1. Cán Dao Có Tác
Dụng Gì?
Thiền Tông có công án sau đây:
“Một ngày Thiền sư Thạch Đầu Hy Thiên cùng với học trò là
Hòa thượng Thạch Thất leo núi.
Thiền sư Thạch Đầu đi sau, lưng đeo con dao đốn củi. Hòa
thượng Thạch Thất đi trước, mở đường cho Thầy. Đến lưng chừng núi thì đường bị
tắc, vì có một cành cây lớn cản lối đi. Hòa thượng Thạch
Thất quay đầu lại nói với Thầy: ‘Sư phụ cầm hộ con dao ra
đây.’
Thiền sư Thạch Đầu rút con dao đưa cho Thạch Thất. Thạch
Thất giơ tay định cầm con dao bỗng thấy đó là con dao không có cán. Thạch Thất
nói: ‘Sư phụ! Sư phụ hãy đưa cán dao cho con?’
Thiền sư Thạch Đầu hét to: cán dao thì dùng được gì?
Hòa thượng Thạch Thất hốt nhiên đại ngộ, ngay ở trên đường
giữa lưng chừng núi"
Tôi đọc công án này rất cảm động. Cán dao còn có tác dụng
gì? Lời nói ấy bắt tôi phải suy nghĩ nhiều vấn đề. Trên thế giới này, có rất
nhiều cái không dùng được, nhưng nếu không có những cái vô dụng đó thì những
cái hữu dụng lại sẽ mất hết ý nghĩa.
Chúng ta sống nhiều nhất là khoảng 100 tuổi. Trong 100 năm
của cuộc sống, thời gian chúng ta thực sự tu hành rất ít ỏi. Hãy xem thời gian
tu hành ít ỏi đó như mũi dao. Còn đại bộ phận thời gian khác, chúng ta không tu
hành mà chúng ta dùng để ăn cơm, làm việc để kiếm sống, ngủ, đi dạo, uống cà
phê, xem phim, nghe nhạc v.v... ngoài ra làm một số việc, xem ra không có tác
dụng gì. Nhưng sự thật, đối với một người tu hành mà nói, thì tất cả thời gian
giống như “cán dao” đó, đều là có ích bởi vì tu hành và học Phật là sự thể hiện
và phát triển của toàn bộ cuộc sống và nhân cách, chứ không phải quy gọn trong
thời gian rất ít ỏi ở chùa Phật, khi mình có cảm giác rằng đang thực sự tu
hành.
Có thể đưa ra hai câu chuyện tương tự như vậy nữa trong
Thiền Tông:
“Có lần, Bồ tát Văn Thù đang thuyết pháp cho đại chúng.
Ngài gọi Thiện Tài đồng tử đến và nói với Đồng Tử rằng: ‘Nhà ngươi hãy đi nhổ
một cây cỏ không phải là cây thuốc đem về đây cho ta.’ Đồng Tử Thiện Tài chạy
đi tìm nửa ngày cũng tìm không ra loại cỏ nào không thể dùng làm thuốc.
Bồ tát Văn Thù nói: ‘Tốt? Bây giờ nhà ngươi hãy đi nhổ một
cây cỏ có thể làm thuốc, đem về đây cho ta.’
Lúc bấy giờ, pháp hội đang được tổ chức ở giữa trời. Đồng
Tử Thiện Tài quỳ xuống, nhổ một ít cỏ, đưa cho Bồ tát Văn Thù. Bồ tát Văn Thù
nói: ‘Khắp thiên hạ, mọi cây cỏ đều dùng làm thuốc được.’”
Khắp thiên hạ, cây cỏ nào cũng dùng làm thuốc được. Lời
tuyên bố này làm chúng ta cảm động. Nó cho chúng ta biết, không có một cái gì
đặc biệt gọi là thuốc. Nếu bất cứ một cái gì, có bịnh mà nó đối trị được, có
đối tượng để đối trị thì đó là thuốc. Trái lại, một cây thuốc gọi là quý, nhưng
lại không đối trị được bệnh, thì cây thuốc ấy cũng là vô dụng.
Còn truyện thứ hai như sau: “Có một ngày, Phật Thích Ca
cùng các đệ tử đi tản bộ ở trên đồng. Đi theo, còn có thần Đế Thích và các vị
Bồ tát. Đến một nơi phong cảnh rất xinh đẹp, Phật Thích Ca nói với các đệ tử:
‘Ở đây mà xây lên một ngôi tháp thì thực là tốt đẹp!’
Nghe vậy, thần Đế Thích bèn cúi xuống, lấy một cây cỏ, cắm
trước mặt Phật và nói: ‘Bạch Thế Tôn! Tháp báu đã xây xong rồi, ở đây!’. Phật
Thích Ca tán thán cảnh giới của Thần Đế Thích thực là đẹp.”
Trên sự thật, giữa một cây cỏ và một tòa tháp báu có gì là
khác nhau. Vấn đề là tùy thuộc thái độ chúng ta đối với cây cỏ.
2. Thấy Đúng Đắn Cảnh
Giới Hiện Thực Trước Mắt
Ba câu chuyện của Thiền Tông trên đây có thể giúp mở mang
nhận thức của chúng ta.
Khi những người học Phật bắt đầu tu hành, thì họ thường vướng mắc vào những cái
gì gọi là “hữu dụng”, như lễ Phật, vái Phật, niệm Phật, tụng Kinh, niệm chú,
siêu độ, in kinh, phóng sanh, bố thí v.v... Còn các việc khác như đọc sách, lên
lớp, cầu mở mang kiến thức, xem phim, nghe nhạc, nghỉ ngơi, vận động, leo núi,
đánh cầu thì người học Phật đều cho là chuyện vô dụng.
Có một lần, tôi đến thăm Phật Quang Sơn, thấy các Tu sĩ ở
Phật Quang Sơn chơi bóng rổ. Mười Tu sĩ chia làm hai đội, mỗi đội 5 người. Tôi
xem họ chơi bóng rổ, trong lòng cảm động. Các Tu sĩ cần đánh cầu để giữ gìn sức
khỏe!
Người học Phật, khi bắt đầu tu hành, thường bị một số
vướng mắc. Những vướng mắc đó là: “Phải làm tất cả những gì hữu dụng có ích.” Người
tu Tịnh độ chẳng hạn, có thể nói, tất cả những gì giúp cho sự vãng sinh là có
ích, là hữu dụng. Còn tất cả những cái khác, thuộc về nhân gian, đều là chuyện
vô ích.
Người tu Thiền Tông thì có thể nói: Tất cả những gì giúp
cho sự khai ngộ là có ích. Mọi cái khác không giúp cho sự khai ngộ là vô dụng.
Ở đây, có một số vấn đề cần suy xét:
Thứ nhất, nếu tổ chức đám chay thì siêu độ là hữu dụng cho
nên người giàu bỏ ra rất nhiều tiền để cầu siêu độ.
Người có tiền, phải chăng nhờ người làm lễ siêu độ mà được
vãng sanh cả hay sao? Thế thì những người nghèo, không tiền, sẽ mãi mãi chịu
cảnh luân hồi sinh tử hay sao?
Nói như vậy sẽ không công bằng. Sự thật, không phải như
vậy. Điều quan trọng nhất là ở chỗ dụng tâm.
Tôi đã từng nói vấn đề bố thí. Bố thí cũng như pha trà.
Khi một người pha một ấm trà, chúng ta bỏ vào ấm một lá trà. Bố thí như vậy là
đủ. Vì lá trà ấy tuy ít nhưng hòa vào nước trà đun sôi, đem cho 100 người uống,
người nào cũng hưởng được mùi vị của lá trà đó.
Bố thí nhiều hay ít không phải ở chỗ bỏ ra nhiều hay ít,
hay là làm ít hay nhiều công đức, mà quan trọng nhất là ở chỗ dụng tâm. Còn tất
nhiên nếu dụng tâm đã tốt rồi thì bố thí càng nhiều càng tốt.
Thứ hai, nếu người học Phật mà còn chấp trước vào những
cái mà anh ta gọi là “có ích, hữu dụng” thì sẽ không nhận thức được đúng đắn sự
vật trước mắt. Mà nếu không nhận thức được đúng đắn sự vật trước mắt, thì làm
sao bảo đảm sau khi chết, sẽ được tái sanh ở cõi sống tốt đẹp?
Có người hỏi tôi: Xin hỏi làm thế nào, khi lâm chung, giữ được chánh niệm, để
cho việc trợ niệm (của người thân) đối với mình có hiệu quả?
Anh ta tuy chưa chết, nhưng ngày nào cũng chuẩn bị cho
việc giữ vững chánh niệm khi lâm chung, hy vọng khi chết sẽ có người trợ niệm
cho anh ta.
Tôi trả lời rằng: “Từ bây giờ, hãy bắt đầu giữ chánh niệm.
Từ bây giờ, anh hãy bắt đầu trợ niệm cho mình. Đó là biện pháp thiết yếu nhất.”
Chúng ta hãy triển khai lối suy nghĩ này: Không phải, ngồi
mới tập Thiền, mới chuyên chú tâm. Tuy rằng tư thế ngồi cũng có ích. Từ bỏ tư
thế ngồi và theo các tư thế khác cũng có ích, vì sự tu tập là thể hiện và phát
triển toàn bộ nhân cách của con người.
3. Hãy Trân Trọng
Cuộc Sống Hiện Tại
Có lần tôi đến hội quán Nghĩa trang ở đường Dân Quyền Đông
để tham gia lễ tang cha một người bạn vừa quá cố. Vẻ mặt mọi người đều bi
thương. Không khí trầm lặng. Mỗi lần dự tang lễ xong ở Hội Quán Nghĩa Trang và
ra về đến cửa hội quán, tôi đều thở ra vào thật sâu để làm nhẹ bớt gánh nặng
trong tâm.
Ôi! Mỗi lần tôi thở sâu như vậy, tôi đều cảm tạ là mình
còn được thở không khí sâu như thế này, mình còn chưa phải từ giã cõi đời này.
Sau đó, tôi rời Hội quán Nghĩa Trang ở đường Dân Quyền
Đông, đi tản bộ đến tiệm ăn Á Đông, để uống cà phê. Uống một tách cà phê để
chứng minh rằng mình còn tồn tại. Phòng uống cà phê ở tiệm ăn Á Đông rất là
tốt, được kiến trúc theo phong cách của Châu Âu thế kỷ XVIII. Ngồi ở đây thưởng
thức một tách cà phê, lòng tôi tràn đầy sự biết ơn rằng, hôm nay còn được ngồi
ở đây uống cà phê. Bởi lẽ sau đây 100 năm, tôi cũng như thân phụ người bạn kia,
sẽ không còn sống ở cõi đời này nữa. Chỉ suy nghĩ như vậy thôi, đã thấy tình
hình ở nhân gian này chuyển thành tương đối tốt đẹp hơn rồi.
Uống một cốc cà phê ngon, đọc một cuốn sách hay, nghe một
bản nhạc, thậm chí hít thở không khí, đều là những chuyện đáng cảm ơn tất cả!
Nếu bây giờ, cũng không hít thở không khí một cách khoan
khoái, không thưởng thức một tách cà phê ngon, thì sau 100 năm nữa, sẽ hối
tiếc.
Chúng ta đều nghĩ rằng thế giới Cực lạc rất xa xôi, phải
kinh qua rất nhiều không gian và thời gian mới đến được Thực ra, xa hay gần
không thành vấn đề. Có người ở xa nhưng lại đến nhanh. Có người ở gần lại đến
chậm.
Nhớ lại ngày tôi còn học tiểu học, anh học trò đến lớp
chậm nhất là anh học trò ở cái nhà ngay trước cổng trường, chính vì anh ta
nghĩ, chỉ cần đi một phút là đến trường, cho nên anh ta thường ngủ quá cái phút
ấy. Còn bọn chúng tôi đều ở rất xa trường, chúng tôi phải đi 40 phút mới đến
cho nên mọi người đều lo đến trước 20 phút. Vì rằng, chúng tôi biết là đường
xa, cho nên ai cũng đều ra đi sớm hơn một giờ.
Xa hay gần không thành vấn đề! Cho nên hãy biết rất trân
trọng những gì đang diễn ra trước mắt chúng ta.
Đường Dân Quyền Đông rất có ý nghĩa. Bên cạnh Hội quán
Nghĩa Trang là vườn hoa Vinh Tinh. Ngày nào cũng có nhiều đôi trai gái đến đây
chụp ảnh kỷ niệm ngày tân hôn. Đi thêm vài bước nữa thì đến một nơi gọi là Cung
Hành Thiên, là nơi dân chúng đến lễ bái để cầu cho có nhiều tiền, cầu thi đỗ,
cầu thành vợ thành chồng êm đẹp, cầu bình yên, cầu con v.v... Đúng là một đoạn
đường có đủ sinh, lão, bệnh, tử mà chỉ cần đi có 10 phút?!
Nếu nhìn vấn đề từ một giác độ rộng lớn, thì cuộc sống con
người ngắn ngũi như thời gian mươi phút. Làm thế nào để trong khoảng thời gian
ngắn ngủi đó, với thái độ nhanh nhất, đạt tới mục tiêu dự định?
Chỉ có một cách là dùng toàn bộ nhân cách trong suốt 24
tiếng đồng hồ để tu hành.
Nếu chỉ chú trọng thế giới Cực lạc mà bỏ quên cuộc sống
hiện thực thì đó là một loại tướng đoạn diệt. Trong kinh Phật, có nói tướng
đoạn diệt là không tốt. Ngược lại, chỉ chú trọng cuộc sống hiện thực mà bỏ quên
quá khứ và vị lai, thì cũng là một loại tướng đoạn diệt khác. Loại tướng đoạn
diệt ấy, từng nơi, từng lúc, thường xuất hiện trong cuộc sống chúng ta, khiến
chúng ta phải phát sanh cảm giác. Ôi! Cái xa xôi thì tốt đẹp hơn? Thế giới Cực
lạc thì tốt đẹp hơn? Ở đây không tốt đẹp. Cũng như chúng ta xem quảng cáo mì ăn
liền trên màn ảnh truyền hình. Chúng ta có cảm giác mì ăn liền rất ngon, bèn đi
mua ngay một gói về ăn, mới thấy rằng không ngon như mình đã cảm giác thấy trên
màn ảnh truyền hình. Đây là do quảng cáo truyền hình thúc đẩy chúng ta hướng
tới mục tiêu khiến mình có cảm giác là tốt đẹp. Nhưng sự thực thì không được
như vậy.
Có lần tôi biếu một người bạn cuốn Kinh A Di Đà. Trong
kinh có mô tả nhiều cảnh tượng của thế giới Cực lạc, nói đất ở thế giới Cực lạc
lát bằng vàng, có những hoa sen to bằng bánh xe, nhà lầu làm bằng bảy báu, có
tiếng âm nhạc thường xuyên réo rắt trên hư không, tiếng chim hót là tiếng
thuyết pháp, trên trời mưa xuống toàn hoa!
Bạn tôi đọc xong cuốn kinh bèn nói: “Tôi không muốn sang
thế giới Cực lạc, vì tôi muốn sống ở nơi có cây cỏ. Nếu đến ở thế giới Cực lạc
lát toàn bằng vàng thì thực dễ sợ. Vì đi trên đường lát vàng, sẽ phát ra tiếng
kêu leng keng, làm cho tâm hồn sinh ra khẩn trương. Tôi cũng không muốn nghe
tiếng âm nhạc réo rắt từ sáng đến tối. Thỉnh thoảng khi cần có tiếng nhạc mới
hay. Cũng không muốn tiếng chim toàn là tiếng thuyết pháp, bởi vì chim chỉ cần
hót ca là tốt.”
Đó cũng là một quan điểm. Chúng ta không thể lấy phong cảnh ở cõi Cực lạc
phương Tây thay cho cuộc sống hiện thực được. Cũng vậy, chúng ta không thể lấy
cuộc sống hiện thực thay thế cho thế giới Cực lạc được. Đó là một đạo lý hết
sức đơn giản. Hôm qua ăn no làm sao giúp chúng ta đỡ đói khát ngày hôm nay
được. Hôm nay đói cào bụng, càng nhớ bữa ăn thịnh soạn ngày hôm qua lại càng có
cảm giác đói thêm. Càng nhớ, càng tưởng tượng lại càng đói. Tưởng tượng thế giới
Cực lạc cũng là như vậy.
Ngày hôm qua, ăn uống no đủ, đối với tình cảnh đói khát
ngày hôm nay, là không có ý nghĩa gì. Hôm nay, ăn uống no đủ, đối với tình cảnh
đói khát ngày mai cũng là hoàn toàn vô nghĩa. Cái quan trọng nhất là sự no đủ ở
thời điểm này, giờ này, phút này. Nghĩa là phải sống trong hiện tại.
4. Chấp Thủ Là Đáng
Sợ
Người học Phật vì chăm chú mặt Trí tuệ, cho nên thường coi
nhẹ phần tri giác của cảm quan. Sự thật, phần tri giác cảm quan cũng là hết sức
quan trọng. Chính tác dụng của sáu thức giúp chúng ta mở mang Trí tuệ. Mở mang
Trí tuệ như thế nào?
Chính là nhờ đoạn trừ vô minh và chấp thủ.
Vô minh và chấp thủ là hết sức đáng sợ. Hãy lấy một câu
chuyện xảy ra trong nhà tôi để minh họa.
Một ngày, con tôi từ ở trường đem về nhà một hộp đựng các con tằm, khiến tôi phải
lo lắng không biết phải nuôi những con tằm như thế nào. Bởi vì lúc còn nhỏ tôi
đã từng nuôi tằm thất bại. Tôi hỏi con tôi: “Con đem các con tằm về nhà nuôi
chúng thế' nào? Có lá dâu cho chúng ăn không?” Con tôi nói: “Có lá dâu. Hợp tác
xã Phúc Lợi của nhà trường có bán, 10 đồng một bao.” Tôi nghe mà giật mình. Bây
giờ tiến bộ tới mức lá dâu cũng có bán! Tôi lại hỏi: “Ngày Chủ nhật hợp tác xã
không bán lá dâu thì làm thế nào?” Con tôi trả lời: “Không lo, ngày thứ bảy mua
thêm một bao đem về bỏ tủ lạnh.”
Thế là việc nuôi tằm ở trong nhà bắt đầu. Tôi thường hỏi
con tôi: “Nếu chẳng may, hợp tác xã của trường thiếu lá dâu thì thế nào?”
“Không sao đâu! Làm sao thiếu được nếu thiếu hàng thì
thiên hạ sẽ đại loạn. Bởi vì, ở nhà trường, hầu như học trò nào cũng nuôi một
hộp dâu tằm.”
Quả nhiên, có một ngày, điều tôi lo lắng đã biến thành sự
thật. Trời mưa to, hợp tác xã Phúc Lợi của trường thiếu lá dâu bán. Con tôi đi
học và nói với tôi: “Ba ơi, thiên hạ đại loạn rồi, không có lá dâu biết làm thế
nào đây!”
Tôi chỉ còn cách lái xe hơi đưa con tôi đến các nơi có thể
có lá dâu ở Đài Bắc như Bắc Đầu, Nội Hồ, nhưng cuối cùng cũng không tìm ra.
Thực là bi thảm? Chắc là các con tằm phải chết mất!
Con tôi bỗng có suy nghĩ độc đáo: “Này ba, con không tin
rằng con tằm lại chịu chết đói mà không ăn một lá cây gì khác hay sao? Chúng ta
hãy thử xem.” Tôi nói: “Được chứ!” Con tôi bèn đi hái về 10 lá cây thật tươi,
mềm rải trong hộp nuôi tằm. Thế nhưng, lá nào chúng cũng không chịu ăn!
Lúc bấy giờ, cả con tôi cũng cảm thấy mấy con tằm chấp
trước quá đáng. Con tôi nói với các con tằm rằng: “Chúng mày ăn một cái lá rồi
chết lăn cả ra hay sao? Tao không tin!” Mấy con tằm vẫn không chịu ăn. Con tôi
lại nói: “Nhất định bọn tằm ăn lá dâu thành thói quen rồi. Nếu khi chúng mới
sanh ra mà bắt chúng ăn một loại lá khác thì chúng sẽ chịu ăn ngay.” Tôi nói:
“Đúng như vậy sao? Vậy chúng ta hãy thử xem!”
Để tìm ra đáp án, chúng tôi ngày nào cũng ra sức nuôi tằm.
Tằm biến thành Ngài, sanh ra trứng. Trứng chuyển màu đen vài ngày thì chúng tôi
khẩn trương đi hái các loại lá khác cho tằm ăn, hy vọng các con tằm mới sẽ bỏ
được tập quán ăn lá dâu.
Đáp án thì chắc các vị đã biết rồi. Các con tằm nhất định
không chịu ăn các loại lá khác. Kỳ lạ thật, chúng chưa có tập quán ăn lá dâu mà
vẫn không chịu ăn các loại lá không phải lá dâu. Cuối cùng đành phải đem lá dâu
về cho chúng ăn. Lá dâu vừa rải ra, các con tằm tranh nhau ăn rạo rạo, như là
chúng khiêu vũ, nhảy múa vậy!
Lúc ấy, tôi cảm khái nghĩ rằng, sự chấp thủ thói quen thực
là đáng sợ.
5. Phá Chấp Trước, Mở
Mang Trí Tuệ
Con tằm, đời này qua đời khác, đều ăn lá dâu không chịu ăn
lá khác. Tằm xưa nay, trong nước, ngoài nước đều như vậy, không có ngoại lệ. Do
chấp trước mà chúng không thể biến thành sinh vật tiến bộ hơn, không thể tiến
trên một con đường khác tốt đẹp hơn.
Con bướm, một loại động vật rất gần gũi với con tằm, cũng
chỉ hút mật hoa, không chịu ăn cái gì khác, từ khi sanh ra cho đến khi chết đi
cũng chỉ ăn như vậy mà thôi. Tôi bèn nghĩ rằng: “Con bướm kiếp trước chắc là
không chịu ăn đồ đắng, chỉ muốn ăn ngọt, cho nên mới phải luân hồi làm bướm. Vì
chấp trước, như vậy cho nên nó cũng không tiến hóa được.” Cùng một loại bướm
thì các chấm trên thân cũng không thể nhiều hay ít hơn!. Lúc nhỏ tôi cũng có
nuôi bướm. Một loại bướm có chín chấm đen trên mình thì tất cả con bướm cùng
một loại cũng đều có chín chấm đen, không nhiều hơn hay ít hơn, và cũng không
có ngoại lệ. Con Ngài cũng vậy, mỗi đêm vào mùa hè, con Ngài đều hay đâm đầu
vào lửa, đời đời kiếp kiếp cũng như vậy.
Những hiện tượng như thế đều do chấp trước mà thành, nếu
phá được bệnh chấp trước thì có thể tiến bộ nhanh. Tôi nghĩ rằng, nếu có một
con tằm nào đó chịu ăn loại lá khác, và phát hiện: A! Loại lá khác ăn cũng rất
ngon! Rồi chúng bắt đầu ăn loại lá khác đó, không ăn lá dâu nữa. Nhất định
trong nội tâm con tằm đó, sẽ nổ ra một cuộc cách mạng, phá trừ chấp trước và
con tằm sẽ phát triển nhanh trên con đường tiến hóa.
Không kể là loài động vật lớn hay bé, đều có bệnh chấp
trước như vậy. Có con thú gọi là gấu mèo, loại gấu mèo này chỉ ăn măng ống,
không ăn một loại thức ăn nào khác. Vì cây măng ống ngày càng ít đi, cho nên
giống gấu mèo bị đe dọa tuyệt chủng. Nếu một ngày nào đó, gấu mèo chịu ăn dưa,
thì giống gấu mèo sẽ có thể tồn tại và phát triển, Trí tuệ gấu mèo có thể được
mở mang.
Chấp trước là cái bệnh rất đáng sợ. Tôi thường ví chấp
trước với nước đọng, nước ao tù, càng để lâu càng có mùi thối. Nước thì phải
chảy, thường xuyên chảy sẽ không có mùi thối. Nước mà bị chấp trước, ở yên
trong ao tù thì sẽ sanh ra mùi thối.
Vì vậy phá chấp trước là việc làm rất cấp thiết đối với
chúng ta trong cuộc sống hiện nay. Chỉ cần nhận thức được sự chấp trước của
mình hiện tại là thế nào thì có thể đoạn trừ nó một cách dễ dàng. Cũng như chúng
ta cần một quả dưa để ăn, bổ quả dưa ấy ra, thấy rõ trong quả dưa có bao nhiêu
hột.
Vì đó là quả dưa chúng ta đang ăn. Nhưng chúng ta sẽ khó
đoán biết, trên một cây dưa sẽ sanh ra bao nhiêu quả dưa.
Ăn dưa xong rồi, đem hột chôn xuống đất, hột mọc lên thành
cây. Cây ấy sẽ sinh ra bao nhiêu quả dưa, đó là điều chúng ta không thể dự đoán
được cái mà chúng ta nắm được là quả dưa mà chúng ta đang ăn, bổ ra làm đôi,
chúng ta thấy rõ có bao nhiêu hột.
Cũng tức là nói, nếu nhận chân được sự chấp trước hiện nay
của chúng ta thì có thể đoạn trừ được sự chấp trước tương lai, hay là sự chấp
trước quá khứ. Sau đó mới dần dần xây dựng được nhân cách của chúng ta.
Vừa rồi có một cuộc tranh luận trên hai tờ báo, tờ Tự Lập
và tờ Tự Do giữa nhà văn Tống Trạch Lai và nhiều Tăng sĩ, Cư sĩ, về nếp tu hành
khác biệt giữa Phật giáo Đại thừa và Phật giáo Tiểu thừa. Tôi có đọc các bài
tham gia cuộc tranh luận đó và có nhận thức sâu sắc đó chỉ là sự tranh chấp
giữa mũi dao và cán dao mà thôi.
6. Phật Giáo Giống
Như Một Con Dao
Sự giáo hóa của Phật giáo Nguyên thủy cũng như tạo ra một
cán dao rất kiên cố. Phật giáo Đại thừa chỉ là cắm mũi dao nhọn, sắc vào cán
dao đó. Cho nên vĩnh viễn không thể giải quyết được sự tranh chấp hơn thua giữa
mũi dao và cán dao!
Nếu Phật giáo là một con dao thì cán dao là cái gì?
Cán dao là Phật giáo căn bản. Đạo lý chủ yếu do Phật giáo
căn bản giảng là Ba pháp ấn, Bốn chân lý thánh, con đường đạo tám nhánh, 12
nhân duyên.
Ba pháp ấn là: các hành là vô thường, các pháp là vô ngã,
Niết bàn là vắng lặng.
Bốn chân lý thánh là Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Đời người là
thống khổ; hiện nay chúng ta sống và cảm thấy những nổi khổ đó. Chúng ta là một
tập hợp, tức là một tập hợp khổ. Muốn xóa bỏ tập hợp khổ đó, phương pháp duy
nhất là đi theo con đường giác ngộ (Bồ đề), con đường giải thoát, diệt hết cội
nguồn của khổ.
Con đường đạo tám nhánh là Chánh kiến (thấy biết đúng
đắn), Chánh tư duy (suy nghĩ đúng đắn), Chánh ngữ (lời nói đúng đắn); Chánh
nghiệp (hành động đúng đắn); Chánh mạng (sinh sống đúng đắn); Chánh tinh tấn (siêng
năng đúng đắn); Chánh niệm (nhớ nghĩ đúng đắn); Chánh định (tập trung tư tướng
đúng đắn).
Thuyết 12 nhân duyên giải thích quy trình một chúng sanh
từ khi nhập thai, ra khỏi thai mẹ, lớn nên, trưởng thành rồi già chết như thế
nào.
Những giáo lý căn bản đó của đạo Phật giống như cán dao
của một con dao. Nếu không có những giáo lý căn bản đó, tức là ba pháp ấn, Bốn
chân lý thánh, Con đường đạo Tám nhánh, 12 nhân duyên thì Phật giáo sẽ không có
chỗ đứng chân vững chãi.
Mọi tranh chấp giữa Đại thừa và Tiểu thừa, nguyên nhân lớn
nhất là người theo Tiểu thừa rất bất mãn với danh xưng “Tiểu thừa.” Vì vậy,
chúng ta nên gọi Phật giáo Tiểu thừa là Phật giáo “căn bản.”
Còn nếu Phật giáo Đại thừa coi thường Tiểu thừa, thì đó là
một thái độ sai lầm. Một người tu hành theo Đại thừa mà không có một nhận thức
cơ sở đối với Phật giáo căn bản, thì Đại thừa chỉ là một lâu đài xây dựng trên
hư không mà thôi. Cũng như một con dao phải đủ cả mũi dao và cán dao thì mới có
thể dùng được.
7. Học Phật Là Để Chế
Tạo Một Con Dao Tốt
Người học Phật cũng giống như người chế tạo một con dao
tốt; không kể là tu hành theo Đại thừa hay Tiểu thừa, tất cả Phật tử đều phải
hấp thụ giáo hóa cơ bản của Phật Thích Ca truyền lại. Có hấp thụ được sự giáo
hóa đó mới có biện pháp chế tạo ra được một con dao tốt, dùng được.
Điều kiện căn bản nhất để chế tạo ra một con dao dùng được là xây dựng cho mình
một phẩm chất tốt, một bản chất sống tốt.
Thế nào gọi là một phẩm chất sống tốt? Xin lấy ví dụ sau
đây để minh họa.
Có một loài sò gọi là ngọc trai, có thể tạo ra ngọc. Một
đặc điểm của loài sò này là mỗi lần bị một vết thương là nó sinh ra ngọc trai. Người
nuôi ngọc trai lợi dụng đặc điểm này, bèn bắt những con ngọc trai lớn, vạch
miệng và cứa hai nhát dao rồi thả con sò xuống nước như cũ. Con sò ngay tại nơi
bị thương tích, sinh ra ngọc trai. Thậm chí, người nuôi ngọc trai có thể tạo ra
ngọc trai với hình dáng theo ý muốn của mình, tùy theo hình dáng vết thương
trong thân con sò ngọc trai. Mỗi lần người ta tạo ra vết thương, thì con ngọc
trai lại hàn vết thương đó bằng ngọc trai do nội thân tiết ra.
Các loài sò khác, nếu bị tạo ra vết thương như vậy, đều
chết sau khi được thả lại xuống nước. Chỉ riêng loài sò ngọc trai là có phẩm
chất nhẫn nhục tốt đẹp có khả năng chịu đựng và tự băng bó vết thương của mình.
Một người học Phật và tu hành, trước hết phải tạo cho mình
một phẩm chất tốt đẹp như con sò ngọc trai, khéo chịu đựng mọi nỗi khổ ở đời và
chế tạo ra ngọc trai của mình.
8. Đặt Con Dao Báu ở
Trong Tâm Mình
Những nỗi thống khổ của nhân sinh không khác nhau gì lắm
đối với mọi người. Điều quan trọng đối với người tu hành, dù tu theo pháp môn
nào, là xây dựng cho mình một phẩm chất tốt. Có một câu nói có thể minh họa:
“Trong thân có dao báu nhưng không giết người.” Trong người
có dao báu, nhưng vẫn đi trên đường một cách bình thường, không giết ai cả.
Trong các tiểu thuyết võ hiệp và phim võ hiệp, có một loại
người, chỉ cần gặp họ là biết họ có võ. Huyệt thái dương của họ lồi cao, các
bắp thịt của họ đều nổi, lưng đeo kiếm. Gặp họ trên đường ai cũng nói: “Ái chà!
Người này thật đáng sợ! Họ có thể giết người đấy! Võ công của họ rất cao
cường." Thế nhưng, trong tiểu thuyết và phim võ hiệp,.. loại người đó
thông thường không phải là loại người có võ công cao nhất. Có võ công cao hơn
loại người thường như Trịnh Thiếu Thu vậy. Áo quần rất sạch sẽ, đi đứng thì
chậm rãi, ngâm thơ, xướng vịnh, tay phe phẩy quạt, đó là loại người có võ công
cao nhất, bởi vì chất võ công của họ ẩn sâu bên trong, không lộ ra ngoài.
“Trong thân có dao báu mà không giết người.” Ý nghĩa câu
này là: Một người mới bắt đầu tu hành, nên thường xuyên giữ gìn con dao báu
trong tâm mình, để xử sự với thế giới này... không nên đi đâu cũng cao rao rằng
mình là Phật tử đang tu hành đây, trên cổ đeo cái biển Phật tử rất là nghiêm
túc.
Một người quá nghiêm túc cũng khó độ chúng sanh. Chúng
sanh cũng khó nhờ mình mà được khai ngộ.
Tôi thấy rằng, muốn theo con đường Bồ tát, thì phải có các
đặc chất, như trầm mặc, phóng khoáng, cởi mở. Những đặc chất ấy chúng ta thấy
rõ ở Phật và các vị Bồ tát.
9. Đừng Có Cách Biệt
Với Chúng Sanh
Kinh A Hàm chép rất nhiều hành trạng của Phật Thích Ca Mâu
Ni trong quá trình tu hành của Ngài, cho ta thấy Phật Thích Ca Mâu Ni cũng biết
cười to, cũng biết chảy nước mắt, cũng có khi bực tức. Giữa đường gặp trẻ con,
Ngài cũng biết quỳ xuống nói chuyện với chúng. Phật Thích Ca là con người dễ
gần gũi. Chúng ta cảm thấy Phật có một nhân cách phi thường, nhưng không có
cách biệt với thế gian này.
Có một lần tôi đến Bản Kiều thăm một nhà điêu khắc, ông
chuyên môn điêu khắc tượng Phật. Tại nhà ông, có bày một tượng Phật Thích Ca
Mâu Ni. Đấy là tượng Phật Thích Ca tu khổ hạnh ở Tuyết Sơn, toàn thân Phật gầy
gò từng đốt xương nổi lên rõ mồn một; các huyết quản cũng thấy rất rõ dưới da.
Bức tượng này làm người xem rất cảm động; Phật Thích Ca đã từng tu khổ hạnh như
vậy.
Nhưng các tượng Phật khác, bày trong nhà ông thì lại trông
dáng người đầy đặn, béo tốt, phương phi, tướng báu trang nghiêm. Tôi hỏi ông:
Tại sao ông lại bày tượng Phật Thích Ca gầy gò như củi khô ngay tại sảnh đường
như vậy? Ông giải thích một hồi lâu. Lời giải thích của ông đến nay vẫn làm tôi
cảm động. Ông nói: “Hiện nay chúng ta căn cứ vào nhận thức của chúng ta đối với
Phật mà tạc tượng Phật đều béo tốt mặc y phục rất đẹp khiến cho người bình
thường nhận thức rằng Phật và Bồ tát đều ăn tốt, mặc đẹp, béo phây phây. Còn
tôi, khi tạc một tượng Phật, tôi hy vọng không quên tinh thần của Phật Thích Ca
tu khổ hạnh ở núi Tuyết Sơn, vì vậy mà mỗi lần tôi tạc tượng Phật, tôi đều đến
xem tượng Phật Thích Ca gầy gò tu khổ hạnh ở Tuyết Sơn, đặt ở sảnh đường. Tôi
mong rằng, bên cạnh tượng Phật Thích Ca đầy đặn béo tốt, cũng có tượng Phật
Thích Ca gầy gò như con mắt sắc sảo, phản ánh tinh thần bi thương của Ngài đối
với thế giới.”
Phật không có một tướng nhất định. Phật có thể có rất nhiều
tướng. Ngài có thể ôn hòa, rất gần gũi, rất dễ mến. Người học Phật cũng không
nên quá mức nghiêm túc, nên ứng xử ở đời với thái độ phóng khoáng, cởi mở, vì
rằng, tuy chúng ta học Phật, nhưng chúng ta không tách rời chúng sanh. Chúng ta
cũng là một phần tử trong chúng sanh. Không nên vì chúng ta tu hành mà trở
thành một người đặc biệt, không nên để cho người khác thấy chúng ta đi trên
đường bèn nói: “A! Đây là một Phật tử.”
Hãy phóng khoáng một chút, để cho người khác thấy mình
cũng không khác gì họ. Như vậy, gọi là không cách biệt với chúng sanh, hòa nhập
vào chúng sanh.
Trước đây, khi tôi còn ở nông thôn, tôi thường bị người ta
nhận lầm là công nhân hay nông dân. Tôi đi mua rau, người bán rau thấy tôi mặc
quần áo rất bình thường, đi đôi ủng chống mưa giống hệt như nông dân. Một bó
rau 12 đồng, tính rẻ cho tôi hai đồng. Người bán rau không thấy tôi là người
đặc biệt, mà thật sự, tôi cũng không có gì là đặc biệt. Có lần tôi đi mua trái
cây. Chủ nhân vào nhà lấy tiền lẻ để đổi. Tôi đứng chờ bên quầy hàng, có ba,
bốn thanh niên, nắm tay tôi bảo: “Này Thích Ca, một cân bao nhiêu tiền?” Tôi
nói: “Thích Ca của tôi thì không bán, còn Thích Ca của ông kia thì 24 đồng một
cân.”
Thích Ca của tôi không bán, nhưng trong tâm tôi có Thích
Ca, tuy rằng tôi không tỏ cho ai biết. Người khác thấy tôi không có gì khác họ,
như vậy mới gọi là đạo Bồ đề, hòa nhập vào chúng sanh, đó là thái độ tốt nhằm
tạo duyên lành với chúng sanh.
Tôi thường nói “dưới chân đèn sáp là chỗ tối nhất.” Cứ
thắp một ngọn đèn lên thì sẽ thấy, chân đèn là nơi tối nhất. Cũng như vậy, người
đem lại ánh sáng cho người khác, thì thường thường một mình bị đả kích đến khổ!
Việc Phật Thích Ca Mâu Ni vào núi hay xuống núi đều là bài
học cho chúng ta. Một người có thể ẩn ở núi sâu để tu hành, tự mình cầu Tam muội,
cầu giải thoát, cầu chánh giác. Nhưng, một người chỉ cầu như vậy mà cho là đủ
rồi thì thực là đáng tiếc vậy. Phật Thích Ca, sau khi tu khổ hạnh, mình gầy như
củi khô, rồi mới xuống núi, truyền bá đạo pháp. Điều này chứng tỏ, ẩn vào núi
không phải là mục tiêu cuối cùng của sự tu hành.
Một người có suy nghĩ rằng phải ở trong núi sâu mới có thể
tu hành được. Phật giáo Đại thừa cho rằng người đó đã “bị say vì rượu Tam
muội.” Đó là vì cầu Tam muội mà quên mất chúng sanh. Cũng như uống rượu Tam
muội mà bị say vậy. Người uống rượu Tam muội mà bị say, thì sẽ không cách gì
thông cảm với chúng sanh được. Làm thế nào để không bị say rượu Tam muội? Có ba
phương pháp:
Phương pháp thứ nhất là không chấp trước Tam muội. Tam
muội tức là chánh giác, chánh định, chánh thọ, chánh tinh tấn.
Phương pháp thứ hai là chia một phần rượu Tam muội cho người
khác uống. Tự mình thưởng thức được rất nhiều cảnh giới tốt đẹp trong Tam muội,
nhưng không muốn uống riêng một mình rượu Tam muội mà chia xẻ một phần cho người
khác uống.
Phương pháp thứ ba là bày vẽ cho mọi người chế tạo rượu
Tam muội, giúp cho mọi người sanh khởi Tam muội ở tâm, đó mới là mục tiêu của
tu hành Phật pháp.
Thực ra không có gì đáng tranh luận giữa Đại thừa và Tiểu
thừa. Người có tâm địa rộng lớn, thì trong Phật giáo Tiểu thừa vẫn tìm thấy
tinh thần Đại thừa. Một người có tâm địa nhỏ hẹp thì tuy học kinh Đại thừa,
nhưng cũng không khác gì học kinh điển Tiểu thừa.
10. Nhân Sanh Là
Tương Đối
Một cái nhìn khác đối với cán dao và mũi dao là Phiền não
tức Bồ đề. Về vấn đề này, tôi đã nói rất nhiều lần rồi. Ở đây, lại nói nữa, với
một hình thức diễn đạt mới.
Phiền não và Bồ đề có thể được xem xét từ góc độ tương
đối.
Vì sao có phiền não? Đó là do mọi người đều có chấp trước
tình ái. Có người chấp trước tiền của. Có người chấp trước danh lợi. Có người
chấp trước quyền lực chức tước. Họ cho rằng đó là những điều quan trọng nhất ở
đời. Nếu họ không được thỏa mãn về những điều ấy thì họ sinh ra phiền não. Mọi
phiền não đều do sự không thỏa mãn đem lại.
Nếu thấy được những điều ấy chỉ có giá trị tương đối thì
gánh nặng phiền não có thể giảm nhẹ
Đúng như vậy, nhân sanh là tương đối. Phật pháp cũng nói,
trên thế giới này không có cái gì là tuyệt đối.
Đối với một người rất đói mà cho họ ăn thì họ ăn rất ngon.
Nhưng nếu bắt họ ăn một ngày 8 bữa thì họ sẽ cảm thấy ngay ăn là chuyện đáng
sợ! Mùa đông, nằm ngủ trong chăn bông cảm thấy rất thoải mái, sáng không muốn
dậy nữa, chỉ muốn ngủ tiếp. Nhưng nếu ra lệnh anh không được dậy nữa, bắt ngủ
mãi thì lại thấy ngủ nhiều là không tốt. Thức dậy ra khỏi giường là tốt hơn.
Vui, mà sống vui mãi cũng không được khổ, vĩnh viễn chịu
khổ, cũng chịu không nổi. Giữa cái vui và cái khổ, khoảng cách thực là ngắn
vậy.
11. Điều Hòa Dây Đàn
Sinh Mạng Cho Khéo
Trung đạo là dùng một thái độ cởi mở, phóng khoáng để sinh
hoạt, học Phật, cũng giống như điều tiết giây đàn vậy.
Trong kinh “42 chương” có ghi, Phật Thích Ca có nói với
một đệ tử: Phải điều tiết giây đàn ở mức vừa phải, không được căng quá, nếu
căng quá thì sẽ đứt giây. Nếu chùng quá thì tiếng đàn sẽ không tốt.
Trung đạo là điều tiết giây đàn sinh mạng thế nào cho vừa phải,
để có thể đánh lên một bản nhạc hay, giây đàn không bị đứt. Nếu một người tu
hành mà để tinh thần quá căng thẳng, mới đàn đã đứt giây thì nhất định có vấn
đề. Trái lại, nếu tu hành mà phóng túng, buông thả, đến nỗi không biết tu hành
là thế nào, thì cũng lại có vấn đề.
Suốt ngày không nên giữ bộ mặt đăm chiêu căng thẳng. Tình
hình phiền não khác nhau tùy theo người. Mặt càng đăm chiêu, phiền não càng
nhiều, chứ không giảm bớt. Nếu có thái độ bình thản, thoải mái đối với phiền
não thì phiền não sẽ giảm bớt.
12. Phải Giữ Cái Hòm
Hy Vọng
Tôi nhớ có một câu chuyện thần thoại Hy Lạp cổ đại, có thể
dùng để nói về phiền não và Bồ đề:
Thần Jupité, để phạt Promêtê, vì cái tội đem lửa của Thiên đường xuống trần
gian, bèn sai Thần lửa, dùng nước và đất sét nung thành một thiếu nữ xinh đẹp,
đặt tên là Panđôra. Các Thần trong thần thoại Hy Lạp thường có tánh rất đố kỵ
ganh ghét. Lửa là nguồn gốc của văn minh và Trí tuệ của nhân loại. Cõi trần
gian mà có lửa thì sẽ biến thành Thiên đàng có khác chi. Đó là điều mà Thiên
thần không thể chấp nhận được. Một bài học của câu chuyện là chúng ta chỉ cần
sống tốt ở nhân gian thì cõi người sẽ không khác gì ở Thiên đàng.
Truyện thần thoại cho biết, Thần Jupité hết sức tức giận,
ra lệnh xích Promêtê trên đỉnh núi Côcadơ, và đem Panđôra gả cho em trai
Promêtê là Atlas để trừng phạt. Lối trừng phạt nặng đối với người đàn ông là gả
cho anh ta một cô gái đẹp. Đó cũng là một bài học rất hay đối với chúng ta. Khi
Panđôra đi lấy chồng, Thần Jupité cho cô ta một cái hòm báu làm của hồi môn,
nhưng lại dặn dò là cô không được mở cái hòm ấy ra. Tất nhiên Panđôra có hỏi
thần Jupité lý do vì sao không được mở hòm, nhưng Thần Jupité chỉ nghiêm cấm mà
không trả lời. Chúng ta thấy Thần Jupité thật là quái ác, ông ta hoàn toàn hiểu
rõ tâm lý con người. Những việc càng bị cấm đoán thì con người càng làm.
Sau khi về nhà chồng, Panđôra ngày nào cũng suy nghĩ không
biết trong hòm chứa đựng gì. Có một ngày, thừa cơ chồng đi vắng, cô không chịu
đựng nổi sự tò mò bèn mở hòm ra. Một làn khói đen tỏa ra, nhiều thứ bay ra cùng
với khói: tai họa, thống khổ, và bệnh tật.
Panđôra hốt hoảng đóng nắp hòm lại nhưng mọi tai họa,
thống khổ và bệnh tật đã bay ra cả nhân gian rồi. Chỉ có một thứ chưa kịp bay
ra thì nắp hòm đã đóng lại. Đó là hy vọng. Chỉ có hy vọng là chưa kịp bay ra.
Mọi tai họa, thống khổ và bệnh tật từ đó bắt đầu lan rộng
khắp nhân gian.
Câu chuyện xưa này rất có tác dụng thức tỉnh. Tuy chúng ta
sống trong một hoàn cảnh đầy tai họa, thống khổ và bệnh tật... một hoàn cảnh do
Trời tạo ra, thế nhưng, trong cái hòm của chúng ta còn có hy vọng, vì vậy mà
chúng ta có thể đối phó với tai họa, thống khổ và bệnh tật.
Bồ đề và phiền não kỳ thực là giống nhau. Phiền não là ở trong hoàn cảnh của chúng
ta. Bồ đề là ở trong tâm của chúng ta. Nên có thái độ rất tốt đúng đắn để đối
phó với phiền não thì sẽ vượt qua được phiền não.
13. Khai Phá Sự Hoàn
Mỹ Nội Tâm
Con người sinh ra có phiền não là vì trong quá khứ tìm cầu
và ham muốn.
Tôi có biết một câu chuyện như sau: Ngày xưa, có một ông
già, đã hơn 70 tuổi mà chưa lập gia đình. Ông đi nhiều nơi để tìm vợ. Mọi người
thấy ông khó nhọc như vậy, hỏi ông ta tìm gì? Ông ta trả lời: Tôi đi tìm một
phụ nữ hoàn mỹ để kết hôn. Người ta rất đồng tình với ông già, và hỏi tiếp: Ông
đã đi nhiều đoạn đường như vậy mà không tìm được một phụ nữ hoàn mỹ hay sao?
Ông già nói với giọng đau thương: Khi tôi còn trẻ tuổi cũng đã tìm được một phụ
nữ hoàn mỹ, không người nào có thể so sánh được! Mọi người hỏi: Thế sao ông
không cưới người phụ nữ đó? Ông già nói: Vì cô ta cũng đi tìm một người đàn ông
hoàn mỹ.
Các vị xem, nếu hướng ra ngoài để tìm cái hoàn mỹ thì sẽ
vĩnh viễn không tìm được. Nếu tìm ra được cái hoàn mỹ chăng nữa thì anh cũng
bất lực, vì bản thân nội tại anh chưa hoàn mỹ thì anh có tư cách gì, phúc phận
gì để hưởng được cái hoàn mỹ đó.
Vì bản thân nội tại của chúng ta chưa hoàn mỹ cho nên mọi
cái chúng ta thấy đều không hoàn mỹ.
Muốn cầu đạo Bồ đề, muốn phá trừ phiền não, điều quan trọng là giữ vững được hy
vọng, để khai phá sự hoàn mỹ của bản thân, khiến mình trở thành một con người
hoàn mỹ. Chỉ khi nào chúng ta biến thành được con người hoàn mỹ thì chúng ta sẽ
thấy thế giới cũng là hoàn mỹ. Tới đâu, ở đó cũng tốt. Tới đâu ở đó cũng là cõi
nước thanh tịnh.
Giải thoát là mục đích của việc học Phật. Một con người
theo con đường hoàn mỹ, cuối cùng sẽ được giải thoát. Giải thoát có hai điều
kiện; hoàn mỹ cũng có hai điều kiện. Thứ nhất là nội tâm thanh tịnh. Thứ hai là
ngoại cảnh thuần tịnh.
Phật Thích Ca Mâu Ni từng dạy chúng ta: Nếu nội tâm không
thanh tịnh thì ngoại cảnh không thể thanh tịnh được. Muốn tìm một hoàn cảnh lý
tưởng, hoàn mỹ để tu hành là chuyện không thể được, bởi vì bản thân nội tại của
chúng ta không phải là lý tưởng, cũng không phải là hoàn mỹ. Nhận thức hoàn
cảnh hiện tại là không lý tưởng và không hoàn mỹ, và trong hoàn cảnh đó vẫn giữ
vững hy vọng và tu hành. Đó chính là thái độ mà người tu hành nào cũng nên có.
14. Làm Cho Thanh
Tịnh Thân, Miệng, Ý
Lại dựa vào mối quan hệ cán dao và mũi dao để bàn vấn đề
làm thanh tịnh thân, miệng, ý.
Điều quan trọng nhất của học Phật là làm cho thanh tịnh
thân, miệng, ý để đạt tới sự thanh tịnh của nội tâm. Thanh tịnh thân là hành vi
thanh tịnh nơi thân. Thanh tịnh miệng là lời nói thanh tịnh. Thanh tịnh ý là ý
thức, ý niệm đều thanh tịnh. Với thân, miệng, ý thanh tịnh thì con người mới
được thanh tịnh. Để thân, miệng, ý được thanh tịnh thì chỉ có một cách là giữ
cho ý niệm được thanh tịnh. Bởi vì hành vi và lời nói đều xuất phát từ ý niệm.
Có ý niệm rồi mới có hành vi và lời nói thanh tịnh. Ý niệm là cái quan trọng
nhất.
Người học Phật phải biết rằng, khống chế được ý niệm là
điều quan trọng nhất, chứ không cần tìm động cơ và ý thức của hành vi và lời
nói. Hành vi và lời nói giống như mũi dao. Nếu không nắm vững được cán dao ý
niệm, thì sẽ rất dễ phạm sai lầm trong hành vi và lời nói. Vì vậy phải nắm thật
vững cán dao ý niệm, phải khống chế được ý niệm của mình. Trong Phật giáo căn
bản, có một phương pháp rất tốt và rất đơn giản để nắm vững ý niệm. Đó là pháp
10 niệm. Người nào muốn tiến theo con đường đạo Bồ đề, thì phải canh cánh trong
lòng đừng quên 10 niệm này.
- Thứ nhất là niệm Phật: Phải ngưỡng mộ, tìm cầu, tin
tưởng những thành tựu của đức Phật, và nuôi hy vọng mình cũng sẽ thành Phật.
- Thứ hai là niệm Pháp: Thường xuyên nhớ nghĩ Phật pháp do
Phật Thích Ca giảng dạy, hy vọng Phật pháp đem lại lợi ích cho thân tâm mình.
- Thứ ba là niệm Tăng: Thường xuyên nhớ nghĩ rằng, ở đời
này đã từng có những bậc tu hành vĩ đại và noi gương theo họ.
- Thứ tư là niệm Giới: Nghĩ nhớ tới Giới luật. Hành vi và lời
nói của mình không được vi phạm giới luật.
- Thứ năm là niệm Thí: Thí là bố thí. Bố thí là xả bỏ.
Thường nghĩ nhớ rằng phải xả bỏ những cái của mình, xả bỏ đến mức độ không còn
xả bỏ được nữa, thì sẽ đạt tới cảnh giới “không tánh.”
- Thứ sáu là niệm Thiên: Niệm Thiên là nghĩ nhớ tới các cõi trời thù thắng.
Trong Phật giáo căn bản, đức Phật giảng về các cõi trời thù thắng, khuyên chúng
ta nghĩ nhớ tới các cõi Trời, sống theo năm giới, 10 thiện, thì có thể tái sanh
lên các cõi trời, vì đời sống ở nhân gian rất thống khổ.
- Thứ bảy là niệm nghỉ ngơi: Nghỉ ngơi là rất quan trọng không phải là cái gì
xấu. Ngồi Thiền lâu thấy mệt, ngủ một giấc thì có quan hệ gì? Ngủ một giấc dậy
lại ngồi Thiền nữa. Nhưng nghỉ ngơi còn có một nghĩa khác, tức là nghĩ cách làm
cho phiền não dừng nghỉ, yên nghỉ. Phiền não yên nghỉ tức là Bồ đề.
- Thứ tám là niệm An Ban: Niệm An Ban là niệm hơi thở,
thường niệm hơi thở ra vào. Theo Phật giáo có ba lớp hô hấp: Lớp 1 là suyễn.
Leo núi, mệt quá thở khò khè gọi là suyễn. Đêm ngủ ngáy ồn cũng gọi là suyễn.
Đó là cảnh giới thấp nhất. Lớp hai là khí. Người bình thường đều thở ra vào
theo lớp hai tức lớp khí. Lớp ba là tức, thở ra vào nhè nhẹ, như có như không.
Thở như con rùa, thở rất ổn định. Lối thở này làm cho con rùa sống rất thọ. Tôi
có người bạn tên là Ngộ Huyền Tam, đi du lịch ở Ba Tây (Brazil), mua được con
rùa rất lớn, bỏ vào hòm, gởi theo đường hàng không về Đài Loan. Vì ông ta còn
thăm một số nước khác, sau đó mới về nước. Ba tháng sau về nước, mở nắp hòm ra
vẫn thấy con rùa còn sống, và ngẩng đầu cười với người chủ mới của mình. Hiện
nay, con rùa vẫn được nuôi ở nhà ông Tam.
Ngài Kha Lộ Nhân Ba Thiết từng giảng rằng, một người chỉ
chú trọng hô hấp mà không lo mở mang Trí tuệ, thì khi tái sanh anh ta có thể
thành con rùa, hay một loại động vật ngủ suốt mùa đông, như con rắn, con báo
v.v... Chúng ta niệm hơi thở ra vào, nên vào lúc đi đường, đi tản bộ, khi đi
ngủ, khi ngồi Thiền, chúng ta đều phải chú ý tới hơi thở ra vào cho thật ổn
định.
- Thứ chín là niệm thân: Nghĩ tới thân này là vô thường,
không thể là vĩnh hằng, tồn tại mãi được, có ngày phải chết, rời bỏ thế gian
này. Không phải chỉ riêng thân mình như vậy mà thân các chúng sanh cũng đều như
vậy. Nếu biết niệm thân là vô thường, thì sẽ siêng năng, tinh tấn. Nếu không
thì suy nghĩ: Hôm nay, khoan đã chưa tu hành vội gì tu hành quá khổ. Ngày mai
rồi lại ngày mai, lần lựa mãi, cho đến lúc không còn ngày mai nữa. Khi ấy hối
tiếc cũng không kịp.
- Thứ mười là: Thường nghĩ nhớ rằng mình rồi đây sẽ chết, người
nào cũng phải chết, thấy cái chết trước mặt, thì mới mở mang Trí tuệ được.
Nhớ nghĩ mười niệm như vậy sẽ không đánh mất bản thân
mình. Tu hành đến chỗ không có niệm là chuyện hết sức khó khăn. Nhưng tu phép
10 niệm thì không khó khăn. Hãy nên bắt đầu bằng phép tu 10 niệm.
15. Giữ Thái Độ Cảm
Ân Vô Hạn
Chúng ta nắm vững được ý niệm, cũng như nắm vững cán dao
vậy. Chỉ cần nắm cán dao cho vững thì khi dùng dao sẽ không sợ hãi.
Qua ví dụ con dao, cán dao và mũi dao, chúng ta sẽ có
nhiều cách nhìn mới đối với nhân sinh, đối với Trí tuệ. Mỗi người hằng ngày đều
có cơ hội cầm dao. Cái dao bản thân không phải tốt hay xấu, cũng như Bồ đề và
phiền não, cũng không phải tốt hay xấu, vấn đề là ở chỗ, người nắm cán dao dùng
dao như thế nào? Không nắm vững cán dao mà học Phật thì trở lại gây thương tích
cho bản thân mình.
Hằng ngày cầm dao mà có cách nhìn như vậy, Trí tuệ như
vậy, thì sẽ có ngày được khai ngộ, giống như Hòa thượng Thạch Thất vậy. Đến
ngày đó sẽ thấy, giữa trời đất này, cây cỏ nào cũng dùng làm thuốc được, bất cứ
gì cũng có thể dùng mở mang Trí tuệ được. Phải biết sống ở đây, sống trong hiện
tại biết nhìn dưới chân mình.
Ngày nào, thức dậy cũng giữ một thái độ rất tốt để tu
hành. Khi ăn sáng, hãy biết ăn với tâm rất hoan hỷ. Ăn trưa, ăn tối và ngủ cũng
với tâm trạng như vậy. Đó là tâm trạng cảm ơn, chân thành cũng như khi lễ Phật,
tụng kinh, vái Phật ở Phật đường vậy.
Người học Phật, mỗi bữa ăn, đều có thái độ cảm ơn như vậy.
Tức là cúng dường Phật, cúng dường Pháp, cúng dường Tăng, cúng dường tất cả
chúng sanh, rồi sau đó mới cúng dường bản thân mình. Tâm trạng thuần thành đó,
thái độ trang nghiêm không khác gì lúc cúng dường Phật tại Phật đường vậy. Chỉ
có làm đến trình độ như thế, thì mới thật sự kết hợp tu hành với cuộc sống, mỗi
ngày 24 giờ đều có tu hành.
Tôi nghĩ rằng, khi chư Phật thấy chúng ta ăn sáng một cách
ngon lành, các Ngài sẽ tán thán chúng ta: Hãy xem người này với thái độ cảm ân
thuần thành biết dường nào, đang ăn thức ăn cúng dường của chúng sanh.
16. Tâm Hoan Hỷ Vô
Lượng
Đức Phật Thích Ca, trước khi giảng kinh, thường mặc áo,
cầm bát, đi vào làng hóa duyên. Sau khi về, ăn xong. Ngài mới bắt đầu giảng
kinh. Mỗi lần đọc kinh “Kim Cang”, đọc phần mở đầu như vậy, tôi đều hết sức cảm
động. Điều cảm động là, Phật cũng ăn no rồi mới có thể giảng kinh. Phật cũng
như chúng ta, cũng ăn cơm, cũng sống giữa nhân gian.
Khi học Phật, phải quyết tâm không tách rời cuộc sống. Nếu
tách rời cuộc sống mà học Phật, thì học Phật sẽ trở thành vọng niệm, trở thành
hư vọng, không thực tế, không nắm vững được. Nếu gắn liền chặt chẽ cuộc sống
với học Phật thì sẽ phát hiện, mỗi bước đi của chúng ta đều đặt chân trên thực
địa, cuộc sống sẽ đầy hỷ lạc, đầy chuyện tốt lành.
Trong Phật giáo căn bổn cũng như trong Phật giáo Đại thừa,
Phật Thích Ca đều dạy chúng ta tu tập bốn vô lượng tâm: Từ vô lượng tâm, Bi vô
lượng tâm, Hỷ vô lượng tâm, Xả vô lượng tâm.
Trong bốn Vô lượng tâm nói trên, thường bị bỏ quên là Hỷ vô lượng tâm. Hãy thấy
cái tâm vui vẻ tràn đầy đó chính là tâm Bồ tát. Đây là lời giáo hóa rất quan
trọng trong Phật pháp cơ bản.
Nếu anh tự cảm thấy quá nghiêm túc quá đăm chiêu thì hãy
thư giãn một tí, hãy thả lỏng thắt lưng và cởi bỏ bộ âu phục ra. Làm như vậy,
không có can hệ gì, cũng không ảnh hưởng gì tới tu hành.
Hãy thư giãn một chút ít! Chúng ta hãy điều chỉnh lại bước
đi, với một thái độ tốt đẹp, bình thản, chúng ta bước tới!
Nên thường xuyên ghi nhớ: Lòng hoan hỷ phải là vô lượng,
vô biên. Cũng như lòng Từ bi, cũng như hạnh bố thí vô biên. Tu hành được như
thế thì sẽ không phát sanh vấn đề, và trong quá trình tu hành, cũng sẽ thực sự
thể nghiệm được pháp lạc, thể nghiệm học Phật pháp là vui.
Pháp lạc là gì? Cũng gọi là niềm vui của Thiền, niềm vui
của Pháp. “No bụng bằng niềm vui của Pháp.” Đó là kinh nghiệm rất trọng yếu của
sự tu hành.
Tâm hỷ vô lượng! Trước hết hãy chiếu cố đầy đủ người
trong nhà anh, đảm bảo họ ăn uống đầy đủ, và mình cũng ăn uống đầy đủ. Sau đó
mới có tâm tình và sức mạnh để giảng kinh cho họ nghe. Đức Phật cũng làm như
vậy.