ĐÀM
ĐẠO VỀ THIỀN
Tuệ
Thiền (Lê Bá Bôn)
1.
HỎI: Thiền là gì?
ĐÁP: Có người cho rằng, vì siêu vượt mọi tổ chức và
hình thức quy định, vì siêu vượt mọi ngôn từ, mọi khái niệm và tướng trạng nên
không thể nói được Thiền là gì. Nhưng, nếu không thể nói gì được thì đạo lí
Thiền đã không có mặt ở cõi đời.
Thiền, cốt tuỷ nhất, là tự tri; là tâm trí thấu hiểu chính
nó, thấy biết chính nó, soi sáng chính nó để giải thoát khỏi tình trạng vô
minh. Trạng thái vô minh của tâm trí tức là trạng thái vô minh của ý chí, tức
là trạng thái vô minh của ông chủ sự sống.
Tâm trí vô minh mang năng lượng khuôn đúc, quy định trạng
thái óc não. Trạng thái óc não bị khuôn đúc chính là trạng thái chấp thủ, chấp
ngã (khẳng định cái “tôi” huyễn ảo). Một óc não bị khuôn đúc thì không thể có
tự do và minh triết trong nhận thức, trong tư duy.
Tâm trí vô minh, vì sống không minh triết, nên tích tụ năng
lượng gây hậu quả đau khổ phiền não cho chính cuộc sống của nó (một cấu trúc
thân-tâm-cảnh), trong vòng sinh hoá luân hồi.
Tâm trí vô minh góp phần gây ô nhiễm cho tổng thể; góp phần
gây hỗn loạn đảo điên cho vô thức của nhân loại, của chúng sinh, của toàn thể
vũ trụ.
Tâm trí vô minh, vì sự chấp thủ-chấp ngã ngự trị, nên lương
tri bị che mờ; vì thế không có đạo đức nhân văn đích thực, không có tâm thái
hoà bình.
Tâm trí vô minh không thể ngộ nhập Chân Lí Tối Thượng
(Thượng Đế, Chân Tâm, Viên Giác…); không thể biết đến tâm linh vĩnh hằng (tri
giác phi thời gian tâm lí); không thể giác ngộ thực tại cuộc sống; không thể có
cái-nhìn-như-thực (tuệ nhãn).
Một tâm trí không thấu hiểu chính nó, không thấy biết chính
nó, thì chắc chắn đó là một tâm trí đầy ngã chấp si mê, vô minh tăm tối. Tâm
trí đó dù học nhiều, biết rộng, giàu tài năng (kể cả tài năng hoạt động tôn giáo),
lừng danh về trí-công-cụ, vẫn không phải là có trí tuệ đích thực (vô sư trí);
vẫn không phải là tâm trí tỉnh thức đích thực.
Thiền là sống với những giây phút “tự tri-tỉnh thức-vô ngã”
(đạt viên mãn rất khó). Thiền là những giây phút sống với tâm vô trụ, với nhân
cách tự-do-tinh-thần. Vì thế, trong Đường Về Minh Triết (Tuệ Thiền; NXB Văn
Nghệ, 2007) có viết: “Tự tri-tỉnh thức-vô ngã” là đạo lí của vũ trụ, là mẫu số
chung của ý nghĩa cuộc sống, là Thiền; mang năng lượng tích cực có lợi cho toàn
vũ trụ, cho sự thăng hoa trí tuệ-tâm linh chung của tất cả”.
Hành thiền, cốt tuỷ nhất, là tự tri, là quán tâm. Học
Thiền, tức học đạo lí giác ngộ, cốt tuỷ nhất là nương ngôn từ để thấy biết
trạng thái tâm trí. Tâm trí có sự thấy biết chính nó, đó là có sự giác ngộ, có
sự tỉnh thức.
Thiền là sự tỉnh thức của ý chí cuộc sống. Thiền là giá trị
tối thượng của nhân loại muôn đời, của vũ trụ. Có thể gọi “Thiền” bằng nhiều
tên gọi khác, nhưng nội hàm là “tự tri-tỉnh thức-vô ngã”. Dù áp dụng phương
cách nào để chuyển hoá tâm thức, nhưng nếu có nội hàm “tự tri-tỉnh thức-vô ngã”
là có Thiền, là có giác ngộ. Không có sự soi sáng cái “tôi” thì không thể có
giác ngộ chân thực, không thể có Thiền chân chính; không thể có phẩm chất khế
hợp Chân-Thiện-Mĩ.
2.
HỎI: Phải đọc văn bản có giá trị giác ngộ tự tâm
(tức là giác ngộ cội nguồn cuộc sống) như thế nào?
ĐÁP: Nếu đọc mà dùng nhận thức suy luận để hiểu, đó
là đọc bằng trí-công-cụ, bằng tâm ngôn-tâm hành; tức là đọc bằng vọng tưởng,
bằng kiến thức bị quy định. Tâm ngôn-tâm hành là sự nói năng trong tâm, là sự
diêu động trong tâm; là vọng tưởng. Vọng tưởng càng nhiều thì thực tại của tâm,
mặt thật của tâm trí càng bị che mờ. Sự hiểu bằng cách đọc này chỉ có giá trị
định hướng, đánh thức khát vọng giác ngộ, chứ không có sự giác ngộ đích thực.
Phải vừa đọc, vừa nghiệm, vừa đối chiếu với trạng thái tâm
trí đang hiện hữu (đang là). Văn bản như tấm gương soi để thấy rõ mặt tâm trí,
để ấn chứng.
Không quán tâm, không tự tri thì không biết đọc Thiền,
không biết học Thiền. Cốt tuỷ của việc học Thiền là trực quan, tức là thấy rõ
(nghe rõ, biết rõ) trạng thái tâm trí bằng tri giác nội tại. Giống như học giải
phẫu cơ thể, không thể học được nếu không tận mắt thấy rõ các bộ phận trong cơ
thể.
Biết đọc văn bản giác ngộ là có giác ngộ.
3.
HỎI: Vọng tưởng là gì?
ĐÁP: Vọng tưởng là những hoạt động của tâm trí gắn
chặt với trạng thái tâm lí si mê chấp ngã (quy ngã, khẳng định cái “tôi” huyễn
ảo). Hoạt động của vọng tưởng hàm chứa hai chiều hướng đồng thời: một chiều thì
hướng về đối tượng, một chiều thì hướng về chủ thể vô minh. Chủ thể (tức là cái
“tôi” huyễn ảo) vô minh vì bản thể không có sự soi sáng, không có sự tỉnh giác.
Vì chủ thể là sự vô minh nên mọi hoạt động của tâm trí được gọi chung là vọng
tưởng.
Nói khái quát thì vọng tưởng còn có những tên gọi khác là:
vọng niệm, vọng tâm, vọng thức, nghĩ tưởng, niệm tưởng, suy nghĩ, suy tưởng, tư
tưởng, nhớ nghĩ, tưởng nhớ, tâm ngôn, tâm hành, tâm sinh diệt, kiến chấp, chấp
thủ…Tức là mọi hoạt động của tâm trí trong trạng thái vô minh.
Vọng tưởng hàm chứa sự phân biệt mang tính chất vị ngã (sự
vị ngã có thể rất khó nhận biết). Tâm phân biệt (nhị nguyên) thì có ngôn từ, vì
thế, rất cụ thể, vọng tưởng là những nói năng trong tâm trí. Vọng tưởng là
những nói năng trong tâm trí, nên những nói năng trong tâm trí (tâm ngôn) là
biểu hiện của cái “tôi”, của sự chấp ngã.
Biết vọng tưởng trọn vẹn (tức biết lắng nghe sâu sát và tự
nhiên những nói năng trong tâm trí) là biết nhắm vào gốc rễ của cấu trúc vô
minh, phiền não. Thấy rõ, biết rõ điều này rất quan trọng cho Thiền, cho sự đột
chuyển (chuyển y) nội tâm, cho sự nghiệp giác ngộ.
Vọng tưởng là huyễn tướng. “Tri huyễn tức li, li huyễn tức
giác” (Kinh Viên Giác). Thấy biết rõ vọng tưởng thì tướng vọng tưởng tự lìa,
tánh Viên Giác hiện tiền (cũng chính là vô niệm hiện tiền, tánh Không hiện
tiền, chân tâm hiện tiền, vô ngã hiện tiền).
Những lúc có sự tỉnh thức thật sự (vô niệm hiện tiền, tịch
quang hiện tiền), thì khởi niệm khởi tưởng tuỳ duyên được gọi là chánh trí,
chơn thức…
Với trạng thái vô minh chấp ngã, với trạng thái vọng tưởng,
sự tôn vinh trí-công-cụ làm cho nhiều vấn đề càng ngày càng nan giải là: siêu
thiên tai vì biến đổi khí hậu, lan tràn bạo lực và chiến tranh, bành trướng vũ
khí hạt nhân và vũ khí sinh học, môi trường sống bị ô nhiễm nghiêm trọng, thực
phẩm chứa đầy độc hại, tai nạn giao thông tràn lan, gia tăng nhiều bệnh tật
hiểm nghèo, dân đen bị trí-chó-sói bóc lột đa dạng, đói khát, tranh giành quyền
lực quyền lợi khốc liệt, bịp bợm xảo quyệt, sa đoạ lương tri, sa đoạ tinh thần,
tâm bệnh…
Rất cần có Ngày
Quốc tế “tự tri-tỉnh thức-vô
ngã” để định hướng cho văn hoá-giáo dục, để nhắc nhở tâm ý con
người.
4.
HỎI: Thế nào là giác ngộ?
ĐÁP: Ý chí sự sống là động lực chủ hướng của sự
sống, là ông chủ cuộc sống, là cái tâm của dòng sinh mệnh. Khi nói cuộc sống vô
minh, tâm trí vô minh tức là muốn nói rằng, ý chí sự sống đang trong trạng thái
không tự thấy, không tự biết… Tâm không tự thấy không tự biết tâm, vì đang dồn
năng lực cho sự hướng ngoại (mê trần cảnh), kể cả hướng ngoại ở nội tâm (mê ý
trần).
Dồn năng lực cho ngoại cảnh (lục trần) nên tâm si mê theo
ngoại cảnh, luôn nhớ nghĩ đến ngoại cảnh (vọng niệm). Trong trạng thái này, tâm
không tự thấy không tự biết, không “nhớ” chính mình (thất niệm chân như). Tâm
không tự thấy không tự biết nên quên chân ngã (chân tâm); quên chân ngã nên âm
thầm khẳng định huyễn ngã (cái “tôi”) theo sự đeo bám ngoại cảnh. Ngoại cảnh
thì vô thường vô ngã, nên trạng thái tâm chấp ngã si mê luôn bất an phiền não.
Ở con người, tâm ý hướng ngoại (vọng tâm, vọng tưởng) có
biểu hiện là ngôn từ ở nội tâm (tâm ngôn), tức là sự nói năng trong tâm trí.
Nhận ra sự kiện này là vô cùng quan trọng cho sự nghiệp giác ngộ.
Muốn giác ngộ, phải chuyển ngược động lực chủ hướng để thấy
nghe, để nhận biết tự tâm tự tánh. Với khát vọng chuyển ngược động lực chủ
hướng thì vô sư trí hiện tiền. Khác với hữu sư trí - một diễn trình nhận thức
(tâm ngôn-tâm hành), vô sư trí là năng lực (là tấm gương bên trong) đang thấy
biết vọng tưởng (vọng niệm). Đó là năng lực nghe rõ mọi nói năng trong tâm trí
(quán thế âm) một cách tự nhiên, không dụng công (quán tự tại).
Vọng niệm có sự nghe lại, tức có sự tự thấy tự biết (tự
tri), tức tỉnh giác thì tâm có sự đột chuyển (chuyển y), vọng niệm dừng lại (im
lặng).
Vọng niệm dừng lại (im lặng) thì đồng thời, vô niệm hiện
tiền với ánh sáng thanh tịnh (tịch quang). Vô niệm là vô tâm. Vô tâm là tâm vô
ngôn. Tâm vô ngôn là Tâm Không. Tâm Không là Tánh Không. Tánh Không là vô ngã.
Vô ngã là chân ngã. Chân ngã là Tánh Viên Giác. Tánh Viên Giác là “bổn lai diện
mục”…
Thấy-biết-vô-niệm hiện tiền tức là Viên Giác hiện tiền. Đó
là giác ngộ (sơ ngộ) đích thực. Vô niệm hiện tiền là mở mắt sự sống (tuệ nhãn),
là ấn chứng cho sự nghiệp “trưởng dưỡng thánh thai” - tức sinh mệnh tuệ giác.
Sinh mệnh tuệ giác (huệ mạng) không chỉ là sinh mệnh cá
nhân, vì tâm linh vừa mang tính chất cá thể (tâm trí cá nhân), vừa mang tính
chất tổng thể (tinh thần vũ trụ). Sự nghiệp Thiền (tự tri, quán tâm) không chỉ
có ý nghĩa cá nhân, mà còn có ý nghĩa đại thừa vô lượng.
5.
HỎI: Bát-Nhã Tâm Kinh là một bản kinh rất quan
trọng, đâu là chìa khoá của kinh?
ĐÁP: Khi học Bát-Nhã Tâm Kinh rất cần lưu tâm đến
cụm từ “chiếu kiến”. “Chiếu kiến” là “soi thấy”.
Câu kinh có cụm từ này là: “Quán Tự Tại Bồ-tát hành thâm
Bát-nhã ba-la- mật-đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ
ách”. Thầy Tuệ Sỹ dịch là: “Bồ-tát Quán Tự Tại trong khi thực hành Bát-nhã
ba-la-mật-đa thâm sâu, soi thấy năm uẩn đều Không, vượt qua tất cả mọi khổ
ách”.
Dùng trí óc phân tích rồi kết luận rằng năm uẩn do duyên
sinh – không có tự tính, đó là suy luận trừu tượng. Phân tích và suy luận chỉ
giúp hiểu đối tượng bằng vốn liếng tri thức trong tâm trí bị quy định, để góp
phần tăng khát vọng giác ngộ, chứ không thể thấy-biết-như-thực thực tại.
“Soi thấy” (chiếu kiến) là cụm từ chỉ sự kiện hiện tiền cụ
thể, chứ không phải chỉ sự suy luận trừu tượng. Thấy-biết-như-thực là chiếu
kiến.
Chiếu kiến (soi thấy) là giáp mặt đối tượng; một sự giáp
mặt không còn ngăn cách nào, không còn chủ thể phân cách với đối tượng. “Quán
tâm nơi tâm” trong kinh điển Phật giáo nguyên thuỷ cũng hàm ý ấy.
Nhưng làm sao để trạng thái chiếu kiến hiện tiền ở tâm?
Trạng thái chiếu kiến là trạng thái vô sư trí. Trí này hiện
tiền do có ý định chủ hướng, do có khát vọng giác ngộ đích thực – giác ngộ vì
tự lợi-lợi tha tối thượng.
Ý định chủ hướng nhắm vào đâu? Nhắm vào sự lắng nghe vọng
tưởng; tức là lắng nghe mọi nói năng trong tâm trí; tức là lắng nghe ông chủ vô
minh của ngũ uẩn; tức là quán thế âm. Phải lắng nghe một cách nhẹ nhàng và tự
nhiên, không dụng công gắng sức; tức là quán tự tại. (Bồ-tát Quán Tự Tại chính
là Bồ-tát Quán Thế Âm).
Với tri giác nội tại, khi biết nghe-như-thực thì cũng chính
là thấy-như-thực, biết-như-thực. Đó là trạng thái chiếu kiến (soi thấy).
Khi biết chiếu kiến ngũ uẩn, khi thật sự soi thấy năm uẩn
thì vọng tưởng dừng lại, tức là tâm im lặng. Nói cho dễ nhận, khi thật sự biết
nghe lại mọi nói năng trong tâm trí thì tâm trí có sự đột chuyển (chuyển y), vô
niệm hiện tiền (tức là Tánh Không hiện tiền).
Vô niệm hiện tiền chính là mở con mắt Tâm – con mắt của sự
sống bất sinh bất diệt. Mắt mở sáng thì tuỳ duyên khởi tác dụng. Vô niệm hiện
tiền là tuệ nhãn. (Thỉnh thoảng có được vài phút vô niệm cũng có công đức và
phước đức rất lớn, nghiệp chướng vơi bớt).
Vô niệm là Tâm Không; là tâm vô ngôn phi thời gian; Tâm
Không là Tánh Không. Tánh Không là Tánh Viên Giác.
Như thế, thật sự soi thấy ngũ uẩn, thật sự giáp mặt ngũ uẩn
thì Tánh Không hiện tiền, Viên Giác hiện tiền. (Ta hiểu tại sao các minh sư khi
Việt dịch chữ “không” thường viết hoa là “Không”).
“Chiếu kiến ngũ uẩn giai không” chính là “hành thâm Bát-nhã
ba-la-mật-đa”. Vọng tưởng là trạng thái tâm trí si mê theo kiến chấp nhị nguyên
đầy phiền não; Tâm Không hiện tiền thì cực lạc hiện tiền…
Học Bát-Nhã Tâm Kinh rất cần lưu tâm cụm từ “chiếu kiến”.
Đó là chìa khoá mở cửa giác ngộ đích thực.
4/2011
************
HƠI THỞ MINH TRIẾT
(Bài thực hành)
Tuệ Thiền (Lê Bá Bôn)
Thở vào, cảm
nhận hơi vào
Thở ra, cảm
nhận hơi ra
Chú tâm lắng
nghe hơi thở
Vọng tâm vọng
tưởng dần xa
Toạ thiền
hoặc không toạ thiền
Miễn sao ngồi
thật an nhiên
Thở đều, hơi
dài và nhẹ
Vơi bao
nghiệp chướng ưu phiền
An định: dễ
thấy cái “tôi”
Cái khuôn tâm
não tháo lơi
Tự tri là gốc
minh triết
Tỉnh thức vô
ngã chiếu soi
Thở vào, cảm
nhận hơi vào
Thở ra, cảm
nhận hơi ra
Chú tâm lắng
nghe hơi thở
Trí tuệ tâm
linh thăng hoa
Y học có
nhiều chứng minh
Công năng của
hơi-thở-thiền
Nhân điện
điều hoà cơ thể
Năng lượng vũ
trụ diệu huyền
Vật lí có
nhiều chứng minh
Tâm năng của
hơi-thở-thiền
Lan toả duyên
lành vô tận
Thiện ích
khắp nẻo chúng sinh
Thở vào, lắng
nghe hơi vào
Thở ra, lắng
nghe hơi ra
Dần dần biết
nghe vọng tưởng
Chân Tâm cực
lạc khai hoa…
01/3/2012
*****
·
“Tự
tri-tỉnh thức-vô ngã” là đạo lí của
vũ trụ, là mẫu số chung của ý nghĩa cuộc
sống, là Thiền; mang năng lượng tích cực
có lợi cho toàn vũ trụ, cho sự thăng hoa trí
tuệ-tâm linh chung của
tất cả.