Đứng trên phương diện tâm lý học tây phương để nói thì
nhân cách (personality) là mô thức ổn định hành vi cá thể một cách độc đặc,
đồng thời sử dụng tư tưởng, cảm giác, tri giác làm cơ sở để thích ứng với hoàn cảnh.
Khi nhà tâm lý học nghiên cứu về nhân cách thường chú ý đến đặc chất của cá
thể, hình thể của thân thể, thế lực của tiềm ý thức, quá trình tri nhận và các
loại xã hội học tập v. v… vì những nhân tố nầy đều là những nhân tố có thể ảnh
hưởng đến hành vi của nhân loại.
Tâm lý học hoặc tâm lý phân tích học (Psychoanalysis) của
Sigmund Freud cho rằng có ba loại tầng thứ tâm lý, đó là hình thành nhân cách
tức ý thức, tiền ý thức (preconsciousness) và tiềm ý thức. Nội dung của ba tần
thức nầy dựa theo sự kết hợp của ba sinh vật và thế lực hoàn cảnh mà hình thành
ba loại hệ thống tâm lý, tức bản ngã (id), tự ngã (ego) và siêu việt
(superego). Học thuyết của Sigmund Freud chủ trương “Tánh” là hạch tâm của động
cơ nhân loại. Theo Sigmund Freud thì “Tánh” trong xã hội văn minh thường do các
loại áp lực của xã hội và thật khó để có thể được thỏa mãn, bởi vậy mà biến
thành nhân tố chủ yếu làm ảnh hưởng đến nhân cách. Nhân cách tùy thuộc vào sự
phát triển của tánh mà phát triển, vì thế nên có từng giai đoạn phát triển như
khẩu khang kỳ, giang môn kỳ, tánh khí kỳ, tiềm phục kỳ và sanh thực kỳ.
Từ đó về sau, bao nhiêu học thuyết, lý luận về nhân cách
đều phát nguồn từ học thuyết của Sigmund Freud và được tu chỉnh thêm, và được
gọi là “học phái mới Sigmund Freud” (Neo
Freudian School).
Cuối năm 1930 đến đầu năm 1950, có rất nhiều học sinh của Sigmund Freud đã phát
biểu về những kiến giải và lý luận về tâm lý phân tích học. Trong đó học đã sử
dụng phái Phân Tích Tâm Lý Học (như Carl Jung chủ trương) để nhấn mạnh nhân
cách là sự thăng bằng của thế lực ý thức và tiềm ý thức. Phái Cá Nhân Tâm Lý
Học (như chủ trương của Alfred Adler) thì cho là vai trò (role) và sự quan hệ
của xã hội hình thành nhân cách. Học thuyết Tâm Lý Nhân Tánh (Humanistic
theory) tức những vị như Carl Rogers và A. Maslow thì nhấn mạnh rằng nhân cách
là tánh độc đặc và kinh nghiệm sinh hoạt đặc thù của cá thể. Lý Luận Học Tập Xã
Hội (như B. F. Skinner) thì chú trọng đến thế lực của hoàn cảnh đối với sự ảnh
hưởng của nhân cách, cá thể sử dụng phương thức mô phỏng cộng thêm tác dụng tri
nhận để cá thể học tập về hành vi. Và còn có một số lý luận khác về nhân cách
đã rất chú trọng về kinh nghiệm chủ quan v. v…
Phật giáo đối với sự giải thích về nhân cách đã có sự bao
hàm của triết học tánh, luân lý tánh và tâm lý tánh. Phật giáo phủ định con
người vốn có tự ngã thuần túy cố định (ego) vì nó chỉ là nhân duyên hòa hợp. Do
sự quan hệ của nhân duyên hòa hợp mà mỗi con người đều có ý thức, ký ức và
thuộc tánh của thân thể để có thể phân biệt Ta, Người (chủ thể, khách thể).
Phật giáo tiếp nhận quan điểm cho rằng con người có một nhân cách động thái,
giả hợp biến động bất thường, nhân cách chỉ là một loại danh tự của phương tiện
được sử dụng để phân biệt giữa Người và Ta mà thôi. Đứng trên Luận Lý Học để
nói thì nhân cách nầy có thể là lý tánh và phi lý tánh nhưng chịu trách nhiệm
về hành động của chính mình. Ngay trên phương diện của Tâm Lý Học để giải thích
thì rất có ý nghĩa, bởi vì nhân cách có ký ức, tư tưởng, cảm giác để thông cấu
với người khác.
Phân tích một cách nghiêm chỉnh về tâm lý học thì, nhân
cách cũng chỉ là một phương tiện giả danh, bởi nó biểu thị cho một loại công
năng thống nhất nào đó (unity of function) – như đi, đứng, tri giác, tư tưởng,
quyết định v.v… giống như chiếc xe ngựa, do sự kết hợp toàn thể của các bộ phận
mới có thể gọi là xe ngựa được; Nhân cách cũng thế, do thân thể, cảm giác, ý
thức và tính hướng v. v… tổ hợp mà thành và như thế mới có thể gọi là nhân
cách. Tóm lại, nhân cách là một loại thống nhất thể của công năng, chỉ có giả
danh của tánh tạm thời. Nhân cách không thể đơn độc tiêu biểu cho thân thể, tri
giác, cảm giác mà chỉ có trong sự tổ hợp thích đáng mới có thể được gọi là nhân
cách. Sự giải thích này hoàn toàn có sự phù hợp cùng với Phật giáo.
ĐẶC CHẤT VÀ LOẠI HÌNH NHÂN CÁCH
Đặc chất nhân cách (Persoanlity traits) là nói đến tính
đặc sẵn có nơi mỗi nhân cách cá thể, loại đặc sắc nầy có thể xác nhận được.
Loại hình nhân cách (Personality types) là chỉ cho sở hữu nhân cách; loại hình
đều có thể quy loại thành rất nhiều hình thức cơ bản.
Trong Tăng Chi Bộ A Hàm Kinh (Anguttara Nikaya), chúng ta có thể phát hiện bốn
loại đặc sắc của nhân cách, tức là những loại hình như Mỹ Đức (Virtue), Thành
Thực (Integrity), Cương Nghị (Fortitude) và Trí Huệ v.v…
Do sự cư ngụ cố cựu lâu dài tại một nơi chốn mà có thể
biết rằng trên phương diện đạo đức của người thường trú này là tốt hoặc có
khuyết điểm, điều đó cũng có nghĩa bảo rằng có thể nhận xét rõ là ông ta có đạo
đức tốt đẹp hay không; xử lý sự vật với người khác khiến có thể nhận thấy rõ
ràng họ là người không thành thật; trong những khi nguy hiểm giáng xuống hoặc
bất hạnh đã xảy đến thì có thể đoán định được trình độ cương nghị của một con
người; giao đàm với người thì có thể tri nhận được là họ có trí huệ hay không.
Sự phân loại đặc chất nhân cách chủ yếu của Phật giáo là
nhắm vào xích lộ luân lý và tâm lý để đo lường.
Kinh Phật (Visuddhimagga) cũng đã chia nhân cách làm 6
loại hình lớn, đó là tham lam (tham), ghét hận (sân), vọng tưởng (si), trung
thực, thông minh (huệ) và tản mạn.
XUNG ĐỘT VÀ TỎA CHIẾT (NGĂN TRỞ THẤT BẠI) (CONFLICT AND
FRUSTRATION)
Xung đột cũng tức là hai cái hoặc hai mục tiêu (goals)
hoặc nhu yếu (needs) đưa dẫn đến tình cảnh bất an khi không thể tương dung lẫn
nhau. Xung đột có thê/ chia làm ba loại, đó là chánh-chánh xung đột
(approach-approach conflict), tức loại xung đột khi muốn lấy một trong hai mục
tiêu của nghĩ muốn; Phụ-phụ xung đột (Avoidance-avoidance conflict) là hai mục
tiêu đều không nghĩ muốn, xung đột xảy ra khi muốn lấy một; Chánh-phụ xung đột
(Approach-avoidance conflict) là loại xung đột của một mục tiêu mà có hai loại
thành phần chánh phụ trong ấy (ví dụ như, một người đàn bà đẹp nhưng mang nhiều
bệnh tật). Giải quyết sự xung đột đương nhiên liên hệ đến nhân tố quyết định của
nó và khoảng cách xa gần của mục tiêu, động cơ cá nhân, cường độ nhu yếu cá
nhân, hạ quyết tâm, thời gian tính, kỳ vọng cá nhân v.v…
Sự trắc trở, thất bại đối với những quyết định hoặc muốn đạt đến mục đích nhưng
phải chịu sự trở ngại giữa đường. Cũng có sự trắc trở bởi hoàn cảnh như người
nhà bị chết; có những trắc trở bởi yếu tố thể chất, như quá thấp lùn sinh ra
tướng tá xấu xí khó coi; có nhân tố xã hội như ly hôn, thất nghiệp v.v…
Phương thức đối phó với sự trắc trở, thất bại gồm có công
kích (gián tiếp công kích và trực tiếp công kích), ảo tưởng và co rút (tỉ như,
đàn bà xấu xí gặp phải nhiều trắc trở thất bại, có ảo tưởng mình là tài tử
Elizabeth Taylor, và trở về với những hành vi trẻ con – như khóc lóc ồn ào,
lạnh lùng và tiêu trầm v.v…)
Đức Phật dạy rằng trên cơ bản, sự xung đột và bình an,
thanh tịnh có thể kiểm nghiệm từ hai tầng thứ: Niết bàn (Nirvanà) là thanh
tịnh, hài hòa một cách tuyệt đối; còn đau khổ (dukkha) thì dẫy đầy sự bất an,
khẩn trương và xung đột. Giữa sự hài hòa (mục tiêu truy cầu lý tưởng của người
tại gia) và thanh tịnh tuyệt đối (là lý tưởng truy cầu của người xuất gia) cũng
có rất nhiều khác biệt. Người tại gia chánh trực nếu tuân theo thủ đoạn hợp
pháp để làm giàu, không tham lam thì có công đức và hơn nữa có thể đạt được sự
hài hòa; nếu người tại gia khởi lên tâm tham lam, khát cầu sự hưởng thụ quá độ
thì chắc chắn là bị xung đột với người khác. Người xuất gia vì xả bỏ tất cả,
không những có khả năng giải trừ đau khổ mà hơn nữa còn có thể truy tầm sự
thanh tịnh cao nhất trong nội tâm của họ.
Phật giáo cho rằng khu lực (drive) mạnh mẽ truy cầu thỏa
mãn cảm quan, truy cầu sự tân kỳ, hưng phấn, vật sở hữu, đều là máy phát điện
của sự xung đột.
Phật giáo giải thích về những trắc trở, thất bại rằng là:
khoái lạc và kích thích một khi cái mà chúng ta truy tầm kết quả biến thành
rỗng tuếch thì sanh ra trắc trở, thất bại nặng nề. Loại trắc trở thất bại sâu
nặng hơn nầy không tức khắc xuất hiện qua tri giác toàn diện giống như sự trắc
trở thất bại khi mất đi mục tiêu đặc biệt.
Ngoài sự trắc trở vì truy cầu thỏa mãn cảm quan đã gây
nên, Phật giáo còn đề ra sự xung đột tâm lý của tự ngã bảo tồn (cảm quan, quyền
lực, địa vị, danh vọng), một người có khu lực quyền lực mạnh mẽ thì sự xung đột
tâm lý cũng to lớn và sự trắc trở, cảm giác trở ngại cũng tương đối to lớn. Khi
cảm giác trắc trở lên đến cao điểm là không thể tiếp nhận thì con người hiển
nhiên lập tức gặp một loại hiện tương hy hữu đó là dục vọng và khát vọng muốn
hủy diệt tự ngã.
Vì thế, sự xung đột mà tâm lý học Phật giáo đã đề cập như
phân tích động cơ căn nguyên dục cầu truy cầu thỏa mãn cảm quan, bảo tồn tự
ngã, hủy diệt tự ngã và tham lam, ghét hận v.v… cùng với tâm lý học hiện đại
tương đối có điểm tương thông.
PHƯƠNG THỨC PHÒNG VỆ (DEFENSE MECHANISM)
Phương thức phòng vệ là tinh tâm kiệt tác của Sigmund
Freud và Anna, con gái của ông; phương thức nầy nói về quá trình nhân loại lợi
dụng tiềm ý thức nên đối với sự liễu giải chân thật đã bị bóp méo, thay đổi và
cải biến, nhất là khi chân thật và cảm giác tội lỗi (feelings of guilt), kinh
nghiệm bi thương, xung động, không thể tiếp nhận, thất ý, và khi những sự việc
khác có liên quan dẫn khởi một cách khẩn trương.
Tuy nhiên, phương thức phòng vệ đã không có biện pháp duy
hộ của áp lực tâm lý cá thể, vì thế cũng có thể nói đó là một loại dối lừa tự
ngã và trục trặc tự ngã (self-deceptive and self-defeating), không có biện pháp
nào có thể giải quyết sự áp lực của tâm lý, bởi vì quá trình của phương thức
phòng vệ phát sinh ngay trong tầng thứ tiềm ý thức, con người sử dụng nó làm
bình phong và nơi nương tựa kiên cố lớn lao mỗi khi phát sinh nóng nảy, lo
lắng, bất an và đã không cảm thấy đó là một thứ thủ đoạn của sự thật bị bẽ cong
bóp méo; lý do là trong sự sinh hoạt của mỗi một con người đều sẽ gặp phải những
tình cảnh bấtan như tội ác, sợ sệt khủng hoảng, bất an, mục tiêu bị trở ngại
v.v… vì thế, dường như mỗi cá nhân đều sẽ lợi dụng phương thức phòng vệ để bảo
hộ chính mình.
Những phương thức phòng vệ gồm có:
Áp chế (regression), mục đích là khiến cho đau khổ, tư
tưởng của tánh uy hiếp, cảm giác, ký ức và quá trình ảo tưởng không tiến vào
được trong ý thức hoặc tri giác cá thể.
Hợp lý hóa (Rationalization) là ý đồ tìm kiếm lý do hợp lý
để thay thế thất vọng, nói một cách khác, tìm lý lẽ không thực để thay thế lý
do chân chính. Ví như một học sinh gian lận trong việc thi cử thì thường biện
hộ là học sinh nào mà chẳng gian lận; một cô gái không được mời tham dự dạ hội
thì bào chữa căn bản là cô ấy đã không bằng lòng chấp nhận lời mời.
Đầu Xạ (Projection) là sự đổ thừa nơi người khác, tất cả
đều diễn giải rằng đó là sự sai lầm của người khác.
Tác dụng nghịch thi (reaction formation) là sự kinh hãi
đối với xung động và tư tưởng, không những chỉ cố gắng ép chế mà còn phát triển
một thái độ mô thức và hành vi hoàn toàn tương phản để che đậy động cơ và hành
vi chân chính của tiềm ý thức ấy, trường hợp như một người có tánh nóng nảy bức
xúc, lo lắng, bất an có thể xin vào viện thần học để chuẩn bị làm mục sư hoặc
nữ tu chẳng hạn.
Đồng Nhận (Identification), sự nhận quàng quen biết này là
vì bảo vệ giá trị cảm nhận của chính mình, cá thể thường đưa ra những bình luận
chung chung với một số nhân vật có danh vọng hoặc oai quyền, như Tổng Thống Mỹ
Carter là bạn thân của tôi v.v…
Thăng hoa (Sublimation), là mục tiêu hoạt động lợi dụng xã
hội có thể chấp nhận nhằm thỏa mãn động cơ áp chế của xã hội ấy, chẳng hạn như
làm một kiểm tra viên điện ảnh để có thể xem phim X mà không cảm thấy có mặc
cảm tội lỗi.
Phủ nhận hiện thực (denial of reality) là những gì không
vui hoặc tư tưởng đưa đến sự bất an, bất cần (thờ ơ), thì phủ nhận bằng cách
nghĩ rằng việc nầy chưa từng được tồn tại.
Căn cứ theo tâm lý học của Phật giáo, thì việc sử dụng
phương pháp nhất tâm chuyên chú sẽ khiến cho con người có thể đạt đến bộ phận
ẩn tối và thâm tàng nhất của tâm linh; công phu thiền định có thể giúp đỡ chúng
ta kiểm tra tỉ mỉ tư tưởng của chúng ta, vì thế mà không cần phải sử dụng đến
phương thức phòng vệ.
Tác dụng nghịch thi (Reaction formation) trong phương thức
phòng vệ, thi dụng đối với kẻ chủ nghĩa cấm dục (sinh hoạt khổ hạnh), dùng để
tịnh hóa cảm quan nhưng đức Phật đã khiển trách phương pháp nầy, lý do là vì
chủ nghĩa cấm dục là con đường cực đoan không có ý nghĩa nào cả. Thăng hoa là
điều đã được đức Phật nêu ra để giới thiệu, bởi lẽ dục cầu trung tâm tự ngã có
thể được thay thế bằng dục cầu Niết bàn.
NHÂN CÁCH VÀ XÃ HỘI
Đói khát là phản ứng nội tại của sinh lý, dục tánh thì có
khuynh hướng sinh lý và xã hội, ngoài ra dục vọng quyền lực, khu lực (drive for
power), danh vọng và địa vị là quá trình hoạt động xã hội hỗ tương.
Đức Phật tiếp nhận ý nghĩa trọng yếu về sự quan hệ hỗ
tương của con người và hoàn cảnh xã hội.
Đức Phật tán thán rằng luân lý xã hội có thể giúp cho con người kiến lập một
quan hệ nhân tế lành mạnh và một lý tưởng xã hội hài hòa. Mục tiêu trị liệu
(nhân tâm) của đức Phật đặt trên tâm lý khí chất của cá nhân biến hóa, đức Phật
truy tìm tung tích về sự xung đột căn bản của xã hội và đã tri nhận là nó được
bắt nguồn từ tham lam, thù hận và vọng tưởng về tự ngã.