sanh]
Too-sum sheg-pe gyal-wa tham-ched-kyee
Tất cả chư Phật của ba thời
Ngo-wa kang-la chog-tu ngag-pe-tee
Tán thán cao sự hồi hướng [công đức cho người khác]
Dag-ki ge-we tsa-wa di-kun-kyang
Nên mọi hành động đạo đức của con,
Zang-po chod-chir rab-tu ngo-war-gyi
Con hoàn toàn hồi hướng như hành động ưu tiên [cho người
khác]
Dag-ni ch’i-we too-ched kyur-pa-na
Vào [3] *lúc con chết,
Drib-pa tham-ched tag-ni ch’ir-sal-te
Cầu mong mọi nghiệp che ám của con được tẩy trừ
Ngon-sum nang-wa tha-ye te-thong-ne
Cầu mong con thấy Đức Phật Vô Lượng Quang, mặt đối mặt
De-wa chen-kyi zhing-ter rab-tu-dro
Và cầu mong con đi đến Cõi Tịnh Độ Cực Lạc
Ter-song ne-ni mon-lam di-tag-kyang
Đã đến đó, mọi khao khát [của hành động tối ưu]
Tham-ched ma-loo ngon-du gyur-war-shog
Cầu mong con nhận biết tất cả.
Te-tag ma-loo dag-kee yong-su-kang
Bằng cách hoàn toàn đáp ứng mọi [khao khát] không ngoại lệ
Jig-ten chi-srid sem-chen phen-par-gyi
Chừng nào còn vũ trụ, cầu mong con phục vụ tất cả chúng
sanh.
Gyal-we kyil-khor zang-zhing ga-wa-ter
Trong tập hội xuất sắc và hỷ lạc của Đấng Chiến Thắng
Ped-mo tam-pa shin-tu dzey-le-kyee
Cầu mong con được sinh vào một hoa linh thiêng tinh tế
nhất
Nang-wa tha-ye gyal-we ngon-sum-tu
Của Đức Phật Vô Lượng Quang, trong thân người,
Lung-ten pa-yang dag-kee ter-thob-shog
Cầu mong con được tiên tri [được giác ngộ].
Ter-ni dag-kee lung-ten rab-thob-ne
Hoàn toàn nhận được lời tiên đoán
Trul-ba mang-po che-wa thrag-gya-yee
Với hàng trăm triệu biểu hiện của con
Lo-yi tob-kyee chog-chu nam-su-yang
Và với năng lực trí tuệ trong mười phương của con
Sem-chen nam-la phen-pa mang-po gyi
Cầu mong con cung cấp vô số lợi ích cho chúng sanh.
Sang-gye ku-sum nyee-pe ch’in-lab-tang
Nhờ ban phước của ba thân Phật
Ch’o-nyid mi-gyur den-pe ch’in-lab-tang
Nhờ ban phước của Giáo Pháp tối thượng, chân lý bất biến
Ge-dun mi-ch’ed doo-pe ch’in-lab-kyee
Nhờ ban phước của Tăng Đoàn, tập hội bất khả phân,
Chi-tar ngo-wa mon-lam drup-pa-shog
Cầu mong tất cả hồi hướng và khao khát này được thành tựu
như con đã dự định.
Giảng nghĩa lợi ích của việc nhớ tưởng và lập lại danh
hiệu Đức Phật Vô Lượng Quang, Phật Thích Ca Mâu Ni nói:
Này Xá Lợi Phất, nếu thiện nam, tín nữ nào nghe
được danh hiệu của Đức Phật Vô Lượng Quang, gìn giữ trong tâm không loạn trong
một ngày, hai ngày, ba ngày, bốn ngày, năm ngày, sáu ngày, hoặc bảy ngày – thì
khi người đó chết, họ cũng trì thủ như vậy tâm không rối loạn. Đức Phật Vô
Lượng Quang cùng với thánh chúng đệ tử và tập hội bồ tát sẽ xuất hiện trước họ.
Người này sẽ thọ tái sanh vào Cõi Tịnh Độ Cực Lạc của đấng ban phước, đấng như
lai, Đức Phật Vô Lượng Quang.