Rollo May thảo luận đến “vấn đề khu vực” (problem areas)
khi biến đổi một cách trọng đại trên phương diện Bệnh Lý Học tâm lý, ông đã
giác sát đến 20 thế kỷ của thời kỳ đầu tiên, sự chú trọng đến vấn đề khó khăn
của con người ngay trên phương diện bản năng, nhất là vấn đề phương diện tánh
đã chiếm cứ toàn thể tâm tư của Sigmund Freud. Otto Rank và Alfred Alder thì
biến đổi hứng thú đối với sự chuyên môn nghiên cứu vấn đề tự ti cảm, tội cảm và
vấn đề không thích đáng trên mặt tinh thần. Chủ đề của nữ tướng của tân phái
Sigmund Freud, bà Karen Horney, thì lại đặt trên sự xung đột cá thể và đoàn
thể. Điểm nóng bỏng chủ yếu trong đời sống hiện nay thì lại đặt trên vấn đề bất
an, cô đơn quạnh quẽ (loneliness) và trống rỗng hoang vu (emptiness).
Rollo May đã từng bảo: “Vấn đề của hiện tại không nằm ở
chỗ xã hội cấm kỵ về hoạt động tánh hoặc là tội cảm của bản thân tánh mà trên
thực tế nếu đối với rất nhiều người để nói thì tánh là kinh nghiệm, cơ giới
thức là trống không và vô mục đích. Ông ta còn nêu rõ ràng loại “nội tâm trống
vắng” nầy không nên chỉ giới hạn ở phòng chẩn đoán của bác sĩ tâm lý trị liệu
mà nên sưu tập thêm nhiều tư liệu xã hội học để chứng thực một cách rộng rãi sự
tồn tại của hiện tượng nầy.
Bệnh lý xã hội ngày nay như đã được đề ra với kiện tướng
tân học phái Sigmund Freud là Erik Erikson đó là nguy cơ đồng nhất, đồng dạng
(identity crisis) tức trong 8 giai đoạn (từ nhỏ đến già) của sự phát triển nhân
cách, cá thể cần phải đạt thành đồng nhất cảm một cách chánh diện (như tự ngã
xác nhận, thành tựu kỳ vọng, tánh đồng nhất v.v…), nếu không nhiễu loạn vai trò
của cá thể, thì cũng sản sanh ra sự xa lìa, cách biệt (bệnh tinh thần)
(alienation). Cái gọi là sơ ly (mối bất đồng, sự xa lánh) chính là lúc không
thể nào giải quyết được nguy cơ đồng nhất, nên bèn sanh ra sự không tín nhiệm
người khác, vô năng cảm v.v… do vậy lại càng cho rằng thế giới chung quanh là
hiện tượng lạnh buốt như băng và đây chính là điểm đặc sắc của sơ ly (sự xa lánh).
Học thuyết Erik Erikson đã không chỉ là tâm lý học mà còn có thêm xã hội học,
quan điểm và sắc thái của nhân loại học…
CÁ THỂ CỦA VÔ BIỂU TÌNH TRONG THẾ GIỚI BIẾN THIÊN
Trong xã hội hiện đại và dưới thể chế kinh tế, vi phản
nhân tánh là một sự kiện rất rõ ràng: cơ giới hóa và phân công lao lực đã khiến
cho công nhân trở thành nô lệ một cách máy móc, công tác biến thành đon điệu,
phiền chán và không có mảy may ý nghĩa nào. Sự hứng khởi to lớn của công xưởng
được vận tác dưới thể chế quan liêu, công tác tập quán của cơ giới thức đã làm
cho công nhân cảm nghiệm một cách sâu sắc về tâm bất xứng đối với công việc của
chính mình. Thêm vào đó sau khi bị đô thị hóa, sinh hoạt của đô thị bị rơi vào
tình trạng khẩn trương, thiếu an lạc, lưu động dời đổi luôn luôn đã khiến cho
con người hình thành cảm giác vô căn và vô năng.
Thiếu mục tiêu nội tại để chỉ đạo sinh mạng cá thể đã
khiến cho cách điệu sinh mạng của sự không chân thật dẫm nát tâm linh. Thường
xuyên cự tuyệt nhận thức của chính mình, khiến sự trưởng thành của tự ngà nhận
(self-knowledge) bị cản trở. Thiếu tự ngã nhận thức và tự ngã hướng đạo
(self-direction) là đặc sắc của con người hiện đại của chúng ta. Tình thế nầy,
không những chỉ sáng tạo ra một loại nhân cách lẻ nát và thương tàn, mà còn khiến
cho chúng ta và người khác trong vấn đề kiến lập sự quan hệ ấm áp sẽ biến thành
ảnh bọt (bèo bọt và hình bóng), vì thế khiến cho con người biến thành một loại
người bệnh thái của đạo hình (other-oriented). Do sự cạn cùng trống vắng của
nội tại và vì để trốn tránh một nội tại trống hoang nên đã khiến cho con người
hướng theo người khác và có ý đồ tìm đến những nơi cần viện trợ, nhưng, kết quả
là cả hai bên đều trống rỗng, đây chính là đô thị bệnh thái (sick cities) của
tâm cảnh nhân loại.
Cá thể, xã hội và không gian tâm lý mà xã hội đã sáng tạo
là một loại bệnh thái xã hội, cho nên tâm bệnh lý học (vốn là để chữa trị những
người có hành vi đặc thù thất thường) hiện tại cần phải mở rộng cơ sở và cải
biến mục tiêu trị liệu.
NGUY CƠ ĐỒNG NHẬN DƯỚI SỰ PHÂN TÍCH TÂM LÝ HỌC PHẬT GIÁO
Phật giáo đề ra hai phương diện để nhận xét:
Gia tăng trùng kiến “người chân chính” (authentic person),
vì con người xã hội hiện đại thiếu tự ngã nhận thức và tự ngã hướng đạo. Do vậy
chủ trương làm cho con người có được sự thâm tỉnh của Phật giáo có thể ứng hợp
với nhu cầu của con người hiện đại, hơn nữa, chủ trương nầy của Phật giáo có
thể phối hợp lẫn nhau với Tâm lý học nhân tính và Tâm lý học tồn tại.
Ứng dụng của tâm lý học Phật giáo, tức là dùng quan điểm
vô ngã để đối phó với nguy cơ đồng nhận, dùng vô ngã để phá trừ tự ngã lân ái
(self-love), tự ngã ghét hận (self-hatred), tự ngã trừng phạt (self-punishment)
và tự ngã chấp trước (ego-attachment) v.v…
TỰ LUYẾN (NARCISSISM)
Căn cứ theo Orrine Klapp thì sau khi kiểm nghiệm có sự
liên quan đến chứng trạng cộng đồng của vấn đề đồng nhận đã chỉ rõ: Tự ngã quan
tâm quá đáng với tự luyến là khởi nhân của vấn đề nhận đồng. Tự luyến phát
nguồn ở câu chuyện của một nhân vật thần thoại Hy Lạp là Narcissus đã ôm bóng
hình của sự tiếc thương và gieo mình xuống nước. Sigmund Freud lợi dụng câu
chuyện nầy để giải thích về tâm lý bệnh hoạn đối với sự chấp trước bệnh lý bản
thân. Người tự luyến không những đối với thân thể mình cảm thấy kiêu ngạo, mà
còn phát triển ý đồ cố chấp ở địa vị xã hội, tài sản, phong thượng, khái niệm
và ý thức hình thái. Đức Phật từng dạy tôn giả A Nan (Ananda) rằng: “Do bởi
thân thể nên dẫn lên giả tưởng ngã và cảm giác, tri giác, hoạt động và ý thức
khác, đây là do ở giả tưởng hữu ngã mà suy diễn ra”.
Ngoài ra, tự hận (self-hatred) là phản ứng được tạo tác bởi tiêu trầm và ưu uất
đối với tự luyến, là mặt phủ định của tự luyến. Tự hận cũng có thể nói là “Đồng
nhận tuyệt vọng” (Identity despair), thông thường xảy ra ở thời kỳ cuối cùng
của sinh mạng. Đồng nhận tuyệt vọng có thể đưa đến việc tự sát, rất nhiều người
cũng đã trải qua một loại liều lĩnh tuyệt vọng một cách lặng lẽ (quiet
desperation).
CÔ ĐƠN, CÔ TỊCH (LONELINESS)
David Riesman trong sách “Quần chúng Cô Đơn” (Lonely
Crowd) đã đề cập đến tình trạng nhân loại bị cưỡng bách xã giao tánh
(compulsive gregrariousness) như tham gia câu lạc bộ và những tình hình cuồng
nhiệt để bù vào những hoạt động trong lúc hư nhàn. Chúng ta có thể phát hiện
được hiện tượng quái gỡ của nhân loại đó là sự trốn chạy tự ngã và ý đồ gia
nhập đoàn thể có hành vi hành liệt. Rollo May cho rằng loại bệnh lý nầy là hành
vi ngoại đạo hình (other-oriented), là hành vi được tạo tác bởi sự hãi sợ đối
với sự cô đơn của nhân loại.
Căn cứ theo sự phân tích của Phật giáo thì có sự khu biệt
giữa “cô tịch” (being lonely) và “đơn độc” hoặc “cô độc” (being alone) đã không
có năng lực đi qua kinh nghiệm cô độc và không thích nghỉ ngơi một mình là do e
sợ sự đơn độc. Bản thân cô tịch gồm có những phương diện như: cô lập dưới sự chế
ước của văn hóa, nỗi cô tịch vì mất sự tôn trọng của người khác, trạng thái cô
đơn dưới sự ép buộc của bệnh tật v.v… Tình trạng trốn tránh tự ngã là hình thức
cô tịch đối với sự so sánh thông thường.
Phật giáo cho rằng kinh nghiệm cô độc là sự tầm cầu phương
thức nội tỉnh tôn giáo một cách sâu sắc, loại kinh nghiệm nầy có sự khác biệt
với nhu cầu cô độc nên thân cận với sơn thủy tự nhiên. Người xuất gia độn ẩn,
người tại gia thiền định thực tiễn và phân tích tự ngã, hưởng thụ một thứ diệu
lạc độc xứ đó là điểm Phật giáo tán thán, bởi vì sinh hoạt thiền định có thể
giúp làm phong phú thêm đối với sự quan hệ xã hội giữa người và người và đồng
thời cũng để con người càng có được thâm kiến và phát hiện được ý nghĩa của
sanh mạng càng có thể phát huy được tác dụng tinh thần thì có thể xa lìa được
sư cô liêu và phiền chán.
Phật giáo lại đề ra một loại kiến giải khác: Trên xã hội,
cần kiến lập sự quan hệ nhân tế thành thục về sự tôn kính lẫn nhau và quan tâm
đến người khác. Nhưng, quan hệ của loại nhân tế nầy và sự chung sống lẫn nhau
và nương tựa vào nhau để hoạt động của bệnh thái ngoại đạo hình đã có sự khu
biệt.
CẢM TÍNH VÀ PHIỀN CHÁN (SENSUALITY AND BOREDOM)
Sự truy cầu khoái lạc cảm quan và sự truy lạc bại hoại
nhân tánh của tính sinh hoạt đều có thể khiến cho nguy cơ đồng nhận thăng tiến;
nhưng, phát triển một loại cách điệu sinh hoạt Phật giáo (Buddhist life-style)
mới là nhiệm vụ chính yếu đối với hiện tại.
Theo đuổi sự biến thiên nhanh chóng, không ngừng tầm cầu
sự biến hóa, và sau đó thì phiền chán, ảo diệt, có thể tìm thấy trong sách
“Hoặc Đây Hoặc Đó” (Either Or) tác phẩm của Soren Kiekegard, Don Juan - người
anh hùng của sắc tình lãng mạn trong câu chuyện truyền kỳ của Tây Ban Nha, là
nhân vật đại biểu cho một loại hình khác, ông ta được quy loại là nhân vận
thuộc sắc dục hình (lustful type).
Người thanh niên hiện đại, sau khi đuổi theo những âm
thanh và hình sắc, kế đến là phát hiện rằng sự quan hệ của nhân loại đã và đang
thiếu vắng sự quan tâm chân chính về ái tình và mức độ thân thiết. Nhưng, từ
trong đồng nhận tánh đã thấy được tâm lý học nhân tánh và luân lý học của Phật
giáo rằng là chúng a có thể được thương yêu một cách chân chính, lương thiện và
tôn kính với tâm từ bi sâu xa vô lượng.
Kết quả theo đuổi của Don Juan sẽ sanh ra sự phiền chán,
ưu uất, đau khổ và tuyệt vọng; vì vậy mà bảo rằng lý tưởng của Don Juan không
thể biến thành triết học nhân sinh trường kỳ một cách thống nhất (consistent
pholosophy of life). Phiền chán là một chứng trạng sâu nặng nhất trong vấn đề
đồng nhận ngày nay. Phiền chán gồm có hai loại đó là do mục tiêu đặc thù gây
nên (như hí kịch, sách vở v.v…) và không có mục tiêu nào cả, và đó là sự phiền
chán được dẫn phát từ chính mình. Nếu chúng ta có thể dùng nội tỉnh để nắm vững
cái “rỗng tuếch của vô danh” (nameless emptiness) nhằm tiến vào cửa ngõ trí tuệ
thì có thể khắc phục tất cả một cách triệt để.
TIÊU CỰC VÀ TÍCH CỰC ĐỐI PHÓ VỚI TRỐNG RỖNG
Trống rỗng, phiền chán, cô đơn, cô tịch và ọe mửa nội tại
đã biến thành nghệ thuật và văn học cho đến ngay cả trong bộ phận lãnh vực của
triết học đương kim.
Phật giáo đối với kinh nghiệm của không vô cùng đã thái
dụng lấy hai loại phương pháp, đó là phủ định để đối phó với trống rỗng và
phiền chán. Một loại khác là tích cực dùng Nội Tỉnh Pháp để liễu giải một cách
rốt ráo rằng tính chất của thực tại là hoàn toàn không có bản chất nội tại,
không có kinh nghiệm của tự ngã vĩnh hằng và tâm linh đối với không tánh.
Do sự nghèo nàn của nội tại mà con người hiện đại đã không
có đủ năng lực để biến đổi tánh tiêu cực thành tánh tích cực nhằm tiến tới quán
sát một cách thấu suốt tính chất của thực tại.
Tự ngã và không vô là chủ đề trung tâm của giáo nghĩa Phật giáo, chuyên gia
Phật học Edward Conze đã từng bảo rằng không tánh theo Phạn văn “sùnya” cũng có
ý nghĩa là nở lớn (trướng đại) (svi or swell), tức là nhìn từ ngoại biểu của
một vật và đưa dẫn đến sự trướng đại; nhưng, nội bộ thì lại là Không. Đứng trên
thuật ngữ Phật học để nói thì Ngũ Uẩn thuộc bộ phận ngoại biểu (biểu lộ bên
ngoài) nở lớn nhưng bên trong thì hoàn toàn vô ngã, là Không.
Chỉ khi nào đi sâu vào thực tại mới liễu giải được một
cách trọn vẹn nhân sinh là thống khổ và quan niệm về vô ngã, và, như thế chúng
ta mới có thể vượt qua tâm thức phiền chán tiêu cực và bệnh trống vắng, KHÔNG
VÔ của thời đại một cách rốt ráo.
|