Chết đi về đâu
(Chùa
Pháp Quang, Queensland, Úc Châu, ngày 28- 05-2006)
Ghi chép: Phương Nhã
CHIM ƯNG TRUNG THÀNH
Câu chuyện dân gian Ấn Độ kể lại
có một vị vua rất thích đi săn. Ông có một con chim ưng rất giỏi. Mỗi khi cưỡi
ngựa vào rừng đi săn, chim ưng là con vật đậu và đứng trên vai ông. Là vị vua
của muôn dân trăm họ, đứng trên hết tất cả mọi thần dân, thế mà chỉ có con chim
ưng được phép đứng trên vai ông. Điều đó cho thấy vua rất thương con chim ưng
này.
Sau mỗi chuyến đi, vua thường có
thêm niềm vui là những con mồi ngon nhờ vào tài phát hiện và chỉ điểm của con
chim ưng. Một hôm, như thường lệ sau mỗi chuyến săn bắn, đoàn tùy tùng thường
dâng lên cho vua một loại thức uống để giải khát. Thế nhưng ngày hôm đó, nhiều
loại thức uống hảo hạng được chuẩn bị sẵn đều không làm vua thỏa mãn. Ông bèn
yêu cầu đoàn tùy tùng tiến tới mỏm núi cao ở phía trước, nơi đó có những giọt
sương còn đọng lại và đang nhễu xuống từng giọt. Vua yêu cầu người hầu cận hãy
hứng lấy những giọt nước tinh khiết này mang đến cho ông.
Người hầu cận dùng chiếc bình nhỏ
hứng một lúc sau thì đầy bèn đem dâng cho vua. Bỗng nhiên, con chim ưng đang
đứng trên vai vỗ cánh hất đổ bình nước. Điều này đã làm vua rất bực mình, khó
chịu nhưng vì thương nó nên vua bỏ qua. Ông yêu cầu người hầu cận hãy hứng một
bình khác cho ông. Sau vài mươi phút, bình nước thứ hai mới được hứng đầy,
người hầu cận lại đem đến dâng vua; và một lần nữa con chim ưng lại vỗ cánh hất
tung bình nước đó. Vua không còn bình tĩnh, kềm chế được cơn tức giận của mình,
ông dùng tay chụp lấy chân của con chim và quẳng xuống đất thật mạnh, chim ưng
bị gãy cổ và chết ngay tại chỗ.
Sau đó, vua yêu cầu đoàn tùy
tùng dùng kiệu đưa ông tìm lên đầu nguồn của giọt nước để hứng lấy nhanh hơn.
Lúc đó, ông không thể tin vào mắt mình khi nhìn thấy cảnh tượng một con rắn hổ mang
đang nằm chết ngay nơi đó. Độc tố của nó đã nhễu
ra, loang trên nguồn nước và
đang nhỏ xuống. Do vì không nhìn thấy nên người hầu cận đã hai lần hứng nước
này dâng vua.
Tánh linh của con chim ưng đã
phát hiện trong hai bình nước dâng vua đều có độc tố của con rắn, nhưng vì ngôn
ngữ truyền thông giữa loài người và loài vật khác nhau, vua không có năng lực
tha tâm thông để hiểu được ngôn ngữ biểu đạt của loài vật, nên đã tạo ra cái
chết oan uổng cho chim ưng. Con chim trung thành, biết nhìn xa thấy rộng và
luôn đặt tánh mạng an toàn cho chủ nhân lên trên hết. Vua rất đau buồn vì hành
động sai lầm của mình nên đã tổ chức lễ tang trọng thể cho chim ưng.
Những lúc trò chuyện, Người Ấn
Độ thường kể cho nhau nghe về câu chuyện đó với dụng ý nhắc nhở con người đừng
nên trung thành quá mức. Bởi trên thực tế có những điều tuy biết nhưng đôi lúc
nói ra không có lợi cho bản thân, mà trái lại còn ảnh hưởng đến tính mạng như
sự kiện chim ưng là một điển hình. Túi khôn trong ứng xử nhân gian Ấn Độ khuyến
tấn con người phải biết tùy từng tình huống mà nói, nếu cảm thấy điều mình nói
ra như một phát ngôn, thông tin mang lợi lạc đến cho người khác thì mới nên thể
hiện; bằng không hãy nên giữ yên lặng. Tôi xin tiếp cận câu chuyện không ở góc
độ trên, mà ở góc độ liên hệ đến nội dung chết đi về đâu.
Vì sự trung thành và tấm lòng
thương kính với người chủ, chim ưng đã chết, đó là cái chết trung kiên. Ở đây
có hai phản ứng cảm xúc được diễn ra trong tình huống này:
Thứ nhất, nếu chim ưng là loài
dễ giận hờn, vui cảm thì chắc chắn sau cái chết để lại trong nó dòng cảm xúc
uất hận rất lớn. Mặc dù không có máy móc thiết bị để đo và cảm nhận được sự uất
hận đó ở mức độ nào, nhưng chắc chắn phản ứng kéo theo sau sẽ là cá tính nhạy
cảm, vui buồn lẫn lộn giống như cách thức phản ứng của con người. Trong tình
huống của nỗi uất hận có thể tạo ra phản ứng tâm lý tiêu cực về quan niệm và
thái độ. Dĩ nhiên, cái chết đó là một nghĩa cử trung kiên, theo tiến trình tái
sanh, chim ưng có thể tái sinh làm lại con vật hoặc con người với nghĩa khí cương
trực, lấy quyền lợi của cộng đồng, tập thể và quốc gia đặt lên hàng đầu so với
sự sống còn của cá nhân. Thông thường, tính cách tâm lý của một nhân vật khi
chào đời có mối quan hệ mật thiết với tính cách tâm lý tiền thân của nhân vật
đó trong quá khứ theo cách thức tương đối nhất định.
Thứ hai, mặc dù chim ưng này bị
chết nhưng vì hiểu được sứ mệnh của nó là mang lại niềm vui và giá trị hạnh
phúc cho chủ nhân, nên cái chết đó vẫn làm cho nó hài lòng. Đây là nghĩa cử cao
thượng mà những người hầu cận cho vua không có linh tính để làm được việc này.
Sự hài lòng đó mang lại giá trị
nhân quả có ý nghĩa cho tiến trình ra đi, không để lại bất kỳ dòng cảm xúc hối
hận nào về hành động hay việc làm tốt của mình. Theo tâm lý học Phật giáo,
trạng thái và dòng cảm xúc hối hận tạo ra nguồn năng lượng, mà chức năng của nó
có thể tiêu diệt, hủy hoại những năng lực mang tính cách đối lập trước đó. Do
đó về bản chất đạo đức, sự hối hận chỉ là trung tính, phải dựa vào nội dung mới
có thể xác định tính cách tâm lý đó là tích cực hay tiêu cực.
Chẳng hạn trong tình huống của
chim ưng, nếu nó hối tiếc về nghĩa cử cao thượng đã làm cho nhà vua - chủ nhân
của nó để phải dẫn đến cái chết oan uổng như thế thì sự hối hận này là một hành
vi, cảm xúc bất thiện. Phản ứng tâm lý bất thiện này thể hiện khi tái sinh
trong tương lai sẽ là thái độ bàng quan, thiếu trách nhiệm, sự dấn thân và hy
sinh cần thiết trước bất kỳ một nghĩa cử hay tình huống cao thượng nào. Khi ấy,
nó sẽ là người tình nguyện đứng ngoài cuộc, bởi vì nỗi đau trong quá khứ, vì
nghĩa cử cao đẹp mà phải dẫn đến cái chết oan uổng như thế. Chính điều này đã
tạo thành phản ứng trấn an, dè dặt và phòng hộ trước bất kỳ tình huống tương tự
nào. Ngược lại, trong tình huống nỗi niềm hối tiếc về một việc xấu đã làm, đó
chính là năng lực của sự hồi đầu. Nếu xét về bản chất tâm lý học, nó lệ thuộc
nhiều vào nội dung của vấn đề.
CHẾT KHÔNG PHẢI LÀ HẾT
Quan điểm của đạo Phật sau khi
con người hay loài động vật nằm xuống, đó không phải là dấu chấm hết, mà chỉ là
một dấu chấm nối kết lại với những dấu chấm khác trên một con đường thẳng. Con
đường đó mở ra dài hay rộng, sớm hay muộn tùy thuộc vào bản chất tâm lý, hành
vi của chính con người hay loài động vật tạo ra. Trong thời đức Phật, nhiều
cuộc đối thoại diễn ra được ghi nhận lại trong kinh Trường Bộ về quan niệm và bản chất của cái chết, hay nói
cách khác đời sống sau cái chết là gì.
Quan điểm của các nhà duy vật cổ
xưa Carvaka của Ấn Độ cho rằng sau khi con người chết, thân thể tâm vật lý bao
gồm năm yếu tố: cấu trúc vật lý, dòng cảm xúc, ý niệm hóa, nhận thức phân biệt,
và sự vận hành của tâm linh sẽ hoàn toàn trở về với cát bụi. Họ quan niệm rằng
ý thức chỉ là một phần của vật chất. Học thuyết này đã được chủ nghĩa duy vật
thời nay phát huy tối đa như một hệ thống tư tưởng chịu ảnh hưởng lớn đối với
các nước xã hội chủ nghĩa.
Đức Phật đã đưa ra khá nhiều
minh chứng để khẳng định quan niệm chết là hết, hoặc một sự vật, hiện tượng
chấm dứt mà không có vòng dây tiếp tục là một quan niệm sai lầm. Học thuyết của
Ngài được ghi chép rõ trong kinh, đặc biệt là kinh Kim Cang thể hiện duy nhất với bốn chữ “bất sanh, bất diệt”. Triết lý này cho
rằng nếu mọi sự vật, hiện tượng không từ đó mà sanh ra, nghĩa là không có
nguyên nhân khởi đầu thì tiến trình kéo dài của nó sẽ không có nguyên nhân kết
thúc. Nó chuyển từ hình thái này sang hình thái khác tùy theo tính điều kiện, môi
trường, hoàn cảnh và cộng nghiệp của con người, vũ trụ v.v…
Hãy thử quan sát khi ta cầm quả
bóng trên tay và ném nó vào vách tường. Khi tiếp xúc với vách tường, nghĩa là
quả bóng đã rời khỏi bàn tay. Trong tình huống này, có người cho rằng quả bóng
đã kết thúc, không còn nằm trong bàn tay mình nữa. Dưới cái nhìn vật lý của
không gian mặt phẳng, điều này có thể đúng, do vì không còn nhìn thấy quả bóng
nữa nên ta cho rằng nó đã kết thúc; nhưng nếu nhìn ở chiều kích không gian đa
chiều thì quả bóng đó di chuyển từ ngay điểm xuất phát của nó, tức là bàn tay
của ta đến vách tường với một khoảng cách, và đến đây nó vẫn chưa hoàn toàn là
hết. Chính sự va chạm của quả bóng vào trong vách tường đã tạo ra một lực có
tác động dội ngược lại. Đây là sự phản hồi lần thứ hai, và đến đây nó vẫn chưa
kết thúc. Khi dội ngược lại, quả bóng sẽ tiếp tục lăn trên mặt đất. Cái lăn sẽ
va chạm vào chân tường và những đồ vật khác, hoặc nó sẽ đi theo tiến trình lăn
tự nhiên cho đến khi nào lực đẩy không còn nữa, nó sẽ dừng lại. Cái dừng lại
đến đây vẫn chưa hết, nó tiếp tục tạo ra hệ phản ứng trực tiếp hay gián tiếp
đối với các sự vật xung quanh nếu bên dưới là mặt nước, hoặc tạo sự chấn động
chung quanh kéo dài.
Bằng cách thức này, khi phân
tích lực phản hồi của bất kỳ hoạt động, hay sự sống của một chủng loài đều diễn
tiến theo cách bất tận như vậy, không thể truy đến tận đích điểm cuối cùng. Bởi
vì lực phản hồi trong một cấu trúc rất phức hợp và đa dạng. Bằng nhãn quan vật
lý thông thường để nhận định, đánh giá, ta cho rằng nó đã kết thúc; nhưng với
nhãn quan của nhà khoa học vật lý thì tất cả mọi thứ vẫn còn tiếp tục tác động
và diễn tiến dựa trên cấu trúc của nó. Do đó, chết không phải là hết.
Việc các nhà triết học quan niệm
chết là hết hoặc theo quan niệm của đức Phật có một đời sống sau khi chết, liên
hệ đến tính đạo đức của vấn đề. Rất nhiều nhà duy vật cổ xưa Ấn Độ không chấp
nhận quan niệm có đời sau, mặc dù bản thân đời sống hiện tại của họ rất đạo đức,
nhưng điều mà đức Phật nhìn thấy và muốn lưu ý ở đây chính quan niệm sai lầm
này sẽ mở cửa, tạo điều kiện dẫn khởi, xúc tác cho những hành vi con người đi
vào quỹ đạo gây bất lợi cho bản thân và tha nhân. Bởi kết cuộc của sự sống và
cái chết đều giống nhau, như vậy chẳng ai muốn làm lành lánh dữ hay nỗ lực dấn
thân phục vụ xã hội để làm gì.
Với niềm tin có một kiếp sau sẽ
làm con người nghĩ đến tính trách nhiệm về đạo đức nhân quả trong mỗi hành
động, lời nói, và việc làm dù kiếp sau có thể chẳng có gì. Quan niệm như thế
vẫn tốt hơn cho cộng đồng và xã hội trong đời sống hiện tại có mặt trên cuộc
đời, huống hồ chi về mặt qui luật vật lý không có vật gì là mất hẳn.
Khái niệm bất sanh bất diệt là
khái niệm triết học vẽ ra tiến trình chạy trôi chảy của các chúng sinh, với mỗi
điểm là một phần của sự sống. Sống và chết chập trùng trong những điểm lên và
xuống của tiến trình. Nói cách khác, ta chết đi trong từng giây, từng phút,
từng ngày và từng giờ để tái tạo lại sự sống trong từng giây, từng phút, từng ngày
và từng giờ về phương diện sinh học, vật lý. Đây là quan niệm của đạo Phật, và
nó hoàn toàn phù hợp với quan niệm sinh học và vật lý học hiện đại.
Cái chết về mặt vật lý hoặc còn
gọi là chết lâm sàng được xác định bằng sự ngưng hoạt động của não, kết thúc
nhịp đập của tim, các giác quan hoàn toàn lặng tắt, đây chỉ là một phần đánh
giá về bản chất của cái chết mà đôi lúc nó không chuẩn xác hoàn toàn từ cái
nhìn của đạo Phật.
NGUỒN ĐIỆN CỦA BÓNG ĐÈN
Thỉnh thoảng, ta vẫn được nghe
kể lại những câu chuyện khó tin nhưng có thật từ những người mà cuộc sống của
họ gắn liền với nghề giữ xác trong bệnh viện. Chẳng hạn như một bệnh nhân đã
tắt thở hoàn toàn, tim mạch ngưng hoạt động, thân thể đã lạnh cứng; do vì không
có thân nhân đến lãnh xác nên thi thể của họ được đưa vào trong nhà lạnh, tạo
cơ hội cho các sinh viên thí nghiệm, thực tập mổ xẻ trong ngành y. Thế nhưng
đôi lúc có những trường hợp các thi thể ấy đã sống lại sau ba, bốn, hoặc năm
ngày trong nhà xác. Trước hiện tượng này đã làm cho các nhà khoa học hoang mang
vô cùng. Lý giải thế nào về cái chết lâm sàng đứng từ góc độ và tầm nhìn của y
học hiện đại, khi máu ngưng hoạt động và tim đã ngừng thở trong vài ngày?
Theo quan niệm của đạo Phật, sự
sống của người chết và các loài chúng sinh có liên hệ đến một yếu tính quan
trọng, đó chính là sự hiện hữu tương thức của dòng chảy tâm thức bên trong, hỗ
trợ mật thiết cho sự vận hành theo qui luật nhân quả cùng với dòng cảm xúc. Yếu
tố quan trọng để nối kết, xác định, kéo dài và tái tạo sự sống được sánh ví như
nguồn điện của chiếc bóng đèn, bóng đèn được ví như thân xác của con người. Để
cho chiếc bóng đèn phát quang cần có nhiều điều kiện như tăng-phô, con chuột,
bóng đèn, đường dây điện, nguồn điện v.v… chỉ cần một trong những điều kiện này
bị trục trặc có thể dẫn đến việc ngưng phát quang của bóng đèn. Trong tình thế
đó, không nên đẳng thức hóa và kết luận rằng dòng điện đã ngưng hoạt động, mà
trên thực tế nó vẫn tiếp tục hiện hữu. Bóng đèn không cháy có thể vì tăng phô
bị hư, con chuột bị đứt hoặc do bóng bị đen ở hai đầu, tức là điện quang bên
trong không đủ làm cho chiếc đèn có thể bật sáng. Giống như tình trạng chết lâm
sàng khi tim, não và máu đã ngưng mà dòng cảm xúc hay ý thức vẫn tồn tại và tái
sinh gắn liền với những nỗ lực, do vì thái độ nuối tiếc, không muốn chấp nhận
cái chết đó. Trong một vài tình huống như thế sẽ dẫn đến việc kéo dài cái chết
và cuối cùng tái tạo lại sự sống.
Như vậy, câu hỏi được đặt ra là
tại sao có nhiều người cũng muốn níu kéo, không muốn chấp nhận cái chết mặc dù
cái chết đang diễn ra, nhưng sự sống lại không tiếp tục có mặt với họ lần thứ
hai?
Tâm lý học và nghiệp báo của đạo
Phật lý giải rằng, không phải con người ước muốn điều gì cũng có thể đạt được,
bởi vì nó liên hệ đến tính điều kiện để cho ước muốn đó trở thành hiện thực. Nói
cách khác, chúng sanh đó vừa qua đời và được tái tạo mạng sống lần thứ hai là
bởi trong quá khứ họ đã gieo trồng rất nhiều hạt giống của sự sống, bảo vệ sự
sống và quyền sống của con người và các loài động vật. Chẳng hạn như các nhà
môi trường làm hết mình với tất cả tấm lòng, ý thức, bảo hộ sự sống cho mọi
người và mọi loài chúng sinh. Chính điều này đã tạo ra phước lực rất lớn, trong
thời điểm ra đi đột ngột dẫn đến sự nuối tiếc, muốn níu kéo mạng sống. Nhờ sự
níu kéo này đã tạo ra chất xúc tác mãnh liệt, dưới tác động của nó, thay vì để
cho tiến trình tái sinh được diễn ra bình thường, quả của nghiệp thiện ích về
đời sống sẽ trổ ở đời sau, nhưng bây giờ nó trổ quả ngay. Tương tự như một loại
trái cây, nếu để tự nhiên phải mất đến vài ngày mới có thể chín, nhưng vì mưu
sinh, người ta dùng khí đá hoặc một loại hóa chất để dú, thúc đẩy độ chín của
nó diễn ra sớm hơn so với bản chất tự nhiên.
Trong tình huống níu kéo sự sống
mà con người hay chủng loại nào đó không đủ chất xúc tác và điều kiện cần thiết
của phước lực sẽ dẫn đến tình trạng tồn tại dưới hình thức hồn ma bóng vía,
nghĩa là phủ định và không muốn thừa nhận cái chết của mình. Tiến trình đó kéo
dài hay ngắn lệ thuộc vào dòng cảm xúc của hương linh có chịu buông bỏ hay níu
kéo. Cái chết được tái sinh là chuyện hy hữu, nó là điểm để con người nhận
định, đánh giá, phản hồi lại bản chất đời sống của mình. Cái sống hoàn toàn phụ
thuộc vào năng lực nghiệp báo và hành vi thiện ác của con người đã tạo. Đứng về
góc độ tâm lý học thì sự níu kéo sau cái chết rất nguy hiểm, bởi vì trong chúng
sanh có mấy người níu kéo được sự sống lần thứ hai, và toàn bộ những người
không may mắn đó phải chấp nhận cái chết cho dù họ cố tình phủ định, điều này
dẫn đến tình huống trở thành ngạ quỷ.
Thế Tôn đã khá tinh tế trong cách
sử dụng ngôn từ, nếu chỉ dùng ngôn từ hồn ma bóng vía thì chưa đủ, mà phải dùng
thêm tính từ “ngạ”. Ngạ là đói khát, bởi vì khi ra đi hương linh không chấp
nhận, cứ bám víu vào một cái gì đó và đẳng thức hóa nó là cơ thể vật lý của
mình. Chẳng hạn như di ảnh, hài cốt, bàn thờ, mồ mả, nhà trưng bày hoặc viện
bảo tàng v.v… Cái tôi đẳng thức hóa đó với cấu trúc vật lý của thân, dù là tổng
hòa giữa cấu trúc vật lý và bộ phận quan trọng của tâm lý gồm bốn yếu tố: cảm
xúc, ý niệm hóa, sự vận hành của tâm và nhận thức phân biệt.
Đẳng thức hóa thường kéo theo
quan niệm sai lầm dẫn đến sự nuối tiếc. Do vì nuối tiếc, hương linh rất khổ đau
khi nhìn thấy cảnh tượng con người sinh hoạt, hưởng thụ và cảm xúc, khiến hương
linh như đang sống lại với đời sống mình từng trải qua trong quá khứ. Thế nhưng
hương linh không thể nào thỏa mãn được những điều này, vì không còn cơ thể vật
lý để ăn, không còn thân thể để mặc áo quần và trang sức. Càng bám víu, nuối
tiếc nhiều chừng nào thì dòng cảm xúc tạo ra năng lực khổ đau lại càng nhiều
chừng đó. Đối với loài ngạ quỷ chưa đi đầu thai, họ đói về cảm xúc, vật thực,
đời sống cùng mọi phương diện hưởng thụ khác.
TẬP TỤC VÀ QUAN NIỆM TỐNG TÁNG
Người ta cho rằng Ngài Đường Tam
Tạng Huyền Tráng khuyên sau khi một người qua đời, trong suốt tám giờ đồng hồ,
người thân không nên động chạm vào thi thể của người chết. Dĩ nhiên, không có
bất kỳ một dữ liệu nào trong kinh tạng Pàli
lẫn kinh tạng Đại thừa có đề cập đến chi tiết này. Đây được tạm gọi là học
thuyết “thận trọng” về tiến
trình tái sinh giữa chết và sống do ngài đặt ra. Học thuyết này có ý nghĩa với
một số người có phản ứng tiếc nuối, không chấp nhận hoặc phủ định cái chết. Họ
cứ níu kéo mãi khiến dòng cảm xúc như một thần thức luôn quan sát, canh giữ
ngày đêm, không muốn cho bất kỳ người nào động vào cơ thể vật lý của mình. Bởi
sự động chạm đó làm cho họ có ảo giác rằng người ta đang cướp, giết, làm thương
tổn hoặc hủy hoại mạng sống của mình. Cho nên phản ứng kháng cự trỗi dậy, lúc
đó lòng sân cũng xuất hiện. Tiến trình tái sinh đi kèm với lòng sân sẽ làm cho
con người có bản tính nóng nảy, cau có, khó chịu, bực dọc, và khó bình tĩnh
trước những biến cố cuộc đời.
Tổ Huyền Tráng đã khuyên đừng
nên tin vào năm tháng, ngày giờ. Ứng dụng cách thức tám tiếng nhằm tạo cơ hội
cho phản ứng cảm xúc của người quá cố không diễn ra theo hướng tiêu cực, đồng
thời giúp tiến trình tái sinh được diễn ra an toàn. Như vậy, một số người đặt
câu hỏi tại sao không phải là một tiếng, hai tiếng, hoặc ba tiếng mà phải là
tám tiếng?
Trong các quyển sách liên hệ đến
duy thức học Phật giáo, ngài Huyền Tráng có đưa ra sự kiện như là một minh họa
nhưng không đưa ra lời giải thích. Có thể suy luận bằng cách thức tương đối
rằng, số 8 trong đạo Phật tượng trưng cho sự kiết tường và an lành, số 7 tượng
trưng cho sự trọn vẹn và đầy đủ. Ngoài ra, có một con số của nền văn hóa Trung
Hoa ứng với số 8 đó là số 9. Trong Phật giáo, Tổ Huyền Tráng không sử dụng số 9
mà là số 8, nhằm thiết lập sự thận trọng trong 8 giờ đồng hồ, tạo sự an toàn và
kiết tường cho người sống lẫn kẻ chết. bởi lẽ chỉ có tiến trình tái sinh an
toàn mới có thể mang hạnh phúc cho những người còn lại.
Có sự khác biệt khá lớn về quan
niệm hạnh phúc giữa người phương Đông và người phương Tây. Đối với người phương
Tây, phục vụ cho người sống là điều kiện thiết yếu dẫn đến hạnh phúc. Sau khi
chết rồi, dù vẫn tổ chức đám tang linh đình, nhưng việc cúng kiến đối với họ
không còn quan trọng. Bởi vì người phương Tây quan niệm, sau cái chết chỉ có
hai con đường. Nếu đời sống tín ngưỡng tôn giáo thuần tính theo những gì được dạy
trong kinh thánh, hương linh sẽ được về bên đức Chúa, và hưởng nhân đức Chúa.
Hoặc con đường thứ hai là hương linh phải tái sinh vào hỏa ngục đời đời kiếp
kiếp để chịu sự trừng phạt. Hai tiến trình đó là sự lựa chọn gắn liền với bản
chất niềm tin, ngoài ra không có một hình thái tái sinh nào khác. Do đó, người
phương Tây không quan trọng sau cái chết.
Ngược lại, đối với người châu Á,
chăm sóc cho người chết là tạo hạnh phúc cho những người còn sống. Ta thấy có
những người thân dù đã ra đi 80 năm hay 100 năm mà ông bà, hoặc cha mẹ mình đến
ngày giỗ vẫn còn rơi nước mắt, vẫn tảo mộ, cúng kiến, cầu nguyện cho hương hồn
được nhẹ nhàng ra đi.
Ngày nay, rất ít người ứng dụng
theo tập tục do ngài Huyền Tráng đề nghị. Do vì ảnh hưởng của nền văn hóa Khổng
giáo, nhất là kinh dịch nên người ta thường tuân thủ theo quy tắc năm tháng,
ngày giờ liên hệ đến tốt, xấu cho những người còn lại. Từ cái nhìn của đạo
Phật, đây là một quan niệm sai lầm. Tại sao quan niệm sai lầm này lại có tuổi
thọ lâu dài đến mấy ngàn năm lịch sử, và vẫn tiếp tục khống chế nhiều người,
cho dù người đó là vô thần, không tin về cái chết hay một đời sống sau khi
chết?
Lý giải cho điều này là bởi nỗi
sợ hãi của con người khi phải đối diện với cái chết. Là người tu sĩ, tôi có cơ
hội tiếp xúc với rất nhiều gia đình không có niềm tin, nhưng đến lúc phải đối
diện cái chết của người thân, họ lại hoảng sợ và lý giải rằng, nếu không tẩm
liệm theo đúng quy tắc năm tháng, ngày giờ có thể dẫn đến hiện tượng trùng
tang, ly tán, tam tai hay cái chết cho chính bản thân. Chính nỗi sợ hãi này là
cơ sở dữ liệu để nuôi dưỡng những quan niệm sai lầm, làm cho nó có tuổi thọ lâu
dài, điều mà đạo Phật gọi đó là vô minh.
Ngoài ra, nhiều người còn có tập
tục làm lễ tẩy tịnh cơ thể của người chết để con cháu trong gia đình làm ăn
được khấm khá về sau. Đây cũng là một quan niệm sai lầm về phương diện nhân
quả. Con cháu có làm ăn khấm khá hay không là hoàn toàn lệ thuộc vào đạo đức
nhân quả của chúng. Cha mẹ chỉ tạo cộng hưởng về nghiệp, nó có thể ảnh hưởng
trực tiếp hay gián tiếp, về mặt này hay mặt khác, nhiều hay ít chứ không thể
quyết định tất cả. Vì bản chất nhân quả của từng con người quyết định hạnh phúc
hay khổ đau của họ.
Có những tình huống, người chết
không nằm trong tư thế thoải mái, do vì nỗi đau vật lý làm cơ thể họ bị co quắp
lại, để phóng thích nỗi đau ra bên ngoài như một nhu cầu. Khi ấy, các âm công
làm công việc tẩn liệm phải dùng rượu hoặc cồn thoa vào cơ thể cho giãn ra,
theo cách thế tạo sự an tường và nhẹ nhàng cho người ra đi. Đây được gọi là lễ
tẩy tịnh, và thực hiện điều này không có nghĩa là để con cháu được sung túc về
sau, hoặc ngược lại bị nghèo khó. Nếu lý giải một cách sai lầm thì tình huống
các chiến sĩ chết ngoài sa trường, chẳng những không nằm ở tư thế đẹp mà còn ở
tư thế đầu chân lộn ngược, thế mà gia đình những liệt sĩ này vẫn giàu có. Vậy
thì phải chăng tư thế chết có liên hệ đến hạnh phúc hay khổ đau? Dĩ nhiên
không. Tại sao các chiến sĩ chết trận tập thể không có tư thế hoặc mồ mả đẹp mà
họ vẫn mang lại cho gia đình nhiều lợi lạc?
Chỉ cần so sánh như thế đủ cho
thấy quan niệm và phong tục tập quán năm tháng, ngày giờ, tốt xấu, may rủi hoàn
toàn không có cơ sở về mặt nhân quả. Thế mà người ta vẫn cứ tin, vì tin nên họ
lý giải nó dưới góc độ thà dư thừa còn hơn thiếu, dư thì không sao mà thiếu là
ân hận suốt đời. Chính vì sự an ủi này mà các phong tục tập quán sai lầm vẫn
tiếp tục có điều kiện và cơ sở để sống.
Năm 2004, tôi có dịp sang thuyết
giảng tại bang California,
Mỹ. Sau buổi pháp thoại tại một ngôi chùa, sư bà trụ trì có mời tôi cùng vài
người Phật tử đi tham quan và làm lễ tại một nghĩa trang mà sư bà vừa mới mua.
Đây là nghĩa trang đầu tiên của Phật giáo tại Mỹ, rất nhiều người đã đăng ký
mua đất tại đây.
Hôm đó, có một người nói với sư
bà như sau:
- Thưa sư bà, cho con đăng ký
một chỗ kế bên đức Bồ-tát Địa Tạng, bao nhiêu tiền con cũng sẵn sàng.
Nghe thế, tôi mới hỏi:
- Tại sao cô lại muốn đăng ký
miếng đất kề cận đức Bồ-tát Địa Tạng?
- Thưa thầy, ở dưới nước rất
lạnh, xung quanh đó côn trùng và nhiều loài bò sát sẽ cắn, nhưng nếu ở cạnh và
có sự bảo hộ của đức Bồ-tát Địa Tạng, mình sẽ được an toàn.
Đây là quan niệm của rất nhiều
người. Do vì sợ thân thể bị hư thối, mục nát dưới nước nên có người đã chọn con
đường hỏa thiêu. Một số khác lại lý luận rằng nếu đem hỏa thiêu sẽ bị nóng tột
độ, chịu không nổi nên phải chọn con đường chôn cất. Sự lựa chọn giữa thiêu và
chôn được gắn liền với cái mà họ cho là dòng cảm xúc hay thần thức của mình vẫn
còn ở bên cạnh để canh giữ, vẫn tiếp tục cảm nhận được sự nóng lạnh mà trên
thực tế dòng cảm xúc đó đã bị cắt đứt, chính quan niệm sai lầm này dẫn đến
nhiều sự lựa chọn sai lầm khác.
Chùa Giác Ngộ của tôi có thờ
khoảng 5000 lọ cốt (5000 thi thể) được thu nhỏ trong từng chiếc lọ. Nhiều Phật
tử đã nảy ra sáng kiến đăng ký giữ chỗ (lọ cốt) trước ở chùa, vì tâm lý sợ đến
lúc mình mất đi sẽ không còn chỗ. Khi được hỏi lý do vì sao phải đăng ký chỗ
trước khi đang còn sống khỏe mạnh như thế này? Một số người đã trả lời rằng họ
thích ở chùa để được nghe kinh kệ mỗi ngày và sớm được siêu sinh thoát hóa.
Quan niệm sai lầm này đã làm cho
khá nhiều người nghĩ rằng sau khi chết thần thức của họ sẽ được giữ lại với thi
thể vật lý được tồn tại dưới dạng tro cốt. Nếu quan niệm đó không sớm tháo gỡ
thì tiến trình tái sinh sẽ là trở ngại và ách tắc. Bởi người ta đã đẳng thức
hóa cơ thể vật lý này là cái tôi, là sự sống của mình, nên khi mạng sống con
người chấm dứt, lẽ ra thần thức phải thoát ra, tiếp tục tìm một mầm sống mới để
tái sinh; đằng này lại cho rằng cơ thể vật lý này là của mình vĩnh viễn, muốn
đặt lọ cốt lại để thần thức được nương gá nơi chùa chiền, nhờ thần lực của Tam
Bảo giúp mình có thể ra đi dễ dàng. Dĩ nhiên, về tác dụng bảo hộ của Tam Bảo
đối với hương hồn là chuyện có thật, nhưng nếu cứ quán niệm và buộc thân thể
vật lý này không được rời khỏi thần thức, và ngược lại thần thức phải bám víu
vào cơ thể vật lý thì đây sẽ là một ách tắc, trở ngại trên con đường tái sinh.
Điểm mà tôi muốn nhấn mạnh là ở đây.
Nóng và lạnh, đau đớn và hạnh
phúc, dễ chịu và khó chịu tất cả đều thuộc về dòng cảm xúc. Khi con người qua
đời thì dòng cảm xúc cũng đã hết, không nên có khuynh hướng đẳng thức hóa dòng
cảm xúc tiếp tục tồn tại trong cơ thể vật lý mà cần giải phóng nó. Hãy thực tập
thoải mái theo cách thức sau khi mình qua đời, người thân chôn, thiêu hoặc thậm
chí là bỏ thây ngoài đường không ai quan tâm, chăm sóc, hương án cũng không
sao. Bởi vì cơ thể đó chỉ là phương tiện để thần thức được gá vào, giống như
không có bóng đèn này thì thay vào bóng đèn khác, dòng điện mới thực sự là yếu
tố quan trọng, đôi lúc thay bóng đèn mới tạo cơ hội để năng lực của dòng điện
được thể hiện một cách trọn vẹn. Quan niệm như thế sẽ làm cho người Phật tử
thực sự thoải mái, thong dong, tự tại và không chao đảo trước cái chết, đồng
thời tiến trình đó giúp con người sống một cách an lành. Điều quan trọng là
quan niệm thoải mái, tự tại về cái chết sẽ dẫn đến cuộc sống an lành, bằng
không, nó tạo ra nhiều rắc rối khác.
CHẾT ĐI VỀ ĐÂU
Trong kinh, đức Phật đưa ra hình
ảnh ẩn dụ về cây nến, nếu dùng lửa thắp sáng ngọn nến lên thì từ cái không lửa
sẽ trở thành có lửa. Lửa có thể bị chong chênh nếu ta dùng tay lắc, hoặc một
cơn gió thổi qua thì ánh sáng đó bị lập lòe, do tác động của sự vận chuyển
không khí. Nếu tác động này quá mạnh, lửa có thể bị tắt, và lúc này điều gì xảy
ra với ngọn lửa? Đức Phật đã đặt ra câu hỏi đó. Một số vị tỳ kheo trả lời:
- Lửa sẽ đi theo hướng mà sức
gió bị ép, ví dụ nếu gió thổi qua từ phía bên tay trái thì lửa sẽ bị tắt. Như
vậy, lửa đi từ bên trái sang bên phải, từ Đông sang Tây hoặc từ Nam sang Bắc và
ngược lại.
Nhiều vị tỳ kheo khác im lặng.
Lúc này, đức Phật trả lời:
- Việc tìm kiếm và định hướng sự
ra đi của lửa là điều không cần thiết. Trong tình huống này, nếu ta chấp nhận
lửa có một hướng đi thì phải quan sát lửa đó như thế nào, nó tiếp tục chạy ra sao.
Trong khi ngọn lửa đã bị tắt mà ta lại bàn luận nó đi về hướng nào thì đây là
một câu trả lời không thích hợp.
Ví dụ này được Thế Tôn đưa ra để
nói về cái chết, về sự ra đi của những vị xuất gia chân chính có một đời sống
tu học vững chãi, đạt được giá trị an lạc ở hiện đời thì sự giả định về tiến
trình tái sinh của người đó về hướng A, B, hoặc C là điều không thích hợp. Bởi
vì các ngài sẽ ra đi theo nguyện ước của bản thân. Chết đi về đâu? Chết - đi
theo nguyện ước.
Lý luận này đã không làm hài
lòng nhiều nhà nghiên cứu Phật học bởi vì sự súc tích của nó và cách thức giải
thích không trọn vẹn, đầy đủ về ý nghĩa của sự ra đi. Chắc chắn các nhà nghiên
cứu muốn đề cập đến mệnh đề triết học hoặc những phán đoán đề cập đến cái chết
của Thế Tôn, và đời sống của Ngài sau khi chết. Điều này khiến họ cảm giác
không thỏa mãn, nên vẫn tiếp tục đặt câu hỏi tương tự.
Thế Tôn quay họ trở về với đời
sống thực tại, hãy đặt câu hỏi và tìm kiếm giải pháp cho những vấn đề hiện thực
của đời sống an lạc, hạnh phúc, giá trị tĩnh tại, thảnh thơi quan trọng hơn nhiều
so với việc tìm hiểu lửa này sẽ đi về hướng nào, và trong kinh Đại Bát Niết Bàn, đức Phật đã có câu
trả lời làm thỏa mãn những người tò mò.
Ngài đưa ra hình ảnh ẩn dụ cũng
giống như sự xoay chiếu của mặt trời 12 tiếng vào ban ngày vừa kết thúc thì
bóng tối cũng bắt đầu xuất hiện. Trong thời đại của đức Phật, con người chưa có
kiến thức khoa học không gian về mặt trời, mặt trăng hay đời sống của các hành
tinh khác. Thế Tôn chỉ đưa ra hình ảnh ẩn dụ đơn giản về cái chết và tái sinh
của các bậc chứng đạo cũng tương tự như vầng mặt trời. Khi màn đêm xuất hiện
không có nghĩa là mặt trời bị mất đi, nó vẫn tiếp tục rọi sáng ở một nửa bên
kia trái đất, nghĩa là nó vẫn tiếp tục tồn tại và phát triển. Điều đó chứng tỏ
cái chết và tái sinh của các bậc chứng đạo đi theo nguyện ước của các ngài,
miễn là nơi nào có nhân duyên, và thông qua nhân duyên đó, sự lợi lạc, an vui
và hạnh phúc của chúng sanh được thiết lập.
Câu trả lời này đã làm
thỏa mãn các tiền đề, định đề và lý giải của triết học về bản chất sau khi chết
của những bậc cao Tăng. Thế còn đối với người phàm kẻ tục như chúng ta thì chết
sẽ đi về đâu? Câu trả lời ở đây lệ thuộc hoàn toàn vào thái độ của người ra đi.
KHÔNG TIẾC NUỐI CÁI CHẾT
Đức Phật đề cập đến sự ra đi ít
nhiều có mối liên hệ đến di thể con người, mà quan trọng nhất vẫn là tro cốt.
Nó là cơ sở vật lý quan trọng để hương linh bám víu vào. Ngày nay cùng với sự
tiến bộ phát triển của khoa học kỹ thuật, có khá nhiều phương tiện giúp lưu giữ
lại những kỷ niệm trong quá khứ thông qua hình ảnh, video, các phương tiện
internet hoặc các viện bảo tàng có thể nắn tạo lại hình tượng của một nhân vật
nào đó. Chẳng hạn như công nghệ Thái Lan thực hiện việc này rất tinh vi, chỉ
cần cung cấp cho họ một thước phim khoảng năm phút về cơ thể vật lý của một
người nào đó với tư thế mà họ đang ngồi cùng với mái tóc thiệt thì chỉ trong
vòng một tháng sau, họ nắn tạo ra hình tượng mà độ chính xác của nó đạt hơn
90%. Chỉ cần trả khoảng 15.000 USD là đã có một hình tượng giống hệt mình rồi,
và nhiều người cho rằng đây là điều rất hạnh phúc, bởi vì nó là kỷ niệm vật của
mình.
Thế nhưng theo tâm lý học của
đạo Phật, đây là cản lực lớn cho tiến trình tái sanh. Hương linh sẽ có cơ hội
bám víu vào cơ thể vật lý khi mạng sống đã chết, cơ thể bị hôi thối, rã rời
theo qui luật vật lý thì cấu trúc di thể mà ta đã nắn tạo ra bản photocopy của
mình sẽ là cái rất đẹp, cũng vì sự nuối tiếc này mà nhiều hương linh khó ra đi.
Ngoài ra, nền văn hóa phương Tây còn đặt nặng tập tục trang điểm cho người chết
trước khi tẩm liệm. Người ta đánh phấn, tô son trông gương mặt thật đẹp, giống
như người chết đang trong trạng thái ngủ an lành. Nhiều người cứ nghĩ rằng làm
như thế là thương tưởng, quý trọng người ra đi, mà trên thực tế tình huống này
sẽ làm cho hương linh dễ bị chấp trước và dính mắc nhiều hơn. Bởi lúc còn sống
mình không đẹp mà khi chết mình lại đẹp như vậy, khiến hương linh có tâm trạng
tiếc nuối, muốn bám víu vào hình hài, thân thể đó không muốn ra đi. Do đó, họ
tiếp tục tồn tại dưới hình thức khổ đau của ngạ quỷ.
Trong trạng thái nuối tiếc xuất
hiện, hương linh thường bám víu vào bất kỳ một cấu trúc hay hình dạng di thể
còn lại. Đó có thể là bức ảnh, giọng nói được ghi âm, bàn thờ trang nghiêm, mồ
mả, đền thờ họ tộc v.v…và xa hơn nữa là di cốt, hoặc các tượng là bản sao của
hương linh được làm tinh vi và đẹp. Như vậy, điều gì dẫn đến sự nuối tiếc đó?
Trong kinh, đức Phật nêu ra ba tình huống:
- Gia tài, sự nghiệp khiến hương
linh nuối tiếc, khó có thể buông.
- Tình yêu giữa vợ và chồng
(trường hợp này nguy hiểm nhất) nếu tình yêu đó bị nguội lạnh thì sẽ được
chuyển thể thành tình thương giữa cha mẹ và con cái. Nếu họ không có con cái
thì tình thương đó lại được chuyển thể sang một dạng khác là anh em hoặc người
thân với nhau. Nói chung, bám vào bất kỳ mối dây tình cảm nào trong những tình
huống như thế vẫn làm cho sự ra đi của hương linh gặp trục trặc.
- Có quá nhiều chương trình, dự
án, kế hoạch chưa làm xong nên họ không sẵn sàng chấp nhận cái chết. Sự tức tối
trong tình huống này sẽ khiến hương linh rơi vào trạng thái ngạ quỷ. Do đó,
bằng mọi giá và mọi phương tiện, người Phật tử cần tu tập, huấn luyện cho mình
và người thân từ bỏ trạng thái nuối tiếc về cảm xúc, nhận thức liên hệ đến
nhiều tình huống khác nhau, có thể là trực tiếp hoặc gián tiếp.
Năm 2004, tôi được một vị thầy
dẫn đến tham quan nhà tưởng niệm của diễn viên điện ảnh kim ca sĩ Elvis
Presley. Nơi đây trưng bày nhiều kỷ vật trong giai đoạn mà danh vọng, sự nghiệp
của ông đang ở đỉnh cao, chẳng hạn như quần áo, mắt kính, đĩa CD, băng nhạc
v.v… và thậm chí nơi đây còn bày bán cả những chiếc áo có in hình ông. Theo
chúng tôi được biết, mỗi năm số tiền thu được từ việc tổ chức bán vé tham quan
tại nhà tưởng niệm này lên đến con số rất cao, nghĩa là tuy ông đã chết nhưng
vẫn còn tiếp tục tạo ra đồng tiền. Trong tình huống đó, nếu ca sĩ này không
hiểu, cứ bám víu vào sự thành công, vinh quang, danh tiếng và những cái người
ta đã làm cho mình sau khi chết thì chắc chắn ông sẽ bị rơi vào trạng thái ngạ
quỷ về lâu dài.
Tương tự như các vị vua Pharao
của nền văn hóa kim tự tháp Ai Cập hoặc những người chết mất xác cũng vậy, cơ
hội tái sinh ở họ thật hẩm hiu vô cùng. Bởi vì cấu trúc vật lý đó vẫn còn
nguyên vẹn, làm cho hương linh quyến luyến khó có thể ra đi. Điều này khác hoàn
toàn so với tình huống để lại nhục thân của các vị thiền sư, chẳng hạn ở Việt
Nam có thiền sư Vũ Khắc Minh và Vũ Khắc Trường ở chùa Đậu, do tu tập và hạnh
nguyện đặc biệt mà các ngài đã để lại xá lợi toàn thân. Trải qua nhiều thế kỷ
không cần sử dụng đến hóa chất, nghệ thuật ướp xác của phương Tây hoặc Ai Cập
cổ đại mà thân thể vẫn không hề bị hư thối hay rã mục. Tại Thái Lan, hai vị Hòa
thượng Việt Nam đã có công khai mở đạo Phật của Việt Nam sang Bangkok khi chết
cũng để lại nhục thân. Trung Quốc cũng chỉ có khoảng ba hoặc bốn nhục thân. Đầu
tiên là nhục thân của ngài Lục Tổ Huệ Năng, kế đến là tỳ kheo ni Vô Tận Tạng -
một vị đại ni cùng thời Lục Tổ Huệ Năng, và trải qua nhiều thế kỷ mãi đến năm
1963 mới tiếp tục có nhục thân của thiền sư Nguyệt Khê.
Sự kiện để lại nhục thân cũng là
một nguyện ước của các ngài để minh chứng cho các tín đồ Phật giáo, những người
tìm đến hoặc chưa có niềm tin về đạo Phật. Có những điều khoa học không thể nào
lý giải được, cấu trúc vật lý của con người là vô thường nhưng vẫn có thể giữ
lại bằng một cách thức nào đó, nếu như người đó khi chết gắn liền với nguyện
ước của mình.
Trong cuộc sống, ta vẫn thường
hay nói tinh thần của người A còn sống mãi trong tim, hoặc nếu là người con
cháu kế thừa gia tài của một gia tộc có chiều sâu về văn hóa, giáo dục, ta vẫn
thường hãnh diện tự nhủ rằng: “tinh thần
đóng góp của ông bà tổ tiên vẫn còn sống mãi trong tim chúng ta”
thế thì tại sao chúng ta lại nói chết là hết? Ít nhất là giá trị đóng góp về
mặt đạo đức và cộng đồng xã hội vẫn còn đó, cho nên không bao giờ là hết hoặc
chấm dứt bằng những dấu chấm, nó chỉ là điểm diễn ra trên tiến trình của sanh
tử mà thôi.
THUẬT HỖ TRỢ HƯƠNG LINH
Trong giai đoạn từ năm 1975 đến
năm 1988, tu sĩ xuất gia tại Việt Nam gặp rất nhiều khó khăn. Mỗi
ngày, tăng ni chỉ được phép ở chùa đến 20h30 tối là phải cuốn gói ra đi. Họ
phải tìm một gia đình Phật tử ở gần chùa để tá túc, và chờ đến 3h sáng hôm sau
mới được phép về chùa sinh hoạt trở lại. Đây là giai đoạn khá cam go, trong số
đó có khoảng 1/3 tu sĩ đã ra đời, vì điều kiện gần gũi với thế nhân nhiều, cùng
những biến cố lịch sử trong giai đoạn đầy khó khăn.
Thời đó, ở chùa Giác Ngộ cứ sau
20h30 tối là chúng tôi phải đi ngủ nhờ ở nhà một Phật tử. Rất may trong số đó
có một vị xuất gia tại chùa Giác Ngộ, gia đình vị này lại ở gần chùa, chỉ cách
đó khoảng 200 mét. Nhà của vị này gồm có ba tầng lầu. Tầng trệt là phòng khám,
vì chủ nhân của gia đình này là một bác sĩ, tầng thứ hai dành cho đời sống gia
đình, tầng thứ ba và nóc nhà của tầng ba dành cho quý thầy. Gần mười vị thầy
cùng ở chung một tầng mà bề ngang chỉ có 3,5m và bề dài 8m là quá chật hẹp. Các
vị trẻ đành phải leo lên ngủ trên nóc của tầng nhà. Nhà vệ sinh của ngôi nhà
lại nằm dưới tầng trệt, các tầng lầu còn lại đều không có nhà vệ sinh.
Một tối nọ, vì có nhu cầu đi vệ
sinh, tôi đành phải đi xuống dưới nhà. Trong lúc đang xuống cầu thang, tôi nhìn
thấy hình ảnh một ông Tây đang đội nón đứng ngay thang lầu. Tôi cứ tưởng do vì
buồn ngủ quá nên mình bị ảo giác. Sáng hôm sau, khi tâm sự với các vị thầy khác
mới biết rằng các vị này và người chủ nhà cũng nhìn thấy tương tự như tôi.
Tìm hiểu kỹ, tôi được biết ông
Tây này trước đây từng là chủ nhân của ngôi nhà. Ông đã bị một tên cướp đột
nhập vào nhà bắn chết và lấy hết của cải, tài sản. Dù là một người phương Tây
chịu ảnh hưởng dưới nền văn hóa Cơ Đốc giáo hoặc Tin Lành sẽ không tin có đời
sống sau khi chết, ngoài hai hình thái hưởng nhân đức Chúa hay bị hỏa ngục đời
đời. Thế nhưng cái chết đó có thể để lại cho ông sự nuối tiếc về gia tài sự
nghiệp, khiến ông cứ muốn bám víu mãi nơi đó, không muốn ra đi. Do vì được huấn
luyện từ nhỏ nên các tu sĩ luôn cảm thông, không sợ hãi mà trái lại rất thương
hương linh. Bởi sự có mặt của họ là một điềm báo, họ rất cần sự giúp đỡ của ta.
Vì vậy, chúng tôi đã tổ chức lễ cầu siêu giúp cho hương linh này được siêu sinh
thoát hóa. Từ đó trở đi không ai còn nhìn thấy ông Tây này nữa.
Có thể ngôn ngữ trong tiếng Anh
của ông Tây và tiếng Việt của các thầy có sự khác nhau, nhưng về dòng cảm xúc
và sự giao thoa tâm tưởng của con người và hương linh vẫn có thể diễn ra một
cách trực tiếp. Vì vậy mà ta cần nhờ đến quý thầy hoặc quý sư cô làm lễ cầu
siêu là thế. Bởi năng lực tu tập và sự huấn luyện từ nhỏ khiến người xuất gia
dễ dàng thiết lập được chánh niệm, chánh định, và sự giao thoa ảnh hưởng với
hương linh vẫn có thể diễn ra theo một tần số tâm thức. Hương linh mặc dù không
hiểu được ngôn ngữ của lời kinh tiếng kệ, nhưng thông điệp mà những vị xuất
gia, người hộ niệm hay thậm chí là người Phật tử truyền đạt lại trong khóa lễ
cầu siêu sẽ giúp họ cảm nhận được đây là năng lực hộ vệ giúp mình nhẹ nhàng ra
đi, siêu sinh thoát hóa.
Bất kỳ một sự bám víu nào về mặt
cảm xúc đều có thể là trở lực, là sợi dây xích ghì chặt hương linh lại. Với
người bị chết oan ức hay tự tử, cần làm lễ cầu siêu ngay tại địa điểm mà cái
chết xảy ra, vì nơi đó hương linh thường xuyên về. Theo quan điểm của đạo Phật,
đừng nên thiết lập bàn thờ hoành tráng tại nhà, đừng nên mở cửa mả rước ông bà
tổ tiên về nhà, vì những điều này hoàn toàn không phù hợp và không an toàn với
đạo lý tái sinh. Khi quý vị Phật tử yêu cầu các thầy hoặc các sư cô làm lễ mở
cửa mả, các chùa vẫn thực hiện việc đó nhưng hoàn toàn vô nghĩa. Bởi bản chất
của khóa kinh và cầu nguyện của Phật giáo là mong cho hương linh được siêu sinh
thoát hóa, chứ không mong cho hương linh trở về nhà. Vì trở về nhà, hương linh
sẽ tồn tại dưới dạng thức ngạ quỷ, chẳng lẽ chúng ta lại mong muốn ông bà, tổ
tiên, người thân, người thương của mình trở thành ngạ quỷ cả hay sao. Vào ngày
30 tết cũng thế, người Phật tử đừng nên cầu ông bà tổ tiên về dùng cơm, đón tết
sum họp với gia đình. Ta chỉ nên đứng trước bàn hương án của ông bà để tưởng
niệm công lao đóng góp của ông bà dành cho gia tộc, chứ đừng mong ông bà trở
về.
Ở Việt Nam, Phật giáo
thường khuyến khích người Phật tử nên tổ chức lễ cúng giỗ, cúng thất không ở
nhà mà là ở chùa. Sau khi làm lễ thổ tiêu hoặc thổ táng thì nên thỉnh rước
hương linh về chùa ngay. Bởi nếu hương linh đó chưa ra đi được, mà về nhà thì
dòng cảm xúc cứ bị ghì chặt với những kỷ niệm đẹp. Chẳng hạn như cái bàn làm
việc là nơi tạo cho hương linh cái danh vọng, thành công, hoặc chiếc giường là
kỷ niệm đẹp của đôi vợ chồng đã tạo ra chất liệu hạnh phúc, tất cả những đồ vật
đó đều có thể là cơ sở để hương linh chấp trước, bám víu vào. Do đó, ta đừng
nên tạo cơ hội cho hương linh trở về nhà, nếu có chăng là trở về chùa, và nên
cúng thất, cúng giỗ, làm lễ cầu siêu ngay tại chùa. Trong trường hợp hương linh
đó chưa ra đi được thì cũng chỉ quanh quẩn trong khuôn viên ngôi chùa, cùng với
sự hỗ trợ của lời kinh tiếng kệ, sự giao thoa tâm linh của chư Phật, Bồ-tát và
những người đồng tu sẽ giúp hương linh được siêu sinh. Đây là một thuật hỗ trợ
giúp kẻ còn lẫn người mất đều lợi lạc và an vui. Như vậy, câu hỏi được đặt ra
trong tình huống hương linh không rơi vào trạng thái bám víu về cơ thể vật lý,
gia tài, sự nghiệp, tình yêu v.v… vậy thì chết đi về đâu?
CHẾT TÁI SINH THEO NGHIỆP
Ngài Na Tiên tỳ kheo đã đưa ra
một ví dụ rất sâu sắc về hình ảnh cái cây. Cho dù cây có đứng thẳng cách mấy
vẫn còn độ nghiêng nhất định của nó. Chẳng hạn như cây dầu, cây cau, cây dừa,
hãy thử lấy chiếc cưa bằng máy hay bằng tay cưa nó, chắc chắn sẽ thấy độ thẳng
của cái cây bị ngã. Như vậy nó ngã về hướng nào? Chắc chắn nó sẽ ngã về phía nó
đang bị nghiêng. Một cái cây cho dù có đứng sừng sững, nhưng chỉ cần một cơn gió
thổi qua theo độ nghiêng thì tự động nó sẽ ngả qua. Nếu độ nghiêng của cây
khoảng 100 trở lên thì sự ngã sẽ diễn ra trước khi cái cây bị cưa đứt, lớp vỏ
bên ngoài sẽ bị gãy đổ tức khắc.
Cùng cách tương tự, dòng chảy
của nghiệp được thể hiện qua nghề nghiệp, chức tước của con người, những gì
được lặp đi lặp lại sẽ trở thành quán tính của hành vi. Chính quán tính đẩy
tiến trình tái sinh của con người theo một quỹ đạo, mà đôi lúc người quá cố hay
người chuẩn bị ra đi không có sự lựa chọn. Họ phải đi trên con đường theo sức
đẩy của nghiệp, và sức đẩy này tạo ra sự thiên sai vạn biệt của sinh giới với
những yếu tố bẩm sinh như cá tính, văn hóa, phong tục tập quán khác nhau. Chẳng
phải ngẫu nhiên mà con người có và duy trì được phong tục tập quán khác nhau,
mà bởi vì trong tiến trình tái sinh, tất cả thói quen của văn hóa, phong tục
tập quán, ứng xử được tích tụ lại dưới dạng thức năng lực của nghiệp. Năng lực
nghiệp thúc đẩy con người từ lúc mới bắt đầu hình thành mầm sống mới trong bào
thai người mẹ.
Trong kinh Vu Lan, đức Phật đề cập đến sự tương
tác giữa bào thai của đứa con và cá tính của người mẹ. Nếu là đứa con ngỗ
nghịch, biểu đạt bình thường vật lý khi sanh ra sẽ đạp quấy lung tung, làm đau
đớn người mẹ; hoặc thay vì chui đầu ra trước thì nó lại đưa hai bàn chân ra
trước. Đây là một biểu hiện vật lý, nếu như quá trình giáo dục của người đó
không tốt, họ sẽ có khuynh hướng đi theo quán tính nghiệp đã gieo trồng, mà đôi
lúc không cưỡng lại nổi. Cá tính được đính kèm khi con người có mặt dưới hình
thức là một phôi thai. Đó là lý do tại sao có những hiện tượng thiên tài, thần
đồng, người có năng khiếu, sở trường riêng về một lĩnh vực nào đó chẳng phải vô
cớ, chẳng phải do Thượng đế nắn tạo, mà do nghiệp đã qui định rõ điều này.
Tôi có dịp xem bộ phim Kundun
của Hollywood mô tả về
cuộc đời của đức Đạt-lai-lạt-ma.
Bộ phim đó với phần đầu khá hấp dẫn, đề cập đến sự truy tìm hậu thân của đức
Đạt-lai-lạt- ma thứ 14, tức là đức Đạt-lai-lạt-ma hiện tại. Ngài Đạt-lai-lạt-
ma thứ 13 di chúc lại rằng ngài sẽ tái sinh vào vùng Heysa tức là vùng biên địa
của Tây Tạng, trong một gia đình thuần tính về Phật pháp với một số yếu tính
nhất định được ngài mô tả trong di chúc.
Khoảng 6 năm sau khi ngài
nằm xuống, các nhà sư bắt đầu đi tìm hậu thân của ngài lần theo những gì được
di chúc lại. Đến ngôi làng nọ, đoàn tìm kiếm rất ấn tượng khi nhìn thấy từ xa
có một cậu bé đang chơi đùa với các cậu bé khác trong làng. Cậu bé này có gương
mặt rất dễ thương, hiền lành và chất liệu từ bi. Lúc ấy, những đứa bé trong làng
đang chơi trò bắt dế cắn nhau, chúng rất vui sướng, nô đùa khi nhìn thấy con
này cắn thắng con khác. Trong lúc chúng đang hân hoan vỗ tay thì Kundun đã có
phản ứng hoàn toàn khác biệt, Kundun nhảy vào tách đám trẻ đang chơi làm hai
phía. Chính Kundun dùng bàn tay tách hai con dế ra, và bắt một con đi thật xa
rồi bỏ xuống, để chúng không có điều kiện cắn nhau nữa. Kundun không cho phép
bọn trẻ tạo niềm vui và nụ cười trên nỗi đau của loài vật, đây chính là chất
liệu của lòng từ bi.
Một đứa bé chỉ mới sáu tuổi đầu,
chưa có được sự giáo dục về hòa bình, sự tương nhượng thì làm sao lại có chất
liệu từ bi nếu đây không phải là hậu thân của đức Đạt-lai-lạt-ma - một vị mà
trong truyền thống Tây Tạng được mệnh danh là vị Phật sống, là hóa thân của đức
Bồ-tát Quán Thế Âm tượng trưng cho lòng đại từ đại bi. Chất liệu đó vẫn còn giữ
lại trong tiền thân, hậu thân có mối liên hệ mật thiết với nhau thông qua cá
tính, phẩm chất, lý tưởng hoặc thói quen. Thế nhưng bấy nhiêu đó vẫn chưa đủ để
xác định đây là hậu thân của đức Đạt-lai-lạt-ma, người ta phải trải qua thêm
nhiều cuộc thử nghiệm khác.
Vị Đạt-lai-lạt-ma thứ 13 có thói
quen sử dụng cặp kính cận xấu và cũ. Người ta cho thử nghiệm bằng cách trưng
bày bên cạnh chiếc kính cận cũ kỹ đó cùng nhiều cặp kính khác rất đẹp, sang
trọng và hấp dẫn với nhiều màu sắc sặc sỡ. Vì tâm lý trẻ thơ thường thích những
đồ vật đẹp và màu sắc bắt mắt. Trong rất nhiều cặp kính như thế, cậu bé Kundun
là người chọn ngay cặp kính mà đức Đạt-lai-lạt-ma thứ 13 từng sử dụng. Tuy
chiếc kính đó không đẹp nhưng là kỷ vật gắn bó trong suốt thời gian dài, và chỉ
có chủ nhân của nó mới cảm giác được sự thân thương, gần gũi hơn là những người
khác. Đây chính là yếu tố thứ hai để xác định hậu thân của đức Đạt-lai-lạt-ma.
Sau đó, người ta tiếp tục làm cuộc thử nghiệm khác.
Theo truyền thống Tây Tạng, đức
Đạt-lai-lạt-ma luôn ngồi giữa trong tất cả các khóa lễ, vì ngài vừa là vị lãnh
tụ tinh thần vừa là vị lãnh tụ quốc gia. Hình ảnh một vị vua - triết gia của
nền văn hóa Hy Lạp được thể hiện trọn vẹn trong hình ảnh của đức
Đạt-lai-lạt-ma. Bởi vì thiếu triết lý thì cuộc đời và sự cai trị của nhà vua sẽ
dẫn đến nỗi khổ niềm đau cho muôn dân. Hoặc nếu đơn thuần chỉ là nhà triết gia
thì học thuyết và sự đóng góp cũng chỉ là vô ích, vì chẳng ai đem ra ứng dụng.
Chính vì thế, trong hình ảnh của nhà vua phải có yếu tố của triết gia và ngược
lại. Đức Đạt-lai-lạt-ma đã thể hiện sự hóa thân hai hình ảnh này làm một thông
qua cấu trúc tôn giáo, chính trị và xã hội Tây Tạng.
Trước khi yêu cầu cha mẹ cho
Kundun được trở về tu viện để làm lễ phục hồi chức vị thì bữa cơm tiếp đãi của
gia đình được diễn ra. Theo phong tục tập quán Tây Tạng, trong gia đình người
chồng là chủ nhân, người vợ bị lệ thuộc như một sở hữu tài sản, và con cái là
hoa trái của sự sở hữu tài sản đó. Trong bàn cơm ngày hôm ấy, người chồng ngồi
chính giữa, người vợ ngồi một bên và những đứa con ngồi một bên. Vị trí chính
giữa đó chỉ dành cho người chồng và người cha.
Trong lúc người cha đi rửa tay
để chuẩn bị bữa ăn thì Kundun bước đến ngồi vào ngay chiếc ghế giữa của cha.
Thấy thế, người cha vội nói: “Đây là chỗ
của ba, con phải ngồi ở bên đây nè”, và ông ẵm Kundun sang ngồi ghế
bên cạnh. Thế nhưng Kundun lại vùng vằng nói: “không, chỗ này là của con… chỗ này là của con…”
Đối với nền văn hóa khác không
phải là Phật giáo, trong tình huống này có thể người cha sẽ không vui. Tại sao
đứa con lại dám vô lễ giành chỗ ngồi của mình như thế? Trong suốt cuộc đời của
Đức Đạt-lai-lạt-ma từ trẻ đến già, và liên tục trong 14 đời ngài luôn ngồi ở vị
trí chính giữa, không ngồi ở vị trí bên cạnh. Dĩ nhiên, đây không phải là tính
cách thể hiện cái bản ngã, mà để giúp cho người khác nhận dạng ra mình là hậu
thân. Bản ngã được thể hiện thông qua sự giành giựt nhưng ở đây là sự gánh vác,
ngài vẫn muốn bộc lộ rõ cái gốc của mình.
Tiếp tục, lại một thử nghiệm
khác, lần này là cây gậy của vị tiền thân từng sử dụng. Nhiều cây gậy được làm
giống hệt cây gậy đó, và một lần nữa Kundun là người chọn đúng cây gậy mà Đức
Đạt-lai-lạt-ma thứ 13 đã dùng.
Cách thức tìm hậu thân theo
truyền thống tái sinh của Tây Tạng thường được diễn ra như thế, thông qua di
chúc cùng những biểu đạt cho thấy cá tính của người hậu thân và tiền thân có
cấu trúc tương đồng với nhau về mặt bản chất. Vì bản chất của nghiệp không thay
đổi, giữa đời cuối cùng và đời mới tái sinh có mặt, vấn đề còn lại của sự thay
đổi là theo tiến trình lớn lên liên hệ đến giáo dục, phong tục tập quán, môi
trường, hoàn cảnh và đối tượng giao tế của người đó. Còn lúc mới bắt đầu, một
đứa bé chưa đủ sức để tự thay đổi chính nó, lúc này cấu trúc quán tính về
nghiệp được thể hiện một cách rõ rệt.
ĐỊNH HƯỚNG NGHIỆP TÍCH CỰC
Thế Tôn từng nói, đứa con trong
bụng làm thay đổi cả tính tình người mẹ. Bà mẹ đó trước đây có thể không thèm
món này, món nọ nhưng bây giờ lại thèm. Đây là chuyện bình thường vì điều này
cần cho cấu trúc phát triển của thai nhi. Tuy nhiên, có những cái thèm không
đáng thèm là do ảnh hưởng bởi cá tính của đứa con trong bụng như trường hợp của
hoàng hậu Ma-da là một điển hình. Bà thèm làm nhân từ, đạo đức, và từ thiện xã
hội gấp nhiều lần so với trước đây. Bởi hạt giống của ngài Tất-đạt- đa là hạt
giống từ bi, tuệ giác và tình thương. Chính yếu tính này đã tác động làm cho
bào thai được thay đổi ở mức độ tích cực, lún mạnh hơn về những đức tính tốt mà
bà đang có sẵn.
Khoa học ngày nay chỉ đề cập một
chiều trong suốt thời gian thai nghén, người mẹ phải kiêng cữ trong việc ăn
uống tiêu thụ để không làm ảnh hưởng đến thể trí và thể chất của đứa con. Bởi
vì thực phẩm độc tố có thể làm biến dạng tri thức, cấu trúc não bộ hoặc cơ thể
vật lý của đứa con. Tuy nhiên, theo đức Phật, những điều kể trên vẫn chưa đủ,
cần làm sao để thay đổi về mặt tính tình thật nhiều. Một người bình thường có
thể nóng, giận, ích kỷ, hẹp hòi nhưng suốt thời kỳ thai nghén không nên để
những tâm lý tiêu cực đó xuất hiện. Người mẹ ấy phải luôn có niềm vui, hoan hỷ,
hỷ xả, bao dung, tha thứ, dấn thân, tích cực thì đứa con sinh ra cũng sẽ có
những chất liệu đó; nó tác động trực tiếp thông qua cái nhao của người mẹ.
Yếu tính của nghiệp được di
chuyển và chuyển thể trong suốt quá trình 9 tháng 10 ngày bị tác động bởi năng
lực tích cực mới của người mẹ có ý thức. Điều này tạo ra cá tính mới hay sự
chuyển hướng tích cực hơn. Chính vì vậy, trong suốt thời gian thai nghén, người
Phật tử có thể hỗ trợ và sanh ra đứa con được tạm gọi là theo ý muốn về phương
diện chức nghiệp, hướng nghiệp cho nó. Về phương diện cá tính, cũng có thể thực
hiện được việc này.
Trong tập tục thôi nôi - một
phong tục dân gian rất gần với đạo Phật, cha mẹ trong gia đình cần bày ra nhiều
vật dụng khác nhau, mỗi vật dụng tượng trưng cho một ngành nghề để con em có
thể chọn lựa. Ngày nay, nhiều nơi đã đi sai với tập tục này, biến nó thành một
dịp hội hè để người thân ngồi lại với nhau ăn mừng, nhậu nhẹt, mà lẽ ra ý nghĩa
của nó là để chăm sóc, định hướng nghề nghiệp tương lai cho đứa con. Chẳng phải
vô cớ mà có trẻ thì chọn con dao, cây viết, xe hơi v.v… mỗi đồ vật đều liên hệ
đến cá tính của đứa bé theo dòng chảy của nghiệp, và nó được lặp đi lặp lại
suốt quãng thời gian có mặt trong cuộc đời. Cái gì từng gắn bó nhiều thì chắc
chắn chúng sẽ chọn cái đó như là một khuynh hướng. Khi phát hiện ra điều này,
các bậc cha mẹ cần chăm sóc, vỗ về, huấn luyện thật kỹ thì đứa con mới thành
tựu điều tích cực trong cuộc đời.
Cần xác định rõ sau khi qua đời,
con người sẽ đi theo hướng của nghiệp. Nghiệp được lặp đi lặp lại nhiều lần sẽ
trở thành cái nghề. Chẳng hạn có người thích làm nghề nhà giáo vì nhận thấy nó
mang lại hạnh phúc cho họ. Nghiệp làm cho con người có cảm giác nó là một phần
sự sống của mình, nếu tách rời nó thì hạnh phúc và sự sống như thể bị mất đi,
nên người ta không muốn mất nó, đó là nghề nghiệp tốt.
Đối với nghề tiêu cực cũng tạo
ra cơn nghiện bám víu, ghì chặt, làm con người không vùng vẫy nổi, nhìn thấy
năng lực của nghiệp đang siết chặt, hòa quyện vào bản chất cuộc sống, ta cần
hết sức thận trọng trong sự lựa chọn cho mình một hướng đi. Bởi vì nghiệp tạo
ra hạnh phúc và khổ đau, tất cả đều nằm ở sự định hướng của một con đường.
NGHIỆP CẢM TƯƠNG ỨNG TRONG TÁI
SINH
Tại sao có tình trạng chết do sẩy
thai, chết do phá thai hoặc chết do sinh non? Đạo Phật lý giải rằng bởi vì chưa
có sự tương ứng nghiệp giữa sự tái sinh của hương linh vừa ra đi với cha mẹ
tương lai của người đó. Cho nên đi về đâu là lệ thuộc vào sự tương ứng của
nghiệp.
Tại sao người Việt Nam da vàng,
mũi tẹt, thấp bé, nhưng lại có tinh thần bất khuất, phấn đấu, nỗ lực, chăm chỉ,
tháo vác? Bởi vì những người đó đã tạo ra cùng một cộng nghiệp, chính cộng
nghiệp này làm cho những người cùng mẫu số chung của hành vi được sanh ra trong
một môi trường để cùng hưởng và sống trong hoàn cảnh đó mà không có sự lựa chọn
nào khác. Cho nên sự huấn luyện hành vi sẽ quyết định cho tiến trình tái sanh.
Tình trạng chết non diễn ra do
bởi cộng hưởng về mẫu số chung của nghiệp giữa hương linh qua đời và tái sinh
trong hình thái mới với cha mẹ của chúng bị khác nhau. Vì vậy, chúng đành phải
rút lui để tìm cho mình một chỗ thích hợp mới theo quy luật tự nhiên của nhân
quả. Trong kinh Trung Bộ, đức
Phật từng nói có ba yếu tố để hình thành nên một mầm sống:
- Tinh cha trứng mẹ.
- Cha và mẹ phải có quan hệ tính
dục trong thời kỳ có thể thụ thai.
- Sự có mặt của nghiệp cảm tương
ứng qua hình thái của năng lực nghiệp tái sinh hay thức tái sinh thì mầm sống
đó mới bắt đầu được thừa nhận là có sự sống thực sự. Đây là yếu tố hoàn toàn
vượt lên trên khoa học.
Vậy làm thế nào để hương linh
tìm được nghiệp cảm tương ứng để lại có cơ hội tái sinh ngay khi vừa mới mất?
Điều này thật khó vô cùng, bởi vì gia đình sau này mà hương linh sẽ làm con và
đôi vợ chồng làm cha mẹ chưa chắc đã có quan hệ giới tính trong lúc hương linh
này vừa mới ra đi do tai nạn hoặc chết bất đắc kỳ tử v.v…Ngoài ra, do bởi các hương linh này không có sự
tiếc nuối về cảm xúc, không bám víu nên sự ra đi của họ chỉ diễn ra trong tích
tắc. Vì vậy, theo qui luật tự nhiên, họ đành phải bám vào bất kỳ cái gì đang có
điều kiện để cho mầm sống được diễn ra. Để rồi sau đó nghiệp không tương ứng,
phải dẫn đến tình trạng chết non, sẩy thai hay phá thai của người mẹ.
Cách đây hai tháng, tôi có nhận
được một cú điện thoại từ Nam Úc gọi về từ một cặp vợ chồng trẻ khóc sướt mướt
với tâm trạng khổ đau, tự hành hạ và trách móc bản thân mình. Đôi vợ chồng này
vừa mới sinh được một đứa con khoảng hai tháng tuổi. Vì muốn đi làm sớm nên họ
gởi con cho người vú nuôi chăm nom. Một hôm, bất hạnh đã xảy ra khi đứa bé bị
té ngã nằm sấp trên mặt đất. Do vì còn quá nhỏ, chưa đủ sức để cựa quậy nên mũi
của nó đã tiếp xúc với mặt đất, và chỉ vài phút sau thì đứa bé đã chết. Nỗi khổ
đau bị mất con làm cho đôi vợ chồng này cảm thấy ray rứt, tự dằn vặt mình, nghĩ
rằng do vì muốn đi làm sớm nên chính mình là tác giả gây cái chết cho đứa con.
Tôi đã an ủi, phân tích cho đôi
vợ chồng này thấy rằng sống và chết không do sự lựa chọn của chúng ta mà là sự
lựa chọn của nghiệp. Trong tình huống này, nghiệp dẫn dắt đi, có thể do sự bất
cẩn của người vú nuôi là chất xúc tác để cho đứa bé đó không tìm được nghiệp
cảm tương ứng trong gia đình đó nữa, nên nó phải thoát ra để đi tìm một mầm
sống mới ở nơi khác. Cần phải tâm niệm như thế để vơi bớt phần nào sự hành hạ
bản thân. Ta có buồn khổ hay trách móc cũng không làm người chết có thể sống
lại. Cần biến nỗi đau thành hạnh phúc, tức là làm thế nào giúp cho hương linh
đó được siêu thoát bằng khóa lễ cầu siêu và tạo công đức, phước báu. Tôi đã
hướng dẫn đôi vợ chồng này làm từ thiện tại trung tâm Thanh Thiếu Niên 3 - Quận
Gò Vấp, nơi đây có hơn 400 em với độ tuổi từ 4 đến 17 hầu hết đều vô gia cư,
được tập trung lại để cải tạo, giáo huấn. Sự hồi hướng công đức giúp cho các em
được nghe Phật pháp, chuyển hóa phần nào những thói hư tật xấu chắc chắn sẽ
mang lại lợi lạc nhiều hơn.
Điều quan trọng hơn hết cần mang
lợi lạc đến cho người còn sống, và thông qua phước lực đó sẽ được chia sẻ một
phần cho người quá cố. Bởi theo kinh Địa
Tạng, người chết chỉ ảnh hưởng một phần, vì qui luật nhân quả của
người quá cố là cơ sở tình thương để người còn sống làm những việc phước lành.
Chính vì thế, quan niệm của người châu Á chăm sóc cho người quá cố chính là
cách thức tạo hạnh phúc cho những người còn sống. Cộng hưởng giao thoa của
nghiệp khá rõ ràng, nếu tạm phân chia công đức đó ra làm bảy phần - con số mang
ý nghĩa trọn vẹn và đầy đủ của nền văn hóa biểu tượng Ấn Độ thì người quá cố
hưởng được một phần, và người làm hưởng được sáu phần.
Nghiệp cảm tương thích sẽ
tạo ra sự đi về của tái sanh. Đi về đâu? Ở đây cần có sự tương ứng, cùng một họ
hàng nghiệp tạo ra phong cách con người trong gia đình đó. Theo cách thức này,
đừng nên có suy nghĩ “con là nợ, vợ là
oan gia” hoặc ngược lại mà đây là nhân duyên với nhau, có cùng họ
hàng nghiệp với nhau nên phải sinh ra trong cùng một gia đình với nhau. Sự lận
đận, xảy ra nghịch cảnh với nhau là thuộc về bản chất của nghiệp. Đừng nên nghĩ
đó là con nợ, bởi như thế sẽ khó ứng xử hạnh phúc với những thành viên còn lại
trong gia đình. Nên quan niệm đây là cơ hội đồng hành, người thuận lợi trong
đồng hành, người nghịch cảnh trong đồng hành, tùy thuộc vào nghiệp của mỗi
người mà thôi. Vấn đề là tìm giải pháp để giải quyết nó, chứ không trách cứ, đổ
lỗi.
Từ xa xưa, trong nền văn hóa
Việt Nam, các Hòa thượng từng dạy rằng, trong một gia đình có một cặp song
sinh, nếu là hai người nam hoặc hai người nữ, ai sinh ra trước là anh (chị), ra
sau là em. Ngược lại, trong tình thế là một nam và một nữ thì không nên tính
theo cách thức trước và sau, mà phải tạo điều kiện cho người nữ được làm chị.
Đây là hướng giải quyết vấn đề rất hay và sự ảnh hưởng của nó vẫn còn lan rộng
trong văn hóa dân gian Việt Nam
hiện nay.
Các Hòa thượng đã lý giải cho
điều này rất có cơ sở về mặt Phật pháp. Bởi lẽ khi có một cặp tình nhân nào đó
đã chết, hoặc do tự tử, hoặc chết khi đang trên đường đi tìm hạnh phúc như
trường hợp công nương Diana và người tình chết vì tai nạn giao thông. Chắc chắn
họ sẽ có cùng một cảnh giới tái sanh, cùng một thời điểm tái sanh, và nếu như
họ hàng nghiệp của họ giống nhau thì họ sẽ tái sinh cùng một chỗ. Ở đời quá
khứ, trong tình yêu họ cùng đi với nhau, nhưng khi có mặt ở đời sống mới thì
không thể gọi họ là vợ chồng, là tình nhân mà phải là anh em hay chị em. Để
tránh tình yêu loạn lạc trong một họ tộc, các Hòa thượng dạy và khuyến tấn
chúng ta nên để cho người nữ làm người chị và người nam là người em dù người
nam đó có sinh ra trước đi chăng nữa. Đó là một nghệ thuật, bằng không sự loạn
luân có thể diễn ra, vì yếu tố của tình yêu mãnh liệt đến nỗi khiến con người
muốn song hành và có mặt với nhau trong cuộc đời.
Nếu đặt tình huống đi theo
nghiệp, cùng họ hàng nghiệp, cùng mẫu số chung của nghiệp nên mới có tình trạng
sinh đôi, sinh 3, sinh 4 hoặc hy hữu hơn có trường hợp sinh 16 mà báo chí từng
đưa tin. Như vậy, tình huống đó như thế nào, liệu mẫu số chung của nghiệp đó có
làm cho những người này có các cách giống nhau hay không? Câu trả lời hoàn toàn
là không về mặt tổng thể, vì theo đạo Phật, phải có một nghiệp cảm tương ứng
giữa cha mẹ và con cái thì cấu trúc này mới tạo ra mầm sống mới trong một gia
đình. Vì vậy, khi có mẫu số chung na ná giống nhau, trong một thời điểm nào đó,
ở nhiều nơi và nhiều người vừa mới qua đời, do vì nghiệp cảm tương ứng giống
nhau nên mới sanh vào cùng một gia đình để trở thành sinh đôi, sinh 3, hay sinh
16 v.v…nhưng cá tính của những người này hoàn toàn khác nhau. Bởi vì trong mẫu
số chung có mẫu số riêng, và cái riêng đó tạo ra bản chất của đời sống.
Hãy thử liên tưởng có hai nhân
vật, một người có khả năng tạo tiếng cười cho cho cả thế giới, đó là vua hề
Charlot, và một người tạo nước mắt và khổ đau cho cả thế giới, đó là trùm phát xít
Hitler. Hai nhân vật này sinh cùng một ngày, một giờ, chỉ khác nhau về phút,
nhưng vì môi trường, điều kiện, hoàn cảnh, giáo dục đã làm cho quán tính của
nghiệp được thay đổi. Đạo Phật lý giải vấn đề này để phủ định cái gọi là định
nghiệp, định mệnh trong tiến trình tái sanh. Chẳng có gì giữ mãi, tồn tại mãi
mà không thay đổi. Vì vậy, đừng nên bi quan, tiêu cực hay sợ hãi trước một điều
xấu xa trong quá khứ, chỉ cần ta có ý chí, nỗ lực thay đổi thì chắc chắn sẽ
được làm mới và cách tân.
Khi quan niệm không có định mệnh
và định nghiệp, con người sẵn sàng nỗ lực tất cả bằng tự thân để vượt lên,
hướng tới, và kết quả ít nhất sẽ nhận được một phần tương thích với những gì mà
mình mơ tưởng. Trái lại, chấp nhận định mệnh, sự an bày thì con đường diễn ra
trước mắt chỉ là sự lệ thuộc, sẽ kéo theo những gai góc, khổ đau.
Chết đi về đâu? Theo tinh thần
Phật dạy, chết không phải là sự kết thúc mà chỉ là sự bắt đầu của một hành
trình mới. Con đường hành trình được dẫn đạo bằng hành vi con người trong quá
khứ. Tuy nhiên, năng lực quán tính của nghiệp trong quá khứ không thể quyết
định cả vận mệnh con người trong hiện tại. Quán tính chỉ là khởi điểm, con
đường đi mới tạo ra điều kiện, môi trường, hoàn cảnh, giáo dục, phong tục tập
quán được thay đổi trong hằng ngày, hằng giờ. Cộng nghiệp mới được thành lập,
biệt nghiệp cũ được xóa đi, biệt nghiệp mới được thành lập tạo ra cộng nghiệp
mới. Tiến trình về nghiệp phức tạp như vậy đó, cho nên không bao giờ có cái gọi
là định mệnh.
Đó là quan niệm nhân quả của đạo
Phật. Nếu cứ nhận định rằng định mệnh của tôi là như vậy thì vĩnh viễn không
bao giờ có nỗ lực, không thể có hướng đi mới và con đường mới như ta hằng mong
đợi. Mọi hành vi của nghiệp đều có thể thay đổi theo dụng ý và tự do duy ý chí
của con người. Do đó, mỗi chúng ta cần phải chọn lựa cho mình lý tưởng tốt, con
đường tốt và hướng đi tích cực.