Thời đại
Tinh Hoa và Sự Phát Triển của Đạo Phật
Buddhism - Its Essence and Development Edward Conze (1951) Chân Pháp Nguyễn Hữu Hiệu dịch (1969) BAN TU THƯ VIỆN ĐẠI HỌC VẠN HẠNH XUẤT BẢN HOÀNG HẠC ẤN HÀNH LẦN THỨ NHẤT, NĂM 1969
30/04/2556 11:48 (GMT+7)
Kích cỡ chữ:  Giảm Tăng

PHẦN GIỚI THIỆU ^

PHẬT GIÁO NHƯ MỘT TÔN GIÁO  ^

Phật giáo là một hình thức Đông phương của tâm linh.  Giáo lý ấy, trong những tiền đề căn bản của nó, giống như nhiều giáo lý khác trên toàn thế giới, những giáo lý mà người ta có thể gọi là “thần bí”.  Tinh hoa của nền triết lý về cuộc đời này đã được Thomas a Kempis trình bầy một cách sáng sủa và mãnh liệt trong tác phẩm Gương chúa Ki-Tô của ông.  Những gì được biết dưới danh từ “Phật giáo” là một phần của gia sản chung của Trí Tuệ nhân loại, nhờ đó con người thành công trong việc siêu việt trần gian này và vươn tới bất tử tính, hay một cuộc sống không bị khuất phục bởi cái chết.

Trong suốt hai thế kỷ qua, những mối quan tâm tinh thần đã bị đẩy xuống hàng thứ yếu bởi những lo âu phát khởi từ những vấn đề kinh tế và xã hội.  Danh từ “tâm linh” ngày nay có vẻ mơ hồ.  Định nghĩa danh từ đó, thực ra, không phải là một việc dễ dàng.  Mô tả những phương tiện để đạt tới lãnh vực tâm linh có lẽ dễ dàng hơn là nói thẳng tự tính của nó là gì.  Ba thông lộ dẫn tới tâm linh do truyền thống gần như phổ quát của những hiển nhân để lại cho chúng ta, theo tôi là:

Coi những kinh nghiệm cảm giác tương đối không quan trọng;

Cố gắng khước từ những ràng buộc;

Cố gắng đối xử với mọi người như nhau, không phân biệt quan điểm, trí năng mầu da, hơi hướng, giáo dục v.v…

Cố gắng tập thể của những chủng tộc Âu châu trong những thế kỷ qua đã đi vào những con đường mà, theo định nghĩa này, không phải là “tâm linh”.

Người ta thường quan định rằng có một sự khác biệt sâu xa và triệt để giữa Đông và Tây, giữa Âu và Á, trong thái độ của họ đối với cuộc đời, trong cảm thức về giá trị, và trong lề lối suy tưởng của tâm hồn họ.  Những người Ki-tô giáo nào cho rằng Phật giáo không thích hợp với những điều kiện sống Âu châu là những người đã quên mất nguồn gốc Á châu của tôn giáo họ, và của mọi tôn giáo về phương diện này.  Một tôn giáo là một cơ cấu của những khát vọng tinh thần, khước từ trần gian và phủ nhận những lôi cuốn giàng buộc ta với nó.  Trải qua ba ngàn năm một mình Á châu đảm nhận vai trò sáng tạo những tư tưởng và phương pháp tâm linh.  Những người Âu châu về phương diện này đã vay mượn của Á châu, đã thích nghi với những tư tưởng của Á châu, và, thường thường, đã làm cho chúng trở nên thô bạo.  Tôi tin rằng người ta không thể trích dẫn bất cứ một sự sáng tạo tâm linh nào ở Âu châu mà sự sáng tạo ấy không thoát thai, không tiếp nhận hứng khởi đầu tiên từ Đông phương.  Tư tưởng Âu châu rất khéo léo trong việc thiết định những luật lệ và tổ chức xã hội, nhất là ở La mã và Anh quốc và trong việc lãnh hội và kiểm soát một cách khoa học những hiện tượng giác quan.  Truyền thống bản xứ của Âu châu có khuynh hướng khẳng định ý chí sinh tồn và tích cực quay về thế giới của giác quan.  Truyền thống tâm linh của nhân loại xây dựng trên sự phủ nhận ý chí ham sống và quay lưng lại với thế giới của cảm giác.  Tất cả nền tâm linh Âu châu, kể từ thời Pythagore và Parménide trở đi đã được đổi mới từng chu kỳ nhờ dòng tâm thức lan truyền từ phương Đông.  Hãy lấy đi khỏi triết học Hy lạp những yếu tố Đông phương, hãy lấy đi đấng Ky-tô, thánh Paul, Denys l’Aréopagite, tư tưởng Á rập – và tư tưởng tâm linh Âu châu trong hai ngàn năm qua trở thành một cái gì không thể tưởng tượng được.  Khoảng một thế kỷ nay, tư tưởng Ấn độ đã bắt đầu gieo rắc ảnh hưởng của nó trên cõi Âu châu, và tư tưởng đó giúp những mảnh vụn khô héo của tâm linh Âu châu còn sót lại hồi sinh.

Một vài nét đặc trưng phân biệt Phật giáo với những hình thức khác của trí tuệ.  Chúng gồm hai loại:

Phần lớn những cái được truyền thừa như “Phật giáo” không do sự tu tập trí tuệ nhưng do những điều kiện xã hội, trong đó giáo hội Phật giáo tồn tại, do ngôn ngữ dùng và do khoa học và thần thoại phổ cập trong quần chúng chấp nhận nó.  Ta phải phân rõ rệt những biệt cái tò mò hướng ngoại với những cái chủ yếu của một cuộc sống thánh thiện.

Có rất nhiều phương pháp để tới giải thoát bằng tư duy, về điểm này, truyền thống Phật giáo đã ghi lại rõ ràng và đầy đủ hơn bất cứ nơi đâu.  Tuy nhiên, đó là một vấn đề hoàn toàn thuộc về khí chất.  Nếu được nghiên cứu kỹ lưỡng, văn chương của Jaina, của Sufi[1], của các tu sĩ Ky tô giáo ở Sa mạc Ai cập, và của cái mà Giáo hội Cơ đốc gọi là thần học “khổ hạnh” hay “thần bí”, người ta sẽ thấy phần lớn thuộc cùng loại này.

 Với những ai đã hoàn toàn thất vọng với thế giới hiện tại, và với chính mình, Phật giáo có thể cung hiến nhiều điểm lôi cuốn – trong vẻ cao siêu vời vợi của vùng đất thần tiên của tư tưởng tế nhị của nó, trong vẻ rực rỡ của những tác phẩm nghệ thuật, trong sự huy hoàng của lãnh vực mà nó bao trùm lên những đám dân đông đảo, và trong thái độ anh hùng quyết liệt và cốt cách cao nhã trầm tĩnh của những người đã được nuôi dưỡng trong nó.  Mặc dầu thoạt tiên người ta có thể bị hấp dẫn bởi tính chất xa lạ của tư tưởng này, người ta chỉ có thể thẩm định được giá trị đích thực của Phật giáo khi phê phán nó bằng kết quả mà nó tạo ra trong cuộc sống riêng tư ngày này qua ngày khác của chính bản thân.

Những qui luật thanh tịnh chỉ đạo hành vi do Kinh điển Phật giáo đề ra được qui tụ dưới ba chủ đề: Giới, Định Tuệ.  Phần lớn những gì được bao gồm trong danh từ GiớiĐịnh là gia sản chung của tất cả những phong trào tôn giáo ở Ấn độ muốn tìm giải thoát trong một cuộc sống tách biệt khỏi xã hội tầm thường hàng ngày.  Chúng ta tìm thấy ở đây, ngoài qui luật hành vi cho cư sĩ, còn có luật cho cuộc sống huynh đệ không nhà của tu sĩ; nhiều phương pháp tu tập Yoga, phép hô hấp điều hòa và chủ định, sự kiểm soát giáo quan, phương pháp tạo ra những trạng thái nhập định bằng cách chú mục nhìn những vòng tròn màu sắc, những giai đoạn xuất thần, sự tu tập về từ bi, hỷ và xả vô lượng.  Hơn nữa, sự suy niệm về một đặc tính, thường thường ngụ ý khuyến thiện, mà người ta tìm thấy trong bất cứ một tôn giáo thần bí nào như sự suy niệm về cái chết, về sự nhờm tởm đối với những sự vận hành của thân thể vật chất, về Tam bảo của Phật, Pháp (Chân lý) và Tăng (tình Huynh đệ).  Ít ai có thể hy vọng thực tập hết tất cả những phương pháp này trong một đời người.  Có nhiều con đường dẫn đến giải thoát.

Tính chất chung của những con đường này là chúng cùng nhắm mục đích dập tắt lòng tin tưởng vào cá tính.

Nhưng đặt vào ý nghĩa mơ hồ của nó ngày nay, chữ “cá tính” không thể chuyên chở được tư tưởng của Đức Phật.  Theo giáo lý Phật giáo mà sau này chúng ta sẽ có dịp đi sâu vào chi tiết hơn, con người, với tất cả những sở hữu có thể có được gồm trong năm “nhóm”, thuật ngữ là Skandha (Uẩn).  Đó là:

Thân thể

Cảm giác

Tri giác

Động lực và cảm xúc

Vận động của ý thức[2]

Bất cứ cái gì một cá nhân có thể nắm được hay chiếm hữu, hoặc nương tựa vào, đều thuộc một trong năm nhóm trên, tạo thành tố chất của “cá tính”.  Lòng tin tưởng vào cá tính được xem như phát khởi từ sự phát minh ra một cái “ta” trên ngũ uẩn.  Lòng tin tưởng ấy tự biểu lộ trong việc giả định rằng cái này là “của tôi”, hay “tôi là” cái này, hay cái này hay cái kia “chính là tôi”.  Hoặc, nói cách khác, trong sự tin tưởng rằng “tôi là cái này”, hay “tôi có cái đó”, hay “cái đó ở trong tôi” hay “tôi ở trong cái đó”.  Kiện tính của cá tính biến mất cùng với lòng tin tưởng vào nó bởi vì nó không là gì khác hơn là óc tưởng tượng phù phiếm.  Khi một cá nhân, do ngũ uẩn giả hợp, ngừng hiện hữu, kết quả là Niết Bàn - mục tiêu của Phật giáo.  Nếu người ta muốn diễn tả sự kiện đó bằng cách nói rằng người ta đã tìm được “cá tính đích thực”, danh từ “cá tính”, như người ta hiểu ngày nay, đủ co rãn và mơ hồ để cho phép điều đó.  Tuy nhiên Kinh điển Phật giáo rõ ràng cố tránh thành ngữ này hay bất cứ một cách diễn tả nào tương đương.

Nhiều học phái Phật giáo, như tôi cố gắng trình bầy, phát khởi từ sự dị biệt trong đường lối đi đến cứu cánh chung của đạo Phật.  Ngay trong Tăng đoàn nguyên thủy, người ta ghi nhận rằng nhiều người khí chất và căn cơ khác nhau đã đi đến đích bằng những ngả đường khác nhau, “Sàriputra (Xá-Lợi-Phất) nổi danh vì trí tuệ, Ànanda (A-Nan) vì đức tin và lòng sùng mộ, Maudgalyàyana (Mục-Kiền-Liên) vì năng lực pháp thuật.  Sau này, những người tâm thức khác nhau lập ra những tông phái khác nhau, và, thêm vào đó, sự truyền bá giáo lý đã đưa đến sự phân chia có tính cách địa lý và những tổ chức riêng.  Một vài phương pháp hoàn thành việc phá hủy cá tính mà chúng ta sẽ bàn tới trong những chương sau của cuốn sách này, không thấy được kể đến trong những tầng lớp tối cổ của truyền thống như nó truyền thừa đến cho chúng ta, hay có chăng chỉ được báo trước một cách thầm lặng.  Nhưng, như nhiều Phật tử sau này biện luận, Đức Phật trong tình thương của ngài đối với chúng sinh, không muốn bỏ điều gì có thể giúp kẻ muốn tìm về chính đạo.  Một phần lớn của tác phẩm này sẽ được dành để giải thích chủ thuyết căn bản của mỗi tông phái chính yếu, phương pháp nào những tông phái đó chọn cho riêng mình, làm thế nào phương pháp đó có thể được coi như dẫn đến mục tiêu chung như những phương pháp khác và nó đã sinh hoạt như thế nào trong thế giới lịch sử.

PHẬT GIÁO NHƯ MỘT TRIẾT HỌC ^

Triết học, như người ta hiểu nó ở Âu châu, là một sáng tác phẩm của Hy Lạp.  Nó rất xa lạ với truyền thống Phật giáo, truyền thống coi việc tìm kiếm thực tại, với mục đích duy nhất là hiểu biết thêm về thực tại như một việc mất thì giờ vô ích.  Giáo lý của Đức Phật đặc biệt chuyên tâm và việc dẫn lộ giải thoát.  Bất cứ một “triết học” nào chứa đựng trong tác phẩm của tác giả Phật giáo cũng chỉ có tính cách ngẫu nhiên.  Trong rừng ngữ vựng Phật giáo người ta không tìm thấy một chữ nào tương đương với danh từ “triết học” của chúng ta.  một sự giải thích loại suy có thể làm sáng tỏ quan điểm này.  Ngôn ngữ Trung Hoa, như người Trung Hoa hiểu, không có văn phạm, và được giảng dậy ở trung Hoa với không một chỉ dẫn văn phạm nào.  Một vài nhà ngữ học Tây phương, dập theo khuôn mẫu những phạm trù văn phạm La-tinh, lập ra một thứ “văn phạm” cho Hán ngữ.  Nó không thích hợp lắm với Hán văn và người Trung Hoa vẫn tiếp tục không dùng đến nó.  Văn phạm kiểu La-tinh với những phạm trù quen thuộc, tuy nhiên, có thể giúp người Tây phương học Hán ngữ dễ dàng hơn.  Tương tự như vậy, ý định định nghĩa tư tưởng Phật giáo theo thuật ngữ triết học thông dụng ở Tây phương có thể làm cho con đường đến Phật giáo quanh đãng hơn.  Phật giáo như một “triết học” từ đó có thể mô tả như một khuynh hướng “tâm lý”.  Chúng ta hãy lần lượt khảo sát ba đề mục này.

Là một học thuyết nhằm giải thoát tự nền tảng và ý hướng, Phật giáo luôn luôn nổi bật vì thái độ thực tiễn quyết liệt.  Tất cả mọi suy lý về những vấn đề không liên quan đến giải thoát đều bị gạt bỏ.  Khổ đau là sự kiện nền tảng của cuộc sống.  Khi một người bị trúng tên, chắc hẳn hắn không từ chối để người ta nhổ mũi tên ra trước khi tìm hiểu ai là kẻ đã bắn, kẻ đó đã có gia đình hay chưa, cao hay thấp, tóc nâu hay đen.  Tất cả những điều hắn muốn là làm sao rút mũi tên ra.  Giới huấn cuối cùng của Đức Phật cho các đệ tử là Tất cả mọi pháp hữu vi đều vô thường.  Hảy tinh tấn trên đường giải thoái.  Trong quá trình lịch sử dài đằng đẳng, người Phật tử không bao giờ quên chủ trương thực tiễn này Vô vàn những ngộ nhận có thể không xẩy ra nếu người ta ý thức được rằng những phán quyết của những tác giả Phật giáo không có nghĩa là những mệnh đề phát biểu về bản chất của thực tại, nhưng như là những lời khuyên về cách thế hành động, phán quyết về những hình thái cư xử, và những kinh nghiệm liên hệ với chúng.  “Nếu ngươi muốn đến đó, ngươi phải làm như thế này”.  “Nếu ngươi làm việc đó, ngươi sẽ thực nghiệm điều đó”.

Do đó chúng ta có thể nói mà không sợ sai lầm rằng tư tưởng Phật giáo thên về cái mà chúng ta gọi là Thực dụng chủ nghĩa.  Giá trị của một tư tưởng phải được phán xét bởi cái mà nhờ nó chúng ta có thể hành động, bởi cái phẩm chất của đời sống khơi nguồn từ đó.  Ở bất cứ nơi nào người ta tìm thấy sự minh nhiên của những đức tính như vô trước, hảo tâm, lòng tự tinh thanh thản v.v… người ta có thể tin được rằng cái “triết học” ẩn sau một thái độ nào đó đã có hiện năng.  Bất cứ giáo lý nào ngươi có thể quả quyết rằng cháng đưa tới diệt đam mê chứ không đưa đến đam mê; tới siêu thoát chứ không phải ràng buộc; tới sự giảm trừ những của cải thế tục chứ không phải đưa tới sự tích lũy của cải thế tục; tới thanh đạm chứ không phải tới thèm muốn; tới mãn nguyện chứ không phải phiền não; tới cô dơn chứ không đưa tới xã hội; tới minh mẫn chứ không phải trì-trệ; tới hân hoan với thiện pháp chứ không phải tới sung sướng với ác pháp, với những giáo lý đó ngươi có thể quả quyết rằng; Đó chính là giới.  Đó chính là Luật.  Đó chính là Huấn Thị của đấng Thế Tôn.

Phật giáo cùng phát triển, tính cách thực tiển của nó càng trở nên minh bạch hơn nữa.  Người ta đi đến chỗ tin rằng bất cứ điều gì người ta có thể nói ra đều sai lầm tự căn để - sai lầm bởi sự kiện duy nhất là người ta phát biểu nó.  Kẻ nói không biết; kẻ biết không nói.  Duy có niềm im lặng Àryan không xúc phạm tới Chân lý.  Nếu người ta nói lên một điều gì – và điều đáng ngạc nhiên là những người đề cao niềm im lặng Àryan phải nói quá nhiều - điều đó chỉ có thể biện minh bởi cái mà người ta gọi là “phương tiện thiện sảo”.  Nói cách khác, người ta nói điều đó bởi vì điều đó có thể giúp những người khác ở một giai đoạn nào đó của cuộc tiến triển tinh thần của họ.

Giáo lý thiêng liêng trước hết là một phương thuốc.  Đức Phật như một y sĩ.  Giống như một y sĩ phải biết rõ phép chẩn bệnh của nhiều thứ bệnh khác nhau, phải biết rõ căn nguyên, phép giải độc và phương thuốc chữa và phải biết cách áp dụng, cũng thế Đức Phật đã dậy Tứ Diệu Đế, chỉ rõ phạm vi của đau khổ, nguồn gốc, sự diệt và con đường đưa đến sự diệt khổ (xem chương I).  Nhưng nếu người ta tách lìa những lời giáo huấn của Đức Phật với việc mà chúng nhắm thực hiện, những lời giáo huấn lúc đó trở vô nghĩa và mất hết sức mạnh.

Tư duy là một phương tiện giải thoát chính yếu của Phật giáo.  “Làm một việc gì đó” không được chấn mạnh bằng quán tưởng và kỷ luật tinh thần.  Điều người ta nhằm đạt tới là kiểm soát những tiến trình tâm linh bằng cách suy tư về những tiến trình ấy.  Vì vậy tư tưởng Phật giáo tràn đầy cái mà chúng ta gọi là Tâm lý học.  Nó pha trộn siêu hình và tâm lý một cách kỳ diệu đến nỗi ở Tây phương chúng ta không có một hình thức tư tưởng nào tương đương.

Ngoài tính chất thực nghiệm và sự nhấn mạnh về phương diện tâm lý, tư tưởng Phật giáo còn nghiêng về cái mà chúng ta có thể gọi là Biện chứng pháp.  Biện chứng pháp là một hình thức của luận lý, liên kết ở Âu châu với những tên tuổi như Zénon d’Elée và Hegel.  Biện chứng pháp tin rằng nếu chúng ta suy tưởng đứng đắn và chín chắn về một điều gì, chúng ta sẽ đi tới những mâu thuẫn nghĩa là tới phán đoán mà ngoại trương loại trừ lẫn nhau.  Các tư tưởng gia Phật giáo thích nghịch lý và mâu thuẫn.  Tôi có thể minh chứng điều này bằng hai câu trích từ kinh Kim Cương, một cuốn kinh có lẽ được viết vào khoảng năm 350 sau T.L., có nhiều người đọc hơn bất cứ một tác phẩm siêu hình nào khác.  Ở đây Đức Phật đã nói như thế này.  “Này Subhùti, (Tu-Bồ-Đề) “chúng sinh” “chúng sinh” Như Lai gọi chúng là “phi-chúng sinh”.  Vì vậy chúng mới được gọi là “chúng sinh” Và: “Có bao nhiêu chúng sinh trong những thế giới hệ này ta đều biết, trong trí tuệ, chủng tâm của ta.  Tại sao vậy? “chư tâm,” “chư tâm” này Subhùti, Như Lai dạy rằng “phi-tâm” nên mới gọi là “chư tâm” vì thế mới được gọi là “chư tâm” Tại sao vậy? quá khứ tâm bất khả đắc; vị lai tâm bất khả đắc; hiện tại tâm cũng bất khả đắc.”

Bằng cách chiến thắng tư tưởng, nhưng mâu thuẫn được giải phóng.  Một xiềng xích khác của cuộc hiện hữu đã bị chặt đứt và không gian vô giới hạn của chân lý tự nó mở ra mênh mang.  Một cách trần tục hơn một vài người có thể có một cảm thức tương tự khi học về văn chương phi lý.  Trong Đạo Phật những qui luật thông thường của luân lý bị coi thường nhân danh tính cách tự do của Tinh thần siêu vượt chúng.  Vả lại, đó chính là phần nhập môn của ý niệm về Tuyệt đối mà ở đây, cũng như với Zénon, Nicolas de Cues và Hegel, đã biến những phán quyết mâu thuẫn nội tại trở thành hợp lý.

 

DIỆT NGà và THUYẾT VÔ NGà ^

Phần đóng góp đặc biệt của Phật giáo vào tư tưởng tôn giáo là sự chú trọng về thuyết “vô ngã(tiếng Pali an – attà, Sankrit: an – àtman).  Lòng tin tưởng có một cái “ngã” được tất cả các Phật tử coi như nguyên nhân chính của khổ đau.  Chúng tạo ra những ý niệm như “Tôi” và “của tôi” và từ đó phát sinh ra tất cả những cảnh huống phiền trược.  Chúng ta sẽ hoàn toàn sung sướng, sung sướng vĩnh niễn, sung sướng như đứa trẻ trong lòng mẹ, theo một sớ những nhà tâm lý học, nếu tiên vàn chúng ta gạt bỏ được cái tôi.  Quả quyết rằng người ta chỉ thực sự sung sướng khi không còn thuộc về trần gian này mà là một trong những nghịch lý biện chứng mà đối với những người ngoài đường là một điều vô nghĩa nhạt nhẽo.  Trong mọi trường hợp, hiển nhiên niềm bất hạnh đòi hỏi tôi phải đồng hóa chính tôi với những sự vật khác, theo ý nghĩa đó tôi nghĩ rằng, điều gì xẩy đến cho những sự vật ấy xẩy đến cho tôi.  Nếu có một cái răng, và nếu cái răng ấy bị hư, đó là quá trình liên hệ đến cái răng và đến thần kinh nối kết với nó.  Nếu bây giờ cái “tôi” trải ra đến tận cái răng, tự thuyết phục mình rằng đó là cái răng “tôi” và đôi khi không cần phải cố gắng tự thuyết phục như vậy – và tin rằng điều gì xẩy đến cho cái răng bắt buộc đụng chạm đến tôi, một xáo trộn trong tư tưởng rất có thể vì thế khởi lên.  Phật giáo nhìn sự vật như thế này: đây là ý tưởng về “tôi”, hoàn toàn do óc tưởng tượng, không tương ứng với một thực tại nào hết.  Đủ mọi loại quá trình từ đó xuất hiện trên thế giới.

Bây giờ tôi tạo ra một ảo tưởng khác của óc tưởng tượng, ý niệm “thuộc về” và đi đến kế luận rằng một số phần của thế giời, không thể giới hạn rõ rệt được, “thuộc” về “tôi” hay “của tôi”.  Trong viễn tượng này Phật-giáo rất khác biệt một số những truyền thống của Tây phương chúng ta.  Trong triết học Aristote, chẳng hạn, cái ý niệm “thuộc về” đó (hyparkhein) hoàn toàn được công nhận như một dữ kiện đầu tiên của kinh nghiệm, và toàn thể luân lý và hữu thể học của Aristote được xây dựng trên ý niệm đó.

Học thuyết anattà này rất sâu sắc.  Người ta cho rằng một đời người chưa đủ đi xuống tới đáy của nó.  Theo truyền thống Phật giáo truyền lại nó gồm có hai phán đoán khẳng định.  Hai mệnh đề ch1ng ta cần phải phân biệt là:

Người ta quả quyết rằng trong thực tại không có gì tương ứng với những chữ trong ý niệm như là “tôi”, “của tôi”, “thuộc về” v.v… Nói cách khác, cái ngã không phải là một sự kiện.

Chúng ta bị bắt buộc phải cho rằng không có gì trong cái ngã thực nghiệm đáng được coi như cái ngã chân thực. (Xem chương IV).

Trong hai mệnh đề trên, mệnh đề thứ hai qua cuốn sách này sẽ trở nên sáng sủa hơn.  Bây giờ chúng ta hãy khảo sát qua mệnh đề thứ nhất.

Chúng ta phải chống lại lòng xác tín trí thức cho rằng có một cái gọi là “ngã” hay “linh hồn” hay “bản-thể”, có một mối liên quan như “thuộc về” hay “của”.  Chúng ta không phủ nhận rằng cái ngã, v.v…. là những dữ kiện của thế giới như nó xuất hiện trước công lỵ  Nhưng, với tư cách là sự kiện của thực tại tối sơ, chúng ta phải khước từ cái “ngã” và những ý niệm liên hệ xa gần với nọ  Bước đi này mang một hệ luận quan trọng.  Nếu không thể có được cái gọi là “bản-ngã” thì cũng không có cái được gọi là một “người”.  Vì một “người” là một cái gì được tổ chức xung quanh một cái nhân giả định, một trung tâm điểm phát triển, một cái “ngã”.

Trong tác phẩm Mâu Thuẫn và Thực  của tôi, tôi đã thử trình bầy lại bằng những từ ngữ hiện tại những luận chứng Phật giáo nhằm chống lại giá trị khách quan của khái niệm về “ngã”.  Lập lại những luận chứng ấy ở đây sẽ dẫn chúng ta đi quá xạ  Một vài chứng cứ có thể dùng để chống lại ý niệm về “ngã”, chúng ta thường nói tới luôn và thấy rằng khó mà bỏ qua những danh từ ấy được.  Ở Anh, sự phủ nhận sự hiện hữu của ngã (ego), của Hume, như một thực thể (entity) khác biệt với những quá trình trí não rất gần với thuyết anattạ  Trên quan điểm thuần túy lý thuyết, Phật giáo về phương diện này không chỉ dẫn chúng ta nhiều và bằng một hình thức thích hợp hơn như là Hume và những tư tưởng gia cùng giòng như Villiam James.  Sự khác biệt giữa những triết gia Phật giáo, Âu-châu và Hoa kỳ là ở chỗ họ làm gì với một mệnh đề triết lý khi họ đã đạt đến nó.  Ở Âu-châu chúng ta đã quan với sự phân ly gần như hoàn toàn giữa lý thuyết của các triết gia và sự thực hành giữa quan điểm về bản chất của vũ trụ và cách sống của ho  Schopenhauer và Herbert Spencer là những trường hợp hết sức đặc biệt.  Nếu một triết gia ở đây đã chứng minh rằng không có bản ngã ông ta có thể ngừng tại đó và có thể cư xử hoàn như thể có một cái ngã vậỵ  Lòng tham muốn, thù hận và trói buộc trong thực tế hãy còn nguyên vẹn mặc dầu những luận chứng triết học.  Người ta phán đoán ông ta theo sự mạch lạc của quan điểm của ông, không phải với đời sống, nhưng với chính những quan điểm ấy, theo cách hành văn, theo sự thông thái – tóm lại, theo những tiêu chuẩn thuần túy trí thức.  Không thể “bài bác” một triết gia bằng cách chứng tỏ rằng ông ta đã cư xử quá tàn bạo với vợ, ganh ghét với những bạn đồng liêu sung sướng hơn, và nổi cáu khi bị phật ý.

Phật giáo, trái lại, nhấn mạnh triệt để trên cách thái sống, trên tính cách thánh thiện của đời sống, trên sự giải thoát khỏi thế gian nàỵ  Một mệnh đề hoàn toàn có tính cách lý thuyết như “không có bản ngã” được coi như hết sức cằn cội khô khan và vô tích sự.  Tư tưởng không là gì khác hơn một dụng cụ và những sản phẩm của nó là cách biện minh duy nhất cho tư tưởng ấỵ

Không mãn nguyện với lòng xác tín trí thức rằng không có bản ngã, người Phật tử nhằm tới một thái độ hoàn toàn mới mẻ trước cuộc đời.  Ngày qua ngày, trong tất cả những chức vụ đảm nhiệm và trong cái nhàm chán của đời sống hàng ngày, hắn phải học cách cư xử như bản ngã không có vậỵ  Người nào tìm kiếm trong Đạo Phật những tư tưởng mới mẻ, kỳ lạ về vấn đề tự ngã, sẽ chẳng thấy bao nhiêu.  Kẻ nào muốn tìm trong đó những lời khuyên làm cách nào để sống một cuộc đời vô ngã, kẻ đó sẽ học được rất nhiều.  Phần đóng góp lớn lao của “triết học” Phật giáo nằm trong những phương pháp mà triết học đó đã nghiên cứu để in cái chân lý vô ngã lên trên đầu óc miễn cưỡng của chúng ta, trong kỷ luật mà người Phật tử tự đặt ra cho mình để biến chân lý đó thành một phần của chính con người họ.

 

THUYẾT BI QUAN TRIỆT ĐỂ  ^

Một khía cạnh khác của thuyết anattà, cốt khước từ tất cả những gì tạo thành hay lôi cuốn cái ngã thực nghiệm đã khiến cho Đạo Phật nổi tiếng là một đức tin “bi quan”.  Quả thật thế giới này, nghĩa là tất cả những gì hữu hạn và vô thường, đều bị rứt khoát coi như hoàn toàn xấu xa, hoàn toàn thấm nhiễm đau khổ, đáng bị bỏ rơi hoàn toàn, vì một cứu cánh duy nhất, Niết Bàn.  Tuy nhiên, tôi không hoàn toàn chắc chắn rằng “thuyết bi quan triệt để” này có đúng là một danh từ thích hợp để chỉ thái độ đó đối với thế giới không.  Những quan sát viên ở những nước Phật giáo như Miến Điện, Tây Tạng ghi nhận rằng dân cư ở đây bản chất vui vẻ, sung sướng nữa - người thường cũng như thầy tu.  Thật là bối rối khi thấy nỗi u-uẩn bi quan người đọc trong kinh điển Phật giáo lại phản chiếu bằng một thái độ vui vẻ đến thế.  Thế giới này có thể là một đại dương nước mắt, nhưng còn có nguồn vui khi trút bỏ gánh nặng.  Phải khước từ thế giới.  Nhưng nếu có thiên đàng khi từ bỏ thế giới, phần lợi vô song so với phần mất mát.  Trong mọi trường hợp, điều tốt nhất chúng ta có thể làm trước một danh từ như “chủ nghĩa bi quan” là gạt nó sang một bên và nhìn thẳng vào vấn đề.

Thái độ Tiêu cực của những tư tưởng gia Phật giáo đối với thế giới có liên hệ rõ rệt với vấn đề ý nghĩa cuộc đời và định mệnh con người.  Mặc dầu vấn đề khó khăn thế nào chăng nữa, và mặc dầu thái độ quan tâm tới vấn đề đó của chúng ta có vẻ thiếu khoa học thế nào đi nữa, chúng ta vẫn phải tìm kiếm một giải pháp cho vấn đề này, bởi vì tất cả hạnh phúc và sự phong phú của cuộc đời chúng ta tùy thuộc câu trả lời nàỵ  Quan điểm về bản chất và định mệnh con người hay ý nghĩa của cuộc nhân sinh, một cách tổng quát, có thể xếp vào hai loại: Theo một số người, con người là sản phẩm của trần gian.  Trái đất là nhà hắn.  Công việc của hắn là làm sao cảm thấy ở nhà mình trên trái đất.  Tự bảo tồn là luật cao viễn nhất, có thể kể là một bổn phận, của con người.  Những người khác, trái lại, tin rằng con người là một tinh thần bất an, một linh hồn xa đọa từ thiên đàng, một kẻ lạ mặt trên trái đất.  Bổn phận của hắn là khôi phục lại trạng thái hoàn hảo trước khi xa đọa xuống trần.  Tự khước từ là luật cao cả nhất và là bổn phận của con người.

Nền văn minh hiện tại của chúng ta đề cao quan điểm thứ nhất, Phật giáo quan điểm thứ hai.  Dĩ nhiên chủ trương rằng những con đuờng này có thể quyết định bằng luận chứng suông là một việc làm vô ích.  Trong tất cả mọi quyết định về giá trị người ta phải cẩn thận tránh không được đề cao sở thích, khí chất và lòng ưa chuộng lên ngang hàng với luật khách quan và tự nhiên.  Người ta chỉ được lựa chọn thế đứng của mình và không được ép buộc người khác theo mình.  Quan điểm của Phật giáo chỉ thích hợp với những người đã hoàn toàn tuyệt vọng với đời, với mình, người hết sức nhậy cảm với khổ đau, và bất cứ một hỗn loạn nào, người khao khát hạnh phúc, và có đủ khả năng từ bỏ.  Không có người Phật tử nào giả định rằng tất cả mọi người đều có thể hoặc muốn hiểu tôn giáo của mình.

Người Phật-tử tìm kiếm một nguồn hạnh phúc vẹn toàn bên kia thế gian nàỵ  Tại sao hắn có nhiều tham-vọng thế ?  Tại sao không bằng lòng vun quán hạnh phúc dù giới hạn của trần gian có hơn không ?  Câu trả lời là, trong thực tế, người ta không thấy chúng ta bằng lòng.  Nếu sự gia tăng tiện nghi vật chất và thỏa mãn trần-tục có thể khiến chúng ta hài lòng thì những người dân ngoại ô thành phố Luân Đôn phải tươi tỉnh và bằng lòng hơn người cu ly Trung-Hoa và người nông dân Tây Ban Nha rất nhiều.  Thực tế lại ngược lại hẳn.  Bản chất con người, theo quan điểm Phật giáo, được cấu tạo để chúng ta chỉ có thể mãn nguyện với thường trụ trọn-vẹn, dễ chịu trọn vẹn, yên ổn trọn vẹn.  Và không có điều nào trong những điều ấy chúng ta có thể tìm thấy trong cõi đời vô thường nàỵ

Khám phá mà những nhà triết gia và những nhà tâm lý học mới thực hiện trong những năm gần đây về những tầm quan trọng cực kỳ của nỗi xao xuyến trong tận cùng hiện thể chúng ta có một âm hưởng rất là Phật giáo.  Theo quan điểm tạo thành bởi Schler, Freud, Heidegger và Jaspers trong phần sâu thẳm của con người chúng ta có nỗi xao xuyến nền tảng, một khoảng trống nơi mà tất cả những hình thái âu lo và bất an tuôn trào.  Trong hình thức đơn thuần của nó, nỗi xao xuyến này chỉ được thực cảm nghiệm bởi những người có khuynh hướng nội quan và triết ly, và nó cũng chỉ được chứng nghiệm một cách hiếm hoi.  Nếu người ta không tự mình cảm thấy nó, không có một giải thích nào có thể thuyết phục người ta tin.  Nếu người ta đã cảm thấy nó rồi, người ta sẽ không bao giờ quên được nó dù người ta cố gằng thế nào đi nữa.  Nỗi xao xuyến đó thình lình đến với chúng ta khi chúng ta đang mơ màng, tách lìa thế giới; chúng ta vùng thức giấc giữa đêm tối, và cảm thấy một thứ kinh ngạc thấy mình ở đây, rồi điều đó đem đến sợ hãi và thảng thốt chỉ vì sự kiện hiện hữu đơn thuần.  Rồi chúng ta bắt được chúng ta, trong một khoảnh khắc, dưới chân một bức tường của một thứ hư vô bủa vây chung quanh, với một cảm giác bất lực, trần truồng cô đơn đối diện với sự kiện kinh hoàng thấy mình ở đâỵ  Thường thường chúng ta cố tránh kinh nghiệm này, bởi vì kinh nghiệm này đau đớn và chia xé con người chúng ta.  Luôn luôn, tôi cẩn thận tránh mặt tôi, nhưng “tôi” cộng với đủ loại kinh nghiệm của những kẻ khác.  Những người luôn luôn bận rộn, suốt ngày, những người luôn luôn phải nghĩ tới một điều gì, người luôn luôn phải làm một việc gì, là những người không ngừng chạy trốn cái kinh nghiệm xao xuyến nền tảng và uyên nguyên độc đáo nàỵ  Điều mà chúng ta thường làm là nương tựa và trông cậy vào một vài điều gì khác hơn là cái trung tâm hư không này của chúng ta.  Phật giáo cho rằng không bao giờ chúng ta có thể sung sướng, trước khi chúng ta chiến thắng được nỗi xao xuyến nền tảng này, và chúng ta chỉ có thể thực hiện được điều đó bằng cách không nương tựa vào bất cứ điều gì. 
 

BẤT TỬ TÍNH  ^

Với viễn quan hùng tráng về bản chất con người, Phật giáo coi nỗ lực chiến đấu chinh phục bất tử của chúng ta là một việc hợp lý và hợp tình.  Mục tiêu của Phật giáo cũng như của nhiều tôn giáo khác, là thu phục bất tử, một cuộc sống không bị khuất phục bởi cái chết.  Đức Phật sau khi giác ngộ tuyên bố đã mở tung được “những cánh cửa của Bất diệt”.  Hiển nhiên có sự khác biệt sâu xa giữa sự tiếp nối của cá tính một bên và bất tử tính ở phía bên kia.  Bất tử tính đúng là đối cực của cuộc sống này, cuộc sống bị ràng buộc với cái chết và không thể vùng vẫy thoát khỏi.  Chúng ta bắt đầu lên đường đi đến cái chết lúc chúng ta mới chào đời.  Mức độ của sự biến hóa trong cơ thể bắt đầu chậm lại ngay sau khi thụ thai.  Sinh là nguyên nhân của tử diệt.  Mọi cảnh ngộ có thể gieo rắc chết chóc chỉ là cơ ngẫu sự sinh đẻ, đúng hơn sự thụ thai là nguyên nhân quyết định khiến cái chết không thể nào tránh được.  Đôi khi tôi tin rằng người Anh duy trì cái tập quán dễ thương trừng phạt tội nhân bằng cách treo cổ bởi vì hình thức gia hình này cho ta một biểu tượng khít khao về dòng đời.  Lúc thụ thao chúng ta nhẩy từ tấm ván xuống với một cái giây thòng lọng cuốn quanh cổ.  Rồi chúng ta sẽ bị xiết cổ - đó chỉ là vấn đề thời gian.  Chúng ta ý thức hoàn cảnh hiểm nghèo của chúng ta trong từng giây phút, tùy theo chúng ta có dám đối diện với nó hay không.  Làm sao người ta có thể cảm thấy dễ chịu được trong lúc chờ đợi ?  Bất tử tính vì thế không phải là một ước vọng kéo dài cá tính bị mua bằng một giá của một sự suy đồi không thể tránh được, nhưng là một ước vọng siêu việt cái cá tính nàỵ

Bây giờ giả dụ ông John Smith chán mứa cái trạng thái phù du của mọi vật, được tạo ra trong một thời gian ngắn hạn để lại bị hủy diệt ngaỵ  Giả dụ ông muốn trở nên bất tử.  Lúc đó ông không còn một lựa chọn nào khác hơn là tự khước từ mình trong suốt cuộc hiện hữu của ông.  Ông phải trừ bỏ tất cả những gì là vô thường trong ông.  Chúng ta hãy thử tưởng tượng cái gì của ông Smith còn lại sau khi ông đã trở nên bất tử.  Thân thể ông ta hiển nhiên mất đi.  Cùng với thân thể những bản năng của ông ta cũng biến mất -  vì chúng nối kết với thân thể.  Tinh thần của ông ta như ông ta biết nó, cũng bị hy sinh.  Bởi vì cái tinh thần này của chúng ta ràng buộc với những quá trình tiến của thân thể, sự vận hành của nó căn cứ trên những dữ kiện do những cơ quan vật lý của giác quan cung cấp, và tinh thần cho thấy tính cách vô thường của nó bằng cách nhẩy như vượn từ sự vật này qua sự vật khác không lúc nào ngơi nghỉ.  Cùng với tinh thần, cảm thức và sự nhất trí luận lý cũng ra đi.  Như thế, một khi trở thành bất tử ông Smith sẽ không còn nhận ra mình là ai nữa.  Ông đã mất hết tất cả những gì khiến ông và những người khác nhận biết ông.  Và ông ta sẽ chỉ có thể tái sinh nếu ông ta biết cách khước từ tất cả những gì làm mờ ám khía cạnh bất tử của con người ông - nằm bên ngoài ngũ uẩn như Phật giáo đã nói - nếu ông ta biết khước từ tất cả những gì tạo thành cái ngã nhỏ bé thân yêu của ông.  Phương pháp đào luyện của phật giáo, quả thực, nhằm làm muội lược một cách có hệ thống sự chấp thủ của chúng ta với những cái trong chúng ta ngăn cản chúng ta thư hồi lại bất tử tính mà chúng ta đã đánh mất khi ra chào đời.  Thân thể bị chinh phục, bản năng bị làm yếu đi, tâm trí thanh tĩnh, tư tưởng luận lý, bị ngăn chặn tiêu diệt bởi những điều phi lý, và sự kiện giác quan ít được nghĩ đến, con mắt của lòng tin và con mắt của trí tuệ thay cặp mắt của thân thể.  Người ta nhớ tới ngay huấn giới của John Wesley khi ông hối thúc đệ phải “tự giết mình từng chút một”.

Nhưng, như tôi đã nói, tất cả những điều đó tùy thuộc quan điểm của người ta đối với bản chất con người.  Những người nào chỉ nhìn con người như một sinh vật của trần gian sẽ có khuynh hướng so sánh khát vọng bất tử của Phật giáo với con sên rời bỏ nhà mình để làm một cuộc thám thiểm không gian.  Những người coi con người cốt yếu là một hiện thể tâm linh sẽ thích tỷ dụ của Phật giáo về những con thiên nga núi khi rời bỏ hồ nước trên núi, khi từ vũng nước này sang vũng nước khác mà không đậu ở đâu cho đến khi quay trở lại nhà của chúng trong làn nước trong vắt của cái hồ nước trên đỉnh cao.

 

NHỮNG GIÁ TRỊ TRƯỜNG CỬU ^

Dầu cho các bậc hiền triết có tài hùng biện đến mấy đi nữa về phương diện này, lương tri vẫn không thể không cảm thấy rằng con đường thoát tục, dù hết sức cao đẹp, không thích hợp cho những kẻ phải sống trong trần thế và trên trái đất nào.  Ngày nay tất cả mọi người đều theo thuyết của Darwin một cách vô thức, và giá trị trường cửu của một học thuyết xuất chế thật chẳng đáng một hạt kê.  Làm thế nào học thuyết ấy đứng vững trên trái đất ? Tuy nhiên sự kiện lịch sử đã làm cho tục thức bối rối không ít.  Phật giáo đoàn là một đoàn thể kỳ cựu nhất thế giới.  Nó tồn tại lâu hơn bất cứ một đoàn thể nào, trừ tông phái có liên hệ gần với nó, Jainaĩsme.  Nơi đây chúng ta có những đế quốc tàn bạo của lịch sử, do quân đội, thuyền bè và phán quan bảo vệ.  Ít khi có một đế quốc nào có thể tồn tại lâu hơn ba thế kỷ.  Nơi kia chúng ta có một phong trào gồm những hành khất tự nguyện, những kẻ luôn đề cao thanh bần hơn phú quí, phát thệ không sát hại chúng sinh, suốt đời mơ mộng những giấc mộng tuyệt vời, và tạo ra những cõi thiên thai, những kẻ khinh bỉ tầt cả những cái thế tục đề cao, đề cao tất cả những cái thế tục khinh bỉ nhịn nhục, quảng đại, sự trầm tư nhàn nhã.  Và tuy vậy, trong khi những đế quốc hùng mạnh, xây dựng trên tham, sân và si chỉ tồn tại được vài thế kỹ thì sự khước từ mình đã chống đỡ Phật giáo đoàn trong 2500 năm.  Tôi tin rằng rất nhiều giả thuyết có thể phát khởi từ sự kiện này.  Chủ nghĩa duy nhất tôi muốn nhắc tới là chủ thuyết của Darwin, và những triết học khác đằng sau những đế quốc vĩ đại rất hời hợt; chúng cũng có thời của chúng - một thời không lâu dài và không yên ổn lắm.  Trong khi đó truyền thống minh triết vĩ đại và phổ quát của nhân loại chìm xuống tận nguồn, giao thoa với cả hơi thở và nhịp điệu của đời.  Chính những kẻ ôn nhu thừa kế trái đất, chính những kẻ ôn nhu đã thừa kế trái đất - bởi vì chỉ có mình họ là những kẻ sẵn sàng sống giao tiếp với nó.  Triết gia Trung Hoa Lão Tử đã diễn tả điều đó rất tuyệt diệu trong cuốn Đạo Đức Kinh (chương VII):

“Trời dài và đất lâu.

Cái cớ khiến trời đất dài lâu là bởi trời đất không sống cho mình;

Vì vậy trời đất sống lâu.

Thế nên Thánh nhân tự đặt mình ra sau mà mình ở trước;

Quên mình mà được bảo toàn.

Phải chăng vì không quan tâm tới mình

Mà cái riêng tây của mình còn đó ? [3]


 

 

* Aitareya Upanishad

[1] Huyền học Hồi giáo – (Ghi chú của Dịch giả)

[2] Tức Sắc, Thụ, Tưởng, Hành Thức – (G.c.D)

[3] Ed.Conze dịch thoát nguyên tác.  Câu thứ hai: “Cái cớ khiến trời đất dài lâu là bởi trời đất không sống cho mình” (The reason why they are lasting and enduring is that they do not live for themselves)

Nguyên văn:

“Cái cớ khiến trời đất dài lâu là bởi tại trời đất không tự sinh ra mình;”

(G.c.D.)


 

--- o0o ---