Phật Nói
Kinh Vô Lượng Thọ
Quyển Thượng
Tôi
nghe như vầy: Một thời, Ðức Phật trụ trong núi Kỳ Xà Quật
thuộc thành Vương Xá, cùng với một vạn hai ngàn vị Ðại
Tỉ Khưu. Những vị đó đều là
bậc Ðại Thánh đã đạt được phép
thần thông. Các vị ấy tên là: Tôn giả Liễu Bản Tế, Tôn
giả Chính Nguyện, Tôn giả Chính Ngữ, Tôn giả Ðại Hiệu,
Tôn giả Nhân Hiền, Tôn giả Ly Cấu, Tôn giả Danh Văn, Tôn
giả Thiện Thật, Tôn giả Cụ Túc, Tôn giả Ngưu Vương, Tôn
giả Ưu Lâu Tần Loa Ca Diếp, Tôn giả Già Da Ca Diếp, Tôn giả
Na Ðề Ca Diếp, Tôn giả Ma Ha Ca Diếp, Tôn giả Xá Lợi Phất,
Tôn giả Ðại Mục Kiền Liên, Tôn giả Kiếp Tân Na, Tôn giả
Ðại Trụ, Tôn giả Ðại Tịnh Chí, Tôn giả Ma Ha Chu Na, Tôn
giả Mãn Nguyện Tử, Tôn giả Ly Chướng, Tôn giả Lưu Quán,
Tôn giả Kiên Phục, Tôn giả Diện Vương, Tôn giả Dị Thừa,
Tôn giả Nhân Tính, Tôn giả Gia Lạc, Tôn giả Thiện Lai, Tôn
giả La Vân, Tôn giả A Nan. Các vị trên đây
đều là những bậc Thượng Thủ.
Lại cùng với các chúng
Ðại thặng Bồ Tát trong kiếp hiện tại là: Phổ Hiền Bồ
Tát, Diệu Ðức Bồ Tát, Từ Thị Bồ Tát. Lại có mười sáu
vị chính sĩ thuộc nhóm tại gia Bồ Tát là: Thiện Tư Nghị
Bồ Tát, Tín Tuệ Bồ Tát, Không Vô Bồ Tát, Thần Thông Hoa Bồ
Tát, Quang Anh Bồ Tát, Tuệ Thượng Bồ Tát, Trí Tràng Bồ
Tát, Tịch Căn Bồ Tát, Nguyện Tuệ Bồ
Tát, Hương Tượng Bồ Tát, Bảo Anh Bồ Tát, Trung Trụ Bồ
Tát, Chế Hạnh Bồ Tát, Giải Thoát Bồ Tát, tất cả đều
tuân theo giới đức của Ngài Ðại Sĩ Phổ Hiền.
Ðức Phật có vô lượng
hạnh nguyện của các Bồ Tát, an trụ vào các pháp, công đức
trọn đầy, rồi dạo bước khắp mười phương, tùy
theo phương tiện cứu độ chúng sanh,
khiến cho tất cả qua khỏi đường sinh tử, vào được Pháp
tạng của chư Phật.
Lại nguyện ở trong vô lượng
thế giới hiện thành Phật quả. Bấy giờ, Ngài ở cung Trời
Ðâu Suất, vì muốn nói rộng chính pháp, nên từ cung Trời
ấy, giáng thần vào thai mẹ. Từ nách bên phải sinh ra, rồi
đứng dậy hiện ra đi bảy bước; hào
quang rực rỡ chiếu khắp mười phương, vô lượng cõi Phật,
chấn động sáu cách. Trong giờ phút thiêng liêng này, một
tay chỉ lên Trời, một tay chỉ xuống
đất, Ngài cất tiếng tự xưng rằng: "Ta sẽ là Phật
trên hết trong đời". Lúc ấy, hai vị Vua Ðế Thích và
Phạm Thiên đến hầu, khiến cả Trời và Người đều cung kính
tin theo.
Ngài lại hiện ra học đủ
các nghề: thi văn, lý, toán, bắn cung, cỡi ngựa; tập r?ng
thêm các môn võ thuật, đọc hết những pho sách sử. Có lần
Ngài ung dung dạo bước vườn sau, diễn võ thi tài.
Ngài lại biến hiện ra
cung điện cực kỳ lộng lẫy, trong
đó có sắc đẹp diễm kiều, cùng cao lương mỹ vị. Lại
một hôm, Ngài ra chơi ngoại thành, nhìn thấy người già, người
bệnh, người chết; nhìn thấy cảnh tượng đó, Ngài nhận
biết được cõi đời là vô thường, nên quyết lìa ngôi
báu, thần dân, quyến thuộc, tiền của, quyền quý cao sang,
vào núi học đạo. Ngài cởi bỏ áo ngọc mũ châu quý báu, mặc
áo nhà tu, cạo bỏ râu tóc, ngồi dưới
gốc cây, siếng tu khổ hạnh, suốt sáu năm trường, y theo chính
đạo, thực hành thiện pháp. Ngài lại hiện ra trong
cõi đời ngũ trọc, thuận theo chúng sinh, cấu trần ô nghiễm
tắm gội ở sông Ni Liên. Bấy giờ, Chư Thiên giữ cành cây,
Ngài vin lấy cành mà ra khỏi ao, liền có loài chim thiêng theo
hầu Ngài tới nơi Ðạo tràng. Ðiềm lành cảm nghiệm, nêu
rõ công phúc, thương nhận cỏ cúng dường, trải dưới cây
Bồ Ðề, ngồi xếp hai bàn chân lên đùi, nhập thiền định,
phóng ra hào quang sáng lớn, khiến Ma
vương biết được, chúng liền kéo cả họ hàng, bè lũ
đến mà thử thách tâm ý của Ngài. Ngài dùng trí lực giải
trị, khiến chúng phải kinh sợ hàng phục. Chính nơi cội Bồ
Ðề Ðạo Tràng, Ngài chứng ngộ thành Bậc Ðại Giác.
Bấy giờ, Vua Ðế Thích
và Phạm Vương thỉnh cầu Ngài chuyển Pháp luân. Ngài chấp
nhận rồi rời Ðạo Tràng, du phương thuyết Pháp, đánh trống
Pháp, thổi loa Pháp, cầm gươm Pháp, dựng cờ Pháp, dậy sấm
Pháp, lóe chớp Pháp, tưới mưa Pháp, nói thí Pháp và thường
đem tiếng Pháp cảnh tỉnh thế gian. Ngài phóng hào quang soi
khắp vô lượng cõi Phật. Tất cả các thế giới chấn động
sáu cách, thâu tóm cả cõi ma, làm rung động
cung điện của ma vương, khiến chúng ma vương sợ hãi, đều
quy phục cả. Ngài xé rách các lưới tà, tiêu diệt mọi
thành kiến, đánh tan những phiền não, lấp đầy mọi vực sâu
ái dục, gạn sạch tâm ý, giữ trọn Pháp thân, khai nguồn
trí tuệ, rửa sạch tâm nhơ xấu, làm sáng đức
thanh tịnh, truyền bá chính giáo, hóa độ chúng sinh, khiến tất
cả đều được thấm nhuần công đức, phước báu lợi lạc.
Ngài lại đem pháp dược
mầu nhiệm, cứu chữa ba nỗi khổ của chúng sinh: một là
làm việc cực nhọc sinh khổ, hai là hết vui đến buồn sinh
khổ, ba là các pháp vô thường sinh khổ. Ngài lại hiển hiện
vô lượng công đức, thụ ký cho các Bồ Tát thành bậc
Chính Ðẳng Chính Giác. Lại hiện ra cảnh giới sinh tử, hầu
cứu chúng sinh diệt trừ phiền não, vun trồng cội phúc, trọn
đủ công đức, mầu nhiệm vô cùng.
Ngài lại đến các nước
Phật, hiển bày giáo pháp bằng các việc đã tu hành, trong sạch
không nhơ nhuốm. Ví như nhà huyễn thuật đã học tập thông
suốt, rồi tùy theo ý muốn, hiện ra các tướng lạ như: Hiện
làm đàn ông, hiện làm đàn bà v.v... không gì không hiện
được.
Các vị Bồ Tát ở đây cũng
giống như thế, các Ngài học hết các Pháp, quán thông kinh
điển, thâu tóm sự lý, xét cùng nghĩa nhiệm, thấy biết
xác thực. Rồi ở trong vô số cõi Phật đều
hiện ra trọn đủ các Pháp như thế, chỉ dẫn cho mười
phương chúng sinh, vô lượng chúng sinh đều cùng hộ niệm. Cảnh
giới chư Phật an trụ, Bồ Tát đều trụ trong đó; Ð?i
Thánh tọa nơi nào, đều có Bồ Tát tọa nơi
đó. Giáo pháp của Ðức Như Lai thuyết giảng Bồ Tát đều
tuyên dương một cách rốt ráo, là bậc Ðại sư cho các
hàng Bồ Tát, các Ngài đem thiền định,
trí tuệ thâm diệu chỉ bày cho chúng sinh đời mạt pháp
thông hiểu các pháp tính, thấy rõ các pháp tướng và
thấu suốt các cõi để cúng dường chư Phật. Lại hóa hiện
thân hình lẹ như chớp nhoáng, biến hiện lưới vô úy, hiểu
suốt mọi pháp huyễn hóa, xé rách lưới ma, cởi mọi ràng
buộc; vượt qua địa vị Thanh Văn,
Duyên Giác, được phép tam muội: Không, vô tướng, vô nguyện.
Các Ngài khéo lập phương tiện, chỉ rõ ba thừa: Thanh
Văn, Duyên Giác, Bồ Tát. Sau khi giáo hóa đã xong, không còn sở
hữu, các Ngài lại hiện ra có sinh tử, chứ thực ra các
pháp cũng không vật gì thấy có, chẳng sinh, chẳng diệt, tất
cả đều bình đẳng, thành diệu pháp vô lượng tổng trì
bách thiên tam muội. Các căn trí tuệ, yên lặng vô cùng, vào
sâu tới Pháp tạng của Bồ Tát, được Pháp Hoa Nghiêm tam muội
của Phật, tuyên dương giảng nghĩa hết thảy Kinh điển mà
vẫn trụ vào phép định sâu xa mầu nhiệm, thấy tất cả chư
Phật hiện tại, trong một giây phút hiện ra khắp nơi, cứu
giúp muôn loài, chịu nhiều khổ não, phân biệt chỉ rõ chân
thật, được trí biện tài của các Ðức Như Lai, rồi thể
nhập tiếng nói của chúng sinh, khai hóa cho hết thảy, vượt
qua các pháp sở hữu của thế gian, kiên tâm giữ đạo
cứu đời. Ð?i với hết thảy chúng sinh, các Ngài tùy
ý tự tại, lấy việc cứu giúp chúng sinh làm trách nhiệm nặng
nề, giữ gìn Pháp tạng của chư Phật, khiến cho thường còn
chẳng mất. Lại khởi lòng đại bi thương xót chúng sinh, diễn
lời đại từ, trao con mắt Pháp, ngăn
ba chốn dữ, mở cửa Bồ Ðế, lại đem pháp không ai cầu thỉnh
mà thí hóa cho chúng dân như người con trọn hiếu, kính thương
cha mẹ, đối với chúng sinh như đối với chính mình.
Các Ngài đã gây mọi nhân lành, qua khỏi đường sinh tử,
được vô lượng công đức của chư Phật. Trí tuệ sáng suốt
của các Ngài cũng không thể nghĩ bàn. Các vị Bồ
Tát, Ðại sĩ như thế, không thể kể sao cho xiết, cùng một
lúc tới dự hội.
Bấy giờ, Ðức Thế Tôn
thân căn vui đẹp, dáng điệu nghiêm
tịnh, sắc mặt hồng sáng. Tôn giả A Nan thấy vậy, liền từ
tòa ngồi đứng dậy, trễ vai áo bên phải, quỳ gối chấp
tay, bạch Phật rằng:
"Bạch Ðức Thế Tôn!
Hôm nay Ðức Thế Tôn thân căn vui đẹp,
thân tướng nghiêm tịnh, sắc mặt hồng sáng, như tấm
gương trong sạch, sáng suốt trong ngoài, oai dũng rõ rệt, tướng
tốt tuyệt vời, chưa từng thấy có. Kính bạch Ðức Ðại
Thánh! Lòng con nghĩ rằng: Hôm nay có lẽ Ðức Thế Tôn trụ
vào nơi pháp kỳ diệu! Hôm nay Ðức Thế Hùng trụ vào chốn
chư Phật trụ! Hôm nay Ðức Thế Nhãn trụ vào hạnh của Ðấng
Ðạo Sư! Hôm nay Ðức Thế Anh trụ vào Ðạo Tối Thắng!
Hôm nay Ðức Thiên Tôn hành theo đức của Ðức Như Lai! Chư
Phật ba đời: quá khứ, hiện tại, vị
lai đã cùng một ý nghĩ độ
sinh. Phải chăng hôm nay Ðức Như Lai đang tư duy chư Phật tư
duy chăng? Vì sao oai thần của Ngài chói sáng như vậy?".
Bấy giờ, Ðức Thế Tôn
bảo Ngài A Nan rằng: A Nan! Có phải chư Thiên nhờ ông đến
hỏi ta hay tự ông khởi ý hỏi việc đó?
A Nan bạch Phật rằng: Bạch
Ðấng Ðại Bi Thế Tôn! Không phải chư Thiên đến nhờ con,
chính tự bản thân con thấy biết mà
hỏi việc đó.
Phật dạy rằng: “Hay
thay! Hay thay! A Nan, những điều ông hỏi thật là sâu xa! Như
Lai đem lòng đại bi vô tận, thương xót chúng sinh trong ba cõi,
nên mới thị hiện ra đời, khai sáng
đạo giáo, để cứu vớt quần sinh, khiến cho họ được nhiều
lợi ích chân thật. Như Lai vô lượng ức kiếp khó gặp,
khó thấy, cũng như hoa Ưu Ðàm trải qua bao kiếp mới trổ một
lần. Nay những điều ông hỏi có lợi ích khai hóa cho tất cả
chư Thiên, nhân loại. A Nan! Nên biết, Như Lai là bậc Chính
Giác, trí tuệ không thể suy lường thường khuyên dẫn và chế
ngự tâm người, không gì ngăn ngại. Như Lai dùng sức một bữa
ăn mà thọ mệnh được trăm ngàn
vạn kiếp, vô số vô lượng còn hơn ở đây
nhiều. Lại nữa, Như Lai thân căn vui đẹp, dáng điệu nghiêm
tịnh, khuôn mặt hồng sáng. Vì sao vậy? – Vì thiền định,
trí tuệ của Như Lai sáng suốt vô cùng, tất cả các Pháp,
Như Lai đều được viên dung
vô ngại.
A Nan, hãy nghe cho kỹ, bây
giờ ta nói cho ông nghe.
“A Nan bạch rằng: Vâng,
con mong muốn được nghe”.
Ðức Phật bảo A Nan rằng:
"Về đời xưa kia, cách nay rất lâu xa, không thể tính
bàn được là bao nhiêu kiếp, có Ðức Ðĩnh Quang Như Lai thị
hiện ra đời, giáo hóa độ thoát vô
lượng chúng sinh đều được đạo quả, rồi Ngài mới diệt
độ. Thứ đến, có Ð?c Như Lai tên là Quang Viễn, thứ
đến tên là Nguyệt Quang, thứ đến
tên là Chiên Ðàn Hương, thứ đến tên là Thiện Sơn
Vương, thứ đến tên là Tu Di Thiên Quán, thứ đến tên là
Tu Di Ðẳng Diệu, thứ đến tên là Nguyệt Sắc, thứ đến tên
là Chính Niệm, thứ đến tên là Ly Cấu, thứ đến tên là
Vô Trước, thứ đến tên là Long Thiên,
thứ đến tên là Dạ Quang, thứ đến tên là An Minh Ðỉnh,
thứ đến tên là Bất Ðộng Ðịa, thứ đến tên là Lưu Li
Diệu Hoa, thứ đến tên là Lưu Li Kim Sắc, thứ đến tên là
Kim Tạng, thứ đến tên là Viêm Quang, thứ đến tên là Viêm
Căn, thứ đến tên là Ðịa Chủng,
thứ đến tên là Nguyệt Tượng,
thứ đến tên là Nhật AÂm, thứ đến tên là Giải Thoát
Hoa, thứ đến tên là Trang Nghiêm Quang Minh, thứ đến tên là
Hải Giác Thần Thông, thứ đến tên là Thủy Quang, thứ đến
tên là Ðại Hương, thứ đến tên là Li Trần Cấu, thứ đến
tên là Xả Yếm Ý, thứ đến tên
là Bảo Viêm, thứ đến tên là Diệu Ðỉnh, thứ đến tên
là Dũng Lập, thứ đến tên là công Ðức Trí Tuệ, thứ đến
tên là Tế Nhật Nguyệt Quang, thứ đến tên là Nhật Nguyệt
Lưu Li Quang, thì đến tên là Vô Thượng Lưu Ly Quang, thứ đến
tên là Tối Thượng Thủ, thứ đến
tên là Bồ Ðề Hoa, thứ đến tên là Nguyệt Minh, thứ
đến tên là Nhật Quang, thứ đến tên là Hoa Sắc Vương, thứ
đến tên là Thủy Nguyệt Quang, thứ đến tên là Trừ Si
Minh, thứ đến tên là Ðộ Cái Hạnh, thứ đến tên là Tịnh
Tín, thứ đến tên là Thiện Túc, thứ
đến tên là Uy Thần, thứ đến tên là Pháp Tuệ, thứ
đến tên là Loan AÂm, thứ đến tên là Sư Tử AÂm, thứ đến
tên là Long AÂm, thứ đến tên là Xử Thế. Các Ðức Phật
trên đây đều đã qua đời hết. Sau
đó, lại có Ð?c Phật tên Thế Tự Tại Vương, Như
Lai, Ứng Cúng, Chính Ðẳng Chính Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện
Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu,
Thiên Nhân Sư; Phật Thế Tôn.
Lúc ấy, có vị Quốc Vương
nghe Phật thuyết pháp, sinh lòng vui vẻ, liền phát tâm Vô thượng
Bồ Ðề, lìa cõi nước, bỏ ngôi vua, xuất gia làm Sa Môn, hiệu
là Pháp Tạng, tài cao, trí dũng khác đời. Ngài Pháp Tạng đến
chỗ Ðức Thế Tự Tại Vương Như Lai, cúi đầu
lễ dưới chân Phật, đi quanh theo phía bên phải ba
vòng, rồi quỳ gối chấp tay và khen ngợi rằng:
Khuôn
mặt hồng sáng chói
Oai
đức tỏ vô cùng
Khỏa
lấp cả không trung
Mặt
trời không sánh nổi
Mặt
trăng, ma ni châu
Cũng
trở nên mờ tối.
Cao
giọng nói chính pháp
Vang
khắp cả mười phương
Giới,
văn đều tinh tiến
Trí
tuệ cũng không lường.
Uy
đức dũng mãnh nhất
Trong
đời ít ai bằng
Biển
pháp của chư Phật
Sâu
rộng mầu nhiệm thay!
Ðem
trí thật suy xét
Tìm
thấy rõ cội nguồn
Vô
minh và dục vọng
Thế
Tôn lìa tất cả
Bậc
Sư Tử Nhân Hùng
Thần
đức không thể lường
Trí
tuệ rất cao thâm
Công
huân thật rộng lớn
Oai
tướng sáng hơn trăng
Chấn
động cõi Ðại thiên.
Con
nguyện khi làm Phật
Lên
ngôi Thánh Pháp Vương
Dứt
hẳn đường sinh tử
Ðến
bên bờ giải thoát.
Sáu
phép là Bố thí
Trì
giới và Nhẫn nhục
Tinh
tiến đến Thiền định
Trí
tuệ là bậc nhất.
Con
thề khi thành Phật
Làm
hết những nguyện này
Tất
cả điều sợ hãi
Biến
thành niềm an vui.
Giả
như có chư Phật
Trăm
ngàn muôn ức triệu
Cùng
các bậc Ðại Thánh
Nhiều
như cát sông Hằng
Cúng
dường hết tất cả
Chư
Phật Ðại Thánh đó
Cũng
không bằng cầu đạo
Kiên
tâm không thoái chuyển.
Chí
tinh tiến như thế
Oai
thần khó lường đuợc.
Con
khi được thành Phật
Sửa
sang cõi nước này
Như
cõi Niết Bàn kia
Thế
gian không thể sánh
Chúng
sinh trong nước đó
Cũng
tốt đẹp lạ thường.
Con
nay lòng thương xót
Ðộ
thoát cho tất cả
Các
chúng sinh sau này
Lòng
mong cầu tinh tiến
Ðã
đến nước con rồi
Ðều
an lành vui vẻ.
May
được Phật tin rõ
Tâm
thành thật của con
Phát
nguyện về Tịnh Ðộ
Nhờ
tinh tiến tu hành
Mười
phương các Ðức Phật
Trí
tuệ rộng thấu suốt
Biết
rõ tâm hạnh con
Dù
thân có mỏi mòn
Trong
mọi nỗi khổ đau
Con
vẫn gắng tu hành
Dù
chết chẳng ăn năn.
Phật bảo A Nan! Tỉ Khưu
Pháp Tạng nói lời khen ngợi xong, lại bạch Phật rằng: Bạch
Ðức Thế Tôn con phát tâm vô thượng chính giác cúi xin Ðức
Phật rộng nói kinh pháp cho con nghe, con sẽ tu hành cho chóng
thành chính giác, dứt bỏ gốc nguồn khổ não trong
đường sinh tử, để giữ lấy cõi nước Phật thanh tịnh
trang nghiêm và Pháp tạng mầu nhiệm của chư Phật.
Bấy giờ Ðức Thế Tự Tại
Vương bảo Tỉ Khưu Pháp Tạng rằng: Chắc ông đã biết
cách tu hành để trang nghiêm cõi Phật rồi chăng? – Tỉ
Khưu Pháp Tạng bạch Phật: Nghĩa ấy sâu rộng không thể nghĩ
bàn, không phải cảnh giới của con. Kính xin Thế Tôn rộng
lòng diễn giải hạnh nguyện về cảnh giới Tịnh Ðộ của
chư Phật cho con nghe. Nghe rồi, con sẽ y theo thuyết đó tu
hành cho hoàn thành sở nguyện.
Khi ấy, Ðức Phật Thế Tự
Tại Vương biết ông là người cao minh có chí nguyện sâu rộng,
liền nói Kinh cho Tỉ Khưu Pháp Tạng nghe rằng: Ví như người
lấy đấu để lường biển cả, trải
qua nhiều kiếp còn có thể lường tới đáy sâu, lấy được
của báu. Huống chi, người dốc lòng tinh tiến cầu
đạo không mỏi mệt, ắt sẽ có kết quả, nguyện gì
mà chẳng được. Ðức Phật Thế Tự Tại Vương lại nói rộng
ra hai trăm năm mươi ức cõi nước
chư Phật, việc lành dữ của Trời và người, sự tốt xấu
của cõi nước ứng hợp với tâm nguyện cho Ngài Tỉ khưu Pháp
Tạng nghe. Khi Tỉ Khưu Pháp Tạng nghe Phật nói thấy rõ hết
cõi nước trang nghiêm, thanh tịnh, liền khởi sinh ý nguyện
thù thắng tuyệt vời; tâm Ngài vắng lặng, chí không vướng
mắc, giữ gìn hạnh thanh tịnh, trang nghiêm Phật độ
đầy đủ trong năm kiếp mà tất cả thế gian không ai
sánh bằng.
A Nan bạch Phật rằng: Ðức
Phật ở cõi nước kia thọ được bao nhiêu tuổi? Ðức Phật
dạy rằng: Thọ mệnh của Ðức Phật ấy được bốn mươi
hai kiếp.
Lúc ấy, Tỉ Khưu Pháp Tạng
giữ lấy hạnh thanh tịnh trong hai trăm mười ức cõi nước
mầu nhiệm của chư Phật. Sau khi chứng quả, Ngài đến chỗ
Ðức Phật Thế Tự Tại Vương dập đầu
lễ dưới chân Phật, đi chung quanh Phật ba vòng rồi đứng lại,
chấp tay bạch Phật rằng: Lạy Ðức Thế Tôn! Con đã giữ
được hạnh thanh tịnh để trang nghiêm cõi Phật rồi!
Ðức Phật bảo Tỉ Khưu Pháp Tạng rằng: Ông nên biết bây
giờ là lúc ông có thể nói ra cho tất cả đại
chúng được sinh lòng vui vẻ. Các vị Bồ Tát nghe nói
rồi tu hành theo phép ấy, thành tựu vô số các điều nguyện
lớn.
Tỉ Khưu Pháp Tạng bạch
Phật rằng: Kính xin Ðức Thế Tôn rủ lòng thương xét cho
các điều nguyện lớn của con sau đây?
Ðiều nguyện thứ nhất:
Nếu con được thành Phật mà trong cõi nước con còn có địa
ngục, ngã quỷ, súc sinh, thì con chẳng trụ ở ngôi Chính
giác.
Ðiều nguyện thứ hai: Nếu
con được thành Phật, mà Trời, Người trong cõi nước con
sau khi thọ chung, còn phải sa vào đường dữ, thì con chẳng
trụ ở ngôi Chính giác.
Ðiều nguyện thứ ba: Nếu
con được thành Phật, mà tất cả Trời, Người trong cõi nước
con thân không giống màu vàng y, thì con chẳng trụ ở ngôi
Chính giác.
Ðiều nguyện thứ tư: Nếu
con được thành Phật, mà tất cả Trời, Người trong cõi nước
con thân hình còn có kẻ đẹp, người xấu thì con chẳng trụ
ở ngôi Chính giác.
Ðiều nguyện thứ năm:
Nếu con được thành Phật, mà Trời, Người trong cõi nước
con không biết rõ túc mệnh của mình và những việc đã xảy
ra trong trăm ngàn ức na do tha các cõi Phật, thì con chẳng trụ
ở ngôi Chính giác.
Ðiều nguyện thứ sáu: Nếu
con được thành Phật, mà Trời, Người trong cõi nước con,
không được phép Thiên nhãn, cho đến không thấy rõ trăm ngàn
ức na do tha các cõi Phật, thì con chẳng trụ ở ngôi Chính
giác.
Ðiều nguyện thứ bảy: Nếu
con được thành Phật, mà Trời, Người trong cõi nước con không
được phép Thiên nhĩ, không được nghe và thọ trì hết thảy
lời thuyết pháp của trăm ngàn ức na do tha các Ðức Phật,
thì con chẳng trụ ở ngôi Chính giác.
Ðiều nguyện thứ tám: Nếu
con được thành Phật, mà Trời, Người trong cõi nước con,
không được thấy tâm trí kẻ khác,
cho đến không biết rõ tâm niệm của hết thảy chúng sinh
trong trăm ngàn ức na do tha các cõi Phật, thì con chẳng
trụ ở ngôi Chính giác.
Ðiều nguyện thứ chín: Nếu
con được thành Phật, mà Trời, Người trong cõi nước con,
không được phép thần túc, trong một
khoảng một niệm, cho đến không vượt qua được trăm ngàn
ức na do tha các cõi Phật thì con chẳng trụ ở ngôi Chính
giác.
Ðiều nguyện thứ mười:
Nếu con được thành Phật, mà Trời, Người trong cõi nước
con, còn có ý niệm tham chấp thân hình, thì con chẳng trụ
ở ngôi Chính giác.
Ðiều nguyện thứ mười
một: Nếu con được thành Phật, mà Trời, Người trong cõi nước
con, không trụ vào chính định và chứng quả Niết Bàn, thì
con chẳng trụ ở ngôi Chính giác.
Ðiều nguyện thứ mười
hai: Nếu con được thành Phật, mà ánh sáng còn có hạn lượng,
không soi thấu được trăm ngàn
ức na do tha các cõi Phật, thì con chẳng trụ ở ngôi Chính
giác.
Ðiều nguyện thứ mười
ba: Nếu con được thành Phật, mà thọ mệnh còn có hạn lượng,
chỉ được trăm ngàn ức na do
tha kiếp, thì con chẳng trụ ở ngôi Chính giác.
Ðiều nguyện thứ mười
bốn: Nếu con được thành Phật, mà hàng Thanh Văn trong cõi nước
con, còn có thể tính đếm được và
chúng sinh trong ba ngàn Ðại thiên thế giới ở trong trăm ngàn
kiếp thành bậc Duyên Giác hết, rồi tính đếm mà biết được
số đó là bao nhiêu, thì con chẳng trụ ở ngôi Chính
giác.
Ðiều nguyện thứ mười
lăm: Nếu con được thành Phật,
mà Trời, Người trong cõi nước con, thọ mệnh còn có hạn lượng,
trừ phi những bản nguyện riêng của họ, muốn dài, ngắn đều
được tự tại. Nếu không được như vậy, thì con chẳng
trụ ở ngôi Chính giác.
Ðiều nguyện thứ mười
sáu: Nếu con được thành Phật, mà Trời, Người trong cõi nước
con, còn có ai nghe thấy tiếng chẳng lành, thì con chẳng trụ
ở ngôi Chính giác.
Ðiều nguyện thứ mười
bảy: Nếu con được thành Phật, mà vô lượng chư Phật ở
mười phương thế giới không ngợi khen danh hiệu của con,
thì con chẳng trụ ở ngôi Chính giác.
Ðiều nguyện thứ mười
tám. Nếu con được thành Phật, mà chúng sinh trong mười
phương dốc lòng tin tưởng, muốn sinh về cõi nước con chỉ
trong mười niệm, nếu không được toại nguyện, thì con chẳng
trụ ở ngôi Chính giác, trừ kẻ phạm năm tội nghịch và
gièm chê chính pháp.
Ðiều nguyện thứ mười
chín: Nếu con được thành Phật, mà chúng sinh mười phương
phát tâm Bồ Ðề, tu các công đức, dốc lòng phát nguyện,
muốn sinh về cõi nước con, tới khi thọ chung, mà con chẳng
cùng đại chúng hiện ra chung quanh trước mặt người ấy, thì
con chẳng trụ ở ngôi Chính giác.
Ðiều nguyện thứ hai mươi:
Nếu con được thành Phật, mà chúng sinh trong mười phương
nghe danh hiệu của con, để lòng nhớ nghĩ đến
nước con, tu trồng các công đức, dốc lòng hồi hướng,
cầu sinh về cõi nước con mà không
được vừa lòng, thì con chẳng trụ ở ngôi Chính
giác.
Ðiều nguyện thứ hai mươi
mốt: Nếu con được thành Phật, mà Trời, Người trong cõi nước
con, chẳng được đầy đủ ba mươi
hai tướng của bậc Ð?i nhân, thì con chẳng trụ ở
ngôi Chính giác.
Ðiều nguyện thứ hai
mươi hai: Nếu con được thành Phật, hết thảy chúng Bồ
Tát ở cõi Phật phương khác sinh về cõi nước con, sau đó sẽ
tới bậc Nhất Sinh Bổ Xứ, trừ bản nguyện riêng của mỗi
vị tự tại hóa hiện, vì thương xót chúng sinh mà rộng lớn,
bền chắc như áo giáp, tu các công đức,
độ thoát hết thảy, rồi khắp các cõi Phật, tu hạnh
Bồ Tát và cúng dường mười phương chư Phật, khai hóa vô số
chúng sinh, khiến lập nên đạo Vô Thượng Chính Giác. Chư vị
vượt ngoài công hạnh, thông thường ở các địa vị mà tu
tập theo hạnh nguyện của Ðức Phổ Hiền. Nếu không được
như thế, thì con chẳng trụ ở ngôi Chính giác.
Ðiều nguyện thứ hai mươi
ba: Nếu con được thành Phật, mà các Bồ Tát trong cõi nước
con, nương sức thần của Phật đi cúng dường các Ðức Phật
trong khoảng thời gian một bữa ăn, mà không
tới được vô số, vô lượng ức na do tha các cõi Phật,
thì con chẳng trụ ở ngôi Chính giác.
Ðiều nguyện thứ hai mươi
bốn: Nếu con được thành Phật, mà các Bồ Tát trong cõi nước
con, ở trước chư Phật, hiện ra công đức, muốn có muôn
vàn vật dụng để cúng dường. Nếu
không được như ý, thì con chẳng trụ ở ngôi Chính
giác.
Ðiều nguyện thứ hai mươi
lăm: Nếu con được thành Phật,
mà các Bồ Tát trong cõi nước con, không diễn thuyết được
Nhất Thiết Trí, thì con chẳng trụ ở ngôi Chính giác.
Ðiều nguyện thứ hai mươi
sáu: Nếu con được thành Phật,
các Bồ Tát trong cõi nước con, không được thân Kim Cương
Na La Diên, thì con chẳng trụ ở ngôi Chính Giác.
Ðiều nguyện thứ hai mươi
bảy: Nếu con được thành Phật, mà Trời, Người trong cõi nước,
cùng tất cả muôn vật không có hình sắc tốt
đẹp, không thể tính lường, và hết thảy chúng sinh cho đến
bậc đã được phép Thiên nhãn, mà không nói được rõ
ràng danh số, thì con chẳng trụ ở ngôi Chính giác.
Ðiều nguyện thứ hai mươi
tám: Nếu con được thành Phật, mà các Bồ Tát trong cõi nước
con, cho đến kẻ có ít công đức nhất,
không thấy được ánh sáng muôn mầu của cây Bồ Ðề cao bốn
trăm vạn do tuần, thì con chẳng trụ ở ngôi Chính
giác.
Ðiều nguyện thứ hai mươi
chín: Nếu con được thành Phật, mà các Bồ Tát trong cõi nước
con, thụ trì, đọc tụng, giảng thuyết Kinh pháp, mà không
được trí tuệ biện tài, thì con chẳng trụ ở ngôi Chính
giác.
Ðiều nguyện thứ ba mươi:
Nếu con được thành Phật, mà trí tuệ biện tài của các Bồ
Tát trong cõi nước con còn có hạn lượng, thì con chẳng trụ
ở ngôi Chính giác.
Ðiều nguyện thứ
ba mươi mốt: Nếu con được thành Phật, thì cõi nước
con thanh tịnh, soi thấy tất cả vô lượng, vô số thế giới
chư Phật ở mười phương không thể nghĩ bàn, như tấm
gương sáng thấy được hình dạng mặt mày của mình. Nếu
không được như vậy, thì con chẳng trụ ở ngôi Chính giác.
Ðiều nguyện thứ ba mươi
hai: Nếu con được thành Phật, trong cõi nước con, từ mặt
đất đến hư không, cung điện, lâu
đài, hồ ao, cây cỏ và muôn hoa đều
được tạo nên bằng vô lượng của báu hòa lẫn với
ngàn thứ hương thơm. Tất cả đều
xinh đẹp lạ lùng hơn cả cõi Trời và cõi Người.
Hương thơm của muôn vật tỏa ra ngào ngạt khắp mười
phương thế giới. Bồ tát ở các nơi ngửi hương thơm ấy
đều tu theo hạnh của Phật. Nếu không
được như thế, thì con chẳng trụ ở ngôi Chính giác.
Ðiều nguyện thứ ba mươi
ba: Nếu con được thành Phật,
chúng sinh trong vô lượng thế giới chư Phật mười phương
không thể nghĩ bàn, đều nhờ ánh
quang minh của con chạm đến thân họ, khiến thân được nhẹ
nhàng hơn cả Trời và Người. Nếu không được như thế,
thì con chẳng trụ ở ngôi Chính giác.
Ðiều nguyện thứ ba mươi
bốn: Nếu con được thành Phật, mà chúng sinh trong vô lượng
thế giới chư Phật mười phương không thể nghĩ bàn, nghe
danh hiệu của con mà không được pháp Vô Sinh Pháp Nhẫn và
các môn Thâm tổng trì của bậc Bồ Tát, thì con chẳng trụ
ở ngôi Chính giác.
Ðiều nguyện thứ ba mươi
lăm: Nếu con được thành Phật,
mà nữ nhân trong vô lượng thế giới chư Phật mười
phương không thể nghĩ bàn, nghe danh hiệu con đều vui mừng,
phát tâm Bồ Ðề, chán ghét thân gái. Sau khi mệnh chung mà
còn phải làm thân nữ nhân nữa, thì con chẳng trụ ở ngôi
Chính giác.
Ðiều nguyện thứ ba mươi
sáu: Nếu con được thành Phật, mà các Bồ Tát trong vô lượng
thế giới chư Phật mười phương không thể nghĩ bàn, nghe
danh hiệu con, sau khi thọ chung, thường tu phạm hạnh cho đến
khi thành Phật. Nếu không được như thế, thì con chẳng trụ
ở ngôi Chính giác.
Ðiều nguyện thứ ba mươi
bảy: Nếu con được thành Phật, mà Trời và Người trong cõi
vô lượng thế giới chư Phật mười phương không thể nghĩ
bàn, nghe danh hiệu con, cúi đầu đảnh
lễ, năm vóc gieo xuống đất, vui mừng tu hạnh Bồ Tát, được
hầu hết Trời và Người kính trọng. Nếu không được như
thế, thì con chẳng trụ ở ngôi Chính giác.
Ðiều nguyện thứ ba mươi
tám: Nếu con được thành Phật, mà Trời và Người trong cõi
nước con, muốn có y phục, thì y phục
tốt đẹp tùy theo tâm niệm của họ tự nhiên hiện ra
trên mình họ. Nếu còn phải cắt may, nhuộm, giặt, thì con
chẳng trụ ở ngôi Chính giác.
Ðiều nguyện thứ ba mươi
chín: Nếu con được thành Phật, mà Trời và Người trong cõi
nước con, không được sự hưởng thụ vui
sướng bằng vị Tỉ Khưu đã dứt hết mọi phiền
não, thì con chẳng trụ ở ngôi Chính giác.
Ðiều nguyện thứ bốn mươi:
Nếu con được thành Phật, mà các Bồ Tát trong cõi nước
con, tùy ý muốn thấy vô lượng thế giới trang nghiêm thanh tịnh
của chư Phật ở mười phương đều
được như nguyện. Chẳng hạn, nhìn trong cây báu thấy
rõ hết cả, như nhìn vào tấm gương sáng thấy rõ nhân diện.
Nếu không được như thế, thì con chẳng trụ ở ngôi Chính
giác.
Ðiều nguyện thứ bốn mươi
mốt: Nếu con được thành Phật, mà các chúng Bồ Tát ở thế
giới khác nghe danh hiệu con, từ đó đến khi thành Phật,
mà các sắc căn còn thiếu kém, thì con chẳng trụ ở ngôi
Chính giác.
Ðiều nguyện thứ bốn mươi
hai: Nếu con được thành Phật, mà các Bồ Tát ở thế giới
phương khác, nghe danh hiệu con, đều
được chính định giải thoát thanh tịnh; rồi trụ
vào chính định đó trong khoảng một
ý niệm cúng dường vô lượng chư Phật Thế Tôn chẳng thể
nghĩ bàn, mà vẫn không mất chính định.
Nếu không được như thế, thì con chẳng trụ ở ngôi
Chính giác.
Ðiều nguyện thứ bốn mươi
ba: Nếu con được thành Phật,
mà các Bồ Tát ở thế giới phương khác, nghe danh hiệu con
sau khi mệnh chung, thác sinh vào nhà tôn quý. Nếu không được
như thế, thì con chẳng trụ ở ngôi Chính giác.
Ðiều nguyện thứ bốn mươi
tư: Nếu con được thành Phật, mà các Bồ Tát ở thế
giới phương khác, nghe danh hiệu con vui mừng hớn hở, tu hạnh
Bồ Tát, trọn đủ công đức. Nếu không được như thế, thì
con chẳng trụ ở ngôi Chính giác.
Ðiều nguyện thứ bốn mươi
lăm: Nếu con được thành Phật,
mà các Bồ Tát ở thế giới phương khác, nghe danh hiệu
con đều được Phổ Ð?ng tam muội, rồi trụ vào tam muội
đó cho đến khi thành Phật, thường
được thấy chư Phật chẳng thể nghĩ bàn. Nếu không được
như thế, thì con chẳng trụ ở ngôi Chính giác.
Ðiều nguyện thứ bốn mươi
sáu: Nếu con được thành Phật, mà các Bồ Tát trong cõi nước
con, muốn nghe pháp gì, đều theo chí nguyện mình, tự nhiên
được nghe. Nếu không được như thế,
thì con chẳng trụ ở ngôi Chính giác.
Ðiều nguyện thứ bốn mươi
bảy: Nếu con được thành Phật, mà các Bồ Tát ở thế giới
phương khác, nghe danh hiệu con mà chẳng tới được bậc Bất
thoái chuyển, thì con chẳng trụ ở ngôi Chính giác.
Ðiều nguyện thứ bốn mươi
tám: Nếu con được thành Phật, mà các Bồ Tát ở phương khác,
nghe danh hiệu con mà chẳng tới ngay được
ba đức nhẫn: AÂm hưởng nhẫn, Nhu thuần nhẫn và Vô
sinh pháp nhẫn. Ðối với các pháp của Phật mà không chứng
được bậc Bất thoái chuyển, thì con chẳng trụ ở ngôi
Chính giác.
Phật bảo A Nan rằng: Khi
Pháp Tạng Tỉ Khưu nói xong những lời nguyện đó, liền làm
bài kệ khen ngợi rằng:
Con
lập nguyện hơn đời
Quyết
tới Ðạo Vô thượng
Nguyện
này không được toại
Thể
chẳng thành Ðẳng giác.
Con
ở vô lượng kiếp
Chẳng
làm Ðại thí chủ
Cứu
giúp chúng sinh khổ
Thề
chẳng thành Ðẳng giác.
Tới
khi con thành Phật
Khắp
muôn phương thế giới
Nếu
chẳng ai nghe danh
Thề
chẳng thành Ðẳng giác.
Lìa
dục tới chính niệm
Tu
hành theo Phạm hạnh
Chí
cầu ngôi Tối thượng
Làm
Thấy cả Trời, Người.
Sức
thần tỏa hào quang
Soi
khắp cả Ðại Thiên
Tiêu
trừ ba thứ độc
Cứu
chúng sinh nguy nan.
Mở
rộng mắt trí tuệ
Diệt
hết chốn tối tăm
Ngăn
lấp mọi đường dữ
Khai
thông các nẻo lành.
Công
phúc đều đầy đủ
Oai
rạng tỏ mười phương
Nhật
nguyệt hòa sức sáng
Cũng
không sao sánh bằng.
Vì
chúng khai tạng Pháp
Rộng
truyền công đức báu
Thường
ở trong đại chúng
Thuyết
pháp giọng sư tử.
Cúng
dường tất cả Phật
Trọn
vẹn mọi công đức
Tuệ
nguyện đều đầy đủ
Ðược
làm Thầy ba cõi.
Trí
vô ngại như Phật
Soi
thấu khắp mọi nơi
Nguyện
công đức của con
Bằng
ngôi tôn quý nhất.
Nếu
nguyện này thành tựu
Cảm
động đến ba cõi
Các
Thiên Thần trên không
Sẽ
rải hoa nhiệm mầu.
Phật bảo A Nan rằng: Tỉ
Khưu Pháp Tạng nói, bài kệ đó xong, thì khắp cõi đất
có sáu thứ chấn động, chư Thiên rải hoa đẹp xuống đầu
Ngài như mưa. Trên không tự nhiên nổi lên tiếng nhạc
ngợi khen rằng: "Chắc chắn Ngài sẽ thành bậc Vô thượng
Chánh giác". Vì những điều nguyện lớn của Ngài Tỉ Khưu
Pháp Tạng trọn đủ công đức, đúng
thật không hư, vui cảnh tịch diệt, vượt khỏi thế gian.
Này ông A Nan! Ngài Tỉ Khưu
Pháp Tạng ở chỗ Ðức Phật ấy, trong đại chúng tám bộ
Thiên, Long, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La,
Ma Hầu La Già, phát lời thệ rộng, dựng lên nguyện lớn, rồi
chuyên chí trang nghiêm cõi đất nhiệm
mầu. Tỉ Khưu Pháp Tạng chăm lo cõi Phật, mở mang rộng lớn,
xinh đẹp hơn các cõi khác. Công việc xây dựng liên tục,
không suy, không biến, trải qua hàng triệu kiếp không thể
nghĩ bàn. Ngài đã tu trồng vô lượng đức hạnh của bậc Bồ
Tát, chẳng sinh ba tri giác: Dục giác, Sân giác và Hại giác;
chẳng khởi ba tưởng: Dục tưởng, Sân tưởng và Hại tưởng,
chẳng vướng sáu trần: Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc và Pháp.
Thành tựu được đức nhẫn nhục,
chẳng nài gian khổ, ít ham muốn, biết tạm đủ, không nhiễm
tính sân, si. Tâm thiền định thường yên lặng, trí tuệ
không ngăn ngại. Không có lòng dối trá, nịnh bợ quanh
co, nét mặt hiền hòa, lời nói thân thương biết trước ý
người, sẳn lòng giải đáp. Chí nguyện
Ngài không hề mệt mỏi, dũng mãnh tinh tiến, chuyên cầu
pháp thanh tịnh, làm lợi ích cho chúng sinh, biết cung kính Tam
bảo, phụng thờ Sư trưởng. Ngài dùng sức trang nghiêm tất
cả, đầy đủ hạnh nguyện, khiến
chúng sinh được thành tựu công
đức. Ngài trụ vào các pháp không: Không chấp tướng,
không phát nguyện, không tạo tác và không sinh khởi; quán tưởng
các pháp như huyễn, lìa bỏ lời nói thô ác, hại người và
hại mình, tu tập các việc tốt lành, khiến cho lợi người
và lợi mình. Quán tưởng như vậy rồi, Ngài rời cõi nước,
bỏ ngôi vua, không nghĩ đến sắc dục, tiền của, tự mình
tu hành sáu phép: Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tiến,
Thiền định và Trí tuệ, lại dạy người khác tu theo. Bởi
không biết bao nhiêu kiếp góp công chứa đức, nên theo nơi mình
sinh, ý nghĩ mình muốn, bao nhiêu kho báu tự nhiên hiện ra. Rồi
giáo hóa, xây dựng cho vô số chúng sinh trụ vào đạo Vô thượng
Chính giác. Lại nữa, hoặc làm Trưởng giả, Cư sĩ thuộc dòng
tôn quý: hoặc làm Vua nước nhỏ, Vua nước lớn thuộc dòng
Sát lỵ; hoặc làm chủ sáu cõi Trời Dục giới cho đến Phạm
Vương và thường đem bốn món: y phục,
thức ăn, đồ dùng, thuốc thang, cung kính cúng dường tất cả
chư Phật. Những công đức như thế không sao kể xiết. Lại
nữa, miệng thơm như hương sen, các lỗ chân lông tiết ra mùi
hương chiên đàn tỏa khắp mười phương vô lượng thế giới.
Nhân dạng đoan chính, đẹp đẽ khác
thường. Tay Ngài thường buông ra những của báu vô tận: y
phục, thức ăn và các vật dụng để trang nghiêm như
hương hoa, ngọc quý, lụa lọng và cờ phướn. Các việc như
thế hơn cả Trời và Người. Ðối với hết thảy các pháp
đều được tự tại.
A Nan bạch Phật rằng: Bồ
Tát Pháp Tạng đã được thành Phật và được
diệt độ hay chưa thành Phật và chưa được
diệt độ?
Phật bảo A Nan: Bồ Tát
Pháp Tạng nay đã thành Phật và hiện ở phương Tây,
cách đây mười muôn ức cõi. Thế giới của Ðức Phật
ấy tên là An Lạc.
A Nan lại hỏi: Ðức Phật
ấy thành Phật đến nay đã trải
qua bao nhiêu kiếp rồi?
Phật bảo: Ngài thành Phật
đến nay đã hơn mười kiếp. Cõi
nước của Ðức Phật ấy có bảy món báu tự nhiên: vàng, bạc,
hổ phách, lưu li, san hô, xà cừ, mã não hợp nên làm đất,
rộng rãi thênh thang vô cùng. Các thứ báu ấy đều xen lẫn
nhau, thật mầu nhiệm, rực rỡ, thanh tịnh và trang nghiêm hơn
các cõi thế giới ở mười phương. Tính chất của các món
báu ấy cũng quý như của báu trên cõi Trời thứ sáu. Lại nữa,
cõi nước ấy không có núi Tu Di, Kim cương và các núi khác;
cũng không có bể lớn, bể nhỏ, khe, ngòi, giếng, hang, sông;
nhưng vì có sức thần của Phật nên muốn thấy thì được
thấy; cũng không có cảnh địa ngục, ngạ quỷ, súc
sinh và chướng nạn; cũng không có bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu,
Ðông. Khí hậu thường điều hòa, chẳng lạnh, chẳng nóng.
Bấy giờ, A Nan bạch Phật
rằng: Bạch Thế Tôn! Nếu cõi nước kia không có núi Tu Di
thì bốn vị Thiên Vương và cõi Trời Ðao Lợi nương tựa vào
đâu? Phật bảo A Nan: Từ cõi Diệu Thiên thứ ba đến cõi Sắc
Cứu Kính đều thung dung tự tại nên y cứ được.
A Nan bạch Phật: Ðó là Hạnh
nghiệp và quả báo không thể nghĩ bàn, Phật bảo A Nan: Hạnh
nghiệp và quả báo không thể nghĩ bàn. Vì sao? Vì nhờ sức
lành công đức của chúng sinh trụ vào hạnh nghiệp ở cõi
đất ấy, cho nên mới được như vậy.
A Nan bạch Phật: Con thật
không nghi ngờ pháp ấy, nhưng chỉ vì thương chúng sinh đời
mạt pháp sanh tâm nghi ngờ nên mới hỏi nghĩa đó.
Ðức Phật bảo A Nan: Ánh
sáng oai thiêng của Ðức Phật Vô Lượng Thọ cao quý bậc nhất,
ánh sáng của các Ðức Phật đều không thể sánh kịp, dù
chiếu đến trăm thế giới Phật, hoặc
ngàn thế giới Phật, nhẫn đến chiếu tới các cõi Phật
về phương Ðông nhiều như số cát sông Hằng, rồi đến
phương Nam, phương Tây, phương Bắc và bốn phương kề cận:
hoặc có ánh sáng tỏa ra bảy thước, hoặc một do tuần, hoặc
ba, bốn, năm do tuần, cứ gấp lên cho đến khi tỏa sáng khắp
tất cả thế giới các cõi Phật cũng không sánh kịp. Vì thế,
Ðức Phật Vô Lượng Thọ có những tên hiệu là: Vô Lượng
Quang Phật, Vô Biên Quang Phật, Vô Ngại Quang Phật, Vô Ðối
Quang Phật, Viêm Vương Quang Phật, Thanh Tịnh Quang Phật, Hoan
Hỉ Quang Phật, Trí Tuệ Quang Phật, Bất Ðoạn Quang Phật,
Nan Tư Quang Phật, Vô Xứng Quang Phật, Siêu Nhật Nguyệt Quang
Phật.
Nếu có chúng sinh nào gặp
ánh sáng ấy thì ba cấu (tham, sân, si) đều tiêu tan hết,
thân tâm nhẹ nhàng, vui mừng hớn hở, phát lòng Bồ Ðề.
Dù họ đọa nơi ba đường (địa ngục,
ngã quỷ, súc sanh) vô cùng đau khổ mà thấy ánh sáng
ấy đều được nghỉ ngơi không còn
khổ não. Sau khi chết đi, cũng nhờ
đó mà được giải thoát.
Ánh sáng rực rỡ của Ðức
Phật Vô Lượng Thọ, soi tỏ mười phương các cõi nước Phật,
chẳng những con nay khen ngợi ánh sáng của Ngài, mà đến các
Ðức Phật, Bồ Tát, Duyên Giác và Thanh Văn
cũng đều khen ngợi như thế. Nếu có chúng sinh nào biết
được công đức oai thiêng
trong ánh sáng của Ngài; ngày đêm dốc lòng nhắc nhở, ngợi
khen, theo ý mình nguyện được sinh về cõi nước của Ngài
và được các chúng Bồ Tát, Thanh Văn
cùng ngợi khen công đức của mình. Sau cùng, khi chứng
Phật đạo, được hết thảy chư Phật, Bồ Tát mười
phương ngợi khen ánh sáng của mình, như đã ngợi khen
ánh sáng của Ðức Phật Vô Lượng Thọ.
Ðức Phật bảo: Như Lai nói
ra ánh sáng oai thiêng của Ðức Phật Vô Lượng Thọ, cao xa và
mầu nhiệm khác thường, dù cho trọn
một kiếp cũng chưa thể hết được.
Lại nữa, thọ mệnh của
Ðức Phật Vô Lượng Thọ lâu dài không thể tính kể. Ông
có hiểu chăng? Ví như vô số chúng
sinh trong thế giới mười phương đều được thân người,
khiến cho các bậc Duyên Giác, Thanh Văn cùng luận bàn suy
nghĩ, dồn mọi trí lực trong trăm ngàn muôn kiếp cũng
khó mà biết được hạn lượng, thọ mệnh dài hay ngắn của
các hàng Bồ Tát, Thanh Văn, Trời và Người ở cõi nước Ngài.
Lại nữa, thọ mệnh của
các Bồ Tát, Thanh Văn khó mà tính lường được, vì họ đều
là những bậc thần thông, trí
tuệ cao thâm, oai lực tự tại, nắm được tất cả thế giới
trong bàn tay.
Phật bảo A Nan rằng:
Trong buổi hội đầu tiên của Ðức Phật kia, số
chúng Bồ Tát cùng Thanh Văn như Ngài Ðại Mục Kiền Liên và
trăm ngàn muôn ức vô lượng vô số trong a tăng
kỳ na do tha kiếp cho đến lúc diệt độ, nhân tính cộng lại
cũng không thể xét rõ được số lượng như biển cả sâu rộng
không cùng. Nếu có người chẻ một sợi tóc ra làm trăm
phần, rồi lấy một phần thấm một giọt nước, theo ý
ông, giọt nước ấy đối với biển cả kia có gọi
là nhiều chăng?
A Nan bạch Phật: Giọt nước
thấm vào một phần sợi tóc so với biển cả nhiều hay ít
chẳng phải kẻ có tài tính toán, nói năng, ví dụ, so sánh
mà biết được.
Phật bảo A Nan: Các bậc
Bồ Tát, Thanh Văn trong buổi hội đầu tiên như ông Mục
Kiền Liên đối với trăm ngàn vạn
ức na do tha kiếp số lượng biết được cũng như một giọt
nước ở trong biển lớn.
Lại nữa, khắp cõi nước
của Ngài có bảy loại cây quý báu mọc đầy
đủ như: vàng, bạc, lưu li, pha lê, san hô, mã não, xà
cừ có cây được kết hợp bằng nhiều món báu như: cây
vàng có lá, bông và trái bằng bạc. Cây bạc có lá, bông và
trái bằng vàng. Cây lưu li và cây pha lê cũng kết hợp như
thế. Cây thủy tinh có lá, bông và trái bằng lưu li. Cây san
hô có lá, bông và trái bằng mã não. Cây mã não có lá, bông
và trái bằng lưu li. Cây xà cừ có lá, bông và trái bằng
các thứ báu. Có cây báu, gốc bằng vàng tía, thân bằng bạc
trắng, cành bằng lưu li, nhánh bằng thủy tinh, lá bằng san
hô, bông bằng mã não, trái bằng xà cừ. Hoặc có cây báu: gốc
bằng bạc trắng, thân bằng lưu li, cành bằng thủy tinh,
nhánh bằng san hô, lá bằng mã não, bông bằng xà cừ, trái bằng
vàng tía. Hoặc có cây báu: gốc bằng lưu li, thân bằng thủy
tinh, cành bằng san hô, nhánh bằng mã não, lá bằng xà cừ,
bông bằng vàng tía, trái bằng bạc trắng. Hoặc có cây báu:
gốc bằng thủy tinh, thân bằng san hô, cành bằng mã não,
nhánh bằng xà cừ, lá bằng vàng tía, bông bằng bạc trắng,
trái bằng lưu li. Hoặc có cây báu: gốc bằng san hô, thân bằng
mã não, cành bằng xà cừ, nhánh bằng vàng tía, lá bằng bạc
trắng, bông bằng xà cừ, nhánh bằng vàng tía, lá bằng bạc
trắng, bông bằng lưu li, trái bằng thủy tinh. Hoặc có cây
báu: gốc bằng mã não, thân bằng xà cừ, cành bằng bạc
tía, nhánh bằng bạc trắng, lá bằng lưu li, bông bằng thủy
tinh, trái bằng san hô. Hoặc có cây báu: gốc bằng xà cừ,
mình bằng vàng tía, cành bằng bạc trắng, nhánh bằng lưu
li, lá bằng thủy tinh, bông bằng san hô, trái bằng mã não.
Các hàng cây bằng nhau, thân sát vơí nhau, cành chạm với
nhau, lá hướng vào nhau, bông thuận với nhau và trái hợp với
nhau, thật là tươi thắm, nhìn không thể xiết. Gió thường
nổi lên, phát ra năm thứ tiếng cung thương hòa hợp, thật
là nhiệm mầu.
Lại nữa, cây Bồ Ðề của
Ðức Vô Lượng Thọ, cao bốn vạn dặm, chu vi gốc cây năm
ngàn do tuần, cành lá xòe ra bốn bên hai mươi vạn dặm,
được kết hợp tự nhiên bằng tất cả các báu vật.
Lại lấy ngọc Nguyệt Quang Ma Ni và Trì Hải Luân Bảo là vua
của các báu vật mà trang nghiêm cho cây ấy. Xung quanh, dọc
cây rủ xuống những chuỗi hạt quý lấp lánh trăm vạn mầu
khác lạ, chói sáng vô cùng. Lại có lưới báu trân diệu che
trùm phía trên, nên tất cả những vẻ trang nghiêm tốt đẹp
đều tùy đó mà hiện ra. Gió thiền lay động các cây báu
gây ra nhiều tiếng pháp nhiệm mầu. Tiếng ấy lan rộng khắp
cõi Phật. Người nào có duyên lành nghe tiếng ấy sẽ
được Pháp nhãn thâm sâu, trụ vào ngôi Bất thoái, sau sẽ
chứng được Phật quả. Căn tai thông
suốt không sinh bệnh khổ. Mắt thấy mầu cây, mũi ngửi
hương cây, miệng nếm vị cây, thân chạm vào ánh sáng của
cây, sáu căn thông suốt, không còn bệnh tật phiền
não nữa. Tâm với pháp duyên theo, đều
được pháp nhãn thâm diệu, trụ vào ngôi Bất thoái
chuyển, chứng minh thành Phật đạo.
Này ông A Nan! Trời và Người
ở cõi kia, nếu ai trông thấy cây ấy thì được ba Pháp nhẫn
là: AÂm hưởng nhẫn, Nhu thuần nhẫn và Vô sinh pháp nhẫn.
Ðó là nhờ vào sức oai thần và sức bản nguyện: Nguyện
mãn túc, nguyện minh liễu, nguyện kiên cố và nguyện cứu
kính của Ðức Phật Vô Lượng Phật.
Phật bảo A Nan rằng: Có
hàng ngàn tiếng nhạc của các vị Ðế Vương, Chuyển luân
thánh vương lên tới cõi Trời thứ sáu, kỹ nhạc âm thanh hơn
gấp ngàn vạn ức lần. Muôn tiếng nhạc trên cõi Trời thứ
sáu cũng không bằng tiếng nhạc của các cây Thất bảo ở
cõi Phật Vô Lượng Thọ gây ra. Tiếng nhạc tự nhiên ấy tấu
lên những pháp âm trong trẻo, du dương, mầu nhiệm, hòa nhã
hơn các tiết điệu âm thanh ở thế giới mười phương.
Giảng đường, tịnh xá,
cung điện, lâu đài tự nhiên hiện ra, được trang trí
bằng bảy báu vật. Lại lấy các ngọc báu: Trân châu, minh
nguyệt, ma ni, kết làm tràng hoa chuỗi hột giăng phủ ở trên
đó.
Lại có những ao tắm, hoặc
mười, hai mươi, ba mươi cho đến
trăm ngàn do tuần, dài, rộng, nông, sâu đều như nhau
ở trong, ngoài và tả, hữu. Nước tắm công đức phẳng lặng
tràn đầy, trong veo, sạch sẽ, mát thơm như nước cam lộ. Ao
vàng ròng thì đáy bằng cát bạc trắng; ao bạc trắng thì đáy
bằng cát vàng ròng; ao thủy tinh thì đáy bằng cát lưu li; ao
lưu li thì đáy bằng cát thủy tinh; ao san hô thì đáy bằng
cát hổ phách; ao hổ phách thì đáy bằng cát san hô; ao xà cừ
thì đáy bằng cát mã não; ao mã não thì đáy bằng cát xà cừ;
ao ngọc trắng thì đáy bằng cát vàng tía; ao vàng tía thì đáy
bằng cát ngọc trắng. Hoặc có hai món báu, ba món báu cho đến
bảy món báu cùng kết hợp mà thành. Trên bờ ao có
cây chiên đàn, hoa lá tỏa ra, hương thơm ngào ngạt khắp nơi.
Lại có những loại sen ở cõi Trời như: Hoa Ưu Bát La, hoa
Bát Ðàn Ma, hoa Câu Mâu Ðầu, Hoa Phân Ðà Lợi đủ
mầu tươi đẹp nở khắp trên mặt nước. Các Bồ Tát
và Thanh Văn ở cõi Phật kia khi vào ao báu, tùy theo ý muốn sẽ
được toại nguyện, như muốn nước
ngập chân, nước liền ngập chân; muốn tới đầu gối, nước
liền tơí đầu gối; muốn tới ngang lưng, nước liền tới
ngang lưng; muốn tới cổ, nước liền tới cổ; muốn tưới
vào mình, nước liền tưới vào mình; muốn nước trở
lại, nước liền trở lại. Ðiều hòa lạnh ấm tự nhiên
theo ý muốn.
Nước ấy trong sáng, lắng
sạch, yên lặng như hư không và có tác dụng làm cho tinh thần
sáng suốt, thân thể tốt đẹp, gột sạch những nhơ bẩn
trong tâm. Lại có cát báu lấp lánh ở bất cứ nơi nào, sâu
thẳm cũng thấy rõ ràng. Dòng nước chảy quanh, chẳng chậm,
chẳng mau, nhẹ nhàng êm ả, xoay vần
khắp ao. Sóng gợn lăn tăn tự nhiên gây nên vô số tiếng
mầu nhiệm theo chỗ đáp ứng, ở đâu
cũng nghe thấy được. Hoặc nghe tiếng Phật, hoặc nghe tiếng
Pháp, hoặc nghe tiếng Tăng; hoặc tiếng Tịch tĩnh, tiếng Không
vô ngã, tiếng Ðại từ bi, tiếng Ba la mật, tiếng
Thập lực vô úy bất cộng pháp, các tiếng Thông tuệ, tiếng
Vô sở tác, tiếng Bất khởi diệt, tiếng Vô sở tác, tiếng
Bất khởi diệt, tiếng Vô sinh nhẫn, cho đến tiếng Cam lộ
quán đỉnh và những tiếng Pháp mầu nhiệm khác... Những
tiếng như thế, xứng hợp chỗ nghe, vui thích vô cùng. Tiếng
ấy tùy theo nghĩa thanh tịnh, lìa dục, vẳng lặng, chân thật;
tùy theo Pháp Vô sở úy bất cộng của sức Tam Bảo; tùy theo
đạo Sở thành của bậc Bồ Tát, Thanh Văn thông sáng, không
có cái tên tam đồ, khổ nạn, chỉ có tiếng khoái lạc tự
nhiên. Bởi thế, cõi nước ấy được gọi là nước An Lạc.
Này ông A Nan! Những người
được sinh qua cõi nước của Ðức Phật A Di Ðà đều
được công đức đầy đủ, thần thông, âm thanh mầu nhiệm
và sắc thân thanh tịnh như thế. Lại có cung điện, chỗ ở
trang nghiêm, y phục đầy đủ,
thức ăn uống, hoa hương mầu nhiệm và vật dụng để trang
sức cũng như nhũng vật tự nhiên trên cõi Trời thứ
sáu. Khi muốn ăn thì tự nhiên trước mặt hiện ra bát bằng
Thất bảo: vàng, bạc, lưu li, xà cừ, mã não, san hô, hổ
phách, minh nguyệt, trân châu theo ý mình muốn. Hàng trăm
thức ăn tự nhiên mà có đủ cả.
Thực ra, tuy nói có các thức ăn uống nhưng chẳng ăn uống gì,
chỉ thấy mầu sắc, ngửi mùi hương, nếu nghĩ đến
ăn thì tự nhiên no đủ. Thân
tâm không ham đắm vị gì, nên hiện ra rồi lại biến
đi, tới bữa ăn lại hiện ra như
cũ. Cõi nước Ðức Phật A Di Ðà thanh tịnh, an vui tự
tại, kỳ diệu ngang tới cảnh Niết bàn vô vi.
Các hàng Bồ Tát, Thanh Văn,
Trời và Người ở cõi ấy, trí tuệ cao minh, thần thông diệu
dụng, hình trạng giống nhau, không hề sai khác. Bởi vì, thuận
theo hạnh nguyện khác nhau, nên mới có cái tên Trời, Người.
Lại nữa, diện mạo đoan chính, trên đời hiếm có, dáng dấp
nhiệm mầu, chẳng phải Trời, chẳng phải Người, hưởng thụ
cái thân vô hư, cái thể vô cực của tự nhiên.
Ðức Phật bảo A Nan! Ví
như trong đời hình dung người
hành khất có thể giống ông Vua chăng?
A Nan bạch Phật: Bạch Ðức
Thế Tôn! Người hành khất gầy ốm, xấu xa, ngu độn, hèn
kém gấp trăm ngàn vạn ức lần vị Vua, dù người ấy ở bên
cạnh vị Vua cũng không thể lấy gì so sánh được. Vì lẽ,
người hành khất tầm thường hèn hạ, áo chẳng đủ
che thân, ăn không đủ no dạ, đói rét khốn khổ, đều bởi
nghiệp quả trước kia, giàu có bất nhân, đã chứa chất
nhiều tiền của mà còn gian tham keo kiệt; chẳng tin nhân quả,
không chịu làm lành, tội ác dẫy đầy chất cao
như núi. Rồi khi chết đi, gia sản tiêu tan, suốt đời khổ
thân, tích lũy cho người mà chẳng ích gì cho mình,
không phúc đức để nương tựa, nên
phải đọa vào chốn dữ, chịu khổ đời đời. Tội không
siêu thoát nên dù được làm người chỉ là hạng hèn
hạ, dốt nát quê mùa, bị đời khinh rẻ. Còn các vị Vua
được tôn trọng nhất trong cõi người, đều
do đời trước đã chứa góp nhiều công đức, rộng lòng
ban ân, bố thí, thương yêu cứu giúp mọi người, tin Phật làm
lành, không tranh chấp thiệt hơn, sau khi chết đi,
được sinh lên cõi Trời, hưởng phúc an vui. Còn người
làm nhiều điều thiện, nay được
sinh vào Vương tộc, cao sang quyền thế, ai cũng kính trọng,
ăn ngon, mặc đẹp, thỏa lòng sắm sửa. Ðược như vậy
là nhờ phước đức xưa kia.
Phật bảo A Nan rằng: Ông
nói phải đấy, Vua tuy là bậc tôn quý trong loài người,
hình tướng đoan chính, nhưng so với bậc Chuyển Luân Thánh Vương
thì rất là hèn kém, cũng như người hành khất bên cạnh vị
Vua vậy. Bậc Chuyển Luân Thánh Vương oai tướng tốt đẹp lạ
thường, là đệ nhất trong thiên hạ, nhưng so với Vua Ðế
Thích trên cõi Trời Ðao Lợi thì lại xấu gấp vạn ức lần
không thể sánh kịp. Nếu đem Vua Ðế Thích so với bậc Vua
trên cõi Trời thứ sáu là Tha Hóa Tự Tại Thiên thì hơn kém
nhau gấp trăm ngàn ức lần. Nếu bậc Vua ở cõi Trời thứ
sáu so với các Bồ Tát, Thanh Văn
trong cõi nước của Ðức Phật Vô Lượng Thọ thì vẻ
đẹp tươi sáng của các Ngài gấp trăm ngàn vạn ức lần,
chẳng có thể sánh được.
Phật bảo A Nan: Trời và
Người trong cõi nước Phật Vô Lượng Thọ thì y phục, thức
ăn uống, hoa hương, chuỗi hạt, tàn lọng, phan phướn, âm
thanh, chỗ ở, nhà cửa, cung điện, lâu
đài, đều xứng hợp với hình sắc cao thấp, lớn nhỏ. Lại
có các món báu, hoặc một, hai cho đến vô lượng các món
báu, theo ý mình muốn là sẽ có ngay. Lại dùng các thứ
áo tốt đẹp làm bằng các món báu trải khắp cõi đất
để tất cả Trời, Người dạo đi trên đó. Lại có vô lượng
lưới báu trùm hết cõi Phật, lưới ấy đan bằng vàng,
ngọc, trân châu và trăm ngàn thứ quý báu đẹp
đẽ lạ lùng để tô điểm trang nghiêm khắp cõi. Lại
có chuông báu rủ xuống, màu sắc rực rỡ vô cùng.
Lại có gió đức hiu hiu tự nhiên dấy lên, điều hòa,
man mác, chẳng lạnh chẳng nóng, chẳng chậm chẳng mau, thổi
vào những mạng lưới và các cây báu, diễn ra vô lượng pháp
âm nhiệm mầu, tỏa ra muôn thứ đức hương hòa nhã. Nếu
có người nào nghe và ngửi được những hương ấy thì tâm
niệm nhơ xấu tự nhiên lắng xuống và thân tâm đều
được yên vui, như vị Tỉ Khưu được phép chính định. Lại
có gió thổi hoa rơi khắp; cùng cõi Phật, rơi theo từng
mầu sắc mềm chịu, tươi thắm, ngào ngạt hương thơm. Chân
đi trên đó, lún xuống bốn tấc, khi nhấc chân lên, lại trở
về như cũ.
Sau rốt, đất liền nứt
ra, chôn vùi mất hoa, không còn một cánh. Lại tùy theo
thời tiết, gió thổi hoa rơi, đến
sau lần như thế. Lại có những hoa sen báu đầy khắp thế
giới, mỗi một bông hoa có trăm ngàn ức cánh. Ánh
sáng của hoa ấy có vô lượng sắc mầu: mầu xanh thì ánh
xanh, mầu trắng thì ánh trắng, mầu tím thì ánh tím, mầu
vàng thì ánh vàng, mầu đỏ thì ánh đỏ và mầu tía thì
ánh tía, chói lọi rực rỡ như mặt Trời và mặt Trăng.
Trong mỗi một bông hoa tỏa ra ba trăm
sáu mươi ngàn ức ánh sáng. Trong mỗi một ánh sáng hiện ra
ba mươi sáu trăm ngàn ức Ðức Phật, thân mầu vàng
tía, tướng đẹp khác thường. Tất cả các Ðức Phật lại
phóng ra trăm ngàn ánh sáng, vì chúng sinh cả mười phương mà
nói pháp nhiệm mầu, khiến tất cả trở
về chính đạo của Phật.
Hết Quyển Thượng
---o0o---