1. Chớ Quên Cuộc Sống
Hiện Nay
Khi tôi nghĩ tới chủ đề “Cuộc sống hiện nay, thế giới hiện
nay”, nghĩ tới con người luôn luôn bị thời gian, cuộc sống thúc đẩy, tôi liền
nghĩ rằng cuộc sống này, đời sống này phải chăng cũng như thế ư? Có khi chưa
kịp nghĩ ngợi, suy xét một số vấn đề thì thời gian đã trôi qua rồi. Nói chung,
cũng vì lẽ đó mà có rất nhiều người sắp xếp “kế hoạch đời sống”, “quy hoạch
thời gian.” Điều vô lý là, dù anh có sắp xếp tốt đẹp thế nào, quy hoạch hoàn
thiện thế nào, thời gian vẫn vô tình trôi qua, từng giây, từng phút.
Vì vậy đừng quên phải làm một cái gì đó, cho cuộc sống
hiện tại của mình.
Từ khi tôi học Phật đến nay, thường xuyên có người đến bày
tỏ nỗi khổ với tôi: Vì sao, trước khi học Phật, tôi rất vui vẻ, sau khi học
Phật, tôi lại cảm thấy đau khổ, nguyên nhân là đâu?
Có một ngày, khi tôi đang đi bộ theo con đường Đôn Hoa Nam,
thì gặp một nữ sĩ, trạc tuổi tôi. Cô ta chạy theo tôi và hỏi: Ông có phải là
Lâm Thanh Huyền không?
Tôi trả lời: “Phải”
Cô ta nói: “Hay thật! Tôi đang định gọi điện thoại nhờ ông
giúp đỡ, nào ngờ được gặp ông ở đây.”
Tôi hỏi: “Cô có chuyện gì thế?”
Cô ta nói: “Tôi cảm thấy, trước khi học Phật, tôi còn sống
rất sung sướng, nhưng nay sau khi học Phật lại sống rất đau khổ.”
Tôi lại hỏi: “Vì sao cô lại khổ?”
Cô ta nói: “Tôi mỗi ngày đều lên khóa lễ sớm và chiều, mỗi
buổi một giờ. Chồng tôi không tán thành tôi lên hai khóa lễ sớm và chiều, cho
rằng tôi bỏ mất quá nhiều thời gian vào một việc vô ích. Con trai tôi thích
nghe loại nhạc sôi động ồn ào, nhưng cả nhà tôi chỉ có một đài nghe mà thôi.
Khi tôi lên khóa lễ sớm và chiều thì con tôi không nghe nhạc được, thường do đó
mà sanh ra mâu thuẫn. Ngày nào, trong khi nấu cơm tôi đều niệm Nam Mô A Di Đà
Phật, có lúc không chú ý, bàn tay bị bỏng...”
Cô ấy cũng thật lạ. Vì sao, sau khi học Phật, lại cảm thấy
cuộc sống đau khổ không tự tại, lại không có cách gì sống êm đẹp với người
trong nhà.
Trước hết, tôi hỏi cô ta một số vấn đề. Câu hỏi thứ nhất:
“Vì sao cô lại niệm danh hiệu Phật A Di Đà.” Cô nói: “Tôi muốn cầu vãng sanh về
cõi Cực lạc phương Tây.”
Tôi lại hỏi: “Vì sao cô lên hai khóa lễ sớm và chiều?”
Cô nói: “Vì nghiệp chướng của tôi rất nặng, cho nên tôi phải
làm công phu lên khóa lễ sớm chiều để sám hối nghiệp chướng ngày xưa của tôi.”
Tôi nói: “Cô có nghĩ rằng nên làm một việc gì đó cho cuộc
sống hiện tại của cô hay không?”
Cô ta đứng ngây người ra. Vì cô ta chỉ lo sám hối nghiệp
chướng quá khứ, và tương lai cầu vãng sanh về thế giới Cực lạc phương Tây mà
thôi.
Nếu người học Phật chỉ lo quá khứ và vị lai, vậy thì,
trong khoảng thời gian này, cuộc sống hiện nay, đời anh trong hiện tại, anh làm
gì?
Chớ quên cuộc sống đời này! Chớ có lo vì sám hối quá khứ,
mong đợi tương lai mà quên mất cái trọng yếu nhất là cuộc sống hiện tại, đời
sống hiện tại.
2. Sự Khác Nhau Giữa
Tại Gia Và Xuất Gia
Học Phật có người là tại gia, có người là xuất gia. Người
Cư sĩ tại gia khác với người xuất gia về thái độ tu hành cơ bản và về phương
pháp tu hành.
Điểm khác biệt thứ nhất: Người xuất gia là người tu hành
chuyên nghiệp, còn người tại gia tu hành nghiệp dư.
Hiện nay, tôi là một nhà văn chuyên nghiệp, ngày nào tôi
cũng phải viết văn. Nếu không làm như thế, tôi sẽ tự thẹn với mình. Nhưng nếu
nhà văn nghiệp dư thì khác, nhà văn nghiệp dư có thể ba năm mới viết một cuốn
sách cũng có thể 30 năm mới viết một cuốn. Mỗi ngày chỉ cầu viết 100 chữ. Họ
thực là thoải mái? Vì họ là nghiệp dư.
Người xuất gia là chuyên nghiệp cho nên nhiệm vụ chủ yếu
là tu hành, phải để rất nhiều thời gian niệm Phật tu hành. Người tại gia thì
không như vậy vì chúng tôi là nghiệp dư, nếu chúng tôi mỗi ngày bỏ ra 8 tiếng
đồng hồ để tu hành thì kết quả cuối cùng sẽ làm cảm tình vợ chồng bị đổ vỡ, con
cái sẽ không còn nhận chúng tôi là cha, là mẹ nữa, họ hàng bạn bè đều cho chúng
tôi làm như vậy là không phải. Bởi vì chúng tôi đã biến thân phận nghiệp dư
thành chuyên nghiệp, nhưng đừng có cho rằng nghiệp dư thì phải thua chuyên
nghiệp. Có một số nhà văn nghiệp dư trong cả một đời chỉ viết được một cuốn
sách, nhưng quyển đó viết rất hay. Trái lại, nhà văn chuyên nghiệp có thể trong
một năm viết đến hàng chục cuốn sách, nhưng cả đời không viết được một quyển
nào hay cả.
Điểm khác biệt thứ hai: Người tại gia có nếp sống của người
tại gia, không giống với nếp sống của người xuất gia. Người xuất gia ở trong
cảnh chùa rất yên tĩnh. Mỗi ngày, sáng sớm 3 giờ rưỡi đã thức dậy, lên khóa lễ
sớm để lạy Phật. Chúng tôi người tại gia không có cách nào sống như vậy được,
chúng tôi buổi tối có thể còn phải làm việc mãi tới 11 giờ, 12 giờ khuya mới
về. Nếu chúng tôi lại nghĩ rằng sống như người xuất gia mới là phải, nhưng lại
không thể thay đổi nếp sống hiện tại của mình được, thế là sinh ra mâu thuẫn,
xung đột lớn (với tự thân).
3. Tu Hành Chân Chánh
Là Rất Giản Đơn
Tôi cho rằng, người tại gia nên lấy “cuộc sống” làm cơ sở
cho sự tu hành, đem tu hành vào cuộc sống, chứ không phải lấy ngôi chùa làm giới
tuyến, phân biệt rành mạch hai bên: Một bên ở trong chùa thì niệm Phật, lễ Phật
sám hối, đọc kinh, như vậy mới là tu hành, còn bên kia, ở ngoài chùa thì không phải
là tu hành.
Đức Phật Thích Ca dạy rằng: Ba điều trọng yếu nhất của tu
hành là thân, miệng, ý nghĩ mà không nói là niệm Phật, lễ Phật, đọc kinh. Nếu
tu hành là ở nơi thân làm, miệng nói và đầu óc suy nghĩ, thì có thể kết hợp
được sự tu hành của chúng ta với cuộc sống. Người tu hành cần chú ý làm cho
hành vi của mình mỗi ngày đều trở nên trong sạch và siêu thoát, làm cho lời nói
của mình mỗi ngày đều tốt đẹp, hiền hòa có ích đối với người khác, làm cho mỗi
ý nghĩ của mình đều thanh tịnh, thiện lành.
Tu hành chân chính thật ra rất là giản đơn. Chỉ cần khiến cho
mỗi hành vi lời nói và ý nghĩ của chúng ta đều dần dần trở thành chân chánh,
biến hành động thô bạo dễ phẫn nộ, thành hành động hết sức ôn hòa tốt đẹp, biến
lời nói khó nghe thành lời nói dịu hiền dễ nghe, biến ý nghĩ không tốt đẹp
thành ý nghĩ Từ bi và siêu thoát.
Qua sự chuyển hóa đó, chúng ta sẽ không ngừng hướng thượng
và thăng hoa.
Ngoài việc hướng thượng và thăng hoa, còn phải làm cho
thân, miệng, ý nghĩ không có vướng mắc (chấp trước) vào một sự việc đặc biệt
như là sinh hoạt, sinh mạng, thậm chí cả đến Phật pháp cũng không được chấp
trước.
Trong kinh A Hàm, kể một lần có một đệ tử hỏi Phật Thích
Ca: “Bạch Thế Tôn, giáo pháp của Thế Tôn có thể tóm tắt nói lên bằng một câu
rất đơn giản hay không?”
Phật trả lời: “Có thể.”
Đệ tử lại hỏi: “Đó là câu gì?”
Phật nói: “Đối với tất cả, đều không chấp trước. Đó là lời
nói quan trọng nhất trong tất cả giáo pháp của ta.” Tiếp theo Phật lại nói:
“Nếu có người nào đó hiểu được câu ấy thì sẽ tin theo toàn bộ giáo pháp của Ta,
nếu có một người nào đó thực hành được câu ấy thì tức là thực hành được toàn bộ
giáo pháp của Ta.”
Ôi! Đối với tất cả đều không được chấp trước, đức Phật
Thích Ca giảng pháp thực là tuyệt vời!
Không được chấp trước đối với pháp cũng như đối với sinh
hoạt. Pháp vị tất đã tôn quý hơn sinh hoạt. Ngồi quán tưởng Bồ tát Quán Thế Âm
cũng không phải là tôn quý hơn bón cho trẻ con ăn. Cũng như vậy, bón cho trẻ
con ăn, cũng không phải là tôn quý hơn pháp. Cả hai đều là bình đẳng. Suy nghĩ
như vậy mới có thể không còn chấp trước pháp, mới đoạn trừ được bệnh chấp
trước.
4. Trong Sinh Hoạt
Toàn Là Phật Pháp
Trên thế giới này, không có một cái gì cố định gọi là Phật
pháp. Niệm danh hiệu Bồ tát Quán Thế Âm, hay là niệm câu chú Đại Minh sáu chữ
cũng không phải là đại biểu cho Phật pháp. Vì rằng, Phật dạy: Nếu anh cho rằng,
ở ngoài cuộc sống, có Phật pháp, thì tức là trên đầu anh, anh lại đặt thêm một
cái đầu nữa, mình vốn có đầu rồi, lại đi tìm một cái đầu khác! Nếu anh không
chú ý tới cuộc sống của anh thì không thể có sự canh tân, sáng tạo và siêu việt
trong thân làm, miệng nói và đầu óc suy nghĩ, và mọi tìm tòi, yêu cầu của anh
đối với Phật pháp đều là hư vọng.
Ngài Lục Tổ Huệ Năng cũng nói: “Phật pháp là ở trong thế
gian, không tách rời thế gian mà giác ngộ được, tách rời thế gian mà đi tìm sự
giác ngộ, cũng như tìm sừng trên đầu con thỏ vậy.” Nếu chúng ta muốn tách khỏi
thế gian này để cầu tìm sự giác ngộ (Bồ đề) thì sẽ không khác gì đi tìm một con
thỏ có sừng. Đây là chuyện không thể có được. Trên thực tế, Bồ đề chính ở ngay
trong cuộc sống, trong những việc như khi anh cho con nhỏ của anh ăn cơm, như
khi anh nấu canh, canh ngọt mà tay không bị bỏng, ở trong tâm tình của anh,
trong tư thế của anh khi anh đi đường, ở quan điểm của anh khi anh nhìn một vật
gì đó. Thực ra không có một vật gì cố định gọi là Phật pháp, mà trong cuộc sống
toàn là Phật pháp.
Có người nghe nói như vậy, sinh ra lo sợ: Như vậy thì ông
phủ định sự tồn tại của 8 vạn bốn ngàn pháp môn mà Phật đã từng giảng thuyết
hay sao? Không phải, đâu có phủ định sự tồn tại của 84.000 pháp môn, mà biết rõ
84.000 pháp môn đều là phương pháp giúp chúng ta cách tân, sáng tạo, đề cao
hành vi, lời nói và ý nghĩ của chúng ta, nhưng chúng không phải là mục tiêu.
Cũng như hằng ngày, chúng ta niệm “Nam mô Quan Thế Âm Bồ tát”, Nam Mô
Quan Thế Âm Bồ tát không phải là mục tiêu, mà là phương pháp giúp cho tâm của
chúng ta được đề cao, siêu việt và sáng tạo. Chúng ta mỗi ngày đều lễ Phật. Lễ
Phật cũng không phải là mục tiêu mà là phương pháp giúp cho tâm chúng ta được
hòa dịu, nhờ đó mà mở mang được Trí tuệ và lòng Từ bi.
5. Kiểm Nghiệm Động
Cơ Học Phật
Người ta nói chung, thường đặt Phật pháp hoặc là trong quá
khứ, hoặc là trong tương lai, rất ít người đặt Phật pháp trong hiện tại, ngay
trong giờ phút của cuộc sống hiện tại.
Trong tình hình đó, chúng ta cần kiểm nghiệm lại động cơ
học Phật của mình là gì? Mục tiêu học Phật là gì? Rất nhiều tín đồ Phật giáo sẽ
nói rằng: “Mục đích của tôi học Phật là để thành Phật.”
Thành Phật ư? Phật Thích Ca tu hành trải qua ba A tăng kỳ kiếp mới thành Phật.
Tôi đã từng tính toán xem ba A tăng kỳ kiếp là mấy chục triệu năm. Mỗi lần tính
toán, cứ đến ngày thứ hai là quên mất, vì thời gian ấy dài quá. Phật Thích Ca,
Trí tuệ như vậy, tu hành tinh tấn như vậy, mà còn phải trải qua ba A tăng kỳ
kiếp, một thời gian dài lâu như vậy mới thành Phật. Nếu anh cũng đặt mục tiêu
thành Phật, e rằng mục tiêu ấy xa vời quá không với tới được.
Cũng có người nói: “Mục đích của tôi học Phật là để tiêu
trừ mọi nghiệp chướng trước kia.”
Nghiệp chướng trước đây cũng rất dài lâu xa xôi. Về căn
bản, chúng ta không hiểu rõ được, biết được nghiệp chướng ngày trước của chúng
ta. Vậy thì làm sao mà tiêu trừ? Và cả phương pháp nào để biết sau khi tu hành,
nghiệp chướng nào được tiêu trừ?
Thật ra, phải đứng vững trong giờ phút hiện tại này! Quá
khứ thì không thấy nữa. Vị lai thì không thể biết. Vậy thì dựa vào đâu để chúng
ta có thể tu hành Phật pháp một cách thực tiễn?
Chỉ có hiện tại, chỉ có giờ phút này
6. Hãy Sống Trọn Đời
Sống Này, Nhưng Không Được Chấp Trước Đời Sống Này
Người tu theo tông phái Tịnh độ nói với tôi rằng, điều
quan trọng nhất trong sự tu hành của họ là có được tâm nhàm chán, tức là nhàm
chán thế giới này.
Nếu học Phật pháp là để có tâm nhàm chán đối với đời sống
này, thế gian này, thì đức Phật hà tất đã bỏ ra hơn 40 năm để truyền bá giáo
pháp của Ngài? Đây quả là một công án rất lớn. Ngoài ra, các vị Tổ sư Tông Tịnh
độ như Đại sư Tuệ Viễn, Đại sư Ngẫu ích, Đại sư Ấn Quang, ít nhất cũng để lại
những tác phẩm trên hàng trăm vạn chữ. Nếu thiệt sự, họ nhàm chán thế giới này,
xa rời thế giới này, thì sao mỗi ngày họ lại mất nhiều thời gian để viết hàng
trăm vạn lời. Vì vậy, tôi nghĩ rằng, nếu sửa đổi lối thuyết pháp đề cao tâm
nhàm chán thì sẽ dễ hiểu và dễ tiếp thu hơn, chúng ta sẽ có tâm quý trọng cuộc
sống nhưng lại không chấp trước cuộc sống đó.
Lại nói: Ngoài cuộc sống này, thế gian này, còn một thế giới khác tốt đẹp.
Nhưng vấn đề là: Chúng ta không biết bao giờ chúng ta sẽ chết, cũng không biết
sau khi chết, có được đến thế giới Cực lạc phương Tây hay không?
Trước tiên, hãy xét vấn đề: Thế giới Cực lạc phương Tây có
quan hệ đến cuộc sống này của chúng ta hay không? Hay là thế giới đó tồn tại
một cách độc lập trong thời gian và không gian vị lai? Kinh sách Tịnh độ viết:
Một người không thể có ít nhân duyên phúc đức và thiện căn mà được sanh ở thế giới
Cực lạc. Nhân duyên, phúc đức và thiện căn đều có quan hệ với cuộc sống này và
thế giới này. Tách rời cuộc sống này, sẽ không thể nói gì đến thiện căn, phúc
đức và nhân duyên được. Trong Kinh lại nói, phải niệm Phật, niệm đến chỗ “Nhất
tâm bất loạn” thì mới được vãng sanh qua cõi Cực lạc phương Tây. Muốn niệm Phật
đến chỗ nhất tâm bất loạn, thì phải bắt đầu từ trong hiện tại mới có thể đạt
tới cảnh giới niệm Phật nhất tâm bất loạn. Muốn được vãng sanh, nếu hy vọng
được người khác hộ niệm, thì cũng phải được hộ niệm ngay trong đời này, chứ
không phải chờ chết rồi, mãi lâu về sau, mới được người khác hộ niệm.
7. Tướng Thật Của Thế Giới Cực Lạc
Tiếp đó cần nhận thức tướng thật của thế giới Cực lạc là
thế nào? Thế giới Cực lạc có thể được xem xét từ ba góc độ:
Thứ nhất, thế giới Cực lạc là một báo độ, một cõi nước
thực sự, hết sức cụ thể do hạnh nguyện rất lớn của đức Phật A Di Đà sáng tạo
ra. Đến đấy, chỉ có sờ tay là có bàn ghế, đi trên đất toàn là vàng bạc, trên hư
không có tiếng nhạc kỳ diệu du dương.
Thứ hai, thế giới Cực lạc không những là báo độ mà còn là
pháp độ, không phải chỉ là báo độ. Nếu thế giới Cực lạc chỉ là một báo độ, thì
hạnh nguyện của đức Phật A Di Đà không tránh khỏi bị chúng ta hạn chế. Cõi Cực
lạc còn là cõi nước của pháp thân thọ mạng vô lượng và ánh sáng vô lượng, từ
lâu vẫn tồn tại và cho đến tương lai xa xôi vẫn tồn tại. Nó xuyên suốt mọi thời
gian, và tràn đầy mọi không gian. Vì nó tồn tại khắp mọi thời gian, khắp mọi
không gian cho nên chúng ta chỉ cần thể nghiệm được Phật pháp, nhận thức được
Phật pháp thì đều có thể khiến tâm chúng ta giống như thế giới Cực lạc phương
Tây vậy.
Thứ ba, thế giới Cực lạc là một hóa độ, đức Phật có ba
thân: pháp thân, báo thân và hóa thân. Mỗi đệ tử Phật từng niệm danh hiệu Phật
A Di Đà đều có thể lập tức đến cõi hóa độ của Phật A Di Đà. Chỉ miễn lòng chúng
ta trong sáng, thì sẽ đến được cõi nước trong sáng, như vậy trong giờ phút lòng
trong sáng đó, chúng ta đã ở cõi nước của Phật A Di Đà.
Đứng trên quan điểm ấy mà xem xét thì đời này, thế gian
này không phân biệt với Tịnh độ. Từ ở đây mà vãng sanh sang Tịnh độ, không phải
đi một lộ trình đến mỏi chân, không cần xem thế giới Cực lạc phương Tây như một
vùng nào rất xa xôi, hư huyễn không thể đến được. Rất có thể, ở đây đã là thế giới
Cực lạc, hiện tại đã là thế giới Cực lạc. Nếu so sánh với một quốc gia bạo động
và hỗn loạn, lửa cháy đầy trời thì nơi này có khác gì là thế giới Cực lạc
phương Tây và chúng ta đang ở đấy.
Có lần, tôi đưa con trai tôi đến chùa nghe một Pháp sư
giảng Kinh A Di Đà nội dung bài giảng của Pháp sư rất nghiêm túc nhưng con tôi
nghe lại buồn ngủ. Ra khỏi chùa, câu đầu tiên nó hỏi tôi là: “Ở thế giới Cực
lạc phương Tây có thể vui chơi được không ba?.” Tôi trả lời: “Ba không biết vì
ba chưa đến thế giới Cực lạc phương Tây.” Nó nói: “Nếu ở thế giới Cực lạc
phương Tây không có chỗ cho mọi người vui chơi thì con cũng không muốn đến
đấy.”
Lời nói của con tôi làm tôi suy nghĩ: “Đúng thực vậy!”
Chúng ta đã có thể tưởng tượng thế giới Cực lạc phương Tây
quá nghiêm túc, quá xa xôi, quá cố định, nhưng thế giới Cực lạc phương Tây có
thể là rất tự do, rất rộng lớn, rất tự tại.
8. Học Phật Nếu Mắc
Vào Hình Thức Sẽ Thành Hư Vọng
Bây giờ, nói tới một quan điểm rất hệ trọng: Tất cả mọi
pháp môn đều chỉ là phương pháp giúp chúng ta cách tân và sáng tạo nội tâm,
động cơ học Phật của chúng ta là để không ngừng biến đổi theo chiều hoàn thiện
thế giới nội tại của chúng ta.
Nếu một người học Phật mà không biết dùng đời mình để cải
cách nội tâm của mình, hàng ngày chỉ cùng với trẻ con mở nhạc, nghe đài thì học
Phật của anh chỉ là hình thức mà thôi.
Về sau, tôi có nói với bà bạn khổ não của tôi rằng: “Sao
bà lại không cùng nghe âm nhạc với con bà?.” Bà nói: “Nghe âm nhạc ồn ào như
vậy có tác dụng gì?”
Trong lịch sử, có rất nhiều Tổ sư dùng nhiều phương pháp
khác nhau để khai ngộ. Có người đập vỡ chén mà khai ngộ, có người ném đá vào
cây tre mà khai ngộ, có người dẫm vào gai mà khai ngộ, có người đang tắm mà
khai ngộ, mỗi người khai ngộ trong một tình trạng đặc biệt.
Chỉ cốt nội tâm có một khát vọng như thế tức là khát vọng
tự mình hướng thượng, biến thành một người có sức sáng tạo, khiến cho thế giới
nội tại tâm hoàn toàn mở rộng và hoàn thiện, thì anh có thể được khai ngộ trong
bất cứ hoàn cảnh nào.
Đã từng có người đập đất mà khai ngộ, vậy thì bà chủ gia
đình khi làm cơm cũng có thể khai ngộ được chứ sao? Và bà sẽ là người đầu tiên
nấu cơm mà khai ngộ.
Những ví dụ trên đều thuyết minh rằng, Phật pháp không
tách rời chúng ta, không kể là tu hành theo pháp môn gì nếu tách rời cuộc sống
mà tu hành thì cái gọi là Phật pháp đã trở thành hư vọng, cuộc sống trở thành
đau khổ bất an.
Tôi thường khuyên bảo mọi người, nếu học Phật mà phải đau
khổ thì đừng có học Phật mà làm gì, để tránh không hạ thấp Phật giáo. Nếu ăn
chay mà thấy khổ quá, thì đừng có ăn chay, để khỏi ảnh hưởng đến người khác ăn
chay.
Tôi có một người bà con ăn chay, nhưng lại oán việc ăn
chay. Mỗi lần anh ta bị cảm sốt hay đau bụng, đều nói tại ăn chay, thức ăn chay
có tính quá hàn (?) cho nên làm anh ta bị cảm, bị đau bụng. Sau khi nghe anh ta
oán ăn chay dữ quá, cho nên tôi khuyên anh ta rằng “Thôi xin anh đừng có ăn
chay nữa, vì ăn chay làm anh quá khổ.”
Nếu có một điều gì đó làm anh ta đau khổ thì sao anh lại
không bỏ điều ấy đi? Có thể là sau khi bỏ, anh đạt tới một cảnh giới mới.
Ăn chay mà thấy khổ, thì thôi đừng ăn chay nữa, chờ khi
nào anh có được nhận thức mới, thể nghiệm mới thì ăn chay trở lại cũng không
muộn.
Chớ có ép mình vào một hình thức cứng nhắc, thí dụ quy
định mỗi ngày phải làm khóa lễ một tiếng đồng hồ, đến nỗi sinh ra mất đoàn kết
trong gia đình mà không biết. Đó là chuyện đáng sợ? Vì sao lại không điều chỉnh
thời gian khóa lễ xuống 10 phút chẳng hạn? Nếu anh biết quý trọng 10 phút đó
thì khóa lễ vẫn có thể làm rất tốt. Như vậy sẽ đảm bảo hòa thuận trong gia
đình, lại giúp cho mọi người thấy lợi ích thực tế của việc học Phật.
Thiền Tông thường dạy rằng, điều quan trọng nhất của việc
học Phật là được tự do tự tại.
Một người học Phật mà học thành mình không được tự do,
không được tự tại thì học Phật đối với anh ta chỉ là hình thức, anh ta thực sự
không có được ích lợi lớn lao gì trong việc học Phật.
9. Người Như Thế Nào
Thì Được Tự Do, Tự Tại?
- Người Như Thế Nào Thì Được Tự Do?
Rộng lớn vô cùng, khiêm nhường vô cùng, nhu hòa vô cùng,
và không có hạn hẹp, đó là con người tự do.
Không có yêu cầu nhất định gì đối với sự vật, đó là tự do.
Giả sử có người nói với tôi: Anh sao lại đặt cái chén này
ở bên phải? Đặt ở bên trái mới đúng chớ?
Tôi bèn lập tức đặt cái chén bên trái, để cho người ấy vui lòng. Thực ra, cái
chén ấy có thể đặt bên trái hay bên phải đều được cả, có thể tùy thời mà thay
đổi.
Nếu đối với việc gì, anh cũng đặt ra giới hạn, thí dụ nói
trong vòng ba năm sẽ được đốn ngộ, nhất định trong vòng ba năm sẽ thành Phật.
Nếu thời gian ba năm đã đến rồi mà anh chưa đốn ngộ, chưa thành Phật thì có phải
là đau khổ không! Bởi vì, giới hạn thời gian đó lúc nào cũng ràng buộc anh,
khiến cho anh không được tự do. Thí dụ, tôi không tự quy định thời gian cho
mình mỗi ngày phải lên khóa lễ bao nhiêu thời gian. Những ngày tôi rất bận, thì
tôi thưa với Phật và Bồ tát rằng: “Kính thưa Phật và Bồ tát thân mến! Con hôm
nay chỉ có 3 phút để vái ba vái, cầu xin Phật và Bồ tát tiếp thu ba vái hết sức
chân thành này của con”, tôi tin rằng, một giờ khóa lễ với tâm phân tán không
hơn gì khóa lễ rút ngắn nửa giờ, nhưng làm rất tốt đẹp. Khi tôi bận mà vái Phật
ba vái, ý nghĩa của 3 vái đó đối với tôi rất là hệ trọng, thời gian dài hay
ngắn không thành vấn đề, nhưng cũng không thể hoàn toàn không làm.
Mọi hình thức được dùng, là để khai phát sự tự do nội tại
của mình, chứ không phải là hy sinh sự tự do nội tại cho một số hình thức bề
ngoài.
Nếu suy nghĩ như vậy, thì có thể sống rất tự do.
- Người Như Thế Nào Có Thể Gọi Là Tự Tại?
Có một nhận thức rất kiên cường đối với sự tu hành, đối
với thái độ sinh hoạt của mình, không vì người ngoài nói, cũng không vì hoàn
cảnh mà thay đổi đó là con người tự tại.
Có một phương pháp để sống được tự do, đó là có một sự
khẳng định cao nhất đối với giá trị bản thân. Và sự khẳng định cao nhất đó là
điều mà Phật Thích Ca nói, tức là “Tất cả chúng sanh đều có đầy đủ Trí tuệ và
đức tướng của Như Lai, chỉ vì do vọng tướng chấp trước mà không chứng ngộ được
mà thôi.”
“Chúng ta cũng là một chúng sanh, cũng có đầy đủ Trí tuệ
và đức tướng của Như Lai.” Chúng ta đã sẵn có tiêu chuẩn cao như vậy trong nội
tâm đối với bản thân, cho nên dù là trong chỗ đông người, cũng như khi ngồi một
mình, chúng ta đều tự tại.
Tôi hết sức thích thú hai câu này của Thiền sư Tôn Diễn:
“Ở chỗ đông người phải có cái tâm của riêng mình, khi ở riêng một mình, phải có
hoài bão của số đông” (Tại nhân quần lý, yếu hữu độc xứ đích tâm, tại độc cư
thời, yếu hữu nhân quần đích hoài bão). Không những phải có hoài bão lớn mà còn
có thể giữa đông người kiểm nghiệm hành vi, lời nói và ý nghĩ của mình, khiến
cho nội tâm được hướng thượng, giá trị của mình được khẳng định. Và cũng nhờ đó
mà con người được tự tại.
Học Phật là để được tự do tự tại, mà không phải là để bị
ràng buộc và đau khổ.
Mỗi người học Phật đều phải xác định mục tiêu của mình.
Mục tiêu đó có thể là vãng sanh qua thế giới Cực lạc phương Tây, cũng có thể là
thành Phật. Mặc dù mục tiêu như thế nào, chúng ta phải nhớ kỹ điều này: Học
Phật là để khai phát Trí tuệ của chúng ta, và để chúng ta có được tâm Từ bi
rộng lớn. Dù cho chúng ta cầu thành Phật, làm Bồ tát hay là cầu vãng sanh về
cõi Cực lạc, Trí tuệ và Từ bi là hai điều kiện không thể thiếu được.
Trí tuệ và Từ bi giống như hai bánh xe của Phật giáo, hai
cánh của con chim, thiếu một cũng không được. Dù mục tiêu của chúng ta gần hay
xa, cũng không thể bỏ qua Trí tuệ và Từ bi được. Phải thực hiện ngay Trí tuệ và
Từ bi trong đời sống hiện tiền, thế giới hiện nay.
10. Mở Mang Không
Ngừng Trí Tuệ
Làm sao đạt tới Trí tuệ, ở mức giản đơn nhất, cơ bản nhất.
Đầu tiên, cần nhận thức rõ hai chữ Trí tuệ.
Chữ trí, ở trên có chữ tri 知 trong từ
ghép tri thức, và ở dưới có chữ nhật 日là mặt trời.
Trí tuệ là tri thức chói sáng như mặt trời. Có bốn đặc sắc của mặt trời là: Thứ
nhất, mặt trời tự mình phát sáng, có năng lực soi chiếu. Nơi nào được mặt trời
soi chiếu đều trở nên rõ ràng, minh bạch. Năng lực soi chiếu đó trong sách Phật
gọi là “Diệu quan sát trí” (Trí tuệ quan sát kỳ diệu). Thứ hai, mặt trời hết
sức bình đẳng. Không kể anh là người nghèo hay người giàu, là con muỗi hay con
châu chấu, mặt trời đều bình đẳng soi chiếu tới. Sự bình đẳng ấy, trong sách
Phật gọi là “bình đẳng tánh trí.” Thứ ba, nơi nào mặt trời soi chiếu tới, đều
trở nên sống động, mọi vật được sanh trưởng, đặc điểm này, trong Phật giáo gọi
là “thành sở tác trí.” Thứ tư, mặt trời rộng lớn vô cùng, tràn đầy khắp thế giới.
Đặc điểm này gọi là “đại viên cảnh trí” (Trí tuệ như tấm gương rộng lớn, tràn
đầy) vì mặt trời giống như tấm gương lớn chiếu sáng khắp thế giới.
Chữ trí bao gồm đầy đủ 4 ý nghĩa sau đây:
Một là năng lực quan sát. Phải bồi dưỡng cho mình có được
năng lực quan sát sự vật theo quan điểm mới, với thái độ mới. Hai là phải có
thái độ bình đẳng. Không có thái độ bình đẳng thì sẽ không thể có Trí tuệ chân
thực. Ba là duy trì sức mạnh sống động, sinh trưởng và phát triển không ngừng.
Trí tuệ là sanh trưởng, phát triển không ngừng. Có thái độ bao dung rộng lớn
đối với tất cả mọi cảnh ngộ.
Có được như vậy sẽ dần dần sanh ra Trí tuệ.
Chữ Tuệ 慧, dưới có chữ tâm 心. Tâm nói lên năng lực cảm thọ. Đối với thế giới này, phải có năng lực
cảm thọ, không được để mất nhiệt tình.
Để mất tình thương đối với thế giới này, mất lòng quý
trọng đối với thế giới này thì không gọi là Trí tuệ được, bởi vì đã để mất Tâm!
Vì có tâm cho nên mới có cảm thọ. Có cảm thọ nhưng không chấp trước, đó chính
là tuệ. Có lần, tôi dự tiệc tại phòng ăn ở nhà một người bạn. Trong phòng ăn,
có một bàn có tám thanh niên ngồi. Họ nói chuyện rất to. Chủ đề câu chuyện của
họ là chiến tranh vùng vịnh Ba Tư, thời sự nóng hổi. Họ nói chuyện rất hào
hứng. Cười nói ồn ào khiến cho mọi người trong phòng ăn để ý. Nhưng, không có
ai can thiệp. Bỗng nhiên, có một vị khách già đứng dậy, đến bàn ăn những người
thanh niên và nói với giọng rất nghiêm túc: Chiến tranh có gì là đáng cho các
anh cười!
Mọi người trong phòng ăn đều ngừng tay, các thanh niên ngồi
ở bàn cũng sửng sốt, không dè có một câu hỏi như vậy đối với họ. Lúc ấy người
già mới rút găng tay bên trái, để lộ một cánh tay cụt không có bàn tay. Cuối
cánh tay chỉ là một bọc lớn. Vị khách già nói: “Tôi đã mất bàn tay trong chiến
tranh. Chiến tranh không có gì đáng cười. Đã có chiến tranh là có người chết,
dù người chết đó là Mỹ hay là Iraq.
Người chết đó là con, là chồng, là cha của một số người khác. Cũng có thể là
con gái, vợ, mẹ, của một số người khác. Chiến tranh là chuyện rất bi thảm.” Nói
xong vị khách đó trở về chỗ ngồi với thái độ bình thản.
Hôm ấy, mọi người ăn như nuốt không vào! Nghĩ tới lời nói
của vị khách già: “Chiến tranh có gì đáng cười!” Tôi cũng cảm thấy tự hổ thẹn.
Nhớ tới cách đây 2 ngày mình cũng thảo luận sôi nổi với các bạn về chiến tranh
vùng vịnh Ba Tư. Nhưng lại không nhìn chiến tranh với quan điểm đó của vị khách
già. Trong chiến tranh có người đã hy sinh. Những người đó là con là chồng, là
cha v.v... Nếu nghĩ như vậy thì sẽ sinh lòng thương xót vô cùng đối với chiến
tranh.
Đó tức là thay đổi quan điểm vốn có của chúng ta, quán sát
thế giới với cái nhìn đổi mới, nhìn thế giới với con mắt bình đẳng. Tâm chúng
ta cảm xúc, có một nét sống mới. Tâm chúng ta trở thành rộng lớn, đến mức không
còn phân biệt người Mỹ, người Iraq
hay là người Chilê. Không kể là người nước nào, đã có người chết đều là chuyện
bi thảm giống nhau. Trí tuệ của chúng ta, cũng nhờ sự kiện này mà được mở mang.
Tám người thanh niên kia có thể nhờ sự kiện này mà được
giác ngộ, cũng có thể là không được giác ngộ. Nếu họ không được giác ngộ, tức
là họ thiếu một cái gì đó. Tức là họ thiếu năng lực cảm thọ, thiếu tuệ... Vì
thiếu Trí tuệ cho nên họ không có được cảm xúc mới.
Cảm xúc mới rất là quan trọng. Khi chúng ta có đầy đủ Trí
tuệ để đối diện với thế giới này thì quan điểm của chúng ta có thể tùy thời mà
điều chỉnh cho thích hợp.
Nhìn sự vật với một quan điểm đổi mới, thường thường là
một bước ngoặt lớn, đời sống không phải là một cái gì cố định.
Nếu chúng ta có Trí tuệ và biết không ngừng thay đổi năng
lực quan sát và cảm thọ của chúng ta, thì tôi tin rằng, chúng ta có thể “nhờ đó
mà sống được những ngày hạnh phúc và an lạc.” Vì chúng ta có thái độ quan sát
bình đẳng, sống động và rộng lớn, cho nên sẽ không có gì làm chúng ta thất bại
được Đó chính là Trí tuệ.
11. Từ Bi Là Cho Vui,
Trừ Khổ
Từ bi là gì?
Rất nhiều các bậc Thầy bảo chúng ta rằng: “Từ bi là cho
vui, trừ khổ”, đem lại cho người khác niềm vui, đoạn trừ mọi đau khổ cho họ.
Nhưng ta lại bàn về Từ bi theo một góc độ khác.
Chữ từ 慈, ở trên là chữ tư 茲, nói theo văn Bạch Thoại là chữ như thị 如 是 nghĩa là như vậy.
Dưới là chữ tâm. Từ là tâm như vậy.
Tâm như vậy, là khi thấy người khác đau khổ hay vui sướng,
đều có cái tâm như vậy. Tức là cái tâm cảm thọ nỗi đau khổ của người khác, mong
mỏi cho họ đoạn trừ được đau khổ. Khi thấy người khác vui, cũng cầu mong mọi người
đều được vui như vậy.
Bi 悲 trên là chữ phi 非 là không phải. Dưới là chữ tâm. Bi là chữ phi tâm 非 心. Bi là biến đổi, không ngừng biến
đổi cái tâm của chúng ta, khiến tâm chúng ta tiếp cận “cái tâm như vậy”, cái
tâm có khả năng cảm thọ nỗi đau khổ và niềm vui sướng của người khác. Khi ấy
chúng ta mới có được lòng Từ bi đích thực.
Nếu như không biến đổi được, hay là tìm ra được “cái tâm
như vậy”, thì lòng Từ bi của chúng ta sẽ không được chân thật.
“Cái tâm như vậy” cũng tức là tự tánh hay Phật tánh của
chúng ta, trước khi cha mẹ sanh ra chúng ta. Bộ mặt vốn có ấy hiện nay đang bị
che lấp. Vì vậy cần phải không ngừng phi tâm, không ngừng biến đổi.
Chữ Phật 佛, bên trái là chữ nhân 亻(là người), bên phải là chữ phất 弗 là không phải...
không phải là người tức là Phật. Không phải người tức là đoạn trừ tất cả mặt
tình cảm tiêu cực của con người, đoạn trừ hết thảy tham, sân, si, mạn, nghi.
Con người như vậy, gọi là Phật. Tức là nói, Phật cũng không phải là một cá nhân
đặc biệt, cũng không phải có cái tâm đặc biệt. Phật là con người bình thường
như chúng ta, có cái tâm bình thường, nhưng nhờ giác ngộ canh tân không ngừng
mà đoạn trừ được tất cả mặt trái, mặt tiêu cực của tình cảm con nguời. Con người
như vậy, gọi là Phật.
Có một lần tôi diễn giảng về chủ đề Hoằng Nhất Đại sư. Một
người nghe, hỏi Cư sĩ Trần Tuệ Kiếm (người cùng diễn giảng với tôi): “Vì sao
Đại sư Hoằng Nhất lại vô tình đến thế. Bỏ vợ, bỏ con để tu hành.” Trần Cư sĩ
trả lời: “Chớ có trách Hoằng Nhất Đại sư, nếu Ngài không tu hành như vậy, thì
sẽ không có Hoằng Nhất Đại sư.” Quan điểm của tôi cũng giống như của Trần Cư
sĩ. Tôi rất cảm ơn Hoằng Nhất Đại sư có lập gia đình, có con rồi mới xuất gia
tu hành, rất cảm ơn Phật Thích Ca Mâu Ni, cũng lập gia đình, có con rồi mới xuất
gia tu hành. Trong Phật giáo đã từng có rất nhiều ví dụ như vậy, như Nan Đà,
Liên Trì Đại sư, cũng đều lập gia đình, có con rồi mới xuất gia. Có người còn
lấy nhiều vợ, như Hoằng Nhất Đại sư, trước khi xuất gia đã có hai vợ, Liên Trì
Đại sư cũng có hai vợ.
Vì sao lại cần cảm ơn như vậy? Vì đó là sự thị hiện vĩ đại
của các vị ấy, cho chúng ta thấy rằng, các vị tuy có gia đình, có con nhưng vẫn
không nhụt chí, vẫn có hy vọng thành tựu mục đích tu hành một cách viên mãn,
hoàn thiện. Bất cứ người nào cũng đều có thể giác ngộ bắt đầu từ một thời điểm
nhất định và tu hành đạt tới kết quả viên mãn.
Có một bài kinh (Kinh Bà Già), trong đó Phật thuyết pháp
cho một bà già. Bà già ấy, sau khi được nghe Phật thuyết pháp bèn được giác ngộ
rồi chứng ngộ. Những ví dụ như thế rất nhiều. Vì vậy, đừng có lo lắng hiện nay
mình bao nhiêu tuổi, đừng có lo lắng mình bây giờ đã có mấy con, chỉ cần từ giờ
phút này anh giác ngộ, nỗ lực tu hành thì sẽ thành công.
Tâm Từ bi là nhờ biến cải tâm mình ở đời này mà chứng được
Phật tánh. Nếu đời này chưa hoàn thành được thì chờ đời sau. Nhưng vì chúng ta
chưa biết đời sau chúng ta thế nào cho nên ngay ở đời này hãy sống hết sức
mình. Chúng ta lại cũng không biết ngày nào chúng ta sẽ từ giã cõi đời này, cho
nên phải vĩnh viễn giữ vững tư thế tiến tới, hướng thượng. Không ngừng phát huy
Trí tuệ và Từ bi cho tới giờ phút cuối cùng.
12. Trở Về Đời Sống
Này, Thế Gian Này
Trong một lần diễn giảng, do Hội Công Đức Từ Tế tổ chức,
tôi được gặp nữ sĩ Tạ Băng Oanh, năm ấy 86 tuổi. Bà một mình theo thang gác lên
tận lầu năm. Tôi đến bà và nói: “Chào giáo sư, tôi xin giúp bà.” Bà ta nói:
“Anh khỏi phải nâng đỡ tôi, anh nâng đỡ tôi, tôi sẽ không đi được.” Tôi vô cùng
cảm động, không rõ đến năm 86 tuổi, tôi có được như bà không, không cần đến người
nâng đỡ mà vẫn đi được.
Nhà vũ đạo Masa Hạt Lan Mẫu, năm bà 96 tuổi, đã đưa đoàn
múa đến biểu diễn ở Đài Loan và tự mình ra sân khấu cảm tạ khán giả, làm cho
mọi người phải kính trọng. Nếu tôi sống được đến 96 tuổi, tôi không biết mình
có đủ dũng khí như bà, đáp máy bay từ Mỹ sang Đài Loan biểu diễn, tự mình ra
sân khấu chào, cảm ơn khán giả, mở cuộc họp báo, bàn luận về nghệ thuật múa của
bà.
Sau ngày biểu diễn đầu tiên của đoàn múa Masa Hạt Lan Mẫu,
Hội Văn Kiến bố trí cho một nhà nhiếp ảnh đến gặp bà ở sau sân khấu, nhà nhiếp
ảnh đó là cụ Lang Tịnh Sơn năm ấy thọ 100 tuổi. Khi hai bậc lão thành ấy gặp và
bắt tay nhau ở đàng sau sân khấu, mọi người đều đứng dậy bày tỏ lòng kính
trọng. Hai bậc niên lão ấy, nếu cộng tuổi lại là 196 tuổi. Bà Masa nói là bà hi
vọng tương lai sẽ có dịp trở lại Đài Loan biểu diễn. Còn tiên sanh Lang Tịnh
Sơn thì nói là ông hy vọng, sau cuộc triển lãm nhiếp ảnh kỷ niệm năm ông 100
tuổi, sang năm sẽ tổ chức một cuộc triển lãm nhiếp ảnh mới nữa. Lúc bấy giờ tôi
thấy thái độ của hai vị niên lão đối với cuộc sống này, thế gian này đúng là
rất thực tế, mọi người thấy đều phải nể.
Cả ba vị niên lão ấy đều có một đặc sắc mà mọi người không
biết: Cả ba người đều có lòng tin Tôn giáo thuần thành, nữ văn sĩ Tạ Băng Oanh
và nhà nhiếp ảnh Lang Tịnh Sơn là Phật tử thuần thành, còn nhà vũ đạo Masa Hạt
Lan Mẫu là tín đồ Cơ Đốc giáo thuần thành. Qua họ thấy rõ Tôn giáo đúng là có
lợi ích đối với nhân sanh.
Nếu như anh không có được ích lợi nhờ Tôn giáo thì đó
không phải là vấn đề của Tôn giáo, mà là vấn đề của bản thân anh. Có thể là
thái độ của anh đối với nhân sanh, đối với Tôn giáo đều có vấn đề. Phật giáo đồ
thường nói: “Không được rơi vào hai bên.” Hai bên tức là không và có. Tu hành
là không. Có là chỉ thấy có cuộc sống, chỉ biết có đi đứng, cơm ăn, áo mặc mà
không biết phải không ngừng cải cách và khai phát nội tâm. Mắc vào không hay
có, bất cứ một bên nào, đều là có vấn đề. Không được vướng mắc vào một bên nào
cả, mà chỉ có cải cách và sáng tạo.
13. Phóng Hạ Và Chịu
Trách Nhiệm
Có một phương pháp rất tốt để đề cao quan điểm về cuộc
sống, đó là khi bắt đầu học Phật, phải nhận thức cho được tính trọng yếu của
phóng hạ và thái độ chịu trách nhiệm.
Có những cái mà sớm hay muộn chúng ta phải từ bỏ (phóng
hạ) đó là sanh mạng của chúng ta và tất cả những gì chúng ta có, đồng thời cũng
có những cái mà chúng ta phải nhận lãnh, tức là nhận lãnh trách nhiệm của chúng
ta hiện nay.
Tôi hết sức coi trọng sự tích của Đạo sư Hoằng Nhất và Đạo
sư Liên Trì nhưng tôi không thể học tập các Ngài được bởi vì cuộc sống của hai
Ngài và của tôi có đặc điểm khác nhau. Tôi đọc tiểu sử của Pháp sư Hoằng Nhất,
thấy khi Hoằng Nhất xuất gia, vợ của Ngài chạy tới chùa nơi Ngài xuất gia, chạy
vòng quanh chùa, vừa chạy vừa khóc, nhưng Hoằng Nhất làm như không nghe biết gì
cả, cuối cùng bà vợ của Ngài, tức là Nhật Tịch phu nhân phải rời bỏ chùa mà đi.
Đọc đến đoạn này, tôi xúc cảm biết mình không làm được như Hoằng Nhất, nếu là
tôi thì tôi nhất định ra mở cửa ngay. Mở cửa chưa chắc là nối lại duyên xưa,
chưa chắc là chuyện xấu, hà tất phải đóng cửa kín mít như vậy.
Đại khái, chỉ trên điểm ấy, có sự bất đồng giữa Đại sư
Hoằng Nhất và tôi. Chúng tôi không có được cái cao siêu của Đại sư Hoằng Nhất,
vì vậy nên phải nhận lãnh trách nhiệm hiện tại. Gia đình tôi, hoàn cảnh nơi tôi
ở, Đài Loan của tôi, thế giới của tôi, đối với tất cả những cái đó, tôi phải
nhận lãnh trách nhiệm.
Một khi chúng ta đã có một nhận thức đúng đắn về cái phải
từ bỏ và cái phải nhận lãnh trách nhiệm, thì quan điểm của chúng ta sẽ được
nâng cao lên. Có người xin tôi một bộ quần áo hay một cái bát, tôi thấy thiếu
đi một bộ quần áo hay một cái bát cũng không tổn hại gì đến tôi cả, bởi vì đó
là những cái có thể từ bỏ được. Từ bỏ càng nhiều thì có thể nhận lãnh trách
nhiệm càng nhiều hơn, chứ không phải là từ bỏ hết là hết trách nhiệm!
Chúng ta hãy xem Đại sư Hoằng Nhất phóng hạ cái gì? Ngài
phóng hạ vợ, bà dì, con cái, gia sản, nghệ thuật rồi xuất gia, nhưng Ngài nhận
lãnh trách nhiệm sự nghiệp của Như Lai, trở thành một nhà tu hành vĩ đại, làm
cảm động lòng người. Nếu Ngài không có sự phóng hạ lớn như vậy, thì Ngài cũng
sẽ khó nhận lãnh một trách nhiệm vĩ đại như vậy
Không có sự phóng hạ lớn thì không thể nhận lãnh được
trách nhiệm lớn.
Mọi cái đều dứt bỏ, hư hỏng, hủy hoại, đấy là điều không
quan trọng. Bởi vì mọi cái đều phải xả bỏ, đều sẽ hư hỏng, hủy hoại nhưng cái
vứt bỏ, hư hỏng, hủy hoại đó đều là ở trong tay mình. Rồi những người thân
thích của anh cũng sẽ chết đi, có người chết lúc anh 20 tuổi, có người chết lúc
anh 10 tuổi.
Hiểu được đạo lý nhân duyên đó thì phóng hạ cũng dễ, nhận
lãnh trách nhiệm cũng dễ.
14. Bồi Dưỡng Sức
Sáng Tạo Của Nội Tâm
Không ngừng bồi dưỡng sức sáng tạo nội tâm là điều hết sức
quan trọng.
Điều khiến người ta tán thán Phật là sức sáng tạo kinh người
của Phật.
Đọc kinh điển của Phật Thích Ca, chúng ta cảm thấy mình bé
nhỏ như con kiến so với Ngài. Tôi vốn là người không dễ bái phục ai, vì tôi tự
cho mình là có nhiều sức sáng tạo, nhưng sau khi đọc kinh sách Phật, thì phải
ngàn vạn lần bái phục, tán thán Ngài, tự cho mình không thể nào đạt tới cảnh giới
của Phật được.
Gần đây, tôi đang viết một cuốn sách về Bồ tát Quán Thế
Âm. Tôi muốn rút ra trong Đại Tạng tất cả những kinh điển có liên quan đến Bồ
tát Quán Thế Âm và viết thành một cuốn sách có đầu đề: Bi, trí, hạnh, nguyện.
Mục bi nói về Bồ tát Quán Thế Âm, tôi cho rằng, độc giả muốn biết về Bồ tát
Quán Thế Âm, chỉ cần đọc cuốn “Bồ tát Quán Thế Âm” do Lâm Thanh Huyền chủ biên
là đủ.
Khi mới bắt tay vào công việc, tôi cho rằng kinh sách nói
về Bồ tát Quán Thế Âm, chỉ là “Phẩm Phổ Môn”, “Đại Bi Tâm Đà La Ni”, “Kinh Lăng
Nghiêm” (pháp môn nhĩ căn viên thông) tức là 5, 6 bộ kinh chứ không nhiều.
Nhưng, về sau, tìm đến hơn 30 bộ kinh, mà cũng chưa hết. Đức Phật thực là vô
cùng! Phật có thể thông qua nhiều giác độ khác nhau để nói về Bồ tát Quán Thế Âm.
Công việc này lúc đầu dự định trong ba tháng, hiện nay đã
hơn nửa năm rồi. Càng làm việc càng phát hiện Trí tuệ của Phật thực là cao
siêu, sức sáng tạo của Phật thực là vô tận!
Một đệ tử Phật hỏi Phật Thích Ca Mâu Ni: “Xin Thế Tôn
giảng về Bồ tát Quán Thế Âm!” Phật Thích Ca bèn giảng một bài dài về Bồ tát
Quán Thế Âm. Một đệ tử khác xin Phật giảng về chủ đề ấy, Phật lại giảng một bài
khác. Đối với những người khác nhau hỏi Phật về Bồ tát Quán Thế Âm, Phật giảng
các bài kinh khác nhau về Bồ tát Quán Thế Âm, bởi vì căn bản, không thể nói hết
được về Bồ tát Quán Thế Âm. Vì Phật gặp những đối tượng khác nhau, những căn cơ
khác nhau, cho nên Phật cũng giảng nhiều bộ kinh khác nhau về Bồ tát Quán Thế
Âm. Sức sáng tạo của Phật thực là đáng kính và đáng bái phục. Nguồn gốc của sức
sáng tạo đó chính là sức sống của sanh mạng.
15. Giữ Vững Sức Sống
Của Sanh Mạng
Sức sống của sanh mạng đó không phải chỉ có Phật mới có.
Trong lịch sử, các vị Bồ tát đều có sức sống phi thường. Đọc kinh điển của các
Ngài, tâm tính chúng ta như là bị chấn động, và chúng ta hy vọng chúng ta cũng
được giống như các Ngài. Bởi vì, ngang qua kinh điển, chúng ta vẫn cảm nhận
được một cách mạnh mẽ tính cao siêu và sức sống của các Ngài.
Các Tổ sư trong lịch sử cũng đều có sức sống phi thường. Không
có vị nào trầm trầm ủ ê như người chết. Mà các vị đều ngẩng cao đầu thẳng bước,
có tư thế tiến lên, vĩnh viễn không chịu khuất phục trước sinh mệnh, cho đến
giờ nhắm mắt xuôi tay mới thôi.
Thiền sư Bách Trượng là một ví dụ. Ngài viết cuốn “Bách
Trượng Thiền Lâm Thanh Quy”, là bộ sách xưa nhất về quy tắc của Tòng lâm. Trong
cuốn sách có hai câu đáng ghi nhớ nhất là: “Một ngày không làm, một ngày không
ăn”, không làm tức là đánh mất sức sống của sanh mạng, cho nên Thiền sư Bách
Trượng đã 90 tuổi rồi vẫn ra đồng làm việc. Học trò thấy, không đành lòng bèn
lén dấu cái lưỡi cày của Bách Trượng, khiến Ngài không còn làm ruộng được.
Thiền sư Bách Trượng bèn tuyệt thực ba ngày liền để kháng nghị, đói đến gần tắt
thở. Học trò hỏi Ngài đau gì? Ngài nói: “Đấy là do ta quy định, một ngày không
làm một ngày không ăn!” Học trò không còn cách nào khác là đem lưỡi cày trả lại
cho Thầy, cũng có người học trò, nhân đó mà được giác ngộ.
Thiền sư Bách Trượng lao động liên tục như vậy cho đến lúc
96 tuổi khi Ngài tịch mới thôi. Đó chính là sức sống của sanh mạng.
16. Quý Trọng Giờ
Phút Trước Mắt
Rất nhiều người tu hành không thể nào thể nghiệm được,
cũng không cách nào thực hành được lối sống “Sống trong giờ phút này.” Nguyên
nhân là họ luôn luôn vướng mắc vào quá khứ hoặc tương lai, khiến cho cuộc sống
của họ bị hỗn loạn.
Quá khứ hay tương lai đều không thể nắm bắt được. Giờ phút
hiện tại mới thật trọng yếu, giờ phút này qua đi không biết là có giờ phút tiếp
theo hay không. Theo quan niệm vô thường mà xét thì giờ phút này qua đi, rất có
thể là không có giờ phút tiếp nữa. Chúng ta phải có một sự thể nghiệm sâu sắc
thân thiết đối với lẽ vô thường thì mới có thể sống trong giờ phút này được.
Đại sư Nguyên Hiểu nói rằng: “Dù có gắng sức mấy, cũng không ngăn được một đóa
hoa tàn tạ.” Lời nói ấy, giúp chúng ta thể nghiệm lẽ vô thường một cách sâu sắc
hơn.
Sinh mạng chúng ta giống như hoa hồng. Mặc dù cố gắng hết
sức, cũng không ngăn được sinh mạng tàn tạ. Rất dễ thể nghiệm sự tàn tạ của
sinh mạng. Mấy năm gần đây, tôi cảm thấy rõ, thân thể không được như trước.
Ngày còn trẻ, tôi có thể thức liên tục 7 ngày 7 đêm không
ngủ. Bây giờ, ba ngày đêm không ngủ chắc là chết mất, thân người ta không ngừng
tàn tạ. Mỗi ngày, xem lại mình thấy già hơn hôm qua một chút, không biết mình
còn sống được bao lâu nữa, thậm chí không biết có sống được ở giờ phút sau hay
không. Vì không biết, cho nên phải trân trọng giờ phút hiện tại, phải sống
trong giờ phút hiện tại.
Sống trong giờ phút hiện tại là như thế nào?
Phương pháp của Thiền Tông là một tâm một cảnh.
Rất nhiều người, trong khóa lễ cũng niệm Phật, đi đường
cũng niệm Phật, ăn cơm cũng niệm Phật, thậm chí đi nhà xí cũng niệm Phật. Tôi
muốn hỏi họ: Niệm Phật như vậy thì ăn cơm còn có thấy ngon không? Uống trà còn
thấy có mùi vị gì không?
Người còn biết được mùi vị thì cảnh giới của họ cao siêu
lắm rồi. Nhưng người bình thường thì không được. Bởi vì làm như vậy là một tâm
mà có nhiều cảnh.
Vừa ăn cơm vừa niệm Phật, niệm tới mức “ăn không còn biết
mùi vị thì đó là một tâm một cảnh rồi.” Nhưng đáng tiếc là người bình thường,
vừa ăn cơm vừa niệm Phật, thì niệm Phật cũng không tốt mà ăn cơm cũng không
ngon.
Đó là một tâm sanh ra nhiều cảnh; hay là một cảnh mà có
hai tâm. Lên khóa lễ tại Phật đường, một mặt thì vái vái, một mặt thì lo nồi
cơm khê. Đó là một cảnh giới mà có hai tâm, nếu một tâm mà có hai cảnh giới,
hay một cảnh giới mà hai tâm thì vĩnh viễn không cách nào sống hết mình trong
giờ phút hiện tại được. Khi ăn cơm không phải là không có thể niệm Phật, nhưng
chỉ khi hòa mình được vào giờ phút đó của sinh mạng thì mới có thể hòa mình
được vào giờ phút niệm Phật. Nếu ăn cơm mà không thưởng thức được mùi vị của
cơm ăn thì làm thế nào thưởng thức được đạo vị của cõi Tịnh độ? Tịnh độ là rất
vĩ đại rất là kỳ diệu, ăn cơm còn không thưởng thức được mùi vị, thì làm sao mà
thưởng thức được mùi vị của Tịnh độ?
Nếu anh trước đây không biết âm nhạc, làm sao đến Tịnh độ,
anh hiểu được âm nhạc của Tịnh độ?
Nếu anh không biết cái hoa ở thế giới này, thì đến cõi Tịnh độ mưa hoa đầy
trời, làm sao anh thưởng thức được những đóa hoa bay trên cõi Trời Tịnh độ?
Nếu anh không thể nghiệm được sâu sắc tính thanh tịnh của
cuộc sống, thì làm sao anh biết được có vãng sanh Tịnh độ hay không? Làm sao
biết mình đang ở cõi Tịnh độ?
Suy nghĩ như vậy, đầu tôi như vãi mồ hôi ra.
Sự thể nghiệm giờ này, phút này, giây phút này rất là
trọng yếu.
Từ đời nhà Tống đến nay, có nhiều vị Đại đức đề xướng việc
người tu Tịnh độ nên kiêm tu Thiền, người tu Thiền nên kiêm tu Tịnh độ tức là
kiêm cả tu Thiền và Tịnh, như vậy sẽ không đi sai lệch quỹ đạo, không chán bỏ
thế giới này. Thiền Tông hết sức coi trọng cuộc sống hiện tại, theo quan điểm
Thiền Tông thì căn bản “Không có thời điểm tương lai.”
Mỗi giây phút đều hết sức trọng yếu. Liên hợp các thời
điểm lại thì đó là thời điểm tương lai, và mỗi thời điểm hiện tại tức là sự
tích lũy của các thời điểm quá khứ. Nắm được ý nghĩa của giây phút hiện tại,
thì mọi thời điểm quá khứ đều biến thành có ý nghĩa. Muốn cho “tương lai” có ý
nghĩa thì cũng phải nắm bắt ý nghĩa của giây phút hiện tại.
Trong giây phút tôi vừa nói xong một câu ở đây thì giây
phút đó đã trôi qua rồi.
Giây phút ngắn ngủi như tay xâu kim, chân tơ kẽ tóc, như
ngọn gió thoảng... tất cả đều trôi qua. Các anh không thấy điều đó chăng? Nếu
anh mà thấy được điều ấy thì tôi có thể khẳng định, mỗi lần anh ngồi niệm Phật,
mỗi câu niệm Phật của anh sẽ được rất rõ ràng, rất trang nghiêm, không khác gì
ở cõi Tịnh độ vậy.
Hãy sống thực trong giây phút này của cuộc sống!
Dù anh bao nhiêu tuổi, 5 tuổi hay 80 tuổi, hãy trân trọng
giây phút này của cuộc sống? Bởi vì giây phút này mà trôi qua thì cũng không có
gì đáng được nói nữa.
Có một lần, trong một quán cà phê, tôi gặp lại một cô bạn người
yêu cũ trước đây đã từng bỏ tôi. Tôi cũng đã từng ôm mối hận đối với cô ta,
nhiều năm trôi qua và bây giờ bất chợt gặp lại. Tôi nói: “Hãy cùng uống một
tách cà phê đi” vừa uống cà phê, vừa nói chuyện tình xưa, cô ta nói: “Ngày
trước khi tôi muốn từ bỏ anh mà anh nói một câu: Xin em đừng bỏ anh, thì tôi sẽ
ở lại ngay.”
Tôi nói: “Vì sao, trước kia cô không nói. Bây giờ nói thì
có ích gì nữa?” Câu chuyện này đã trải qua 20 năm rồi! Lúc bấy giờ, không nói,
không làm. Thời gian qua rồi không còn gì để nói nữa.
Cuộc sống là như vậy. Anh thích một người này, muốn kết
duyên, nhưng lúc bấy giờ, anh không biết tranh thủ để cho thời gian trôi qua,
thế là anh sai lầm cả đời.
Có ngày tôi gặp lại một người bạn gái cũ. Cô ta nói:
“Không ngờ hiện nay, anh sống tốt quá, nếu biết trước thì em đã lấy anh rồi.”
Tôi nói: “Nếu ngày xưa cô lấy tôi thì chưa chắc hiện nay tôi được sống tốt như
vậy.”
Đúng vậy, mỗi giây phút có sự chân thực của giây phút ấy,
mỗi giây phút có thực tướng của giây phút ấy, mỗi giây phút đều có mặt “không”
và “có” của giây phút ấy. Mỗi giây phút đều có đầy đủ không lẫn có. Giây phút
này có đầy đủ cả thiện và ác, giây phút này có đầy đủ tất cả. Vì vậy mà Đại sư
Hoằng Nhất, khi tịch có lưu lại bốn chữ: “Bi Hân Giao Tập.” Nghĩa là buồn vui
giao xen, nếu anh thấy được giây phút rất chân thực này, thì anh sẽ thấy được
sự giao xen của vui buồn trong mỗi giây phút
Điều đáng tiếc là rất nhiều người học Phật lại học đến nỗi
thành ra đau khổ, bị ràng buộc, không tự tại, nguyên nhân là ở chỗ không biết
sống trong giây phút hiện tại, không sống trong hiện tại, không nhìn được dưới
chân mình. Vì rằng, không nhìn được dưới chân mình, cho nên chỉ sống trong quá
khứ hay trong vị lai.
17. So Sánh Với Giây
Phút Trước Đây
Nhớ lại thức ăn đầy đủ của ngày hôm qua không có giúp gì
cho cơn đói ngày hôm nay. Hôm nay ăn rất no, cũng không giúp gì được cho cơn
đói ngày hôm sau. Giờ phút nào cũng có tình trạng của giờ phút đó. Tình trạng
của các giờ phút khác nhau đều không giống nhau.
Có thể nghiệm như vậy mới không chấp trước vào giờ phút
trước cũng như giờ phút sau. Mà muốn không có chấp trước vào giờ phút trước
cũng như giờ phút sau, thì đừng có chiếm hữu gì, mong cầu gì.
Chúng ta học Phật cũng đừng có hy vọng được gì, ngoài hy
vọng không ngừng khai phát con người chân chính của chúng ta mà thôi.
Thường có người đến so sánh “công phu” với tôi, nói là tôi
rất có danh tiếng, tôi phải là người tu hành rất tốt. Hỏi tôi: Xin hỏi ông tu
hành được bao nhiêu quả?
Và nói tiếp một cách rất nghiêm túc rằng ông đã tu hành
chứng được tam quả.
Tôi trả lời là tôi tu hành chưa chứng được quả nào hết.
Chỉ được mỗi ngày ăn quả dưa, ngon và bổ, có vị đạo. Đó là cái mà đạo Phật gọi
là vô sở đắc. Nếu trong lòng cứ nghĩ tu được “bao nhiêu quả”, thì đời sống sẽ
là một gánh nặng, có chỗ không thông.
Xin đừng có nghĩ anh tu được “bao nhiêu quả”, mà hãy nghĩ
tới giờ phút này của anh, so với giờ phút trước có được Trí tuệ hơn, nhận thức
của anh về “không tánh”được tốt hơn, giờ phút này so với giờ phút trước, anh
sống Từ bi hơn, sống hoàn thiện hơn.
Và cứ như vậy tiến lên, thì sẽ có ngày đạt tới cảnh giới
Từ bi, Trí tuệ toàn diện và tự tại.
Đừng có nên một mặt tu hành, một mặt cứ nghĩ là mình đã
đạt tới trình độ nào rồi? Nếu ngày nào cũng nghĩ tới vấn đề đó, thì lấy thì giờ
đâu mà tu hành?
Hãy sống tốt đẹp từng giờ phút, hãy sống tốt đẹp từng
ngày, hãy sống một cuộc sống tốt đẹp. Nếu trong khi anh niệm Phật, lễ Phật mà
con anh khóc, gọi mẹ, thì xin anh hãy tạm thời nghỉ niệm Phật và đến với con
anh, vì giờ phút này, con anh đang cần tới anh, còn giờ phút này, Phật không
nhất định là cần tới anh, Phật không cần gì hết. Phật và Bồ tát là không có sở
đắc gì hết, không cần gì.
Có câu chuyện hài hước kể một người đi qua sa mạc, đi giữa
đường vừa mệt, vừa đói khát. Anh ta cầu nguyện Bồ tát đến cứu. Trên đường anh
gặp một cây đèn Thần, cầm lên xoa xoa. Quả nhiên một người khổng lồ hiện ra,
nói: “Tôi là đầy tớ của ông đây, xin ông có gì dạy bảo?”
Anh nói: “Tôi đang rất khát đây, hãy đem cho tôi một bát
nước.” Người khổng lồ trả lời: “Tôi ở đây không có nước.”
Anh nói: “Hãy đem cho tôi một bộ quần áo, vì tôi rất rét.”
Người khổng lồ trả lời: “Ở đây tôi không có quần áo.”
Anh nói: “Hãy cho tôi một bát cơm.”
Trả lời: “Ở đây, không có cơm”
Anh nói: “Hãy đem cho tôi một quả dưa.”
Trả lời: “Ở đây không có quả dưa.”
Cuối cùng, anh ta hỏi: “Vậy thì nhà ngươi có thể cho ta
cái gì nào?”
Trả lời: “Tôi có thể cho ông Phật pháp.”
Nghe nói, người lữ hành ngã bất tỉnh trên sa mạc.
Phật pháp là gì? Khi người khác khát, hãy cho họ uống
nước. Đó là Phật pháp. Khi người khác đói, anh cho người ta ăn cơm. Đó là Phật
pháp. Cho mãi mãi mà không yêu cầu gì, đó là Phật pháp chân thực nhất.
18. Cuộc Sống Tốt Đẹp
Nhất Là ở Đời Này, Thế Gian Này
Phật pháp không tách rời cuộc sống, cũng không tách rời
cuộc sống hiện tại, thế gian hiện nay.
Trong những lời giáo hóa ban đầu của Phật Thích Ca, có bốn câu rất quan trọng,
gọi là bốn gia hạnh: Sanh mạng vô thường, thân người khó được, nhân quả là chân
lý, luân hồi là khổ.
Điều đáng ghi nhớ hàng đầu là vô thường.
Đời sống con người là vô thường, cho nên phải trân trọng
giờ phút này.
Thứ hai là hãy nhớ: Thân người là khó được.
Đời này, thế gian này là cuộc sống tốt đẹp nhất.
Thân này, không được độ trong cuộc sống này, thì còn chờ
cuộc sống nào khác?
Suy nghĩ như vầy chúng ta sẽ khẳng định giá trị của thân
này của chúng ta, khẳng định cuộc sống của chúng ta tại thế gian này, khẳng
định cuộc sống hiện nay và thế gian hiện nay của chúng ta.
Nếu chúng ta biết trân trọng thân người, cuộc sống của con
người, thì chúng ta sẽ biết trân trọng cõi Tịnh độ, trân trọng mỗi một chúng
sanh.
Nếu ngay đời này, thế gian này mà không biết trân trọng,
thì tất cả Phật pháp sẽ biến thành hư vọng, sẽ không có chỗ nào đặt vững chân
nữa.
Ngày nào cũng kiểm nghiệm, thân, lời nói và ý nghĩ. Tháng
nào cũng kiểm nghiệm thân, lời nói và ý nghĩ như vậy. Cả năm cũng kiểm nghiệm
thân, lời nói và ý nghĩ như vậy.
Trong cuộc sống này, thế gian này không ngừng
kiểm nghiệm thân, lời nói và ý nghĩ như vậy. Đời này qua đời khác, cũng đều
kiểm nghiệm thân, lời nói và ý nghĩ như vậy, thì đó là sự tu hành căn bổn nhất,
trân trọng nhất.