Tri nhận (Cognition) có ý nghĩa “Quá trình của sự hiểu
biết” (knowing), là một vấn đề hoạt động tâm trí, sử dụng ngôn ngữ, tưởng tượng
và phát sinh quan niệm (hoàn cảnh kích thích và đối với kích thích của phản ứng
đã có). Loại “quá trình hiểu biết” nầy là một cái gì không thể trông thấy,
chúng ta không thể thấy được những cái được mệnh danh là tư khảo, suy lý hoặc
ký ức, nhưng, chúng ta có thể quan sát và nghiên cứu hành vi do những hoạt động
nầy sanh ra. Đức Phật dạy rằng, quá trình tri nhận của chúng ta là thực tại của
quá trình cảm quan (reality of the sensory process), tri nhận của chúng ta cũng
cùng với thành phần quan niệm và tưởng tượng của phi cảm quan (non-sensory) kết
hợp tại một chỗ. Chỉ thú của tri thức tâm lý học của đức Phật và khoa học tánh
của tâm lý học hiện đại đã có sự giống nhau.
TRÍ THỨC AO HƠN
Đức Phật đã thử qua
các loại phương pháp như khổ hạnh (penance), tự ngã khổ tu
(self-mortification). Cấm giới (aroidance) và ẩn độn (seclusion) v.v… phát
triển tự ngã. Loại phát triển về năng lực cao nầy, đã không phải là một loại
thần bí mà chính là sự phát triển tự nhiên của một loại tiềm năng nào đó của
một con người, nó không phải là sự xuất hiện đột nhiên của một lực lượng thần
bí nào đó mà là sự phát triển một cách dần dần. Loại phương thức phát triển
tiệm tiến nầy liên quan đến 3 giai đoạn: Tháo thủ đạo đức, công phu nhận định
(samadhi or concentration) và sự bồi dưỡng của trí huệ. Loại đầu nhập nầy cần
phải trải qua thời gian suốt đời thí nghiệm, đức Phật cuối cùng đã đạt đến sự phá
trừ vô minh và những buộc ràng của phiền não.
Bất cứ ai tham cứu,
tìm hiểu về tâm lý học tri nhận của Phật giáo thì đều không thể thờ ơ đối với
những phạm vi tâm lý tri giác cao độ nầy.
TRI NHẬN VÀ ĐỘNG CƠ
Tâm lý học tri nhận không thể tách rời động cơ nghiên cứu.
Đức Phật sở dĩ phân tích động cơ của tâm lý nhân loại là vì muốn chỉ bày nguyên
nhân thống khổ của nhân sinh, và tầm cầu phương pháp để làm giảm khinh sự thống
khổ ấy, điều đó cũng chính là yêu cầu chúng ta cần phải có một năng lực tri
nhận bén nhạy và tự cải thiện chúng ta. Dục vọng của nhân loại ảnh hưởng năng
lực tri nhận, nhưng tri nhận cũng có tác dụng đối với dục vọng.
Đức Phật không chủ
trương cắt đức dục cầu của cảm quan mà là chủ trương huấn luyện dục cầu của
những cảm quan nầy để khiến cho những kích thích ngoại tại không thể nhiễu loạn
nội tâm. Đức Phật đã không tìm cách nén ép, co rút cảm quan mà chỉ muốn làm cho
cảm quan phát triển, cải thiện và tịnh hóa.
TRI NHẬN VÀ TRỊ LIỆU
Đức Phật dạy rằng có hai loại phương pháp có thể đạt đến
sự phát triển trên phương diện tinh thần: Ninh Tịnh (Tranquillity), sự tĩnh
lặng an bình; và Đổng Kiến (Insight), sự nhìn thấy xuyên suốt bên trong sự vật.
Nhưng, cũng có 5 loại nhân tố có thể nhiễu loạn sự phát triển của sự ninh tịnh
trừ phi dùng công phu thiền định thì mới có thể khắc phục những nhiễu loạn nầy.
Năm loại nhân tố nầy là dục cầu, ý chí xấu, lười biếng và chậm lụt, không trầm
trước và lo lắng, hoài nghi. Đức Phật cũng đã chỉ dạy 7 loại nhân tố của Khai ngộ
để có thể bồi dưỡng trí thức và đổng kiến của chúng ta, đó là: chánh tư duy,
truy cầu Phật Pháp, tinh thần, hỷ lạc, ninh tịnh, thiền định và trấn định (bình
tĩnh).
Sử dụng năng lực
tri nhận của nhân loại để tịnh hoá tri giác và tư khảo của chúng ta thì sẽ hiện
ra một khuôn thiết kế của cấu tưởng trị liệu tâm lý học. Vì thế, Đức Phật dạy:
Đối với tâm lý học thì sự tri nhận trên phương diện thể hệ trị liệu cần phải
đặt ở vị trí trung tâm.
ĐỘNG CƠ (MOTIVATION)
Động cơ là một nguồn năng lực (source of energy) có trong
cơ thể, nguồn năng lực nầy có thể sanh ra hành động, khiến nó đạt thành một loại
khuynh hướng của mục tiêu nào đó. Động cơ có thể chia thành hai phần đó là sinh
lý và tâm lý. Trên phương diện sinh lý thì nó giống như những động cơ thực sắc
và tử vong v.v… Trên phương diện tâm lý thì nó như là một giá trị quan thuộc về
tín ngưỡng (tôn giáo) v.v…
Động cơ của tâm lý
học Phật giáo chủ yếu là sự phân tích những phương diện dẫn đến sự bất an, khẩn
trương, căng thẳng, nóng nảy, lo lắng, bồn chồn và cảm thọ đau khổ v.v… của
nhân loại nhằm đề ra pháp môn bất nhị để hướng dẫn muôn loài đạt đến con đường
hạnh phúc, vì thế, động cơ nghiên cứu tâm lý học Phật giáo ba hàm sắc thái trị
liệu. Đứng trên quan niệm của tây phương ngày nay để nhận xét thì chữ trị liệu
nầy thông thường được dùng để chỉ cho sự chữa trị những người có tật bệnh tâm
lý; Nhưng nếu lấy tâm lý học Phật giáo để nói, thì nó được dùng để chỉ cho sự
giải trừ tất cả sự xung đột trên mặt tâm lý và sự bất an của nội tại. Kinh điển
Phật giáo đã đề cập rất nhiều đến phương diện động cơ của tâm lý học.
TÌNH TỰ (EMOTION)
Ý của tình tự tức là sự kích động (Arousal), cảm giác (feelings)
hoặc trạng thái tình cảm (affective states) mà cũng chính là do sự chuyển biến
của phương diện sinh lý nên sanh ra phản ứng hành vi. Tình tự quen thuộc nhất
là những tình tự yêu, hận, bi thương, và sung sướng, khoái lạc. Đứng trên mặt
nội tỉnh để nói thì tình tự là trạng thái ý thức chủ quan; khác quan mà nói,
tình tự là một loại biểu hiện hành vi. Trên phương diện tâm lý học để nói thì
tình tự là một loại trạng thái không thăng bằng và kích động, nhưng không thể
xem tình tự hoàn toàn như là vô lý tánh. Chúng ta có thể tìm được sự kiện toàn
của tình tự luân lý như thương ái, tôn kính, chánh nghĩa cảm, quan tâm chân lý
v.v… là những tình tự tự ngã siêu việt (self-transcending emotion), những tình
tự nầy đều thuộc những tình tự tốt. Trong giáo lý Phật giáo có một số tình tự
có thể được gọi là tinh thần cao quí, đồng tình và từ bi, nói một cách chính
xác hơn, không tham lam, không sân hận, không si mê của tâm lý học Phật giáo
được cho là nguồn tình tự kiện toàn, tích cực và sáng tạo tánh. Dưới đây chúng
ta phân chia một số tình tự đặc biệt như sau:
Sợ sệt (Fear)
Sợ sệt thông thường là chỉ cho sự phản ứng đã gây ra đối
với sự vật có mục đích nguy hiểm nào đó.
Dục cầu quá mạnh và sự chấp trước đều có thể tạo nên sự sợ
sệt. Bởi vì khi chúng ta quyến luyến không thể xả bỏ đối với một số vật quí báu
và có giá trị thì chúng ta sẽ sản sanh một loại tác dụng cố chấp, lo lắng và sợ
sệt bị mất nó ví như mình yêu thương quá đỗi một người nào đó đến khi người ấy bị
lâm bệnh trầm trọng thì tâm lý thương yêu sẽ chuyển thành sợ sệt lo âu. Cũng
giống như thế, chấp trước vào tự ngã, danh vọng, quyền lực v. v… đều sẽ sinh ra
tâm trạng sợ sệt hay tâm lý khủng hoảng.
Mặc cảm tội ác (sense of guilt), khiển trách tự ngã
(self-reproach), sợ sệt bị trừng phạt (fear of punishment) và sợ hãi bị đọa
xuống địa ngục (fear of lower world) v. v… kinh nghiệm tôn giáo đều sanh ra sợ
sệt.
Sợ sệt có lúc cùng với ghét hận (thậm chí tự hận) và tình
tự bất mãn kết hợp và những lúc như thế thì liền sanh ra “cảm giác phạm tội
trên bệnh lý” (pathological guilt) hoặc cảm thức bất an gọi là “ray rứt lương
tâm” (uneasiness of conscience).
Đức Phật dạy rằng những ai chưa giác tỉnh thì đều có tự
ngã trung tâm chủ nghĩa, dục vọng, địch ý và khuynh hướng chấp trước. Đức Phật
chủ trương muốn giải trừ tận gốc những đặc chất này thì không cần thiết phải khiển
trách tội lỗi quá khứ, bởi vì nếu tự mình khiển trách thì đối với sự phát triển
tâm lý có rất nhiều phương hại. Đức Phật cũng đã đề xướng là cần tịnh hóa tình
tự để đạt được tâm lý thăng bằng và lành mạnh.
Bất an (Anxiety)
Bất an là một loại lấy vật không có mục đích làm đối tượng
sợ sệt. Đức Phật dạy rằng nguồn cội sâu xa của loại sợ sệt nầy đã được tạo ra
bởi sự chấp trước tự ngã. Chuyên gia Phật học Edward Conge gọi nó là “sự ẩn
tàng của thống khổ” (concealed suffering). Đức Phật đã khám phá ra loại “con
người bất an” nầy (anxious man) lý do là bởi họ không có năng lực để nắm vững
chân lý cơ bản “Vô ngã” (Egolessness), cho nên mới dẫn đến sự bất an; chỉ cần
liễu giải được “Vô ngã” thì có thể nắm vững được chìa khóa của sự bất an đối
với đủ loại hình thức.
Khống chế và biểu hiện của sự sợ sệt
Huấn luyện tình tự
có thể trình bày trên ba phương diện: (1) Phát triển tập quán sát tự ngã đối
với trạng thái tình tự của chính mình; (2) Khi tình tự hưng khởi phải tìm cách
khống chế sự xuất hiện của tình tự; (3) Phát triển một quan niệm giá trị mới
làm cho sự sợ sệt vốn có hoặc phản ứng của sự phẫn nộ không thể tái phát. Như
thế, trải qua sự hiểu biết về tự ngã, không ngừng phân tích tự ngã và phản cầu
những công phu của chính mình, cuối cùng có thể đạt đến hiệu quả đúng như sự dự
kỳ (thời kỳ dự trù).
Thù hận
Thù hận cũng là một loại biểu hiện của tình tự, có các
loại phương thức biểu đạt chẳng hạn như tư tưởng (như là ý nghĩ mong cho những
người mà mình không ưa thích chết đi), lời lẽ thô lỗ và những hành vi công kích
v. v… Trên sự thật, đức Phật đã luôn nhấn mạnh và phản đối sự thù hận, thậm chí
bao gồm cả những “cuộc chiến chánh nghĩa” (just war) hoặc những “phẫn nộ chánh
đáng” (righteous indignation) đối với cá nhân (và đối với xã hội). Đức Phật đã
đề xuất sự chuyển biến nội tại (cầu phát triển tâm linh nội tại) có thể thuần
phục tâm thù hận để tiến thêm bước nữa, đó là, dùng sự hiểu biết, nội tỉnh và
tư tưởng để chế ngự tình tự thù hận, như vậy thì có thể tịnh hóa tự ngã mà đồng
thời cũng có thể làm cho xã hội phát triển một cách hài hòa.
Đau khổ và bi thương
Trên cơ bản, đau khổ và bi thương là tình tự phản ứng đối
với “biệt ly”, ngoài ra như “mất mát” cũng sẽ đưa đến đau khổ và bi thương. Bởi
vì đối với người chí thân, chúng ta đều xem họ như là một bộ phận của chính
mình, một khi họ mất đi, ta sẽ sanh ra tình tự đau khổ và bi thương, Sigmund
Freud gọi nó là “Bi thương và cưu mang” (lo lắng, ray rứt, thắc mắc trong lòng)
“Mourning an Melancholoy”. Với Phật giáo thì đối với sự kiện của mục đích nào
đó làm sản sanh sự tập trung tinh thần (cathexis) của tình tự mãnh liệt cũng
chính là lúc chấp trước và, một khi mất đi đối tượng mục tiêu thì sẽ hiện ra
trạng thái trống vắng hoang vu, khổn nhiễm tâm lý, tình tự tội ác cảm, bơ phờ,
tự thương hại và tô một lớp âm ảnh màu xám lên các loại tình cảm bi thương.
Đối với bi kích bi
thương và đau khổ nầy, “Tứ Diệu đế” và “Bát Chánh đạo” trong trong giáo nghĩa
Phật giáo có khả năng làm phương thuốc trị liệu hữu hiệu. Thái độ của Phật giáo
là yêu cầu nhân loại hiểu rõ về chân thật cảm của sự tướng để thay thế cho tình
tự bi thống quá độ.
Ái và từ bi
Ái (Love), trên danh tự bằng Anh ngữ đã không mấy rõ ràng
và rất mơ hồ, trong văn tự Hy Lạp nếu dùng tiếp đầu ngữ “eros” là biểu thị cho
ái dục trên cảm quan, và nếu dùng “agape” thì lại biểu thị về ái đối với phương
diện tâm linh.
Sự truy cầu của Phật giáo là một loại giá cấu luân lý
(ethical framework) và sự hy cầu của lãnh vực tinh thần, vì thế trên phương
diện luân lý Phật giáo đối với quan hệ nhân loại thì không phù hợp với ái dục
của đạo đức, không phù hợp với dục cầu tiết chế và trụy lạc của đạo đức cảm, vì
những thứ ấy đều bị cho là tà ác, bởi lẽ những thứ nầy đủ để gây nên những đọa
lạc của xã hội, nhưng, chỉ có sự hiếu thuận và kiền thành đối với tôn giáo mới
khả dĩ hình thành một cách cơ bản một xã hội lành mạnh. Người xuất gia đối với vấn
đề ái dục cần phải dẹp trừ, vì lẽ ái dục có thể đưa dẫn đến sự bất an và đau
khổ đồng thời làm phương hại đến tinh thần hy cầu. Cái mà Phật giáo muốn truy
cầu đó là một loại tình tự của sáng tạo tánh và tình tự của phản ứng đồng tình
tự nhiên để quan tâm đến chúng sanh.
TÂM LÝ HỌC KHÁT CẦU (PSYCHOLOGY OF CRAVING)
Đối với phương diện tâm lý học tình tự thì gồm có 3 loại
hình thức khát cầu, đó là khát cầu thỏa mãn cảm quan, khát cầu bảo tồn tự ngã
(self-preservation) và khát cầu hủy diệt và công kích. Ba loại khát cầu nầy đối
với bản năng xung động (libido), tự ngã bản năng (ego instinct), và bản năng tử
vong của Sigmund Freud đã có sự thống nhất. Xin được chia thành như sau:
Dục tánh (Sexuality)
Thường, Phật giáo chỉ dùng cảm quan (như mắt, tai, mũi,
lưỡi, thân) và bao quát hơn so với tâm lý học Tây phương (Phật giáo đề cập đến
ngũ quan, nhưng tâm lý học Tây phương thì chỉ thiên nặng về mặt dục tánh, nhất
là Phiến tánh luận của Sigmund Freud).
Đối với vấn đề truy cầu nguyên tắc khoái lạc (hedonism)
của cảm quan, Phật giáo đã đưa ra hai phương pháp nhận thức: (1) Truy cầu cảm
quan khoái lạc sẽ mang lại sự bất hạnh; (2) Thủ đoạn truy cầu cảm quan khoái
lạc (hợp pháp và không hợp pháp), nếu hợp pháp thì cần phải suy tính đến việc không
thể thái quá, đồng thời không phá hoại nguyên tắc khoái lạc làm điều kiện.
Phật giáo cũng cho rằng sự truy cầu khoái lạc của cảm quan
chỉ ở bên dưới của sự tuần hoàn ác tánh của “nhu yếu, khẩn trương và thỏa mãn”
(want tension and satisfaction) xuyên qua sự truy cầu của đau khổ mà thôi; vì
thế, Phật giáo chủ trương dùng bát chánh đạo để chế ngự sự truy cầu của cảm
quan khoái lạc.
Bảo tồn sự tự ngã
Đây là một loại thành kiến sai lầm của sự ngã trung tâm
chủ nghĩa, hoàn toàn đặt nơi giả định sai lầm (tín ngưỡng) tức tự ngã thực tại
vĩnh tồn (ego-entity). Nhân cách kết cấu của nó là nhắm vào ba loại: Khát cầu,
vọng tưởng và giả tưởng như sau:
Khát cầu – Đây là của ta.
Vọng tưởng – Đây là ta.
Giả tưởng – Đây chính là tự ngã.
Nhưng, Phật giáo cũng biểu thị một cách rõ ràng, nhu yếu
của cơ bản duy sanh như không khí trong lành, nước, thức ăn, ngủ nghĩ v. v…
chẳng hạn, đều được xem như là một loại biểu hiện của sự khát cầu.
Tự ngã hủy diệt và công kích
Đối với phương pháp quan sát về tự ngã hủy diệt và công
kích, Sigmund Freud cho rằng nó là một loại bản năng xung động; nhưng, Đức Phật
thì lại dạy rằng nó là một loại hành vi phản ứng tánh. Khi một loại tình tự thù
hận (đối với người hoặc vật) ở thế giới ngoại tại không được phát tiết thì nó
lại hướng ngược về mình, vì thế nên sản sanh sự thọ hình tự ngã (khổ hình) và
tự sát. Đức Phật đã quở trách sự phát sanh của 3 loại hình thức khát cầu trên
đây và cho rằng vì do không hiểu rõ đạo lý khổ đau của nhân sinh nên tạo thành;
đồng thời, đối với vấn đề thống khổ của nhân sinh vì thiếu công phu nội tỉnh
nên tùy tiện tòng phục vào sự mê hoặc tự ngã và, kết quả là đưa dẫn đến những
bi kịch.
TIỀM Ý THỨC ĐỘNG CƠ (UNCONSCIOUS MOTIVATION)
Tiềm ý thức động cơ là nói về sự thúc đẩy khiến cho con
người tạo ra một thứ động tác nào đó nhưng lại không giác sát được động cơ chân
chính (real motive) sở tại. Thông thường tiềm ý thức bị ký ức và tình tự áp
bức, nhưng có thể là từ trong giấc mộng, thất ngôn, ảo giác, và trong những
chứng trạng tâm lý thất thường để thuyết minh sự tồn tại của động cơ tiềm ý
thức.
Quan niệm về tiềm ý thức của tâm lý học Tây phương được
sáng tạo bởi Sigmund Freud, và người học trò của ông là Carl Jung lại khai sáng
ra thuyết “Tập thể tiềm ý thức” (Collective unconsciousness), Carl Jung cho
rằng tiềm ý thức có cá thể. Tiềm ý thức (personal unconsciousness) tức là một
số tâm lý cá thể nào đó bị áp chế hoặc bị sự bỏ quên; ngoài ra, còn có loại
khác tức là tập thể tiềm ý thức, đó là chỉ cho tâm lý con người ngay khi vừa
chào đời vốn đã sẳn có một loại trạng thái tâm lý phức tạp, Carl Jung gọi đó là
“nguyên hình” (archetypes), nó là quan niệm văn hóa được truyền thừa từ đời này
qua đời khác bởi tổ tiên của chúng ta, những kinh nghiệm đều được bảo lưu trong
tiềm ý thức cá thể của chúng ta; một cách rõ ràng hơn, theo sự giải thích của
Carl Jung thì nhân cách được cấu thành bởi 3 loại thành phần: Tự ngã, cá thể
tiềm ý thức và tập thể tiềm ý thức. Tập thể tiềm ý thức là nguyên hình của bề
sâu. Căn cứ theo thuyết của Carl Jung thì tập thể tiềm ý thức vốn có sẳn tố
chất di truyền, làm cho cá thể và người của đời trước trên phương diện tri nhận
về thế giới, có cách nhìn tương đối giống nhau.
Như nhân loại ở vào thời kỳ rất sớm đã lo sợ sự hắc ám, vì
đen tối sẽ mang đến nguy hiểm; ngày nay, loại nguy hiểm này mặc dù đã biến
thành quá khứ, nhưng nhân loại vẫn còn sợ hãi sự đen tối. Khái niệm tánh phổ
biến hãi sợ của tập thể tiềm ý thức hoặc ánh tượng được gọi là nguyên hình.
Nguyên hình là kinh nghiệm của tình tự đã đến từ bộ óc của sự truyền thừa tiến
hóa. Như nguyên hình của người mẹ hiền từ xưa đến nay vẫn là biểu thị cho sự ấm
áp, bảo bọc, dưỡng dục, mà cũng còn là sự tượng trưng cho ái mẫu; nguyên hình
người cha là lực lượng, quyền oai và tượng trưng cho quyền lực. Những nguyên
hình khác như ánh tượng nữ tính (anima), ánh tượng nam tính (animas), tự ngã
(self), anh hùng, thần, sanh, tử v. v… cũng đều như thế cả. Thứ quan niệm nầy
hơi giống với quan niệm A Lại Da thức hoặc chủng tử thức của Phật giáo
(storehouse consciousness).
Dòng ý thức của Phật giáo (Stream of
consciousness) cũng liên quan với tiềm ý thức động cơ. Phật giáo dạy chúng ta
rằng nếu có khả năng tu tập kỹ thuật thiền định thì có thể sử dụng lớp trong
của tiềm ý thức đen tối để tạo ra thành sự phát triển nhân cách một cách kiện
toàn.