Ai cũng có kinh nghiệm yêu người, ghét người, và cũng đều
hiểu rõ thế nào là ái tình, thế nào là thù hận.
Nếu anh là người ít kinh nghiệm, thì hãy xem tiểu thuyết
hay các phim truyền hình. Nội dung của các tiểu thuyết và phim truyền hình, nói
chung cũng không vượt ngoài phạm vi yêu, ghét, tình, thù.
1. Trong Nhân Gian,
Đâu Đâu Cũng Có Yêu Ghét Tình Thù
Xem phim truyền hình và tiểu thuyết, chúng ta biết được
nhiều chuyện kỳ lạ trên đời. Chúng thực ra không có gì là đặc biệt, mà chỉ là
những bức ảnh thu nhỏ lại của đời sống thực tế. Những câu chuyện trong tiểu
thuyết, trong kịch truyền hình đều có thể xảy ra trong cuộc sống hiện thực, và
hàng ngày đều có thể xảy ra.
Cách đây vài ngày tôi có nhận được thư một nữ độc giả ở
miền Nam.
Đó là một cô gái tuổi còn trẻ, câu chuyện của cô ta kể lại trong bức thư có đủ
tính kỳ lạ và bi kịch để viết thành một thiên tiểu thuyết.
Cô ta, sau khi tốt nghiệp trường Cao Trung ở miền Nam, bèn
lên Đài Bắc học đại học, sau yêu một sinh viên đồng học, và mặc dù gia đình
phản đối, hai người vẫn lấy nhau và sống 3 năm rất hạnh phúc.
Cha của cô gái là lái xe cho một công ty vận tải hàng. Một
ngày, ông ta chở hàng từ miền Nam
lên Đài Bắc. Dọc đường, xe ông cán chết một người đi đường. Người đó chính là
con rể của ông ta. Thực là một ngẫu nhiên bất hạnh, không thể nói xiết được.
Cô gái, với người con 3 tuổi, không có cách gì sống được ở
Đài Bắc, chỉ có thể trở về miền Nam
sống với cha mẹ. Hàng ngày gặp người lái xe đã cán chết chồng mình, mà người đó
lại chính là cha mình, mâu thuẫn trong nội tâm cô ta thật là đau đớn.
Còn người cha thì hằng ngày gặp con gái mình, rất lấy làm
đau lòng nhưng không làm sao được. Làm sao ông biết được người rể của ông trên
đường ông đang chạy xe, và bị xe ông cán chết?
Trong thư, người con gái hỏi tôi: “Đó là do nhân duyên gì?”
Tôi không trả lời được. Làm sao có một tình tiết kiểu
“điện ảnh” như vậy xảy ra trong đời sống hiện thực? Có đấy, tôi có đọc một
truyện gián điệp rất có ý nghĩa như sau: “Đầu cuộc thế giới đại chiến lần thứ
nhất, có một gián điệp người Đức tên là Karl đến Pháp làm tình báo, bị Pháp bắt
được và giam lại, rồi lấy danh nghĩa của Karl cung cấp tin tình báo giả cho
Đức, sau đó lại thu thập tin tình báo của Đức gởi cho Karl.”
Ba năm sau, Karl được trả tự do. Bên Pháp thu được một
khoản tiền lớn, là tiền lương hàng tháng của Karl. Không biết dùng làm gì, bèn
mua một chiếc xe hơi đặt tên là Karl, để kỷ niệm việc dùng tên người này mà thu
thập được nhiều tin tình báo quan trọng.
Một ngày năm 1919, chiếc xe hơi đó đang chạy trên đường
thì cán chết một người. Mà người đó lại chính là Karl, một gián điệp lừng danh
thế giới.”
Tôi đọc truyện ấy rất đỗi kinh ngạc. Sao trên đời này lại
có những ngẫu hợp lạ lùng như vậy? Có đấy, nhất là những truyện liên quan đến
ái tình và cừu hận.
Không có người nào, kể cả người rất giàu, dám nói với người
khác: “Tôi hoàn toàn hiểu rõ ái tình” (hay là cừu hận).
Bởi vì ái tình cũng như cừu hận đều không thể tăng theo
lũy tích được, lần này, anh nói bị thất bại trong luyến ái, và anh nghĩ rằng:
“Lần sau, tôi sẽ khéo và thông minh hơn, tôi có thể yêu đương thành công hơn.”
Nhưng, anh lại có thể thất bại lần nữa.
Luyến ái vĩnh viễn không có cách nào tích lũy kiến thức,
Trí tuệ “cho anh đâu.
”Đối với cừu hận cũng vậy. Bởi vì, mỗi lần yêu đương hay
hận thù đều có bộ mặt riêng của nó.
2. Mở Mang Trí Tuệ
Trong Luyến Ái Và Hận Thù
Người học Phật nên giải quyết vấn đề luyến ái và hận thù
như thế nào cho phải?
Cũng tức là trong luyến ái và hận thù, tìm sự giác ngộ như
thế nào? Trong luyến ái và hận thù, mở mang Trí tuệ như thế nào? Làm thế nào
gạt bỏ được bộ mặt bên ngoài của luyến ái và hận thù để thấy được bộ mặt thật ở
bên trong!.
Trong kinh Phật có câu chuyện này:
Một ngày, Phật cùng với học trò đến một địa phương, thấy
một số tín đồ đạo Bà la môn tập họp và tụng kinh xung quanh xác một người chết.
Học trò hỏi Phật: “Họ tập họp xung quanh người chết như vậy để tụng kinh, thì
có thể làm cho người chết tái sanh lên các cõi lành được không?”
Phật không trả lời mà hỏi lại học trò: “Nếu đem một hòn đá ném xuống giếng, rồi
tập họp người xung quanh giếng tụng kinh cầu cho hòn đá nổi lên, thì hòn đá nó
có nổi lên mặt nước không?"
Các học trò đều trả lời: “Hòn đá không thể nổi lên được.”
Phật lại hỏi: “Vì sao?”
Học trò trả lời: “Hòn đá vì bản chất nó không nổi lên
được.”
Phật nói: “Điều này cũng giống như những người Bà la môn
kia, khi họ tụng kinh xung quanh người chết vậy. Khi hành vi của bản thân một người
quyết định mạng vận của người ấy sau khi chết rồi, thì người khác không có cách
gì thay đổi được.”
Đọc câu chuyện này, tôi kinh sợ: Một người chết rồi lại
dựa vào người khác để thay đổi mạng vận của mình! Hi vọng thật là mỏng manh xa
vời, cũng như hòn đá chìm xuống giếng rồi, khiến nổi lên sao đặng. Nếu hiện
nay, không ra sức nâng cao bản thân mình, thì có khác gì mạng vận của hòn đá bị
ném xuống giếng!
Bài học của câu chuyện đó là:
1. Tự giác là điều trọng yếu nhất. Người khác có thể sám
hối, hồi hướng, tụng kinh hộ cho mình, tuy cũng có công đức lớn nhưng vẫn là
hạn chế.
2. Phật giáo có tính nhân gian rất mạnh. Nếu như ở đời
này, thế gian này, anh không có cách nào tự giải thoát thì sau khi chết đi sẽ
rất khó giải thoát; khi còn sống, không giải quyết được vấn đề thì sau khi chết
đi, cũng sẽ không giải quyết được vấn đề.
3. Hành vi của người có thể quyết định tương lai của người
đó, quyết định đời sống tiếp sau của người đó, quyết định bước chuyển của người
đó trong luân hồi. Hành vi của con người có thể quyết định tất cả.
3. Suy Nghĩ Lại Hành
Vi Và Nhân Sanh
Qua câu chuyện kể trên, mới thấy được “hành vi” của con người
thực là trọng yếu.
Làm người mà có hành vi và ý nghĩ yêu thương và hận thù là
chuyện rất tự nhiên. Một người không có yêu thương, cũng không có hận thù sẽ bị
xem như là kỳ dị. Do yêu thương mà chúng ta có các hành vi này, hành vi khác kể
cả từ bỏ sinh mạng, còn đối với người mình oán hận, thì thậm chí một trang giấy
mình cũng không muốn bỏ ra.
Tuy rằng yêu thương, hận thù là chuyện rất tự nhiên, nhưng
ban đêm, khi tinh thần vắng lặng, sáng suốt, chúng ta hãy suy nghĩ lại vấn đề
ấy xem sao?
Yêu thương, hận thù có phải là bản chất của con người
không?
Con người có thể hay không vượt lên trên những tình cảm đó
để sống với một đời sống an tịnh?
Làm người, phải chăng cả đời đều phải quanh quẩn trong vòng yêu thương, hận thù
hay sao?
Biết suy nghĩ như vậy, thì sẽ phản tỉnh và tìm ra được lối
suy nghĩ mới.
Một người nếu sống đến tuổi 70, tức là đã sống qua 2 vạn,
năm nghìn, năm trăm năm mươi ngày, cũng tức là 61 vạn 3 nghìn 2 trăm giờ, hay
là 3.679 vạn 2 nghìn phút. Nếu tính thành khắc, thì sẽ là 22 ức, 752 vạn khắc
(Khắc là giây (30 giây bằng một phút); 1 ức = 100 triệu. 22 ức =
2.200.000.000). Một thời gian dài như vậy dùng để làm gì?
Bạn tôi có một ví dụ rất hay. Hơn 2 vạn 5 nghìn ngày sinh
mạng có thể ví với 2 vạn 5 nghìn đồng gởi ngân hàng, chỉ có điểm khác là ngân
hàng sinh mạng quy định mỗi ngày chỉ được phép rút một số tiền nhất định để chi
dùng mà thôi. Mỗi ngày chỉ được dùng một số tiền. Tự nhiên số tiền ấy rất có
giá trị. Người rút tiền phải suy nghĩ, trong một ngày dùng số tiền đó như thế
nào. Mỗi ngày trước khi ngủ, phải suy nghĩ xem số tiền đó trong ngày có được
dùng vào những việc có ý nghĩa hay không; nếu đó hoàn toàn là những việc vô
nghĩa thì số tiền đó xem như là đã hoang phí.
Mỗi ngày, một người làm việc bình thường tám tiếng, ngủ
tám tiếng và nghỉ ngơi tám tiếng. Suốt ngày công tác rất là bận. Thu được tiền
vào cũng có hạn. Để có số tiền thu vào, cũng phải rất gian khổ. Bởi vì ngoài
công tác ra, còn có các vấn đề nhân sự phải xử lý, và trong xử lý, thế nào cũng
có mâu thuẫn.
Trong công tác thường có những nỗi khổ lớn, mà đức Phật
nói, tức là xa người mình mến: người mà anh ưa thích không phải là đồng sự của
mình. Gần người mình ghét: người mình ghét, lại hàng ngày làm việc với mình.
Cầu không được: mỗi tháng đều muốn tăng lương mà không được; hàng ngày trong
công việc, gặp những thứ phiền muộn. Có thể nói trong số một trăm người làm
việc ở thời buổi này, hết chín mươi người không làm việc được thoải mái.
Rất nhiều người đến gặp tôi và kể về hoàn cảnh công tác
khó khăn củahọ. Có thể thấy vấn đề lớn của con người hiện đại là rất ít người
hiểu rõ được ý nghĩa của nhân sinh quan trong công tác. Đặc biệt là những người
thuộc lứa tuổi thành niên của chúng tôi, phải làm việc để nuôi sống gia đình,
mỗi chiều tối đi làm việc về, vắt tay lên trán tự hỏi: Vì sao lại phải sống qua
ngày như thế này?
Trong kinh Phật, có câu chuyện như sau:
Có con một nhà giàu, dùng đạn vàng để bắn chim. Mọi người
đều choanh ta là ngu xuẩn. Vàng là cái quý báu nhất, lại đem bắn chim. Nếu bắn
trúng thì còn được, nhưng đại bộ phận đạn bắn ra đều không trúng đích, bay đi
đâu không ai biết.
Đức Phật mượn chuyện cổ tích “Đạn vàng bắn chim” để răn
dạy chúng ta rằng, số đông người đều dùng sinh mạng rất quý báu để làm những
việc không có ý nghĩa, không có lợi ích đối với bản thân.
Hàng ngày, vẫn có một số người sống như gã con nhà giàu
trong truyện, lấy đạn vàng bắn chim sẻ. Dùng thời gian rất quý báu để đổi lấy
đồng lương không có giá trị, hay chỉ có giá trị ít ỏi. Trong công tác lại không
thấy có tiến bộ. Phải chăng đó là 8 giờ công tác bị lãng phí?
Còn 8 giờ ngủ?
Phần lớn 8 giờ ngủ là trải qua những giấc mơ, phản ứng lại
những sự cố trong ngày. Những tình cảm bị ức chế trong ngày lại bộc phát kịch
liệt trong giấc mơ ban đêm. Giấc mơ cũng đầy rẫy những chuyện đáng sợ, ít có
giấc mơ tốt đẹp làm tăng trưởng Trí tuệ. Như vậy, 8 giờ ngủ ban đêm cũng là
lãng phí.
Còn 8 giờ nghỉ ngơi còn lại thì sao?
Thông thường, đàn ông thì giao tiếp bạn bè, phụ nữ thì xem
truyền hình, phần lớn số tiền kiếm được trong công tác gian khổ, đều đem chi
dùngcho sự nghỉ ngơi. Trước ngày lập gia đình thì đại bộ phận thời gian nghỉ
ngơi, đàn ông dành cho hẹn hò, uống cà phê, nói chuyện điện thoại. Sau khi kết hôn
thì thời gian nghỉ ngơi lại dành để vợ chồng cãi nhau, to tiếng, thậm chí còn
đánh nhau nữa. Đánh nhau rồi, lên giường, vợ chồng mỗi người nằm một góc
giường, mỗi người theo đuổi dòng suy nghĩ riêng của mình. Thế là 8 giờ nghỉ
ngơi trôi qua!
Tóm lại, 8 giờ công tác là 8 giờ theo đuổi dục vọng, 8 giờ
nghỉ ngơi là 8 giờ thỏa mãn dục vọng, 8 giờ ngủ là 8 giờ mê mờ trong dục vọng.
Sống qua những ngày như vậy, thực là đáng sợ. Dù có tới 22
ức giây phút cũng là trôi qua mau chóng một cách hư vọng.
Những người sống như vậy là phàm phu. Trong chữ phàm có
một điểm tâm 凡. Đó là cái tâm theo đuổi dục vọng.
Nếu bỏ được cái tâm ấy đi, thì con người trở nên thanh tịnh
Cái tâm trong chữ phàm là cái tâm luyến ái và thù hận, là
cái tâm khiến cho chúng ta lẩn quẩn ở trong thế gian này.
4. Thương Yêu, Hận
Thù Là Có Thể Thay Đổi
Mỗi cá nhân chúng ta đều đã nếm mùi ái tình. Nếu ái tình
mà thất bại thì sinh ra hận thù. Ái tình, thù hận đan xen nhau mà sản sanh ra.
Yêu biến thành hận; tình biến thành thù. Người yêu chia tay với mình rất khó
trở thành bạn tốt của mình được, bởi vì mình không có cách nào khác tha lỗi cho
đối phương, vì lòng thương trước đây đã biến thành hận thù rồi.
Khi tình yêu đã biến thành hận thù, mà hóa giải hận thù
thành ra không có gì hết, là chuyện hết sức khó khăn. Nhưng nếu gắng sức thì
vẫn cóthể làm được.
Khi đã thương yêu đến mức có thể hi sinh tính mạng thì
cũng có thể làm nhiều chuyện ngốc xuẩn, như là dầm mình trong mưa, lấy dao cắt
ngón tay để viết bức thư tình bằng máu (nhưng đối phương nghĩ là anh dùng thuốc
màu để viết). Thậm chí, nếu người yêu bảo anh nhảy từ trên lầu cao xuống để
chứng tỏ tình yêu say đắm, anh cũng nhảy. Khi còn nhỏ, tôi cũng là con người
như thế.
Có người tự sát vì thất tình. Vì sao? Vì muốn tỏ cho người
yêu biết, mình yêu cô ta nồng nàn tới mức nào, và cũng muốn chứng minh cho bản
thân mình thấy là mình thành tâm yêu cô ta tha thiết. Chỉ vì như vậy thôi mà hy
sinh cuộc sống quý báu của mình?
Khi tôi còn nhỏ, tôi cũng bị thất tình, cũng muốn tự sát.
Lại còn cho rằng, trên thế giới này người mà không có tư tưởng tự sát, nhất
định là người ngu. Đã là người tài hoa thì phải có tư tưởng tự sát!
Có bao nhiêu chuyện thú vị về vấn đề này. Người bị thất
tình vì muốn tự sát cho rằng sống trên thế gian này không còn có ý nghĩa gì
nữa. Đó toàn là những người bị hãm vào cảnh yêu thương và hận thù mãnh liệt,
không cách nào thoát ra được, nếu may mà thoát ra được cơn khốn quẩn đó thì sẽ
thấy không tự sát thực là hạnh phúc!
Như vậy, chúng ta thấy rất rõ, luyến ái và hận thù đều có
tính không gian và thời gian, không thể bao hàm tất cả mọi thời gian và không
gian được.
Thí dụ, anh bị một người hàng xóm lừa lấy một món tiền,
rồi người ấy bỏ trốn sang Mỹ. Anh không cách nào đòi lại số tiền ấy được. Qua
ba năm, lại vì đường xá xa xôi, anh cũng quên mất số tiền nợ đó. Bởi vì mối hận
thù của anh cũng đã vơi đi nhiều.
Yêu thương hay hận thù đều có thể biến đổi. Suốt cả đời
chỉ yêu một người hay ghét một người đều là chuyện khó khăn, bởi vì thời gian
làm thay đổi tâm tính của chúng ta.
Cô gái mà ngày xưa tôi yêu mến đến mức muốn tự sát, thì
vài năm sau, ngồi trong phòng làm việc, cố gắng mãi cũng không hình dung được
dáng mặt thân hình của cô ta như thế nào. Lúc này, tôi mới thấy rõ, tôi hoàn
toàn thoát khỏi vòng khốn quẫn của mối tình xưa!
Cho nên, phương pháp tốt nhất để giải quyết vấn đề yêu
đương và hận thù là đột phá sự hạn chế của không gian và thời gian, đứng ở một
vị trí cao hơn để xem xét.
5. Một Vị Trí Tương
Đối Cao Hơn, Với Trí Tuệ Mới Hơn
Có một loài cá, gọi là đấu ngư. Muốn nuôi giống cá này, phải
nuôi riêng mỗi con một nơi, nếu không thì chúng sẽ tàn sát nhau. Ngay đối với
con cá nuôi riêng lẻ, nếu đặt trước chậu nước một cái gương soi thì con cá cũng
sẽ húc đầu tấn công vào cái gương cho đến khi nó chết mới thôi.
Lúc đầu, tôi rất lấy làm lạ về tính chiến đấu của giống cá này, không hiểu làm
sao quần thể giống cá này có thể sinh sôi được. Sau khi nghiên cứu mới hiểu,
giống cá này có thói quen, mỗi con sống ở một địa bàn riêng, không được xâm
phạm địa bàn của nhau. Ở sông và suối, địa bàn không gian rộng, mỗi con sống ở
địa bàn riêng của mình, tự nhiên có thể hòa bình cùng tồn tại, không xâm phạm
lẫn nhau. Còn nếu nuôi giống cá này trong cùng một chậu nước thì chúng phải
đánh nhau đến chết mới thôi.
Nếu mở rộng không gian thì sẽ phát hiện đấu tranh không
còn có ý nghĩa gì nữa.
Con người hiện đại đấu tranh là vì không gian quá hẹp, và người
nào cũng muốn nới rộng phạm vi thế lực của mình.
Đột phá sự hạn chế của không gian và thời gian thì có thể
giải quyết vấn đề yêu thương và hận thù. Tuy nhiên, nói như vậy, cũng không phải
là dễ hiểu.
Có lần, tôi từ Đài Bắc, đáp phi cơ đi Cao Hùng. Sau khi
phi cơ bay, tôi nhìn thấy dưới đất có một quả núi đẹp đẽ lạ lùng, đầy hoa màu
lam, màu xanh, màu hồng. Tôi lấy làm lạ, sao mình ở Đài Bắc cũng đã lâu rồi mà
không biết có núi đẹp đẽ dường này, bèn hỏi một thiếu nữ ngồi gần: “Thưa cô,
nhờ cô xem hộ tôi, xem núi đẹp kia là ngọn núi nào?” Cô gái liếc mắt ngó xuống
rồi trả lời: “Đó là núi Lạp Sắc.”
“Núi Lạp Sắc!”
Núi Lạp Sắc này, nhìn dưới đất thì không đẹp, và còn dơ bẩn
nữa, chonên mới có tên như vậy (Lạp sắc: bụi bặm, dơ bẩn), nhưng nhìn từ trên
cao xuống thì lại khác hẳn, vì sao? Vì có một không gian rất rộng, và nhìn từ
cự ly xa!
Trong cuộc sống, chúng ta gặp rất nhiều chuyện tình ái và
hận thù, giống như núi Lạp Sắc vậy. Sở dĩ chúng ta không kham nhân chịu đựng
nổi là vì chúng ta ở ngay trong núi Lạp Sắc, nếu chúng ta ở mộ t vị trí cao hơn
thì núi Lạp Sắc không còn đáng ghê sợ, và chúng ta cũng đỡ bị nguy hại.
Ban đêm, tôi ngồi viết thường nghe tiếng như trẻ con khóc,
kỳ thực không phải là tiếng trẻ con khóc mà là tiếng mèo kêu. Tiếng mèo kêu
thực đáng sợ, đủ làm cho người ta sởn tóc gáy. Vì sao con mèo lại kêu dễ sợ như
vậy? Đó là tiếng gọi ái tình của con mèo. Tiếng kêu đó có thể làm cho mèo cái
xiêu lòng!
Nghe tiếng gọi ái tình của mèo, tôi thấy mình thực là may
mắn, vì conngười có thể có thái độ hòa dịu hơn để nói chuyện tình yêu.
Trước đây, tôi có nuôi một con mèo Xiêm. Lớn lên, nó cũng
kêu gọi ái tình. Tôi sợ mất con mèo Xiêm quý, cho nên đóng chặt cửa không cho
con mèo đi đâu cả. Nhưng có một ngày nó xổng qua cửa sổ mất hút. Năm ngày sau
mới về cả mình mẩy đầy thương tích, một bên tai đứt hẳn, chân lại bị què.
Tôi nhìn con mèo mà sững sờ. Một mặt băng bó thương tích
cho nó, một mặt nghĩ rằng, giống mèo làm chuyện ái tình thực là kinh thiên động
địa, với tất cả tính thú vật của nó. Thực là may mà giống người chúng ta không
làm chuyện ái tình đến mức độ ác liệt như vậy.
Nhưng chúng ta lại có thể thấy rất nhiều người làm chuyện
ái tình cũng không khác giống mèo! Làm đến mức bản thân bị tổn thương hay là cả
hai bên đều bị tổn thương.
Điều này giúp tôi nhận thức được rằng, nếu thay đổi quan
điểm để nhìn cùng một sự kiện thì sẽ sanh ra Trí tuệ mới.
Hãy mở rộng không gian để nhìn sự kiện mà chúng ta gặp phải:
Những khó khăn và thất bại, luyến ái và thù hận. Chúng ta sẽ phát hiện thấy sự
thực, ảnh hướng của chúng cũng không lớn lao mạnh mẽ gì, chúng ta sẽ thấy, ngày
trước bị ái tình hay thù hận làm cho khốn quẫn, thực là ngu xuẩn.
6. Thấy Rõ Thực Tướng
Của Nhân Duyên
Đứng trên quan điểm Phật giáo mà nói, thì trong phương
pháp tu hành của Phật giáo, điều cơ bản nhất là thay đổi quan niệm về không
gian và thời gian để đối xử với hiện thực.
Đối với thời gian chẳng hạn, cần nhận thức rằng, trước khi
chúng ta sanh, thời gian đã tồn tại, và sau khi chúng ta chết, thời gian vẫn
tồn tại. Do đó mà có quan niệm về ba đời: quá khứ, hiện tại và vị lai.
Đối với không gian, chúng ta cũng cần có quan niệm mở rộng
thì mới hiểu được đạo lý luân hồi và nhân quả. Cuộc tình duyên hiện tại của chúng
ta chỉ là cuộc tình duyên một đời sống trước chưa kết thúc; mối hận thù hiện
tại chỉ là một mối oan trái đời sống trước chưa trả xong. Nghiệp chướng cũng
chỉ là món nợ của chúng ta đối với thế giới này, sẽ được bồi hoàn dần dần với
cuộc sống này của chúng ta.
“Vô minh” là một sức mạnh đen tối đang làm chúng ta đau
khổ hiện nay, nó từ ở đâu đến nhỉ? Nó đến từ một thời vô thỉ, từ vô số lượng
kiếp trước không kể xiết được, và từ một không gian rất lớn, vô cùng.
Chúng ta thực không hiểu rõ, từ các kiếp trước, chúng ta
đã gây ra bao oan trái, mà hiện nay, chúng ta gặp lại bao nhiêu điều bất hạnh
như bị chà đạp bị vu nhục, bị đào thải. Nếu nghĩ rằng, trước đây, chúng ta cũng
đã từng biết bao nhiêu lần chà đạp, vu nhục, đào thải những người khác? Cứ nghĩ
như vậy, chúng ta sẽ bớt oán giận.
Có hai quan điểm, có thể rút ra từ suy nghĩ trên:
Một là yêu thương hay oán giận không thể không có nguyên
do của chúng.
Hai là bản chất của yêu thương và oán giận là một.
Đối với người tu hành, thì thanh toán hết các món nợ quá
khứ còn lại là việc làm trọng yếu nhất. Sám hối, hồi hướng cứu giúp người
khác... tất cả những việc làm đó là để trả nợ. Một trong những bộ kinh Phật
quan trọng làKinh Lăng Nghiêm. Một nửa đầu của bộ kinh nói về quan niệm “bồi
hoàn”, trả nợ. Chỉ sau khi chúng ta trả lại sáu căn tức mắt, tai, mũi, lưỡi,
thân, ý cho trời đất, trả lại sáu trần tức là sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp
cho thế giới này thì chúng ta mới có thể thấy được minh bạch Phật tánh của
chúng ta.
Thế nhưng, công việc “bồi hoàn” không phải là vứt bỏ sáu
căn, sáu thức của chúng ta, mà đầu tiên là phải mở rộng không gian và thời
gian, thì mới có thể thấy được thực tướng của nhân duyên.
7. Thiền Định Và Bát Nhã Làm Cho Tâm
Tính Không Dao Động
Muốn cho yêu thương và oán giận không làm dao động tâm
tánh của chúng ta, có hai phương pháp:
Một là Thiền định, sẽ giúp chúng ta đoạn trừ được ảnh hưởng của tình ái và thèm
muốn.
Hai là Bát nhã, tức là lấy Trí tuệ để mở rộng quan điểm
của chúng ta về không gian và thời gian, thấy rõ được lý chân không diệu hữu.
Nói như trên quá huyền diệu. Nhưng có một ví dụ có thể
dùng để minh họa. Một ví dụ mà mọi người đều biết, nhưng tôi sẽ giải thích theo
một quan điểm khác.
Thần Tú là người học trò giỏi của Tổ thứ năm Hoằng Nhẫn,
bất luận về mặt học vấn, tri thức hay là công phu Thiền định. Nhưng ông vẫn
không được truyền y bá t tuy trình độ tu hành của ông rất cao, nhưng đáng tiếc
là trong lịch sử, tên tuổi của ông bị ánh sáng của Huệ Năng che mờ.
Câu kệ của Thần Tú được nhiều người thảo luận:
“Thân như Bồ đề thụ,
Tâm như minh kính đài
Thời thời cần phất thức,
Mặc sử nhạ trần ai”
(Thân như cây Bồ đề,
Tâm như đài gương sáng
Luôn luôn siêng quét lau,
Chớ để dính bụi trần)
Ý tứ bài kệ là: Muốn có Trí tuệ Bồ đề phải giữ cho được
cái gương tâm thức được trong sáng. Và để giữ gương được trong sáng thì phải
luôn lau chùi, đừng để cho trong tư tưởng, tâm niệm của mình có cái gì nhơ bẩn
dính vào.
Có thể xét bài kệ trên của Thần Tú trên ba giác độ:
Một là bài kệ của Thần Tú vẫn ở trong phạm vi “hữu” (có).
Có cái thân này, cái tâm này, có bụi bặm. Do đó, chưa hiểu được triệt để “tính
không” của sự vật.
Hai là Thần Tú cho rằng Thiền có mục tiêu để đạt tới. Mục
tiêu và phương pháp là quét chùi thật sạch, quét chùi không ngừng mọi bụi bặm
trong tâm thức. Thế nhưng, mục tiêu của Thiền không phải là quét chùi bụi bặm
của tâm. Công năng của Thiền định không phải là để “có” được một cái gì hết.
Ba là Thần Tú cho rằng, một người muốn nhập cảnh giới
Thiền, thì phải phấn đấu không ngừng (luôn luôn lau chùi bụi bặm nơi tâm). Muốn
nhập cảnh giới Thiền, đúng là phải phấn đấu. Thế nhưng, kinh Phật lại dạy chúng
ta Bát nhã là không có tranh đấu, là không có Người, Ta không có mục tiêu có
thể đạt tới. Bài kệ của Thần Tú được xem là chưa ngộ đạo, không có cách nào để
thấy được thực tướng chân chính.
Còn bài kệ của Lục Tổ Huệ Năng là:
“Bồ đề bổn vô thụ
Minh kính diệc phi đài,
Bổn lai vô nhất vật,
Hà xứ nhạ trần ai!”
(Bồ đề vốn không có cây,
Gương sáng cũng không đài,
Xưa nay vốn không có vật nào hết
Có nơi nào để dính bụi?)
Bài kệ của Huệ Năng cũng có thể xét trên ba giác độ:
Một là bài kệ này nói về thực tướng của Bát nhã. Không có
một danh tướng nào có thể bao hàm Bát nhã, không thể nói Bát nhã là “cây Bồ đề”
hay “đài gương sáng”, không thể nói Bát nhã là “cái này” hay “cái kia”, hay
“một cái gì đó cố định”, Bát nhã chính là Tánh không tuyệt đối.
Hai là công phu Thiền định là để mở cửa Bát nhã. Người nào thấy được tướng thật
của Bát nhã, thì căn bổn sẽ không có cửa để mở, cũng không có bụi bặm, căn bản
không có nhiễm ô, cũng không cần lau chùi.
Ba là ra sức cầu Bát nhã Tam muội không có gì là sai.
Nhưng nếu dừng lại trên ý nghĩa của sự tìm cầu đó thì Bát nhã “không phải là ở
đây.”
Bài kệ của Thần Tú cho chúng ta thấy Thiền định là quan
trọng. Bài kệ của Huệ Năng cho chúng ta thấy, ngoài Thiền định ra, còn có một
cái siêu việt Thiền định, quan trọng hơn Thiền định. Đó là Bát nhã. Bát nhã là
Trí tuệ sâu xa vi diệu nhất.
8. Từ Thiền Định Và
Bát Nhã Xem Xét Luyến Ái Và Hận Thù
Một người dùng công phu Thiền định để khắc phục tình dục
là chuyện hết sức khó khăn và gian khổ, nhất là con người hiện đại, có nhiều
vọng niệm lại càng khó dùng công phu Thiền định để khắc phục tình dục.
Nhà văn Nhật Bản Thực Đốc có viết một truyện cổ tích nội
dung như sau: có một vị tiên, tên là Cửu Mễ vì thất tình cho nên xuất gia tu
hành, cho rằng đó là phương pháp tốt nhất để giải quyết tình dục. Ông tu hành
trong núi 30 năm, và tự cho rằng mình đã hoàn toàn khắc phục được tình dục. Lúc
bấy giờ, ông đã có được nhiều phép thần thông bèn gọi một đám mây lại, nghĩ
rằng sau khi mình đã hoàn toàn chế ngự được tình dục thì có thể xuống nhân gian
đi chơi một chuyến. Bèn cưỡi mây đi chơi. Khi bay qua một con sông, ông thấy
một phụ nữ đang giặt quần áo. Ông lại gần xem xét thì động niệm: “Đùi cô gái
này sao mà trắng đẹp thế?” Niệm vừa động như vậy thì mây tản ra, nên ông rơi
xuống đất!
Dùng phương pháp Thiền định để khắc phục tình dục thì cũng
giống như tiên ông Cửu Mễ, nhất là trong xã hội hiện nay, con người hiện đại
muốn dùng Thiền định để khắc phục tình dục thì cũng giống như vào thời Phật
Thích Ca còn tại thế, hầu như không thể làm được. Trừ phi đó là người có năng
khiếu đặc biệt, còn người bình thường thì không thể.
Con người hiện đại, muốn khắc phục tình dục, giải quyết
tình dục thì phương pháp duy nhất là mở mang Trí tuệ Bát nhã. Vì sao mở mang
Trí tuệ Bát nhã lại có thể giải quyết được vấn đề tình dục?
Bởi vì con người có một bản thể siêu việt cảm quan. Dù
rằng trước kia, anh có phạm tội lỗi gì, có tình yêu hay thù hận gì, bản thể đó
cũng không bị ô nhiễm.
Khi học tập Thiền định, mà có một tư tưởng xấu nảy sinh
thì phương pháp của Thần Tú sẽ là đoạn trừ tư tưởng đó. Sự vĩ đại của Lục Tổ
Huệ Năng chính là ớ chỗ ông nhận thức được rằng, trong con người có một bản thể
không bị ô nhiễm, do đó có thể hoàn toàn không cần xử lý bụi bặm trong đời
sống, không cần phải chùi quét ý thức khỏi tư tưởng xấu. Ông đề cao tâm tánh
con người lên vị trí thanh tịnh tối cao. Nhờ đứng ở vị trí thanh tịnh như vậy,
cho nên đối với mọi chuyện ở đời, dù là rất nhỏ nhặt cũng có thể dùng cái nhìn
trực quan để thấy rõ ràng minh bạch.
Nhận định chủ quan rằng, trong con người, có một bản thể
thanh tịnh không nhiễm, có thể giúp người học Phật chúng ta có được niềm tin
rất lớn, tức là dù có lúc mắc vào chuyện tình ái cũng không có quan hệ gì. Bồ
tát là như vậy, nhờ chúng ta có niềm tin đó, thấy rằng luyến ái cũng không làm
ô nhiễm được tâm tánh chúng ta, cho nên mới có thể có được thái độ tương đối
tốt đẹp để đối xử vấn đề tình dục.
Bây giờ hãy đứng ở giác độ khác để nói chuyện. Thần Tú nói
về một kinh nghiệm đặc thù của Thiền định. Ông cho rằng muốn tu hành thì tâm phải
được định tỉnh lại và luôn luôn chùi quét tư tưởng.
Còn Lục Tổ Huệ Năng thì nói với chúng ta rằng, Thiền định
không phải là một kinh nghiệm gì đặc thù, nó không khác gì kinh nghiệm của cuộc
sống hằng ngày. Kinh nghiệm Thiền định khai ngộ có thể rút ra được từ tất cả
mọi kinh nghiệm.
Nói một cách giản đơn, Thần Tú cho rằng phải dùng phương
pháp thường xuyên quét sạch bụi bặm nơi tâm, thì rồi mới có được cái tâm thật
của con người.
Tâm thật của con người giống như tâm của trẻ con, thiên
chân, thong dong, không có hư dối, tức cái tâm của con người dù có phải ngủ
trong điện thờ Phật cũng ngủ được thoải mái.
Còn bài kệ của Lục Tổ Huệ Năng thì sâu sắc và cảm động
lòng người hơn rất nhiều. Bài kệ của ông nói rằng, cái chân tâm đó của con người
ở đâu cũng có, nơi nào cũng có, bởi vì không bao giờ bị nhiễm ô!
Nghe Lục Tổ Huệ Năng nói, người nào mà không có được niềm
tin lớn.
Chúng ta sống trong thế giới này, tuy chúng ta bị bao
nhiêu ràng buộc, thống khổ, thử thách, thế nhưng về chủ quan chúng ta phải có
nhận định: Chúng ta có một Phật tánh siêu việt tất cả mọi chuyện đó
9. Không Cần Bài Xích
Cảm Quan, Phải Khéo Léo Dùng Cảm Quan Để Tu Hành
Ái tình hay thù hận của chúng ta đều đến từ cảm quan. Một người
sống trên thế giới này không thể không có cảm quan. Cảm quan tức là mắt, tai,
mũi, lưỡi, thân, ý. Thông qua các cảm quan, xâm nhập vào nội thân thì có sắc âm
thanh, mùi, vị, xúc, pháp.
Con người không thể thoát lìa khỏi thế giới của cảm quan.
Nếu hoàn toàn phủ định thế giới cảm quan, thì cũng không thể sống trong thế giới
này được. Một thế giới hoàn toàn mất cảm quan là một thế giới đáng sợ. Một người
mất cảm quan sẽ không thể phân biệt các mùi phân, mùi thịt, mùi hoa sen. Anh ta
sẽ không còn cách gì phân biệt cái đẹp cái xấu, cái hay, cái dở của thế giới
này.
Huệ Năng xác định là, ở đàng sau cảm quan của chúng ta có
một cái siêu việt cảm quan. Trong kinh Phật, cái siêu việt cảm quan đó gọi là
Phật tánh hay tự tánh. Điều rất có ý nghĩa là cái siêu việt cảm quan đó, không phải
từ trên hư không đến, mà chính là từ ở cảm quan đến, cho nên chúng ta không
được phủ nhận tầm quan trọng của cảm quan.
Trong nửa phần sau của kinh Lăng Nghiêm, Phật bảo với 25
vị Bồ tát có mặt báo cáo về kinh nghiệm tu hành của họ: 25 vị Bồ tát ấy báo cáo
về 25phương pháp tu hành. Xem đoạn ấy của kinh Lă ng Nghiêm mới phát hiện thấy,
đại bộ phận các vị Bồ tát đều khai phát tánh không, khai phát Trí tuệ Bát nhã
từ 6 cảm quan: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý.
Trong số Bồ tát này, tôi nhớ có một vị tên Hỏa Đầu Kim
Cương, vốn rất mãnh liệt về tình dục. Nhưng ông lại bắt đầu sự tu hành của
mình, xuất phát từ lòng ái dục của ông, chuyển hóa được lòng ái dục đó thành
lòng Từ bi đối với thế giới này, và cuối cùng, ông chứng ngộ được Thật tánh là
cái không thể bị hủy hoại tức là Kim Cương.
Trong Mật tông, cũng có một vị thần Kim Cương, gọi là Ái
nhiễm Kim Cương. Vị này cũng vậy, xuất phát từ tham ái, nhiễm trước mà khai
ngộ, tu hành, chứng được quả vị.
Bây giờ, lấy Bồ tát Quán Thế Âm làm ví dụ, một vị Bồ tát
mà mọi người đều biết rất rõ. Bồ tát Quán Thế Âm tu hành như thế nào? Ngài dựa
vào đâu để tu hành pháp môn mà trong kinh Lăng Nghiêm gọi là “Nhĩ căn viên
thông pháp môn.” Nghĩa là Ngài dựa vào thính giác để tu hành. Ngài dùng thính
giác để nghe những âm thanh nội tại để nghe những âm thanh xin cứu khổ của
chúng sanh. Dựa vào thính giác mà Ngài chứng nhập tánh không, chứng ngộ được
Bát nhã của Phật, mở mang được lòng Từ bi và Trí tuệ rộng lớn nhất.
Vì vậy tu hành không nhất định là đóng bịt cửa các cảm
quan lại, không nhất định là phải bịt tai lại hay là cắt xẻo tai đi! Bồ tát
Quán Thế Âm từng dạy chúng ta rằng, phải khôn khéo dùng tai của ngươi, lại có
một số Bồ tát dạy chúng ta, hãy khôn khéo dùng mũi, dùng mắt của ngươi. Chúng
đều là công cụ tu hành cả.
10. Luyến Ái Và Hận
Thù Đều Là Bài Học Để Tu Hành
Bồ tát đã biết lợi dụng cảm quan để tu hành thì các chuyện
luyến ái hận thù trong nhân gian không phải là không có ý nghĩa. Nếu có người
cho rằng đều là không có ý nghĩa thì người ấy sẽ không thấy được cái có ý nghĩa
hơn, ở đằng sau luyến ái và hận thù. Tu hành như vậy không phải là tu hành theo
Đại thừa, cũng không phải là tu hành của nhân gian.
Các kinh Tiểu thừa bảo chúng ta rằng, phải đoạn trừ mọi
lòng ái dục mới có thể được giải thoát; mới có thể ngộ được tự tánh; tu hành
theo Đại thừa thì không như vậy. Về sự khác biệt giữa Đại thừa và Tiểu thừa,
tôi xin đưa ra hai ví dụ dễ hiểu:
Ví dụ thứ nhất là trồng cây. Một ngườỉ muốn trồng cây, sau
khi trồng, anh ta ra sức làm cho cây trồng được lớn mạnh. Một người khác, khi
bắt đầu trồng cây đã có ý định: Ta sẽ bắt cây này có hình thù một cái dùi đầu
tròn. Sau khi cây lớn, anh ta bèn sửa sang cắt dọn để cây mang hình một cái dùi
đầu tròn. Làm như vậy, anh ta không làm cho cây lớn tốt được. Còn người thứ
nhất thì đầu tiên tập trung sức lại làm cho cây trồng được tốt, rồi sau mới lo
cắt dọn. Đó là phương pháp của Đại thừa. Còn phương pháp của người thứ hai là
phương pháp Tiểu thừa.
Tu hành ở nhân gian, điều quan trọng nhất là trồng cây của
anh cho tốt. Trồng cây của anh cho tốt là thế nào? Nghĩa là làm cho anh có tâm
Từ bi rộng lớn, có Trí tuệ rộng lớn. Sau đó mới sử dụng lòng Từ bi và Trí tuệ
của anh, để xem xét luyến ái và hận thù. Xem xét như vậy sẽ thấy sự vật rất rõ
ràng, minh bạch.
Ví dụ thứ hai là trồng hoa. Người Tiểu thừa trồng hoa, thì
chỉ trồng một cây hoa. Nếu gần cây hoa đó có cỏ mọc thì lập tức nhổ cỏ đi. Chỉ
canh cánh chăm sóc cho cây hoa mọc tốt là được. Còn người Đại thừa thì trồng
rất nhiều hoa, vì có rất nhiều người cần tới hoa của anh ta, và anh ta cũng không
ngừng gởi hoa đến những người khác. Vì phải chăm sóc nhiều cây hoa như vậy, và phải
làm cho cây nào cũng lớn tốt, cho nên có lúc không chú ý được tới những cỏ dại,
mọc lên giữa các cây hoa. Chờ khi các cây hoa lớn, nếu có một vài sợi cỏ cũng
không thành vấn đề. Nhưng nếu chỉ trồng có một cây hoa mà thôi thì chỉ một ít
cỏ cũng thành vấn đề rất nghiêm trọng.
Hiểu như vậy rồi, sẽ có quan điểm rất tốt để xem xét vấn
đề dục vọng của nhân gian. Tôi luôn luôn tin rằng, mọi sự vật ở thế gian này
đều thuộc phạm vi tu hành của con người, mọi đối tượng chúng ta gặp trong nhân
gian đều là đối tượng của Từ bi, chứ Từ bi không phải chỉ là mua cá hay chim để
rồi thả gọi là phóng sanh. Anh gặp một người đau khổ trên đường, người ấy cũng
là đối tượng Từ bi của anh. Mỗi nhân duyên gặp gỡ đều là nhân duyên khai mở Trí
tuệ, ở bất cứ nơi nào hay lúc nào đều có thể tu tập Thiền định. Đối với người
học Phật, sống một ngày là một ngày tu hành.
Rất nhiều Phật tử, mỗi ngày đêm đều lên khóa lễ sớm chiều
nghiêm túc. Sáng dậy, lập tức đánh chuông đánh mõ tụng kinh. Tối đến cũng như
vậy. Trong chùa Phật là người thành kính thanh tịnh, ra khỏi chùa thì lập tức
biến thành người khác rồi. Tu hành như vậy là không triệt để. Trong chùa, ngoài
chùa, và ở khắp mọi nơi, sự ứng xử của chúng ta phải không thay đổi.
Đối với người yêu, chúng ta hy vọng người yêu cũng như
mình đều có được đời sống hạnh phúc. Nhưng nếu chẳng may, tình yêu không thành
thì cả hai người đều rút ra được bài học trong thất bại, mở mang Trí tuệ, đi
theo con đường Trí tuệ. Đó chính là khóa tu hành của chúng ta: là sự giác ngộ
trong ái tình, và có lòng khoan dung đối với người mình thù hận, thậm chí còn cười
với họ nữa.
- Giữa những người cấp tháo nóng nảy, hãy chịu đựng và
bình tĩnh.
- Giữa những người hung bạo hãy ôn hòa.
- Giữa những người có lòng tham, hãy sống khẳng khái.
- Giữa những người buồn khổ, hãy sống Từ bi.
- Giữa những người lòng tràn đầy cừu hận, hãy sống với
lòng không hận thù.
Tất cả những cái đó đều là công khóa tu hành.
Cho nên, luyến ái và hận thù đối với chúng ta cũng là công
khóa tu hành.
11. Khiến Cho Danh
Hiệu Phật Và Tâm Niệm Chúng Ta Thống Nhất
Có người miệng thì niệm Phật nhưng hành vi vẫn ác xấu.
Niệm Phật như vậy sẽ không có hiệu quả. Mà phải làm cho danh hiệu Phật và tâm
niệm chúng ta thống nhất với nhau.
Cũng như Thiền định không nhất định phải ngồi Thiền mới có
kết quả. Mỗi người, trong cuộc sống thường ngày của mình, đều có thể đạt được
Thiền định. Một người lắng nghe âm nhạc, một người chuyên tâm suy nghĩ, đến mức
người ngoài gọi mà không hay, sự chuyên chú ấy cũng giúp họ đạt được định tâm. Người
nhập Thiền chân chính cũng là như vậy, tức là không bị ngoại cảnh làm xao động.
Nhờ chuyên chú nên đạt tới cảnh giới quên mình, đó là một
loại định, nhưng loại định này không được sâu sắc sáng láng như Tam muội định,
hơn nữa nó là từ ở bên ngoài vào, thí dụ, nhờ vào tiếng nhạc mới có định. Chỉ
có định khai thác từ bên trong mới có được kiến địa (chỗ thấy), có kiến địa mới
có Bát nhã.
Chuyên chú là một phương pháp để nhập định. Sự chuyên tâm
sâu sắc vào cảnh giới định có thể giúp làm cho tâm thần được thống nhất. Chúng
ta không phải từ bỏ cảm quan như là một cái gì xấu, mà chúng ta phải biết lợi
dụng cảm quan của chúng ta. Các pháp môn Thiền định đều dựa vào cảm quan mà tu
hành. Trong sinh hoạt, giờ phút nào cũng là tu hành. Như vậy, trong một ngày,
24 tiếng đồng hồ, lúc nào cũng giữ được trạng thái giác ngộ rất tốt bất cứ ở
đâu và khi nào cũng ở trạng thái tỉnh giác đó thì sẽ có một ngày bỗng nhiên
bừng sáng, khai ngộ.
Các vị đại Thiền sư ngày xưa cũng giác ngộ theo kiểu như vậy. Sự giác ngộ của
các vị ấy không phải do Thiền định, mà là do trong mỗi giờ phút họ đều giữ được
tâm trạng tỉnh giác.
Người tu tập phương pháp bổn tôn của Mật giáo đều biết tu
theo phương pháp bổn tôn thì phải quán tưởng, trì chú, bắt ấn, có người mỗi
ngày tu hành vài giờ như vậy, cảm thấy rất đủ rồi, kỳ thực vẫn chưa đủ.
12. Khiến Cho Tâm
Mình Và Tâm Bồ Tát Ấn Chứng Nhau
Bổn tôn tu tập là thế nào? Tức là gặp bất cứ vật gì, cũng
đều xử trí như là ở trong tâm mình, có bổn tôn đang ngồi. Thí dụ, tu theo phép
thờ Bồ tát Quán Thế Âm là Bổn tôn, khi gặp sự kiện gì, sự vật gì chúng ta cũng
đều xử trí như là Bồ tát Quán Thế Âm đang ngồi trong tâm chúng ta. Dùng quan
điểm của Bổn tôn (Bồ tát Quán Thế Âm) để đối xử với thế giới này, dùng con mắt
của Bồ tát Quán Thế Âm để nhìn thế giới này. Trong cuộc sống mà gặp khó khăn,
gặp luyến ái hay hận thù thì phải suy nghĩ: Bồ tát Quán Thế Âm gặp phải hoàn
cảnh khó khăn này thì Ngài giải quyết thế nào? Nếu Ngài gặp phải cảnh ngộ luyến
ái hay thù hận như thế này thì Ngài giải quyết ra sao? Gặp bất cứ sự vật gì đều
suy nghĩ: Bồ tát xử trí như thế nào? Phương pháp đó gọi là ngoại quán tưởng.
Nếu chúng ta thường xuyên quán chiếu Bồ tát Quán Thế Âm, ở
trong nội tâm của chúng ta, lại thường xuyên dùng con mắt Bồ tát của Bồ tát
Quán Thế Âm để xem xét thế giới này, một mặt lấy tâm của Bồ tát để đối đãi với
chúng sanh, một mặt lấy tâm của chúng sanh để quán tưởng Bồ tát. Như vậy tâm
chúng ta sẽ dần dần cùng với tâm Bồ tát ấn chứng nhau, dần dần lâu dài về sau,
có thể hòa hợp với Bổn tôn, đạt tới chỗ “Tâm tâm tương ấn.”
Trong cuộc sống, mỗi giờ mỗi phút đều tu hành, chúng ta sẽ
thấy chúng ta có biện pháp để duy trì được cái tâm giác ngộ đó.
Kỳ thực, hòa hợp với Bổn tôn không phải là phương pháp
riêng có của Mật giáo. Trong Hiển giáo cũng dùng phương pháp đó, dù chúng ta tu
hành theo pháp môn nào. Khi chúng ta niệm danh hiệu Bồ tát Quán Thế Âm, và lấy
Bồ tát Quán Thế Âm làm gương sáng soi theo, thường xuyên nâng cao quan điểm
nhìn của mình lên đến trình độ của Bồ tát Quán Thế Âm. Nếu tu hành như vậy sẽ
dễ dàng có hiệu quả hơn, nhanh chóng hơn so với phương pháp ngày ngày chỉ tụng
kinh ở điện thờ Phật.
13. Mọi Người Đều Có
Phật Tánh Như Lai
Giả sử nếu Bồ tát Quán Thế Âm gặp cảnh ngộ luyến ái và thù
hận, thì Ngài suy nghĩ như thế nào? Xử trí như thế nào đây? Ngài sẽ chuyển hóa
ái tình của người thành lòng đại từ đại bi. Trong kinh Lăng Nghiêm nói Ngài
“nhập lưu vong sở, văn sở văn tận, giác sở giác không.”
Có nhiều người không hiểu nghĩa bốn chữ nhập lưu vong sở.
Nay phân tích như sau: nhập lưu, vong sở ý tứ là: Bồ tát Quán Thế Âm nhập vào
con sông lớn của sanh mạng vũ trụ, từ bỏ chấp trước của tự ngã. Vì không còn
ngã chấp, cho nên khi nghe tiếng kêu khổ, kêu cứu khổ của tất cả chúng sanh
trong vũ trụ, Ngài đều giác ngộ với Trí tuệ rộng lớn, tất cả đều là không rỗng,
sáng suốt, không còn bị sự động giao của tất cả mọi sự biến hóa đó.
Hiểu được cảnh giới của Bồ tát thì khi nói vấn đề luyến
ái, sẽ biết lấy lòng Từ bi để đối đãi với đối tượng yêu thương. Trong nhà thì
lấy lòng Từ bi mà đối đãi với cha mẹ, con cái, nếu chẳng may, phải chia tay với
người yêu thì cũng lấy lòng Từ bi đối đãi với họ, không sanh lòng oán hận đối
với họ. Như vậy, sẽ không còn có hận thù.
Sự thực, yêu và hận, tình và thù không có khác biệt gì với
lòng đại từ đại bi của Bồ tát. Vấn đề là chúng ta có hay không có biện pháp
chiếm được vị trí cao để xem xét, xử lý vấn đề đó. Phật Thích Ca Mâu Ni từng
nói: “Tất cả chúng sanh đều có đức tướng, Trí tuệ của Như Lai, chỉ vì do có
vọng tưởng và chấp trước mà không chứng ngộ được mà thôi.” Đứng về Phật tánh mà
nói, Phật tức là mỗi một chúng ta, bởi vì ở trong mỗi người, đều có Phật tánh
của Phật, vì vậy mọi người đều có thể thành Phật. Dưới con mắt của Phật thì
chúng sanh tất yếu sẽ có ngày thành Phật. Quan điểm này, trong kinh điển Phật
giáo, cũng được xác định là: “Phật, ta, chúng sanh về bổn thể là không có phân
biệt.”
Chúng ta yêu, chúng ta hận thù. Các vị Bồ tát từ vô lượng
kiếp tới nay cũng đều trải qua kinh nghiệm yêu thương và hận thù, và các Ngài
đã siêu việt lên trên thương yêu và hận thù, mà phương pháp siêu việt thì hết
sức đơn giản. Tóm tắt chỉ có mấy chữ: Tự giác, Từ bi, mở mang Trí tuệ Bát nhã.
14. Tình Cảm Phong
Phú Tu Hành Vô Ngại
Tôi rất thích xem điện ảnh, sau khi học Phật, tôi cũng
thường xem điện ảnh. Gần đây, tôi có xem bộ phim đầu đề là “Lưu Dân Đại Hanh”
do Chu Nhuận Phát và Chu Sở Hồng chủ diễn. Đấy là một câu chuyện ái tình làm
động lòng người. Kết thúc của câu chuyện là đôi trai gái phải chia tay nhau,
xem phim mà tim tôi như nát ra và tôi đã khóc. Những người học Phật cùng với
tôi xem phim, thấy tôi khóc, không hiểu được bèn hỏi: “Ông học Phật lâu năm như
vậy, sao mà cảm tình nhiều và nhạy bén thế?”
Vì sao học Phật lâu năm lại không thể có cảm tình? Học
Phật càng lâu năm, cảm tình càng phong phú lên mới phải. Tôi chảy nước mắt vì
tôi cảm thông với nỗi đau khổ do ái tình đem lại, cảm thông với nỗi khổ phân ly
của đôi trai gái. Tuy câu chuyện điện ảnh là giả, hư huyễn, thế nhưng trong
cuộc sống hiện thực của con người, những cảnh ngộ như vậy phải chăng cũng đã
xảy ra?
Nếu có một người thất tình đến khóc với anh thì anh xử trí
thế nào? Biện pháp của tôi là cùng khóc với họ.
Gần đây, có nhiều người đến gặp tôi và vừa khóc, vừa kể
lại những cảnh ngộ éo le của đời họ. Tôi không có cách gì giúp họ, nhưng tôi
cũng cảm thấy đau khổ như họ, vì tôi đặt mình trong hoàn cảnh của họ, tâm tôi
có khác gì tâm họ.
Nếu anh là người có cảm tình phong phú, anh đừng có mặc
cảm tự ty, vì có rất nhiều vị Bồ tát cũng có cảm tình phong phú như anh vậy.
Trong kinh Phật, có nói đến vị Bồ tát thường bi, nghĩa là
luôn thương người xót vật, lại có vị gọi là vị Bồ tát thường hay khóc (Thường
Đề Bồ tát), 24 tiếng trong ngày đều rơi lệ. Bồ tát không sợ chảy nước mắt, chỉ
sợ không có cách gì để trong nước mắt được giác ngộ, sanh khởi Trí tuệ mới.
Nếu như trong nước mắt mà phát hiện được Trí tuệ mới, giác
ngộ mới, vậy thì có lúc chảy nước mắt cũng có quan hệ gì?
Tôi cho rằng, một người có lòng Từ bi chân thực, thì có
thể bình thản đối diện với dục vọng trong đời sống. Nếu một người có thể tự
giác, mở mang Trí tuệ thì có thể tìm được cái ta chân thực ở ngay trên cảm quan
và ở trong dục vọng.
Khi chúng ta tìm được cái ta chân thực rồi, thì ta sẽ hòa
hợp được với pháp tánh của Phật, Bồ tát.
Hãy giác ngộ ngay từ đó! Từ ở trong ái tình của chúng ta, từ ở trong thù hận
của chúng ta. Từ ở trong yêu, hận, tình, thù v.v... từ ở trong những dục vọng
của con người mà được giác ngộ, đạt được một Trí tuệ siêu việt hơn, phát hiện
được một cái Ta thanh tịnh hơn!
(Hết)
Xong ngày 05/07/1992