CHƯƠNG BA
BA PHÁPI. Phẩm Người Ngu
1-10 Người Ngu
1.- Như
vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, Jetanava, tại vườn ông
Anàthapindika. Lúc bấy giờ, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo:
- Này các Tỷ-kheo.
- Thưa vâng. Bạch Thế Tôn.
Các vị Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau:
- Phàm có sự sợ hãi nào khởi lên, này các Tỷ-kheo, tất cả sự sợ hãi
ấy khơỉ lên từ người ngu, không phải từ người hiền trí. Phàm có những
nguy hiểm nào khởi lên, tất cả những nguy hiểm ấy khởi lên từ người ngu,
không phải từ người hiền trí. Phàm có những tai họa nào khởi lên, tất
cả những tai họa ấy khởi lên từ người ngu, không phải từ người hiền trí.
Ví như, này các Tỷ-kheo, ngọn lửa từ nhà bằng cỏ lau, hay từ nhà bằng
cỏ, thiêu đốt các ngôi nhà có nóc nhọn, các ngôi nhà có trét trong và
trét ngoài, ngăn chận được gió, các ngôi nhà có chốt cửa đóng chặt, có
các cửa đóng kín. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, phàm có sự sợ hãi nào khởi
lên, này các Tỷ-kheo, tất cả sự sợ hãi ấy khởi lên từ ngu, không phải từ
người hiền trí. Phàm có những nguy hiểm nào khởi lên, tất cả những nguy
hiểm ấy khởi lên từ người ngu, không phải từ người hiền trí. Phàm có
những tai họa nào khởi lên, tất cả những tai họa ấy khởi lên từ người
ngu, không phải từ người hiền trí. Phàm có những nguy hiểm nào khởi lên,
tất cả những nguy hiểm ấy khởi lên từ người ngu, không phải từ người
hiền trí.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, người ngu có sợ hãi, người trí không sợ
hãi, người ngu có nguy hiểm, người trí không có nguy hiểm: người ngu có
tai họa, người trí không có tai họa. Này các Tỷ-kheo, không có sợ hãi
đến với người trí, không có nguy hiểm đến với người trí, không có tai
họa đến với người trí.
Do vậy, ở đây, cần phải học tập như sau: Thành tựu với ba pháp nào,
một người ngu được biết là như vậy, hãy từ bỏ ba pháp ấy. Thành tựu với
ba pháp nào, một người trí được biết là như vậy, hãy chấp nhận ba pháp
ấy và thực hành chúng. Như vậy, này các Tỷ-kheo, cần phải học tập.
Này các Tỷ-kheo, tướng của người ngu ở trong hành động (của mình);
tướng của người trí ở trong hành động (của mình). Trí tuệ chói sáng
trong nếp sống (của mình)
Thành tựu với ba pháp, này các Tỷ-kheo, người ngu được biết đến. Thế
nào là ba? Thân làm ác, miệng nói ác, ý nghĩ ác. Này các Tỷ-kheo, thành
tựu với ba pháp này, này các Tỷ-kheo, người ngu được biết đến.
Thành tựu với ba pháp, này các Tỷ-kheo, người trí được biết đến. Thế
nào là ba? Thân làm thiện, miệng nói thiện, ý nghĩ thiện. Này các
Tỷ-kheo, thành tựu với ba pháp này, này các Tỷ-kheo, người trí được biết
đến.
Do vậy, này các Tỷ-kheo, cần phải học tập như sau: Thành tựu với ba
pháp nào, người ngu được biết đến, hãy từ bỏ ba pháp ấy; thành tựu với
ba pháp nào, người trí được biết đến; hãy chấp nhận ba pháp ấy, và thực
hành chúng. Như vậy, này các Tỷ-kheo, cần phải học tập.
3.- Có những pháp này, này các
Tỷ-kheo, là đặc tính của người ngu, là tướng trạng của người ngu, là ẩn
tích của người ngu. Thế nào là ba? Ở đây, này các Tỷ-kheo, kẻ ngu suy
nghĩ ác, nói ác và làm ác. Nếu người ngu này, này các Tỷ-kheo, không suy
nghĩ ác, không nói ác và không làm ác, thời lấy gì người hiền trí biết
được: "Người này là kẻ ngu, không phải là bậc chân nhân"? Vì rằng, này
các Tỷ-kheo người ngu suy nghĩ ác, nói ác và làm ác, nên các người hiền
trí biết được: "Người này là kẻ ngu, không phải là bậc chân nhân". Có
những pháp này, này các Tỷ-kheo, là đặc tánh của người ngu, là tướng
trạng của người ngu, là ấn tích của người ngu.
Có những pháp này, này các Tỷ-kheo, là đặc tính của người hiền trí,
là tướng trạng của người hiền trí, là ẩn tích của người hiền trí. Thế
nào là ba? Ở đây, này các Tỷ-kheo, người hiền trí suy nghĩ thiện, nói
thiện và làm thiện. Nếu người hiền trí này, này các Tỷ-kheo, không suy
nghĩ thiện, không nói thiện và không làm thiện, thời lấy gì người hiền
trí biết được: "Người này là người hiền trí, bậc chân nhân"? Vì rằng,
này các Tỷ-kheo người hiền trí suy nghĩ thiện, nói thiện và làm thiện,
nên các người hiền trí biết được: "Người này là người hiền trí, là bậc
chân nhân". Có những pháp này, này các Tỷ-kheo, là đặc tánh của người
hiền trí, là tướng trạng của người hiền trí, là ấn tích của người hiền
trí.
4.- Thành tựu với ba pháp này, này
các Tỷ-kheo, người ngu được biết đến. Thế nào là ba? Phạm tội, không
thấy là có phạm tội; phạm tội sau khi thấy là có phạm tội, không như
pháp sám hối; được người khác pháp lộ có tội, không như pháp chấp nhận.
Thành tựu với ba pháp này, này các Tỷ-kheo, người ngu được biết đến.
Thành tựu với ba pháp này, này các Tỷ-kheo, người hiền trí được biết
đến. Thế nào là ba? Phạm tội, thấy là có phạm tội; phạm tội sau khi thấy
là có phạm tội, như pháp sám hối; được người khác pháp lộ có tội, như
pháp chấp nhận. Thành tựu với ba pháp này, này các Tỷ-kheo, người hiền
trí được biết đến.
5.-Thành tựu với ba pháp, này các
Tỷ-kheo, người ngu được biết đến. Thế nào là ba? Không như lý suy tư,
đặt câu hỏi; không như lý suy tư, trả lời câu hỏi; khi người khác như lý
trả lời câu hỏi với những câu, những chữ vuông tròn, với những hành văn
trơn tru chải chuốt, không có chấp nhận. Thành tựu với ba pháp này, này
các Tỷ-kheo, người ngu được biết đến.
Thành tựu với ba pháp, này các Tỷ-kheo, người hiền trí được biết đến.
Thế nào là ba? Như lý suy tư, đặt câu hỏi; Như lý suy tư, trả lời câu
hỏi; khi người khác như lý trả lời câu hỏi với những câu, những chữ
vuông tròn, với những hành văn trơn tru chải chuốt, liền chấp nhận.
Thành tựu với ba pháp này, này các Tỷ-kheo, người hiền trí được biết
đến.
6.-Thành tựu với ba pháp này, này
các Tỷ-kheo, người ngu được biết đến. Thế nào là ba? Thân làm bất thiện,
miệng nói bất thiện, ý nghĩ bất thiện. Thành tựu với ba pháp này, này
các Tỷ-kheo, người ngu được biết đến.
Thành tựu với ba pháp này, này các Tỷ-kheo, người hiền trí được biết
đến. Thế nào là ba? Thân làm thiện, miệng nói thiện, ý nghĩ thiện. Thành
tựu ba pháp này, này các Tỷ-kheo, người hiền trí được biết đến.
7.-Thành tựu với ba pháp này, này
các Tỷ-kheo, người ngu được biết đến. Thế nào là ba? Thân làm có tội,
miệng nói có tội, ý nghĩ có tội. Thành tựu với ba pháp này, này các
Tỷ-kheo, người ngu được biết đến.
Thành tựu với ba pháp này, này các Tỷ-kheo, người hiền trí được biết
đến. Thế nào là ba? Thân làm không có tội, miệng nói không có tội, ý
nghĩ không có tội. Thành tựu với ba pháp này, này các Tỷ-kheo, người
hiền trí được biết đến.
8.-Thành tựu với ba pháp này, này
các Tỷ-kheo, người ngu được biết đến. Thế nào là ba? Thân làm có não
hại, miệng nói có não hại, ý nghĩ có não hại. ... (như trên)
Thành tựu với ba pháp này, này các Tỷ-kheo, người hiền trí được biết
đến. Thế nào là ba? Thân làm không có não hại, miệng nói không có não
hại, ý nghĩ không có não hại. ... (như trên)
9.-Thành tựu với ba pháp này, này
các Tỷ-kheo, người ngu vụng về, không phải bậc chân nhân, tự mình xử sự
như một kẻ mất gốc, bị thương tích, phạm tội, bị kẻ trí quở trách và tạo
nên nhiều điều vô phước. Thế nào là ba? Thân làm ác, miệng nói ác, ý
nghĩ ác (như trên) ...
Thành tựu với ba pháp này, này các Tỷ-kheo, người hiền trí không vụng
về, là bậc chân nhân, tự mình xử sự không như một kẻ mất gốc, không bị
thương tích, không phạm tội, không bị kẻ trí quở trách và tạo nên nhiều
phước đức ... (như trên) ...
10.- Do thành tựu ba pháp, này các
Tỷ-kheo, do không đoạn tận ba cấu uế, tương xứng như vậy, bị quăng vào
địa ngục. Thế nào là ba? Ác giới và cấu uế của ác giới không được đoạn
tận; tật đố và cấu uế của tật đố không được đoạn tận; xan tham và cấu uế
của xan tham không được đoạn tận. Thành tựu với ba pháp này, này các
Tỷ-kheo, do không đoạn tận ba cấu uế này, như vậy bị quăng vào địa ngục
tương xứng.
Thành tựu với ba pháp này, này các Tỷ-kheo, tương xứng như vậy được
sinh lên cõi Trời. Thế nào là ba? Có giữ giới và cấu uế của các giới
được đoạn tận; không có tật đố và cấu uế của tật đố được đoạn tận; không
có xan tham và cấu uế của xan tham được đoạn tận. Thành tựu với ba pháp
này, đoạn tận ba cấu uế này, tương xứng như vậy được sanh lên cõi Trời.
II. Phẩm Người Ðóng Xe
11. Ba Pháp
- Thành tựu với ba pháp này, này các
Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo có danh tiếng, sống đem lại bất hạnh cho đa số,
không an lạc cho đa số, không lợi ích cho đa số, đem lại bất hạnh, đau
khổ cho chư Thiên và loại người. Thế nào là ba? Khuyến khích các thân
nghiệp không tùy thuận; khuyến khích các ngữ nghiệp không tuỳ thuận,
khuyến khích các pháp không tùy thuận. Thành tựu với ba pháp này, này
các Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo có danh tiếng sống ... cho chư Thiên và loài
người.
- Thành tựu với ba pháp này, này các Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo có danh
tiếng, sống đem lại hạnh phúc cho đa số, an lạc cho đa số, lợi ích cho
đa số, đem lại hạnh phúc an lạc cho chư Thiên và loại người. Thế nào là
ba? Khuyến khích các thân nghiệp tùy thuận; khuyến khích các ngữ nghiệp
tuỳ thuận; khuyến khích các pháp tùy thuận. Thành tựu với ba pháp này,
này các Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo có danh tiếng sống đem lại hạnh phúc cho đa
số, an lạc cho đa số, lợi ích cho đa số, đem lại hạnh phúc, an lạc cho
chư Thiên và loài người.
12.- Ba Chỗ
- Ba pháp này, này các Tỷ-kheo, một vua Sát-đế-lỵ đã làm lễ quán đảnh
cần phải trọn đời ghi nhớ. Thế nào là ba?
Tại chỗ nào, này các Tỷ-kheo, một vua Sát-đế-lỵ đã làm lễ quán đảnh
được sanh ra; đây là pháp thứ nhất, này các Tỷ-kheo, một vua Sát-đế-lỵ
đã làm lễ quán đảnh cần phải trọn đời ghi nhớ.
Lại nữa, tại chỗ nào, này các Tỷ-kheo, một vua Sát-đế-lỵ được làm lễ
quán đảnh, đây là pháp thứ hai, này các Tỷ-kheo, một vua Sát-đế-lỵ đã
làm lễ quán đảnh cần phải trọn đời ghi nhớ.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, tại chỗ nào, một vua Sát-đế-lỵ đã làm lễ
quán đảnh sau khi chiến thắng một trận, tại chỗ vị ấy chiếm như là cầm
đầu trong cuộc chiến thắng; đây là pháp thứ ba, này các Tỷ-kheo, một vua
Sát-đế-lỵ đã làm lễ quán đảnh cần phải trọn đời ghi nhớ.
Ba pháp này, này các Tỷ-kheo, một vua Sát-đế-lỵ đã làm lễ quán đảnh
cần phải trọn đời ghi nhớ.
Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, có ba pháp này, một Tỷ-kheo cần phải trọn
đời ghi nhớ. Thế nào là ba?
Tại chỗ nào, này các Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà
sa; xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình; đây là pháp thứ nhất,
này các Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo cần phải trọn đời ghi nhớ.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, tại chỗ nào, Tỷ-kheo như thật biết rõ: "Ðây
là khổ", như thật rõ biết: "Ðây là khổ tập", như thật rõ biết: "Ðây là
khổ diệt", như thật rõ biết: "Ðây là con đường đưa đến khổ diệt"; đây là
pháp thứ hai, này các Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo cần phải trọn đời ghi nhớ.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, tại chỗ nào, môt Tỷ-kheo, sau khi đoạn tận
các lậu hoặc, ngay trong hiện tại, tự mình với thắng trí chứng ngộ,
chứng đạt và an trú vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát; đây là pháp
thứ ba, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo cần phải trọn đời ghi nhớ.
Ba pháp này, này các Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo cần phải trọn đời ghi nhớ.
13.- Ba Hạng Người
- Có ba hạng người này, này các Tỷ-kheo, xuất hiện, có mặt ở đời. Thế
nào là ba? Không hy vọng, có hy vọng, ly hy vọng.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là người không hy vọng?, Ở đây, này các
Tỷ-kheo, có người được sanh trong một gia đình thấp kém, gia đình một
người đổ phân, hay gia đình một người thợ săn hay gia đình một người đan
tre, hay gia đình người đóng xe, hay gia đình người quét rác, hay trong
gia đình một người nghèo khổ, khó tìm được đồ ăn uống để sống, khó tìm
cho được đồ ăn đồ mặc ... Và người ấy xấu xí, khó ngó, lùn, thấp, nhiều
bệnh hoạn, đui một mắt, còm, què, hay đi khập khễnh, không có được đồ
ăn, đồ uống đồ mặc, xe cộ, vòng hoa, hương, phấn sáp, chỗ nằm, chỗ ở hay
đèn. Người ấy nghe nói như sau: "Vị Sát-đế-lỵ tên như vậy đã được các
Sát-đế-lỵ làm lễ quán đảnh theo lễ quán đảnh của các Sát-đế-lỵ". Người
ấy không nghĩ như sau: "Không biết khi nào các Sát-đế-lỵ mới làm lễ
quán đảnh cho ta theo lễ quán đảnh của Sát-đế-lỵ?". Người như vậy, này
các Tỷ-kheo, được gọi là người không hy vọng.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là người có hy vọng? Ở đây, này các
Tỷ-kheo, trưởng nam của vua Sát-đế-lỵ đã làm lễ quán đảnh, xứng đáng để
được làm lễ quán đảnh, nhưng chưa làm lễ quán đảnh và đạt đến địa vị bất
động, (đã đến tuổi thành niên) Người ấy nghe nói như sau: "Vị Sát-đế-lỵ
tên như vậy đã được các Sát-đế-lỵ làm lễ quán đảnh theo lễ quán đảnh
của các Sát-đế-lỵ". Người ấy suy nghĩ như sau: "Không biết khi nào các
Sát-đế-lỵ mới làm lễ quán đảnh cho ta theo lễ quán đảnh của Sát-đế-lỵ?".
Người như vậy, này các Tỷ-kheo, được gọi là người có hy vọng.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là người ly hy vọng? Ở đây này các
Tỷ-kheo, vua Sát-đế-lỵ đã làm lễ quán đảnh. Vị ấy nghe nói như sau: "Vị
Sát-đế-lỵ tên như vậy đã được các Sát-đế-lỵ làm lễ quán đảnh theo lễ
quán đảnh của các Sát-đế-lỵ". Người ấy không nghĩ như sau: "Không biết
khi nào các Sát-đế-lỵ mới làm lễ quán đảnh cho ta theo lễ quán đảnh của
Sát-đế-lỵ? "Vì cớ sao? Sự hy vọng được làm lễ quán đảnh trước khi chưa
làm lễ quán đảnh, hy vọng ấy được hoàn toàn chấm dứt. Người như vậy, này
các Tỷ-kheo, được gọi là người đã ly hy vọng.
Ba hạng người này, này các Tỷ-kheo, xuất hiện, có mặt ở đời. Cũng
vậy, này các Tỷ-kheo, có ba hạng người xuất hiện, có mặt giữa các
Tỷ-kheo. Thế nào là ba? Không hy vọng, có hy vọng, ly hy vọng.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là người không hy vọng? Ở đây, này các
Tỷ-kheo, có người ác giới, tánh tình độc ác, sở hành bất tịnh, có những
hành vi che đậy, không phải là Sa-môn, nhưng hiện tướng là Sa-môn, không
sống Phạm hạnh, nhưng hiện tướng có Phạm hạnh, nội tâm hôi hám, ứ đầy
tham dục, tánh tình bất tịnh. Người này nghe: "Tỷ-kheo có tên như vậy,
do đoạn tận các lậu hoặc ngay trong hiện tại, tự mình với thắng trí,
chứng ngộ, chứng đạt và an trú vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát".
Người ấy không suy nghĩ như sau: "Ðến khi nào, do đoạn tận các lậu hoặc
ngay trong hiện tại, tự mình với thắng trí, ta sẽ chứng ngộ, chứng đạt
và an trú vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát". Người như vậy, này các
Tỷ-kheo, được gọi là người không hy vọng.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là người có hy vọng? Ở đây, này các
Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo giữ tánh tình hiền thiện. Vị ấy nghe: "Tỷ-kheo có
tên như vậy, đã đoạn tận các lậu hoặc ngay trong hiện tại, tự mình với
thắng trí, chứng ngộ, chứng đạt và an trú vô lậu tâm giải thoát, tuệ
giải thoát". Người ấy suy nghĩ như sau: "Ðến khi nào, do đoạn tận các
lậu hoặc ngay trong hiện tại, tự mình với thắng trí, ta sẽ chứng đạt,
chứng ngộ và an trú vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát". Người như
vậy, này các Tỷ-kheo, được gọi là người có hy vọng.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là người ly hy vọng? Ở đây này các
Tỷ-kheo, một vị A-la-hán, đã đoạn tận các lậu hoặc. Vị này nghe:
"Tỷ-kheo có tên như vậy ... tuệ giải thoát". Vị ấy không suy nghĩ như
sau: "Ðến khi nào, do đoạn tận ... tuệ giải thoát". Vì cớ sao? Hy vọng
được giải thoát trước khi chưa giải thoát, này các Tỷ-kheo, hy vọng ấy
đã được hoàn toàn chấm dứt. Người như vậy, này các Tỷ-kheo, là người ly
hy vọng.
Ba hạng người này, này các Tỷ-kheo, xuất hiện, có mặt giữa các vị
Tỷ-kheo.
14.- Pháp
- Phàm vua Chuyển Luân nào, đúng pháp, pháp vương, vị ấy cũng chuyển
bánh xe (cai trị), không phải không có vua.
Ðược nghe nói vậy, một Tỷ-kheo bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, ai là vua cho vua Chuyển Luân đúng pháp, pháp vương?
- Ðó là pháp, này Tỷ-kheo.
Thế Tôn nói:
- Ở đây, này Tỷ-kheo, vị Chuyển Luân, đúng pháp, pháp vương, y cứ
pháp, cung kính pháp, kính trọng pháp, tôn kính pháp, lấy pháp làm tràng
phan, lấy pháp làm cờ xí, lấy pháp làm tối thắng, ra lệnh hộ trì, che
chở, ủng hộ đúng pháp đối với quần chúng.
Lại nữa, này Tỷ-kheo, vua Chuyển Luân, đúng pháp, pháp vương ... ra
lệnh hộ trì, che chở, ủng hộ đúng pháp đối với các Sát-đế-lỵ, đối với
các tùy tùng, đối với quân đội, đối với các Bà-la-môn và gia chủ, đối
với các thị trấn và quốc độ, đối với các Sa-môn, Bà-la-môn, đối với các
loài thú và các loài chim.
Vua Chuyển Luân ấy, này các Tỷ-kheo, đúng pháp ... sau khi ra lệnh hộ
trì, che chở ... đối với các loài thú và các loài chim, chuyển bánh xe
đúng pháp. Bánh xe ấy không bị ngăn cản sự chuyển vận, bởi bất cứ người
nào, hay bởi loài hữu tình thù nghịch nào.
Cũng vậy, này Tỷ-kheo, Như Lai, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, đúng
pháp, vị Pháp Vương, ý cứ pháp, cung kính pháp, kính trọng pháp, tôn
kính pháp, lấy pháp làm tràng phan, lấy pháp làm cờ xí, lấy pháp làm tối
thắng, ra lệnh hộ trì, che chở, ủng hộ đúng pháp đối với thân nghiệp,
nghĩ rằng: "Thân nghiệp như vậy cần phải hành trì, thân nghiệp như vậy
không được hành trì".
Lại nữa, này Tỷ-kheo, Như Lai, bậc A-la-hán ... ủng hộ đúng pháp đối
với khẩu nghiệp, nghĩ rằng: "Khẩu nghiệp như vậy cần phải hành trì, Khẩu
nghiệp như vậy không được hành trì, đối với ý nghiệp", nghĩ rằng "Ý
nghiệp như vậy cần phải hành trì, Ý nghiệp như vậy không được hành trì".
Như Lai ấy, này Tỷ-kheo, bậc A-la-hán ... đúng pháp, sau khi ra lệnh
hộ trì che chở ... đối với thân nghiệp ... đối với khẩu nghiệp ... đối
với ý nghiệp ... chuyển bánh xe đúng pháp. Bánh xe ấy không bị ngăn chặn
sự chuyển vận, bởi Sa-môn, Bà-la-môn, chư Thiên, Ác ma, Phạm thiên, hay
bất cứ một ai ở đời.
15.- Người Ðóng Xe Hay Pacetana.
1. Một thời Thế Tôn ở tại Bàranàsi,
Isipatana, chỗ Vườn Nai, tại đấy, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo:
- Này các Tỷ-kheo.
- Bạch Thế Tôn.
Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau:
- Thuở xưa, này các Tỷ-kheo, có vị vua tên là Pacetana. Rồi, này các
Tỷ-kheo, vua Pacetana cho gọi người thợ đóng xe:
- "Này người đóng xe, sau sáu tháng, sẽ có trận chiến. Này người đóng
xe, ông có thể làm cho ta một cặp bánh xe mới được không?"
- "Thưa Ðại Vương, có thể được".
Người đóng xe trả lời cho vua Pacetana.
Rồi này các Tỷ-kheo, người đóng xe, sau sáu tháng trừ sáu ngày, làm
xong một bánh xe. Rồi vua Pacetana bảo người đóng xe:
- "Sau sáu ngày, này người đóng xe, sẽ có trận chiến. Ðôi bánh xe mới
có thể làm xong được không?"
- "Thưa Ðại vương, sau sáu tháng trừ sáu ngày, một bánh xe đã làm
xong".
- "Này người đóng xe, Ông có thể, với sáu ngày (còn lại) này, làm
xong bánh xe thứ hai?"
- "Thưa Ðại vương, con có thể làm được".
Người đóng xe trả lời cho vua Pacetana.
2.- Rồi này các Tỷ-kheo, người đóng
xe trong sáu ngày, sau khi làm xong bánh xe thứ hai, cầm cặp bánh xe
mới, đi đến vua Pacetana; sau khi đến, thưa với vua Pacetana:
- "Thưa Ðại vương, cặp bánh xe mới này đã làm xong cho Ngài".
- "Này người đóng xe, cái bánh xe này làm xong trong sáu tháng trừ
sáu ngày và cái bánh xe này làm xong trong sáu ngày, có cái gì sai khác
giữa hai cái này, ta không thấy có các gì sai khác hết".
- "Có sự sai khác giữa hai cái này, thưa Ðại vương. Thưa Ðại vương,
hãy nhìn sự sai khác".
Rồi, này các Tỷ-kheo, người đóng xe đẩy cho chạy bánh xe được làm
xong trong sáu ngày. Bánh xe ấy tiếp tục chạy cho đến khi sức đẩy (ban
đầu) còn tồn tại rồi xoay quanh vài vòng và rơi xuống đất. Rồi nó đẩy
cho chạy bánh được làm xong trong sáu tháng trừ sáu ngày. Bánh xe ấy
tiếp tục chạy cho đến khi sức đẩy (ban đầu) còn tồn tại, rồi nó đứng lại
như đang mắc vào trong trục xe.
3- "Do nhân gì, này người đóng xe, do duyên gì cái bánh xe được làm
trong sáu ngày, tiếp tục chạy cho đến khi sức đẩy (ban đầu) còn tồn tại,
rồi xoay quanh vài vòng và rơi xuống đất. Do nhân gì, này Người đóng
xe, do duyên gì cái bánh xe được làm trong sáu tháng trừ sáu ngày, tiếp
tục chạy cho đến khi sức đẩy (ban đầu) còn tồn tại, rồi nó đứng lại như
mắc vào trục xe?"
- "Thưa Ðại vương, cái bánh xe này được làm xong sau sáu ngày, vành
xe bị cong, có chỗ hỏng, có khuyết điểm; các căm xe bị cong, có chỗ
hỏng, có khuyết điểm, trục xe bị cong, có chỗ hỏng, có khuyết điểm. Vì
rằng vành xe bị cong, có chỗ hỏng, có khuyết điểm; vì rằng các căm xe bị
cong, có chỗ hỏng, có khuyết điểm, vì rằng trục xe bị cong, có chỗ
hỏng, có khuyết điểm nên bánh xe ấy tiếp tục chạy cho đến khi sức đẩy
(ban đầu) còn tồn tại, rồi xoay quanh vài vòng rồi rơi xuống đất. Còn
bánh kia, thưa Ðại Vương, được làm xong sau sáu tháng trừ sáu ngày, bánh
xe ấy không bị cong, không có chỗ hỏng, không có khuyết điểm; trục xe
ấy không bị cong, không có chỗ hỏng, không có khuyết điểm. Vì rằng vành
xe không bị cong, không có chỗ hỏng, không có khuyết điểm; vì rằng các
căm
xe không bị cong, không có chỗ hỏng, không có khuyết điểm, vì rằng trục
xe không bị cong, không có chỗ hỏng, không có khuyết điểm nên bánh xe ấy
tiếp tục chạy cho đến khi sức đẩy (ban đầu) còn tồn tại, nó đứng lại
như đang mắc vào ở trong trục xe.
4.- Rất có thể, này các Tỷ-kheo, các
thầy nghĩ rằng trong thời ấy, người đóng xe ấy là một người khác. Này
các Tỷ-kheo, chớ có nghĩ như vậy. Trong thời ấy, ta chính là người đóng
xe. Lúc bấy giờ, này các Tỷ-kheo, ta khéo léo về chỗ cong của gỗ, về chỗ
hỏng của gỗ, về khuyết điểm của gỗ. Nay, này các Tỷ-kheo, ta là bậc
A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, khéo léo về chỗ cong của thân, về chỗ hỏng
của thân, về khuyết điểm của thân; khéo léo về chỗ cong của lời nói, về
chỗ hỏng của lời nói, về khuyết điểm của lời nói; khéo léo về chỗ cong
của ý, về chỗ hỏng của ý, về khuyết điểm của ý.
5.-Ðối với các Tỷ-kheo hay Tỷ-kheo
ni nào, thân cong không có đoạn tận, thân hư hỏng, thân khuyết điểm
(không có đoạn tận), lời nói cong không có đoạn tận, lời nói hư hỏng,
lời nói khuyết điểm (không có đoạn tận), ý cong không có đoạn tận, ý hư
hỏng, ý khuyết điểm (không có đoạn tận), như vậy, này các Tỷ-kheo, vị ấy
rời khỏi pháp luật này, ví như bánh xe ấy được làm xong sau sáu ngày.
Ðối với các Tỷ-kheo hay Tỷ-kheo ni nào, thân cong được đoạn tận, thân
hư hỏng, thân khuyết điểm (được đoạn tận), lời nói cong ... ý cong được
đoạn tận, ý hư hỏng, ý khuyết điểm (được đoạn tận), như vậy, này các
Tỷ-kheo, vị ấy an trú trong pháp luật này, ví như bánh xe ấy được làm
xong sau sáu tháng trừ sáu ngày.
Do vậy, này các Tỷ-kheo, hãy học tập như sau: "Chúng tôi sẽ đoạn tận
thân cong, thân hư hỏng, thân khuyết điểm, chúng tôi sẽ đoạn tận lời nói
cong, lời hư hỏng, lời nói khuyết điểm, chúng tôi sẽ đoạn tận ý cong, ý
hư hỏng, ý khuyết điểm". Như vậy, này các Tỷ-kheo, các Thầy cần phải
học tập.
16.- Con Ðường Không Có Lỗi Lầm
- Thành tựu ba pháp, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo thực hành con đường
không có lầm lỗi, và có những căn bản thắng tấn để đoạn diệt các lậu
hoặc. Thế nào là ba? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo hộ trì các căn,
tiết độ trong ăn uống và chú tâm cảnh giác.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo hộ trì các căn?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo khi mắt thấy sắc, không nắm giữ tướng
chung, không nắm giữ tướng riêng. Những nguyên nhân gì, vì nhãn căn
không được bảo vệ, khiến tham ưu, các ác bất thiện pháp khởi lên,
Tỷ-kheo tự bảo vệ nguyên nhân ấy, phòng hộ nhãn căn, thật hành phòng hộ
nhãn căn. Khi tai nghe tiếng ... mũi ngửi hương ... lưỡi nếm vị ... thân
cảm xúc ... ý nhận thức các pháp, vị ấy không nắm giữ tướng chung,
không nắm giữ tướng riêng. Những nguyên nhân gì, ví ý căn không được bảo
vệ, khiến tham mưu, các ác bất thiện pháp khởi lên, Tỷ-kheo bảo vệ
nguyên nhân ấy, phòng hộ ý căn, thật hành phòng hộ ý căn. Như vậy, này
các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo hộ trì các căn.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo tiết độ trong ăn uống?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo như lý gác sát thọ dụng các món ăn,
không phải để vui đùa, không phải để đam mê, không phải để trang sức,
không phải để tự làm đẹp mình, mà chỉ để thân này được an trú và được
bảo dưỡng, để (thân này) khỏi bị thương hại, để hộ trợ Phạm hạnh, nghĩ
rằng: ", Như vậy, ta diệt trừ các cảm thọ cũ, và không cho khởi lên các
cảm thọ mới, và ta sẽ không có lỗi lầm, sống được an ổn". Như vậy, này
các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo tiết độ trong ăn uống.
Và này các Tỷ-kheo, như thế nào là Tỷ-kheo chú tâm cảnh giác?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ban ngày trong khi đi kinh hành và
ngồi, gột sạch tâm khỏi các triền cái, ban đêm trong canh một, trong khi
đi kinh hành và ngồi,, gột sạch tâm khỏi các triền cái, ban đêm trong
canh giữa, nằm xuống như con sư tử về phía hông bên phải, hai chân gác
lên nhau, chánh niệm tỉnh giác, tác ý tưởng thức dậy, ban đêm trong canh
cuối, sau khi thức dậy trong khi đi kinh hành và ngồi, gột sạch tâm
khỏi các triền cái. Như vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo chú tâm cảnh giác.
Thành tựu ba pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo thực hành con đường
không có lỗi lầm, và có những căn bản thắng tấn để đoạn diệt các lậu
hoặc.
17.- Ba Pháp
- Có ba pháp này, này các Tỷ-kheo, đưa đến hại mình, đưa đến hại
người, đưa đến hại cả hai. Thế nào là ba? Thân làm ác, miệng nói ác, ý
nghĩ ác. Ba pháp này, này các Tỷ-kheo, đưa đến hại mình, đưa đến hại
người, đưa đến hại cả hai.
Có ba pháp này, này các Tỷ-kheo, không đưa đến hại mình, không đưa
đến hại người, không đưa đến hại cả hai. Thế nào là ba? Thân làm thiện,
miệng nói thiện, ý nghĩ thiện. Có ba pháp này, này các Tỷ-kheo, không
đưa đến hại mình, không đưa đến hại người, không đưa đến hại cả hai.
18.- Thiên Giới
- Nếu các du sĩ ngoại đạo hỏi các thầy như sau: "Chư Hiền, có phải
Sa-môn Gotama sống Phạm hạnh để được sanh lên cõi Trời? "Này các
Tỷ-kheo, được hỏi vậy, các Thầy có bực phiền, tủi nhục, chán ngấy hay
không?
- Thưa có , bạch Thế Tôn.
- Như vậy, này các Tỷ Kheo, các Thầy bực phiền, tủi nhục, chán ngấy
đối với thiên thọ mạng; các Thầy bực phiền , tủi nhục, chán ngấy đối với
thiên sắc, thiên lạc, thiên danh vọng, thiên thù thắng, còn nói gì, này
các Tỷ Kheo, đối vói thân làm ác, các Thầy bực phiền, tủi nhục, chán
ngấy như thế nào, đối với miệng nói ác.... đối với ý nghĩ ác, các Thầy
cảm thấy bực phiền, tủi nhục, chán ngấy như thế nào.
19.- Người Buôn Bán
- Thành tựu ba chi phần, này các Tỷ-kheo, một người buôn bán không
thâu nhận được tài sản chưa thâu nhận và không tăng trưởng tài sản đã
được thâu nhận. Thế nào là ba? Ở đây, này các Tỷ-kheo, người buôn bán,
vào buổi sáng không có nhiệt tâm chăm chú vào công việc, vào buổi trưa
không có nhiệt tâm chăm chú vào công việc, vào buổi chiều không có nhiệt
tâm chăm chú vào công việc. Thành tựu với ba chi phần này, này các
Tỷ-kheo, một người buôn bán không thâu nhận được tài sản chưa được thâu
nhận và không tăng trưởng tài sản đã được thâu nhận.
Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo thành tựu ba chi phần, không
thâu nhận được thiện pháp chưa được thâu nhận, và không tăng trưởng được
thiện pháp đã được thâu nhận. Thế nào là ba? Ở đây, này các Tỷ-kheo,
vào buổi sáng không có nhiệt tâm chăm chú vào định tướng, vào buổi trưa
không có nhiệt tâm chăm chú vào định tướng, vào buổi chiều không có
nhiệt tâm chăm chú vào định tướng. Thành tựu ba pháp này, này các
Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo không thâu nhận được thiện pháp chưa được thâu
nhận, và không tăng trưởng thiện pháp đã được thâu nhận.
Thành tựu ba chi phần, này các Tỷ-kheo, một người buôn bán thâu nhận
được tài sản chưa thâu nhận, tăng trưởng tài sản đã được thâu nhận. Thế
nào là ba? Ở đây, này các Tỷ-kheo, người buôn bán, vào buổi sáng có
nhiệt tâm chăm chú vào công việc, vào buổi trưa có nhiệt tâm chăm chú
vào công việc, vào buổi chiều có nhiệt tâm chăm chú vào công việc. Thành
tựu với ba chi phần này, này các Tỷ-kheo, một người buôn bán thâu nhận
được tài sản chưa được thâu nhận và không tăng trưởng tài sản đã được
thâu nhận.
Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, thành tựu ba pháp, Tỷ kheo thâu nhận được
thiện pháp chưa được thâu nhận, tăng trưởng thiện pháp đã được thâu
nhận. Thế nào là ba? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ kheo vào buổi sáng có
nhiệt tâm chăm chú vào định tướng, vào buổi trưa có nhiệt tâm chăm chú
vào định tướng, vào buổi chiều có nhiệt tâm chăm chú vào định tướng.
Thành tựu với ba pháp này, này các Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo thâu nhận được
thiện pháp chưa được thâu nhận, và tăng trưởng thiện pháp đã được thâu
nhận.
20.- Người Buôn Bán
- Thành tựu với ba chi phần, này các Tỷ-kheo, người buôn bán không
bao lâu đạt được về tài sản lớn mạnh và rộng lớn. Thế nào là ba?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, người buôn bán có mắt, khéo phấn đấu xây dựng
được cơ bản.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là người buôn bán có mắt? Ở đây, này các
Tỷ-kheo, người buôn bán biết các thương phẩm. Vật này mua như vậy, bán
như vậy, sẽ đưa lại tiền như vậy, tiền lời như vậy. Như vậy, này các
Tỷ-kheo, là người buôn bán có mắt.
Như thế nào, này các Tỷ-kheo, là người buôn bán khéo phấn đấu? Ở đây,
này các Tỷ-kheo, người thương gia khéo léo mua và bán các thương phẩm.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, là người buôn bán khéo phấn đấu.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là người thương gia xây dựng được căn
bản? Ở đây, này các Tỷ-kheo, người buôn bán được các gia chủ hay con các
gia chủ, được các nhà giàu, có tiền bạc lớn, có tài sản lớn biết đến
như sau: "Người buôn bán này là người có mắt, khéo phấn đấu, có đủ sức
cấp dưỡng vợ con, và thường trả tiền lời cho chúng ta. Chúng ta trao
hàng hóa cho người này: "Này bạn thương gia, hãy lấy tiền này, xây dựng
tài sản để nuôi dưỡng vợ con và thường thường trả tiền lời cho chúng
tôi". Như vậy, này các Tỷ-kheo, là người buôn bán xây dựng do có cơ bản.
Thành tưụ với ba chi phần này, này các Tỷ kheo, người buôn bán, không
bao lâu đạt dến tài sản lớn mạnh và rộng lớn.
Cũng vậy, này các Tỷ kheo, thành tựu với ba pháp, vị Tỷ-kheo không
bao lâu, đạt đến lớn mạnh và rộng lớn về các Thiện pháp. Thế nào là ba?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo có mắt khéo phấn đấu và xây dựng được
cơ bản.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo có mắt? ở đây, này các
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo như thật biết rõ: "Ðây là khổ" ... như thật rõ biết:
"Ðây là con đường đưa đến khổ diệt". Như vậy, này các Tỷ-kheo, là
Tỷ-kheo có mắt.
Và như thế nào, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo khéo phấn đấu? Ở đây, này
các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo sống tin cần tinh tấn, đoạn tận các pháp bất
thiện, làm cho sanh khởi các pháp thiện, dõng mãnh, kiên trì, tinh tấn,
không có từ bỏ gánh nặng đối với các thiện pháp. Như vậy, này các
Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo khéo phấn đấu.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo xây dựng được cơ bản? Ở đây,
này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đối với các Tỷ-kheo nghe nhiều, thông hiểu các
tập A-gà-ma (A-hàm) bậc trì Pháp, trì Luật, trì Toát yếu, thường thường
đến yết kiến, phỏng vấn, đặt các câu hỏi: "Thưa Tôn giả, cái này là thế
nào? Pháp này ý nghĩa gì? "Các Tôn giả ấy mở rộng những gì chưa được mở
rộng, phơi bày những gì chưa được phơi bày, và đối với những đoạn sai
khác còn có những chỗ nghi ngờ, các vị ấy giải thích các sự nghi ngờ.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo xây dựng được cơ bản.
Thành tựu với ba pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo không bao lâu,
đạt đến sự lớn mạnh và rộng lớn về các thiện pháp.
III. Phẩm Người
21.- Chứng Thực Với Thân
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn trú ở Savatthi, tại Jetanava, vườn ông
Anàthapindika. Rồi Tôn giả Savittha, Tôn giả Mahàkotthita đi đến Tôn giả
Sàriputta; sau khi đến nói lên với Tôn giả những lời chào đón hỏi thăm
... Tôn giả Sàriputta nói với Tôn giả Savittha đang ngồi xuống một bên:
- Có ba hạng người này, này Hiền giả Savittha, có mặt, xuất hiện ở
đời. Thế nào là ba? Thân chứng, kiến chí, tín giải. Ba hạng người này,
này Hiền giả, có mặt, xuất hiện ở đời. Trong ba hạng người này, này Hiền
giả, hạng người nào Hiền giả chấp nhận là hy hữu hơn, là thù diệu hơn?
- Có ba hạng người này, này Hiền giả Sàriputta, có mặt, xuất hiện ở
đời. Thế nào là ba? Thân chứng, kiến chí, tín giải. Ba hạng người này,
này Hiền giả, có mặt, xuất hiện ở đời. Trong ba hạng người này, thưa
Hiền giả, hạng người tín giải, hạng người này, tôi chấp nhận là hy hữu
hơn, là thù diệu hơn. Vì cớ sao? Vì rằng, thưa Hiền giả, với hạng người
này, tín căn được tăng thượng.
Rồi Tôn giả Sàriputta nói với Tôn giả Mahàkotthita:
- Có ba hạng người này, này Hiền giả Kotthita, có mặt, xuất hiện ở
đời. Thế nào là ba? Thân chứng, kiến chí, tín giải. Ba hạng người này,
thưa Hiền giả, có mặt, xuất hiện ở đời. Trong ba hạng người này, này
Hiền giả, hạng người nào Hiền giả chấp nhận là hy hữu hơn, là thù diệu
hơn?
- Có ba hạng người này, này Hiền giả Sàriputta, có mặt, xuất hiện ở
đời. Thế nào là ba? Thân chứng, kiến chí, tín giải. Ba hạng người này,
này Hiền giả, có mặt, xuất hiện ở đời. Trong ba hạng người này, thưa
Hiền giả, hạng người thân chứng, hạng người này, tôi chấp nhận là hy hữu
hơn, là thù diệu hơn. Vì cớ sao? Vì rằng, thưa Hiền giả, với hạng người
này, định căn được tăng thượng.
Rồi Tôn giả Mahàkotthita thưa với Tôn giả Sàriputta:
- Có ba hạng người này, thưa Hiền giả Sàriputta, có mặt, xuất hiện ở
đời. Thế nào là ba? Thân chứng, kiến chí, tín giải. Ba hạng người này,
thưa Hiền giả, có mặt, xuất hiện ở đời. Trong ba hạng người này, này
Hiền giả, hạng người nào Hiền giả chấp nhận là hy hữu hơn, là thù diệu
hơn?
- Có ba hạng người này, này Hiền giả Kotthita, có mặt, xuất hiện ở
đời. Thế nào là ba? Thân chứng, kiến chí, tín giải. Ba hạng người này,
thưa Hiền giả, có mặt, xuất hiện ở đời. Trong ba hạng người này, thưa
Hiền giả, hạng người kiến chí, hạng người này, tôi chấp nhận là hy hữu
hơn, là thù diệu hơn. Vì cớ sao? Vì rằng, thưa Hiền giả, với hạng người
này, tuệ căn được tăng thượng.
Rồi Tôn giả Sàriputta nói với Tôn giả Savittha và Tôn giả
Mahàkotthita như sau:
- Thưa các Hiền giả, tất cả chúng ta đã trả lời, tuỳ theo biện tài
của mình. Thưa các Hiền giả, chúng ta hãy đi đến Thế Tôn, sau khi đến
chúng ta sẽ hỏi Thế Tôn về ý nghĩa này. Thế Tôn trả lời chúng ta như thế
nào, chúng ta hãy như vậy thọ trì.
- Vâng, thưa Hiền giả.
Tôn giả Savittha và Tôn giả Mahàkotthita vâng đáp Tôn giả Sàriputta.
Rồi Tôn giả Sàriputta, Tôn giả Savittha và Tôn giả Mahàkotthita đi đến
Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống, một bên. Ngồi
xuống một bên, Tôn giả Sàriputta thuật lại với Thế Tôn tất cả câu chuyện
đã xảy ra với Tôn giả Savittha và Tôn giả Mahàkotthita.
- Ở đây, này Sàriputta, thật không dễ gì để trả lời một chiều là hạng
người này hy hữu hơn, thù diệu hơn trong ba hạng người kia. Sự kiện này
xảy ra, này Sàriputta, là hạng người tín giải này là hạng người đang
hướng đến A-la-hán, hạng người thân chứng này là hạng người Nhất Lai hay
Bất Lai, hạng người kiến chí này là hạng người Nhất Lai hay Bất Lai.
Ở đây, này Sàriputta, thật không dễ gì để trả lời một chiều là hạng
người này hy hữu hơn, thù diệu hơn trong ba hạng người kia. Sự kiện này
xảy ra, này Sàriputta, là hạng người thân chứng này là hạng người đang
hướng đến A-la-hán, là hạng người tín giải này là hạng người Nhất Lai
hay Bất Lai, hạng người kiến chí này là hạng người Nhất Lai hay Bất Lai.
Ở đây, này Sàriputta, thật không dễ gì để trả lời một chiều là hạng
người này hy hữu hơn, thù diệu hơn trong ba hạng người kia. Sự kiện này
xảy ra, này Sàriputta, là hạng người kiến chí này là hạng người đang
hướng đến A-la-hán, còn hạng người tín giải này là hạng người Nhất Lai
hay Bất Lai, và hạng người thân chứng này là hạng người Nhất Lai hay Bất
Lai.
Ở đây, này Sàriputta, thật không dễ gì để trả lời một chiều rằng hạng
người này là hy hữu hơn và thù diệu hơn trong ba hạng người kia?
22.- Người Bệnh
- Có mặt ba hạng người bệnh này, này các Tỷ-kheo, có mặt, xuất hiện ở
đời. Thế nào là ba?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, một hạng người bệnh, dầu có được ăn các món
thích hợp, hay không được các món ăn thích hợp, dầu có được các thuốc
men thích hợp hay không được các thuốc men thích hợp, dầu có được sự
chăm sóc thích đáng hay không được sự chăm sóc thích đáng, không được
bình phục từ chứng bệnh ấy.
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng người bệnh, dầu có được ăn các món
thích hợp, hay không được các món ăn thích hợp, dầu có được các thuốc
men thích hợp hay không được các thuốc men thích hợp, dầu có được sự
chăm sóc thích đáng hay không được sự chăm sóc thích đáng, được bình
phục từ chứng bệnh ấy.
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng người bệnh, có được ăn các món thích
hợp, không phải không được, có các thuốc men thích hợp, không phải không
được, có được sự chăm sóc thích đáng, không phải không được, được bình
phục từ chứng bệnh ấy.
Ở đây, này các Tỷ-kheo, hạng người bệnh này, có được các món ăn thích
hợp, không phải không được, có được các thuốc men thích hợp, không phải
không được, có được sự chăm sóc thích đáng, không phải không được, được
bình phục khỏi chứng bệnh ấy. Chính do duyên với hạng người bệnh này,
này các Tỷ-kheo, các món ăn thích hợp với người bệnh đã được chấp thuận,
các thuốc men thích hợp với người bệnh đã được chấp thuận., sự chăm sóc
thích đáng với người bệnh đã được chấp thuận. Chính do duyên với hạng
người bệnh này, này các Tỷ-kheo, các người bệnh khác cần phải được chăm
sóc như vậy.
Ba hạng người bệnh này, này các Tỷ-kheo, có mặt, xuất hiện ở đời.
Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, có ba hạng người này, có mặt, xuất hiện ở
đời, có thể so sánh với ba hạng người bệnh này. Thế nào là ba?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng người được thấy Như Lai hay không
được thấy Như Lai, được nghe Pháp và Luật do Như Lai trình bày, hay
không được nghe Pháp và Luật do Như Lai trình bày, không có đi vào tánh
quyết định, tánh chơn chánh đối với các Thiện pháp.
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng người không được thấy Như Lai, được
nghe Pháp và Luật do Như Lai trình bày, hay không được nghe Pháp và Luật
do Như Lai trình bày, đi vào tánh quyết định, tánh chơn chánh đối với
các Thiện pháp.
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng người được thấy Như Lai, không phải
không được thấy, được nghe Pháp và Luật do Như Lai trình bày, không phải
không được nghe Pháp và Luật do Như Lai trình bày, đi vào tánh quyết
định, tánh chơn chánh đối với các Thiện pháp.
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng người được thấy Như Lai, không phải
không được thấy, được nghe Pháp và Luật do Như Lai thuyết giảng, không
phải không được nghe, đi vào tánh quyết định, tánh chơn chánh đối với
các Thiện pháp. Chính do duyên hạng người này, này các Tỷ-kheo, thuyết
pháp được chấp nhận, và chính do duyên hạng người này, này các Tỷ-kheo,
pháp được thuyết giảng cho các người khác.
Ba hạng người này, này các Tỷ-kheo, có mặt, xuất hiện ở đời được ví
dụ với ba hạng người bệnh.
23.- Chất Chứa.
- Có ba hạng người này, này các Tỷ-kheo, có mặt, xuất hiện ở đời. Thế
nào là ba?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng người chất chứa các thân hành có não
hại, chất chứa các khẩu hành có não hại, chất chứa các ý hành có não
hại. Sau khi chất chứa thân hành có não hại, chất chứa khẩu hành có não
hại, chất chứa ý hành có não hại, người ấy sanh trong thế giới có não
hại. Vì phải sanh trong thế giới có não hại, người ấy cảm giác các cảm
xúc có não hại. Người ấy, vì cảm giác các cảm xúc có não hại, nên cảm
giác các cảm thọ có não hại, nhất hướng đau khổ, như các chúng sanh ở
trong địa ngục.
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người chất chứa thân hành không có não hại
... chất chứa ý hành không có não hại. Sau khi chất chứa thân hành
không có não hại ... chất chứa ý hành không có não hại, người ấy được
sanh trong thế giới không có não hại. Ðược sanh trong thế giới không có
não hại, người ấy cảm giác các cảm xúc không có não hại. Do cảm giác các
cảm xúc không có não hại, người ấy cảm giác các cảm thọ không có não
hại, nhất hướng lạc, như chư Thiên ở Biến Tịnh Thiên.
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người chất chứa thân hành có não hại và
không có não hại ... chất chứa ý hành có não hại và không có não hại.
Sau khi chất chứa thân hành có não hại và không có não hại ... , sau khi
chất chứa ý hành có não hại và không có não hại, được sanh vào thế giới
có não hại và không có não hại. Ðược sanh vào thế giới có não hại và
không có não hại, người ấy cảm giác các cảm xúc có não hại và không có
não hại. Do cảm giác các cảm xúc có não hại và không có não hại, người
ấy cảm giác các cảm thọ có não hại và không có não hại, xen lẫn lạc và
khổ, ví như loài Người, một loại chư Thiên và một loại sanh trong đọa
xứ.
Ba hạng người này, này các Tỷ-kheo, có mặt, xuất hiện ở đời.
24.- Nhiều Lợi Ích
- Có ba hạng người này, này các Tỷ-kheo, làm nhiều lợi ích cho người
khác. Thế nào là ba?
Do người nào, này các Tỷ-kheo, có người được quy y Phật, quy y Pháp,
quy y Tăng, người ấy là hạng người làm lợi ích nhiều cho người kia. Ðây
là hạng người làm lợi ích nhiều cho người khác.
Lại nửa, này các Tỷ-kheo, do người nào, người khác rõ biết: "Ðây là
khổ", rõ biết: "Ðây là khổ tập", rõ biết: "Ðây là khổ diệt", rõ biết:
"Ðây là con đường đưa đến khổ diệt", người ấy là hạng người làm lợi ích
nhiều cho người kia. Ðây là hạng người làm lợi ích nhiều cho người khác.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, do người nào, người khác đoạn trừ các lậu
hoặc ngay trong hiện tại, với thắng trí tự mình chứng ngộ, chứng đạt và
an trú vô lậu tâm giải thoát. Tuệ giải thoát. Ðây là hạng người làm lợi
ích nhiều cho người khác.
Ba hạng người này, này các Tỷ-kheo, làm lợi ích nhiều cho người khác.
Ta nói rằng không có một người nào khác làm lợi ích nhiều hơn cho người
bằng ba hạng người này. Ta nói rằng người này không thể khéo trả ơn cho
ba hạng người kia, như đảnh lễ, đứng dậy, chắp tay, hành động thân
thiện, bố thí các vật dụng như y, đồ ăn khất thực, sàng tọa, thuốc trị
bệnh ...
25.- Vết Thương Làm Mủ
- Có ba hạng người này, này các Tỷ-kheo, có mặt, xuất hiện ở đời. Thế
nào là ba? Hạng người với tâm ví dụ như vết thương, với tâm ví dụ như
chớp sáng, với tâm ví dụ như kim cang.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hạng người với tâm ví dụ như vết
thương? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người phẫn nỗ, nhiều hiềm hận, dầu có
bị nói chút ít, cũng tức tối phẫn nộ, sân hận, sừng sộ, biểu lộ sự phẫn
nộ, sân hận và bực tức. Ví như môt vết thương đang làm mủ, nếu bị cây
gậy hay một miếng sành đánh phải, liền chảy mủ nhiều hơn. Cũng vậy, này
các Tỷ-kheo, ở đây có người phẫn nộ và bực tức. Này các Tỷ kheo, đây gọi
là hạng người được ví dụ với vết thương đang làm mủ.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hạng ngườivới tâm được ví dụ như chớp
sáng? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng người như thật rõ biết: "Ðây là
khổ",.. như thật rõ biết "Ðây là con đường đưa đến khổ diệt". Ví như một
người có mắt, thấy các sắc trong đêm tối mù mịt, khi có chớp sáng. Cũng
vậy, này các Tỷ-kheo, ở đây có người như thật rõ biết: "Ðây là khổ",
... như thật rõ biết: "Ðây là con đường đưa đến khổ diệt". Này các
Tỷ-kheo, đây được gọi là hạng người với tâm được ví như chớp sáng.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hạng người với tâm được ví dụ như kim
cang? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng người, nhờ đoạn tận các lậu hoặc,
ngay trong hiện tại, tự mình với thắng trí, chứng ngộ, chứng đạt và an
trú vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là
hạng người, với tâm được ví dụ như kim cang.
Ba hạng người này, này các Tỷ-kheo, có mặt, xuất hiện ở đời.
26.- Cần Phải Thân Cận
- Có ba hạng người này, này các Tỷ-kheo, có mặt, xuất hiện ở đời. Thế
nào là ba? Có hạng người này, này các Tỷ-kheo, không nên gần gũi, không
nên sống chung, không nên hầu hạ cúng dường. Có hạng người, này các
Tỷ-kheo, nên thân cận gần gũi, nên sống chung, nên hầu hạ cúng dường. Có
hạng người, này các Tỷ-kheo, sau khi cung kính, tôn trọng, nên gần gũi,
nên sống chung, nên hầu hạ cúng dường.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hạng người không nên gần gũi, không
nên sống chung, không nên hầu hạ cúng dường? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có
hạng người thấp kém về giới, định, tuệ. Hạng người như vậy, này các
Tỷ-kheo, không nên gần gũi, không nên sống chung, không nên hầu hạ cúng
dường, trừ khi vì lòng thương tưởng, vì lòng từ mẫn.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hạng người nên gần gũi, nên sống
chung, nên hầu hạ cúng dường? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng người đồng
đẳng với mình về giới định, tuệ. Hạng người như vậy, này các Tỷ-kheo,
nên gần gũi, nên sống chung, nên hầu hạ cúng dường. Vì cớ sao? Với ý
nghĩ: "(Cả hai) thiện xảo về giới, câu chuyện của chúng ta sẽ thuộc về
giới, được diễn tiến (lợi ích) cho cả hai chúng ta, và sẽ làm cho hai
chúng ta được an lạc. (Cả hai) là thiện xảo về định ...... (Cả hai) là
thiện xảo về tuệ, câu chuyện của chúng ta sẽ thuộc về tuệ, được diễn
tiến (lợi ích) cho cả hai, và chúng sẽ làm cho hai chúng ta an lạc". Cho
nên, người như vậy nên gần gũi, nên sống chung, nên hầu hạ cúng dường?
Thế nào là hạng người, này các Tỷ-kheo, sau khi cung kính, tôn trọng,
nên
gần gũi, nên sống chung, nên hầu hạ cúng dường.
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng người thù thắng về giới, định và tuệ.
Hạng người ấy, này các Tỷ-kheo, sau khi cung kính tôn trọng, cần phải
gần gũi, cần phải sống chung, cần phải hầu hạ cúng dường. Vì cớ sao? Với
y nghĩ: "Như vậy, nếu giới chưa đầy đủ, ta sẽ làm đầy đủ, hay nếu giới
được đầy đủ, ta sẽ hỗ trợ thêm cho chỗ này chỗ kia với trí tuệ. Hay nếu
định chưa đầy đủ, ta sẽ làm cho đầy đủ, hay nếu định được đầy đủ, ta sẽ
hỗ trợ thêm cho chỗ này chỗ kia với trí tuệ. Hay nếu tuệ chưa đầy đủ, ta
sẽ làm đầy đủ, hay nếu tuệ được đầy đủ, ta sẽ hỗ trợ thêm cho chỗ này
chỗ kia với trí tuệ. Cho nên, với hạng người này, sau khi cung kính tôn
trọng, nên gần gũi, nên sống chung, nên hầu hạ cúng dường.
Ba hạng người này, này các Tỷ-kheo, có mặt, xuất hiện ở đời.
Người gần kẻ hạ liệt
Rồi cũng bị hạ liệt
Thân cận người đồng đẳng
Ðược khỏi bị thối đọa
Ai gần bậc thù thắng
Mau chóng được thăng tiến
Do vậy hãy sống chung
Bậc ưu thắng hơn mình
27.- Ðáng Ghê Tởm
- Có ba hạng người này, này các Tỷ-kheo, có mặt, xuất hiện ở đời. Thế
nào là ba? Có hạng người đáng ghê tởm, không cần phải gần gũi, không
cần phải sống chung, không cần phải hầu hạ cúng dường. Có hạng người,
này các Tỷ-kheo, cần phải nhìn một cách thản nhiên, không cần gần gũi,
không cần phải sống chung, không cần phải hầu hạ cúng dường. Có hạng
người, này các Tỷ-kheo, cần phải gần gũi, cần phải sống chung, cần phải
hầu hạ cúng dường.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hạng người đáng ghê tởm, không cần
phải gần gũi, không cần phải sống chung, không cần phải hầu hạ cúng
dường? Ở đây, này các Tỷ-kheo, co hạng người ác giới, tính tình độc ác,
sở hành bất tịnh, có những hành vi che đậy, không phải là Sa-môn nhưng
hiện tướng Sa-môn, không sống Phạm hạnh, nhưng hiện tướng có Phạm hạnh,
nội tâm hôi hám, đầy những tham dục, tánh tình bất tịnh. Hạng người như
vậy, này các Tỷ-kheo, đáng ghê tởm, không cần phải gần gũi, không cần
phải sống chung, không cần phải hầu hạ cúng dường. Vì cớ sao? Vì rằng,
dầu không thuận theo một chút nào tri kiến của người như vậy, nhưng
tiếng xấu được đồn xa về người ấy là có bạn ác, có bằng hữu ác, tôn sùng
kẻ ác. Ví như, này các Tỷ-kheo, một con rắn đi vào trong đống phân, dầu
nó
không cắn ai, người cũng bị (đống phân) làm cho ô uế. Cũng vậy, này các
Tỷ-kheo, dầu không thuận theo một chút nào tri kiến của người như vậy
... là tôn sùng kẻ ác. Cho nên, hạng người như vậy đáng ghê tởm, không
nên gần gũi, không nên sống chung, không nên hầu hạ cúng dường.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hạng người cần phải nhìn một cách thản
nhiên, không nên gần gũi, không nên sống chung, không nên hầu hạ cúng
dường? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng người phẫn nộ, nhiều hiềm hận,
dầu có bị nói chút ít cũng tức tối, phẫn nộ, sân hận, sừng sộ, hiện rõ
phẫn nộ, sân hận và bực tức. Ví như, này các Tỷ-kheo, một vết thương làm
mủ, nếu bị cây gậy hay mảnh sành đánh phải, thời chảy mủ ra nhiều hơn.
Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, có hạng người phẫn nộ, ...... và bực tức. Ví
như, này các Tỷ-kheo, một que lửa bằng gỗ tindukà, nếu bị cây gậy hay
mảnh sành đánh phải, thời xịt lửa xịt khói ra nhiều hơn. Cũng vậy, này
các Tỷ-kheo, ... Ví như, này các Tỷ-kheo, một hố phân được cây gậy hay
mảnh sành quật vào, thời mùi hôi thốt lại càng nhiều hơn. Cũng vậy,
này các Tỷ-kheo, có hạng người phẫn nộ, sân hận và bực tức. Hạng người
như vậy, này các Tỷ-kheo, cần phải nhìn với cặp mắ thản nhiên, không nên
gần gũi, không nên sống chung, không nên hầu hạ cúng dường. Vì cớ sao?
Vì nghĩ rằng: "Người ấy có thể nhục mạ ta. Người ấy có thể chửi mắng ta.
Người ấy có thể làm hại ta." Cho nên, hạng người như vậy cần phải nhìn
một cách thản nhiên, không nên gần gũi, không nên sống chung, không nên
hầu hạ cúng dường.
Và như thế nào, này các Tỷ-kheo, là hạng người cần gần gũi, cần phải
sống chung, cần phải hầu hạ cúng dường.
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng người giữ giới, tánh tình hiền thiện.
Người như vậy, này các Tỷ-kheo, cần phải gần gũi, cần phải sống chung,
cần phải hầu hạ cúng dường. Vì cớ sao? Vì rằng, dầu không thuận theo
chúng nào tri kiến của người như vậy, nhưng tiếng tốt được đồn xa về
người ấy là có bạn lành, là có bằng hữu lành, là tôn sùng kẻ lành. Cho
nên, hạng người như vậy, cần phải gần gũi, cần phải sống chung, cần phải
hầu hạ cúng dường.
Ba hạng người này, này các Tỷ-kheo, có mặt, xuất hiện ở đời.
Người gần kẻ hạ liệt
Rồi cũng bị hạ liệt
Thân cận người đồng đẳng
Ðược khỏi bị thối đọa
Ai gần bậc thù thắng
Mau chóng được thăng tấn
Do vậy hãy sống chung
Bậc ưu thắng hơn mình
28.- Nói Như Hoa
- Có ba hạng người này, này các Tỷ-kheo, có mặt, xuất hiện ở đời. Thế
nào là ba? Hạng người nói như phân, hạng người nói như hoa, hạng người
nói như mật.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hạng người nói như phân? Ở đây, này
các Tỷ-kheo, có hạng người khi đi vào hội trường, hay đi vào hội chúng,
hay khi đi đến giữa các người bà con, hay khi đi đến giữa các người đồng
một tổ hợp, hay đi đến giữa cung vua, hay bị dẫn như là người làm
chứng, được nói: "Ngươi biết gì, hãy nói lên". Người ấy không biết, nói
rằng: "Tôi có biết"; có biết, nói rằng: "Tôi không biết"; không thấy,
nói rằng: "Tôi có thấy"; có thấy, nói rằng: "Tôi không thấy". Do vì mình
hay vì người, hay vì một vài lợi vật nhỏ, mà đã cố ý nói láo. Người như
vậy, này các Tỷ-kheo, được gọi là người nói như phân.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hạng người nói như hoa? Ở đây, này các
Tỷ-kheo, có người khi đi vào hội trường, hay khi đi vào hội chúng, hay
khi đi đến giữa các người bà con, hay khi đi đến giữa các người đồng một
tổ hợp, hay đi đến cung vua, hay bị dẫn như là người làm chứng, được
nói: "Ngươi biết gì, hãy nói lên". Người ấy không biết, nói rằng: "Tôi
không biết"; có biết, nói rằng: "Tôi có biết"; không thấy, nói rằng:
"Tôi không thấy"; có thấy, nói rằng: "Tôi có thấy". Không vì mình hay vì
người, hay vì một vài lợi vật nhỏ mà đã cố ý nói láo. Người như vậy,
này các Tỷ-kheo, được gọi là người nói như hoa.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hạng người nói như mật? Ở đây, này các
Tỷ-kheo, có người đoạn tận ác ngữ, từ bỏ lời nói ác ngữ. Lời nói của
người ấy không hại, tai ưa nghe, khả ái, đi thẳng đến tâm, lễ độ, được
nhiều người ưa thích, được nhiều người thích ý, người ấy nói những lời
như vậy. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là hạng người nói như mật.
Ba hạng người này, này các Tỷ-kheo, có mặt, xuất hiện ở đời.
29.- Mù Lòa
- Ba hạng người này, này các Tỷ-kheo, có mặt, xuất hiện ở đời. Thế
nào là ba? Người mù, người một mắt, người có hai mắt.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là người mù? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có
người không có mắt để có thể với mắt như vậy, thâu hoạch được tài sản
chưa được thâu hoạch hay làm cho tăng trưởng tài sản đã được thâu hoạch;
không có mắt để có thể với mắt như vậy, biết được pháp thiện và pháp
bất thiện, có tội và không tội, pháp liệt và thắng, pháp thuộc thành
phần đen và trắng. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là hạng người mù.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hạng người có một mắt? Ở đây, này các
Tỷ-kheo, có người có mắt để có thể với mắt như vậy, thâu hoạch được tài
sản chưa được thâu hoạch hay làm cho tăng trưởng tài sản đã được thâu
hoạch; nhưng không có mắt để có thể với mắt như vậy, biết được pháp
thiện và pháp bất thiện, có tội và không tội, pháp liệt và thắng, pháp
thuộc thành phần đen và trắng. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là hạng người
một mắt.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hạng người có hai mắt? Ở đây, này các
Tỷ-kheo, có người có mắt để có thể với mắt như vậy, thâu hoạch được tài
sản chưa được thâu hoạch hay làm cho tăng trưởng tài sản đã được thâu
hoạch; và có mắt để có thể với mắt như vậy, biết được pháp thiện và pháp
bất thiện, có tội và không tội, pháp liệt và thắng, pháp thuộc thành
phần đen và trắng. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là hạng người có hai mắt.
Ba hạng người này, này các Tỷ-kheo, có mặt, xuất hiện ở đời.
Kẻ mù, mắt bị hư
Cả hai đều bất hạnh
Vừa công đức không làm
Vừa không được tài sản
Thứ đến là hạng người
Ðược gọi là một mắt
Liên hệ pháp phi pháp
Tầm cầu các tài sản
Với trộm và man trá
Cùng với cả nói láo
Vừa khéo góp tài sản
Vừa giỏi hưởng dục lạc
Từ đây đến địa ngục
Người một mắt bị hại.
Còn vị có hai mắt
Ðược gọi người tối thượng
Thâu hoạch các tài sản
Một cách đúng chánh pháp
Các tài sản đã có,
Tăng trưởng đúng chánh pháp
Bố thí, ý tốt đẹp
Không phân vân ngập ngừng
Ðược sanh chỗ hiền thiện
Ði chỗ ấy không sầu
Vậy hãy tránh thật xa
Người mù, người một mắt
Thân cận bậc hai mắt
Bậc tối thắng trượng phu!
30.- Lộn Ngược
- Ba hạng người này, này các Tỷ-kheo, có mặt, xuất hiện ở đời. Thế
nào là ba? Hạng người với trí tuệ lộn ngược, hạng người với trí tuệ bắp
vế, hạng người với trí tuệ rộng lớn.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là người với trí tuệ lộn ngược? Ở đây,
này các Tỷ-kheo, có hạng người đi đến khu vườn (tinh xá) thường thường
nghe pháp từ các Tỷ-kheo. các vị Tỷ-kheo thuyết pháp cho người ấy, sơ
thiện, trung thiện, hậu thiện, có nghĩa, có văn, trình bày Phạm hạnh
hoàn toàn viên mãn thanh tịnh. Người ấy, tại chỗ ngồi ấy, đối với bài
thuyết giảng ấy, không có tác ý đến đoạn đầu, không có tác ý đến đoạn
giữa, không có tác ý đến đoạn cuối. Cũng vậy, khi người ấy từ chỗ ngồi
ấy đứng lên, đối với bài thuyết giảng ấy, người ấy không có tác ý đến
đoạn đầu, không có tác ý đến đoạn giữa, không có tác ý đến đoạn cuối. Ví
như này các Tỷ-kheo, một cái ghè bị lộn ngược, nước chứa trong ấy tuôn
chảy, không có dừng lại. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, ở đây, có hạng người
đi
đến khu vườn ... không có tác ý đoạn cuối. Cũng vậy, khi người ấy từ chỗ
ngồi ấy đứng lên ... không có tác ý đoạn cuối. Này các Tỷ-kheo, đây gọi
là hạng người với trí tuệ lộn ngược.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là người với trí tuệ bắp vế? Ở đây, này
các Tỷ-kheo, có hạng người đi đến khu vườn (tinh xá). Người ấy, tại chỗ
ngồi ấy, đối với bài thuyết giảng ấy, có tác ý đến đoạn đầu, có tác ý
đến đoạn giữa, có tác ý đến đoạn cuối. Nhưng khi người ấy từ chỗ ngồi ấy
đứng dậy, đối với bài thuyết giảng ấy, người ấy không có tác ý đến đoạn
đầu, không có tác ý đến đoạn giữa, không có tác ý đến đoạn cuối. Ví như
này các Tỷ-kheo, trên bắp vế của một người, các loại đồ ăn được chồng
lên như hạt mè, hột gạo, các loại kẹo và trái táo. Khi từ chỗ ngồi đứng
dậy, vì vô ý, người ấy làm đổ vãi tất cả. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, ở
đây, có hạng người đi đến khu vườn ... Người ấy, tại chỗ ngồi ấy ... có
tác ý đoạn cuối. Nhưng khi người ấy tại chỗ ngồi ấy đứng dậy ...
không có tác ý đoạn cuối. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là hạng người với trí
tuệ bắp vế.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hạng người có trí tuệ rộng lớn? Ở đây,
này các Tỷ-kheo, có hạng người đi đến khu vườn (tinh xá) ... trình bày
Phạm hạnh hoàn toàn viên mãn thanh tịnh. Tại chỗ ngồi ấy, vị ấy đối với
bài thuyết giảng ấy, có tác ý đến đoạn đầu ... có tác ý đến đoạn cuối.
Cũng vậy, khi vị ấy, từ chỗ ngồi ấy đứng lên, đối với bài thuyết giảng
ấy, có tác ý đến đoạn đầu ... có tác ý đến đoạn cuối. Ví như, này các
Tỷ-kheo, một cái ghè được dựng đứng, nước chứa trong ấy được giữ lại,
không có chảy đi. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, Ở đây, có hạng người đi đến
khu vườn (tinh xá) ... trình bày Phạm hạnh hoàn toàn viên mãn thanh
tịnh. Tại chỗ ngồi ấy, vị ấy đối với bài thuyết giảng ấy, có tác ý đến
đoạn đầu ... có tác ý đến đoạn cuối. Cũng vậy, khi vị ấy, từ chỗ ngồi
ấy đứng lên, đối với bài thuyết giảng ấy, có tác ý đến đoạn đầu ... có
tác ý đến đoạn cuối. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là hạng người có trí tuệ
rộng lớn.
Ba hạng người này, này các Tỷ-kheo, có mặt, xuất hiện ở đời.
Hạng trí tuệ lộn ngược
Không thông minh, không mắt
Họ thường thường đi đến
Ðến gần các Tỷ-kheo
Ðoạn đầu của bài giảng
Ðoạn giữa và đoạn cuối
Họ không học được gì,
Họ không có trí tuệ
Hạng trí tuệ bắp vế
Ðược gọi là tốt hơn
Họ thường thường đi đến
Ðến gần các Tỷ-kheo
Ðoạn đầu của bài giảng
Ðoạn giữa và đoạn cuối
Ngồi trên chỗ mình ngồi
Nắm giữ được lời văn
Ðứng dậy không hiểu rõ
Quên mất điều đã nắm
Bậc trí tuệ rộng lớn
Ðược gọi tốt hơn cả
Họ thường thường đi đến
Ðến gần các Tỷ-kheo
Ðoạn đầu của bài giảng
Ðoạn giữa và đoạn cuối
Ngồi trên chỗ mình ngồi
Nắm giữ được lời văn
Thọ trì điều được nghe
Suy tư điều tối thắng
Với ý không dao động
Là hạng người như vậy
Thực hành pháp, tùy pháp
Có thể đoạn khổ đau.
IV. Phẩm Sứ Giả Của Trời
31. Ngang Bằng Với Phạm Thiên
- Những gia đình nào, này các Tỷ-kheo,
trong ấy, các con cái kính lễ mẹ cha ở trong nhà, những gia đình ấy được
chấp nhận ngang bằng với Phạm Thiên. Những gia đình nào, này các
Tỷ-kheo, trong ấy, các con cái kính lễ mẹ cha ở trong nhà, những gia
đình ấy được chấp nhận như các Ðạo sư thời xưa. Những gia đình nào, này
các Tỷ-kheo, trong ấy, các con cái kính lễ mẹ cha ở trong nhà, những gia
đình ấy được chấp nhận là đáng được cúng dường.
Phạm Thiên, này các Tỷ-kheo, là đồng nghĩa với cha mẹ. Các Ðạo sư
thời xưa, này các Tỷ-kheo, là đồng nghĩa với cha mẹ. Ðáng được cúng
dường, này các Tỷ-kheo, là đồng nghĩa với cha mẹ. Vì cớ sao? Giúp đỡ rất
nhiều, này các Tỷ-kheo, là cha mẹ đối với con cái, nuôi chúng lớn,
dưỡng dục chúng, giới thiệu chúng vào đời.
Mẹ cha gọi Phạm Thiên,
Bậc Ðạo sư thời trước
Xứng đáng được cúng dường
Vì thương đến con cháu
Do vậy, bậc Hiền triết
Ðảnh lễ và tôn trọng
Dâng đồ ăn đồ uống
Vải mặc và giường nằm
Thoa bóp (cả thân mình)
Tắm rửa cả tay chân
Với sở hành như vậy,
Ðối với mẹ cha
Ðời này người Hiền khen
Ðời sau hưởng Thiên lạc
32. Ananda
1. Rồi Tôn giả Ananda đi đến Thế
Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn, rồi ngồi xuống một bên; ngồi xuống
một bên, Tôn giả Ananda bạch Thế Tôn:
- Rất có thể, bạch Thế Tôn, một Tỷ-kheo được định như vậy, trong cái
thân có thức này, không có ngã kiến, ngã sở kiến, ngã mạn tuỳ miên; đối
với tất cả tướng ở ngoài, không có ngã kiến, ngã sở kiến, ngã mạn tuỳ
miên; và do chứng đạt và an trú tâm giải thoát, tuệ giải thoát, không có
ngã kiến, ngã sở kiến, ngã mạn tuỳ miên; vị ấy có thể chứng đạt và an
trú tâm giải thoát, tuệ giải thoát ấy.
- Rất có thể, này, Ananda, một Tỷ-kheo được định như vậy ... có thể
chứng đạt và an trú tâm giải thoát, tuệ giải thoát ấy.
- Như thế nào, bạch Thế Tôn, rất có thể, một Tỷ-kheo được định như
vậy ... có thể chứng đạt và an trú tâm giải thoát, tuệ giải thoát ấy?
- Ở đây, này Ananda, vị Tỷ-kheo suy nghĩ như sau: "Ðây là an tịnh,
đây là thù diệu, tức là chỉ tức tất cả hành, từ bỏ tất cả sanh y, đoạn
tận tham, ly tham, đoạn diệt, Niết-bàn". Như vậy, này Ananda, rất có thể
Tỷ-kheo được định như vậy, ... có thể chứng đạt và an trú tâm giải
thoát, tuệ giải thoát .
Lại nữa, này Ananda, liên hệ đến vấn đề này, Ta đã nói như sau trong
kinh tên là "Những câu hỏi của Punnaka", chương về Pàràyana.
Do phân tích ở đời
Những vật cao và thấp
Với vị không dao động
Bởi vật gì ở đời,
An tịnh, không tối mù,
Không phiền muộn, không cầu
Ta nói người như vậy,
Ðã vượt khỏi sanh già.
Sãriputta
2. - Rồi Tôn giả Sàriputta đi đến
Thế Tôn; sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Thế Tôn nói
với Tôn giả Sàriputta đang ngồi xuống một bên:
- Này Sàriputta, Ta có thể thuyết pháp một cách tóm lược. Này,
Sàriputta, ta có thể thuyết pháp một cách rộng rãi. Này Sàriputta, ta có
thể thuyết pháp một cách tóm lược và rộng rãi. Và những người hiểu được
thật là khó tìm!
- Nay đã đến thời, bạch Thế Tôn, nay đã đến thời, bạch Thế Tôn, để
Thế Tôn thuyết pháp một cách tóm lược, thuyết pháp một cách rộng rãi, và
thuyết pháp một cách tóm lược và rộng rãi. Sẽ có những người có thể
hiểu rõ Chánh pháp.
- Vậy này Sàriputta, hãy học tập như sau: "Trong cái thân có thức
này, sẽ không có ngả kiến, ngã sở kiến, ngã mạn tùy miên; đối với tất cả
tướng ở ngoài, sẽ không có ngã kiến, ngã sở kiến, ngã mạn tùy miên; và
do chứng đạt và an trú tâm giải thoát, tuệ giải thoát, không có ngã
kiến, ngã sở kiến, ngã mạn tùy miên, chúng tôi sẽ chứng đạt và an trú
tâm giải thoát, tuệ giải thoát ấy!". Như vậy, này Sàriputta, các Ông cần
phải học tập. Khi nào Tỷ-kheo đối với thân có thức này, không có ngã
kiến, ngã sở kiến, ngã mạn tùy miên; đối với tất cả các tướng ở ngoài,
không có ngã kiến, ngã sở kiến, ngã mạn tùy miên; và do chứng đạt và an
trú tâm giải thoát, tuệ giải thoát, không có ngã kiến, ngã sở kiến, ngã
mạn tùy miên; vị ấy chứng đạt và an trú tâm giải thoát, tuệ giải thoát
ấy. Người như vậy, này Sàriputta, được gọi là Tỷ-kheo đã chặt đứt khát
ái, đã cởi mở kiết sử, với chơn chánh hiện quán kiêu mạn, đã đoạn tận
khổ đau.
- Lại nữa, này Sàriputta, liên hệ đến vấn đề này, ta đã nói như sau
trong kinh tên là "Những câu hỏi của Udaya" trong chương Pàràyana.
Ðoạn tận cả hai pháp
Dục tham và sân hận
Và từ bỏ hôn trầm
Chận đứng mọi trạo hối
Với xả niệm thanh tịnh
Chạy trước pháp tư duy?
Ta nói trí giải thoát
Vô minh được phá tận.
33.- Các Nguyên Nhân
1. - Có ba nguyên nhân này, này các
Tỷ-kheo, khởi lên các nghiệp. Thế nào là ba? Tham là nguyên nhân khởi
lên các nghiệp. Sân là nguyên nhân khởi lên các nghiệp. Si là nguyên
nhân khởi lên các nghiệp.
Phàm nghiệp nào được làm vì tham, này các Tỷ-kheo, sanh ra từ tham,
duyên khởi từ tham, tập khởi từ tham, tại chỗ nào tự ngã được hiện hữu,
tại chỗ ấy, nghiệp ấy được thuần thục. Chỗ nào nghiệp ấy được thuần
thục, cỗ ấy quả dị thục của nghiệp ấy được cảm thọ ngay trong hiện tại,
hay trong đời sống kế tiếp, hay trong một đời sau nữa.
Phàm nghiệp nào được làm vì sân, này các Tỷ-kheo, sanh ra từ sân ...
Phàm nghiệp nào được làm vì si, này các Tỷ-kheo, sanh ra từ si ... tại
chỗ ấy, nghiệp ấy được thuần thục ... hay trong một đời sau nữa.
Ví dũ, này các Tỷ-kheo, các hạt giống không bị bể vụn, không bị hư
thối, không bị gió và nắng làm hư, còn tươi tốt được khéo gieo vào một
đồng ruộng tốt, được trồng vào đất khéo sửa soạn, và được trời mưa xuống
đều đặn, các hạt giống ấy, này các Tỷ-kheo, được lớn lên, tăng trưởng,
lớn mạnh. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, phàm nghiệp nào được làm vì tham
... hay trong môt đời sau nữa. Phàm nghiệp nào được làm vì sân ... hay
trong một đời sau nữa. Phàm nghiệp nào được làm vì si ... hay trong một
đời sau nữa.
Có ba nguyên nhân này, này các Tỷ-kheo, khởi lên các nghiệp.
2. Có ba nguyên nhân này, này các
Tỷ-kheo, khởi lên các nghiệp. Thế nào là ba? Không tham là nguyên nhân
khởi lên các nghiệp. Không sân là nguyên nhân khởi lên các nghiệp. Không
si là nguyên nhân khởi lên các nghiệp.
Phàm nghiệp nào được làm vì không tham, này các Tỷ-kheo, sanh ra từ
không tham, duyên khởi từ không tham, tập khởi từ không tham. Vì rằng
tham được từ bỏ, như vậy, nghiệp ấy được đoạn tận, được cắt đứt từ gốc
rễ, được làm như thân cây tala, được làm cho không thể hiện hữu, được
làm cho không thể sanh khởi trong tương lai.
Phàm nghiệp nào được làm vì không sân ... Phàm nghiệp nào được làm vì
không si, này các Tỷ-kheo, sanh ra từ không si ... Vì rằng si được từ
bỏ, như vậy, nghiệp ấy được đoạn tận, được cắt đứt từ gốc rễ, được làm
như thân cây tala, được làm cho không thể hiện hữu, được làm cho không
thể sanh khởi trong tương lai.
Ví như này các Tỷ-kheo, các hạt giống không thể bị bể vụn, không bị
hư thối, không bị gió và nắng làm hư, còn được tươi tốt, được khéo gieo.
Và một người lấy lửa đốt chúng, sau khi lấy lửa đốt, làm cho chúng
thành tro, sau khi làm thành tro, quạt chúng trong gió lớn, hay cho vào
dòng nước sông chảy nhanh mang cuốn đi. Như vậy, này các Tỷ-kheo, các
hạt giống ấy được đoạn tận, được cắt đứt từ gốc rễ, được làm cho như
thân cây tala, được làm cho không thể hiện hữu, được làm cho không thể
sanh khởi trong tương lai. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, phàm nghiệp nào
được làm từ không tham ... không thể sanh khởi trong tương lai. Phàm
nghiệp nào được làm từ không sân ... không thể sanh khởi trong tương
lai. Phàm nghiệp nào được làm từ không si ... không thể sanh khởi trong
tương
lai.
Có ba nguyên nhân này, này các Tỷ-kheo, khởi lên các nghiệp:
Phàm có hạnh nghiệp nào,
Sanh từ tham sân si,
Do kẻ vô trí làm
Dầu có ít hay nhiều
tại đây được cảm thọ,
Không phải tại chỗ khác
Do vậy vị Tỷ-kheo
Từ bỏ tham, sân, si
Làm khởi lên minh trí,
Từ bỏ mọi ác thú.
34.- Về Alavì
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở Alavì, tại Gomagga, trong rừng Simsapà, trên chỗ
có trải lá.
Rồi Hatthaka, người Alavì, đang đi bộ hàng du ngoạn, thấy Thế Tôn
đang ngồi trên chỗ có trải lá trong rừng Simsapà ở Gomagga, thấy vậy,
liền đi đến Thế Tôn; sau khi đi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một
bên. Ngồi xuống một bên, Hatthaka người Alavì bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, Thế Tôn sống có an lạc không?
- Phải, này Hoàng Tử, ta sống được an lạc. Và những ai cảm thấy an
lạc ở đời, Ta là một trong số những người ấy.
- Bạch Thế Tôn, lạnh là đêm mùa đông, thời gian giữa những ngày tám
(trước và sau ngày rằm) là thời gian tuyết rơi, cứng rắn là đất do trâu
bò dẫm đạp, mỏng manh là nệm làm bằng lá, lưa thưa là những lá của cây,
lạnh là tấm vải cà sa, và lạnh là làn gió thổi.
Rồi Thế Tôn nói như sau:
- Dẫu vậy, này Hoàng Tử, Ta sống được an lạc. Và những ai cảm thấy an
lạc ở đời, Ta là một trong số những người ấy. Vậy nay, này Hoàng Tử, ở
đây ta sẽ hỏi Hoàng Tử, nếu có thể kham nhẫn, Hoàng Tử hãy trả lời.
Hoàng Tử nghĩ thế nào, này Hoàng Tử? Ở đây, người gia chủ hay con người
gia chủ có nhà có nóc nhọn, với các tường trét trong trét ngoài, che chở
khỏi gió, chốt cửa được khóa chặt, các cửa sổ được đóng kín. Trong ấy,
có một chỗ nằm có trải tấm thảm len với lông dài, với tấm vải giường
bằng len trắng, chăn len thêu bông, nệm bằng da quý con sơn dương
kadali, tấm thảm có tàn tre phía trên và gối nệm đỏ cả hai đầu, có đèn
thắp đỏ và bốn bà vợ đẹp hầu hạ. Này Hoàng Tử, Hoàng Tử nghĩ thế nào,
người ấy nằm ngủ có an lạc không? Hay Hoàng Tử nghĩ thế nào?
- Bạch Thế Tôn, người ấy nằm ngủ an lạc. Nếu có những người cảm thấy
an lạc ở đời, người ấy là một trong những người ấy.
- Hoàng Tử nghĩ thế nào, này Hoàng tử, với người gia chủ hay người
con của người gia chủ ấy, khởi lên những nhiệt não về thân hay về tâm,
do tham ái sanh. Bị nung đốt bởi những nhiệt não do tham ái sanh, người
ấy có cảm thấy đau khổ không?
- Thưa có, bạch Thế Tôn.
- Người gia chủ hay con của người gia chủ ấy, này Hoàng Tử, bị nung
đốt bởi những nhiệt não do tham ái sanh, cảm thấy đau khổ. Tham ái ấy,
Như Lai đã đoạn tận, cắt đứt từ gốc rễ, làm cho như thân cây tala, làm
cho không thể hiện hữu, làm cho không thể sanh khởi trong tương lai. Do
vậy ta cảm thấy an lạc.
Hoàng Tử nghĩ thế nào, này Hoàng Tử, với người gia chủ hay con của
người gia chủ ấy, khởi lên những nhiệt não về thân hay tâm do sân sanh
... do si sanh. Bị nung đốt bởi những nhiệt não do si sanh, người ấy có
cảm thấy đau khổ không?
- Thưa có, bạch Thế Tôn.
- Người gia chủ hay con của người gia chủ ấy, này Hoàng Tử, bị nung
đốt bởi những nhiệt não do si sanh, cảm thấy đau khổ. Si ấy, Như Lai đã
đoạn tận, cắt đứt từ gốc rễ, làm cho như thân cây tala, làm cho không
thể hiện hữu, làm cho không thể sanh khởi trong tương lai. Do vậy ta cảm
thấy an lạc.
Luôn luôn được an lạc,
Vi phạm chí tịch tịnh
Không bị dục uế nhiễm
Trong mát, không sanh y,
Mọi tham trước dứt đoạn,
Nhiếp phục tâm sầu khổ,
An tịnh, cảm thọ lạc
Với tâm đạt an tịnh.
35.- Diêm Vương
1-6
1.- Có ba Thiên sứ này, này các
Tỷ-kheo, Thế nào là ba?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người thân làm ác, miệng nói ác, ý nghĩ
ác. Sau khi thân làm ác, miệng nói ác, ý nghĩ ác, khi thân hoại mạng
chung, người ấy sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Rồi này các
Tỳ kheo, những người lính địa ngục với hai cánh tay bắt người ấy dẫn đến
Vua Yama (Diêm vương) và thưa:
- "Thưa Ðại vương, người này không kính mẹ, không kính cha, không
kính Sa-môn, không kính Bà-la-môn, không tôn kính các bậc lớn tuổi trong
gia đình, Ðại vương hãy hình phạt nó"
Rồi vua Yama chất vấn người ấy:, cật vấn, nạn vấn người ấy về Thiên
sứ thứ nhất:
- "Này người kia, người có thấy vị Thiên sứ thứ nhất hiện ra giữa
loài người không?"
Người ấy trả lời:
- "Con không thấy, thưa ngài"
Rồi này các Tỷ-kheo, vua Yama nói với người ấy:
- "Này người kia, ngươi có bao giờ thấy giữa loài người, một người
đàn bà hay đàn ông 80 tuổi, hay 90 tuổi, hay 100 tuổi, già yếu, cong như
nóc nhà, lưng còm, chống gậy, vừa đi vừa run rẩy, bệnh hoạn, tuổi trẻ
đã tận, răng rụng tóc bạc, hư rụng, sói đầu, da nhăn, đầu rung, tay chân
da mồi khô đét?"
Người ấy nói như sau:
- "Thưa Ngài, con có thấy".
Rồi này các Tỷ-kheo, vua Yama nói với người ấy như sau:
- "Này người kia, với ngươi là người có trí, và lớn tuổi, Ngươi có
nghĩ rằng: "Ta rồi cũng bị già, ta không vượt qua tuổi già. Vậy ta hãy
làm điều lành, về thân, về lời nói, về ý?"
Người ấy nói như sau:
- "Không, thưa Ngài, con không có làm. Thưa Ngài, con phóng dật."
Rồi này các Tỷ-kheo, vua Yama nói với người ấy:
- "Này người kia, chính vì do phóng dật, ngươi đã không làm các điều
lành về thân, về lời nói, về ý. Thật vậy, này người kia, chúng sẽ làm
cho ngươi, đúng theo sự phóng dật của ngươi. Ác nghiệp ấy của ngươi,
không phải mẹ làm, không phải cha làm, không phải anh làm, không phải
chị làm, không phải bạn bè thân hữu làm, không phải bà con huyết thống
làm, không phải chư Thiên làm, không phải Sa-môn làm, Bà-la-môn làm. Ác
nghiệp ấy chính do ngươi làm và Ngươi sẽ thọ lãnh quả dị thục của ác
nghiệp ấy.
2. Rồi vua Yama, này các Tỷ-kheo,
sau khi chất vấn, cật vấn, nạn vấn người ấy về vị Thiên sứ thứ nhất,
liền chất vấn, cật vấn, nạn vấn người ấy về vị Thiên sứ thứ hai:
- "Này người kia, người có thấy vị Thiên sứ thứ hai hiện ra giữa loài
người không?"
Người ấy trả lời:
- "Con không thấy, thưa ngài"
Rồi này các Tỷ-kheo, vua Yama nói với người ấy:
- "Này người kia, ngươi có bao giờ thấy giữa loài người, một người
đàn bà hay một người đàn ông, bệnh hoạn khổ não nguy kịch, rơi nằm trong
tiểu tiện, đại tiện của mình, cần người khác nâng dậy, cần người khác
dìu nằm xuống?"
Người ấy nói như sau:
- "Thưa Ngài, con có thấy".
Rồi này các Tỷ-kheo, vua Yama nói với người ấy như sau:
- "Này người kia, với ngươi là người có trí, và lớn tuổi, Ngươi có
nghĩ rằng: "Ta rồi cũng bị bệnh, ta không vượt qua bệnh hoạn. Vậy ta hãy
làm điều lành, về thân, về lời nói, về ý?"
Người ấy nói như sau:
- "Không, thưa Ngài, con không có làm. Thưa Ngài, con phóng dật."
Rồi này các Tỷ-kheo, vua Yama nói với người ấy:
- "Này người kia, chính vì do phóng dật, ngươi đã không làm các điều
lành về thân, về lời nói, về ý. Thật vậy, này người kia ... ngươi sẽ thọ
lãnh quả dị thục của các nghiệp ấy."
3. Rồi vua Yama, này các Tỷ-kheo,
sau khi chất vấn, cật vấn, nạn vấn người ấy về vị Thiên sứ thứ hai, liền
chất vấn, cật vấn, nạn vấn người ấy về vị Thiên sứ thứ ba:
- "Này người kia, người có thấy vị Thiên sứ thứ ba hiện ra giữa loài
người không?"
Người ấy trả lời:
- "Con không thấy, thưa ngài"
Rồi này các Tỷ-kheo, vua Yama nói với người ấy:
- "Này người kia, ngươi có bao giờ thấy giữa loài người, một người
đàn bà hay một người đàn ông, chết đã được một ngày, hay chết được hai
ngày, hay chết được ba ngày, sưng phù lên, xanh xám lại và nát rữa ra?"
Người ấy nói như sau:
- "Thưa Ngài, con có thấy".
Rồi này các Tỷ-kheo, vua Yama nói với người ấy như sau:
- "Này người kia, với ngươi là người có trí, và lớn tuổi, Ngươi có
nghĩ rằng: "Ta rồi cũng bị chết, ta không vượt qua sự chết. Vậy ta hãy
làm điều lành, về thân, về lời nói, về ý?"
Người ấy nói như sau:
- "Không, thưa Ngài, con không có làm. Thưa Ngài, con phóng dật."
Rồi này các Tỷ-kheo, vua Yama nói với người ấy:
- "Này người kia, chính vì do phóng dật, ngươi đã không làm các điều
lành về thân, về lời nói, về ý. Thật vậy, này người kia ... ngươi sẽ thọ
lãnh quả dị thục của các nghiệp ấy."
4. Rồi vua Yama, này các Tỷ-kheo,
sau khi chất vấn, cật vấn, nạn vấn người ấy về vị Thiên sứ thứ ba, rồi
giữ im lặng.
Rồi này các Tỷ-kheo, những người lính địa ngục bắt người ấy chịu hình
phạt gọi là năm cọc. Họ lấy cọc sắt nung đỏ đóng vào một bàn tay, họ
lấy cọc sắt nung đỏ đóng vào bàn tay thứ hai, họ lấy cọc sắt nung đỏ
đóng vào một bàn chân, họ lấy cọc sắt nung đỏ đóng vào bàn chân thứ hai,
Họ lấy cọc sắt nung đỏ đóng vào giữa ngực. Người ấy ở đây thọ lãnh các
cảm giác đau đớn, cực khổ, thống khổ, khốc liệt. Nhưng người ấy không có
thể mệnh chung cho đến khi ác nghiệp của người ấy chưa được tiêu trừ.
Này các Tỷ-kheo, rồi các người lính địa ngục bắt người ấy nằm xuống và
lấy cái rìu chặt người ấy. Người ấy ở đây thọ lãnh ... chưa được tiêu
trừ. Này các Tỷ-kheo, rồi các người lính địa ngục dựng ngược người ấy,
chân trên đầu dưới và lấy dao sắc chặt người ấy. Người ấy ở đây thọ
lãnh ... chưa được tiêu trừ. Này các Tỷ-kheo, các người lính địa ngục,
cột người ấy vào một chiếc xe, kéo người ấy chạy tới, kéo người ấy chạy
lui, trên đất được đốt cháy đỏ, cháy thành ngọn, cháy đỏ rực. Người ấy ở
đây thọ lãnh ... chưa được tiêu trừ. Rồi này các Tỷ-kheo, các người
lính địa ngục đẩy người ấy lên, kéo người ấy xuống trên một sườn núi đầy
than hừng, cháy đỏ, cháy thành ngọn, cháy đỏ rực, Người ấy ở đây thọ
lãnh ... chưa được tiêu trừ. Rồi này các Tỷ-kheo, các người lính địa
ngục nắm ngược người ấy, chân phía trên, đầu phía dưới và quăng người ấy
vào một vạc dầu bằng đồng nung đỏ, cháy đỏ, cháy thành ngọn, cháy đỏ
rực, Người ấy ở đây, bị nấu với bọt nước sôi sùng sục, khi thì trôi nổi
lên, khi thì chìm xuống đáy, khi thì trôi dạt ngang. Người ấy ở đây thọ
lãnh các cảm giác đau đớn, cực khổ, thống khổ, khốc liệt. Nhưng người ấy
không thể mệnh chung cho đến khi ác nghiệp của người ấy được tiêu trừ.
Rồi này các Tỷ-kheo, những người lính địa ngục quăng người ấy vào Ðại
địa ngục. Này các Tỷ-kheo, Ðại địa ngục ấy:
Có bốn góc, bốn cửa
Chia thành phần bằng nhau,
Xung quanh có tường sắt,
Mái sắt lợp lên trên
Nền địa ngục bằng sắt
Nung đỏ cháy đỏ rực
Ðứng thẳng luôn có mặt
Rộng một trăm do tuần
Một thời xưa lắm, này các Tỷ-kheo, vua Yama suy nghĩ như sau: "Những
ai làm ác nghiệp ở đời, phải thọ lãnh những hình phạt sai khác như vậy.
Mong rằng ta được làm người, và Như Lai, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác
xuất hiện ở đời, ta có thể hầu hạ Thế Tôn, Thế Tôn thuyết pháp cho ta,
và ta có thể thông hiểu pháp do Thế Tôn thuyết giảng".
Này các Tỷ-kheo, điều ta đang nói, không phải ta nghe từ một Sa-môn
hay Bà-la-môn nào khác; những điều ta đang nói chỉ được ta biết mà thôi,
chỉ được ta thấy mà thôi, chỉ được ta hiểu mà thôi.
6.
Dầu Thiên sứ báo động,
Thanh niên vẫn phóng dật
Họ ưu buồn lâu dài,
Sanh làm người hạ liệt.
Ở đây, bậc Chân nhân,
Ðược Thiên sứ báo động,
Không bao giờ phóng dật
Trong diệu pháp bậc thánh
Thấy sợ trong chấp thủ
Trong hiện hữu sanh tử
Ðược giải thoát không thủ
Sanh tử được đoạn trừ
Ðược yên ổn không lạc
Ngay hiện tại tịch tịnh
Mọi oán hận sợ hãi
Các vị ấy vượt qua
Mọi đau đớn khổ sầu
Thảy đều được siêu thoát.
36.- Bốn Bậc Ðại Vương
- Này các Tỷ-kheo, trong ngày thứ tám của nửa tháng, các vị Ðại thần
cố vấn cho bốn Ðại vương, đi du hành trong thế giới này để xem trong
loài người, có nhiều người có hiếu với mẹ, có hiếu với cha, có kính
Sa-môn, Bà-là-môn, có tôn trọng các vị gia trưởng, có làm lễ Uposatha
(Bố-tát), có đề cao cảnh giác, có làm các công đức.
Này các Tỷ-kheo, trong ngày 14 của nửa tháng, các Hoàng tử của bốn
Thiên vương, đi du hành trong thế giới này để xem trong loài người, có
nhiều người có hiếu với mẹ, ... có làm các công đức.
Này các Tỷ-kheo, trong ngày rằm lễ Uposatha, bốn vị Thiên vương tự
mình đi du hành trong thế giới này để xem trong loài người, có nhiều
người có hiếu với mẹ, ... có làm các công đức.
Nếu chỉ có ít người giữa loài người, này các Tỷ-kheo, có hiếu với mẹ,
... là các công đức, thời này các Tỷ-kheo, bốn vị Ðại vương liền báo
với chư Thiên ở cõi trời thứ ba mươi ba, đang ngồi tụ họp tại hội trường
Sudhammà:
- "Thưa chư vị, có ít người giữa loài người có hiếu với mẹ, ... có
làm các công đức".
Rồi này các Tỷ-kheo, chư Thiên ở cõi trời thứ ba mươi ba không hoan
hỉ nói:
- "Thật vậy, Thiên chúng sẽ bị tổn giảm và Asura chúng (A-tu-la) sẽ
được sung mãn."
Nhưng này các Tỷ-kheo, nếu có nhiều người giữa loài người, có hiếu
với mẹ, ... có làm các công đức, thời này các Tỷ-kheo, bốn vị Ðại vương
liền báo với chư Thiên ở cõi trời thứ ba mươi ba, đang ngồi tụ họp tại
hội trường Sudhammà:
- "Thưa chư Vị, có nhiều người giữa loài người, có hiếu với mẹ, ...
có làm các công đức".
Rồi này các Tỷ-kheo, chư Thiên ở cõi trời thứ ba mươi ba hoan hỷ nói
- "Thật vậy, Thiên chúng sẽ được sung mãn, còn các Asura chúng sẽ bị
tổn giảm.
37.- Sakka
Thuở xưa, này các Tỷ-kheo, Thiên chủ Sakka đang thuyết giảng cho chư
Thiên ở cõi Trời thứ Ba mươi ba, trong khi ấy, nói lên bài kệ như sau:
Ngày mười bốn, ngày rằm
Ngày tám trong nửa tháng
Kể cả phần đặc biệt
Khéo đầy đủ cả tám
Theo làm lễ Bố-tát
Vị ấy giống như ta.
Bài kệ ấy, này các Tỷ-kheo, đã bị Thiên chủ Sakka hát sai, không hát
đúng, nói sai, không nói đúng. Vì cớ sao? Thiên chủ Sakka, này các
Tỷ-kheo, chưa ly tham, chưa ly sân, chưa ly si. Còn vị Tỷ-kheo, này các
Tỷ-kheo, là bậc A-la-hán, lậu hoặc đã đoạn tận, Phạm hạnh đã thành, việc
nên làm đã làm, gánh nặng đã đặt xuống, mục đích đã thành đạt, hữu kiết
sử đã đoạn tận, chánh trí giải thoát. Với vị Tỷ-kheo ấy, này các
Tỷ-kheo, lời nói này mới là thích đáng.
Ngày mười bốn, ngày rằm
Ngày tám trong nửa tháng
Kể cả phần đặc biệt
Khéo đầy đủ cả tám
Theo làm lễ Bố-tát
Vị ấy giống như ta.
Vì cớ sao? Vị Tỷ-kheo ấy, này các Tỷ-kheo, đã ly tham, đã ly sân, đã
ly si.
Thuở xưa, này các Tỷ-kheo, Thiên chủ Sakka đang thuyết giảng cho chư
Thiên ở cõi Trời thứ Ba mươi ba, trong khi ấy nói lên bài kệ như sau:
Ngày mười bốn, ngày rằm
Ngày tám trong nửa tháng
Kể cả phần đặc biệt
Khéo đầy đủ cả tám
Theo làm lễ Bố-tát
Vị ấy giống như ta.
Bài kệ ấy, này các Tỷ-kheo, đã bị Thiên chủ Sakka hát sai, không hát
đúng ... Vì cớ sao? Ta nói rằng Thiên chủ Sakka, này các Tỷ-kheo, chưa
giải thoát khỏi sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não. Còn vị Tỷ-kheo,
này các Tỷ-kheo, là bậc A-la-hán ... chánh trí giải thoát. Với vị
Tỷ-kheo ấy, này các Tỷ-kheo, lời nói này mới là thích đáng:
Ngày mười bốn, ngày rằm
Ngày tám trong nửa tháng
Kể cả phần đặc biệt
Khéo đầy đủ cả tám
Theo làm lễ Bố-tát
Vị ấy giống như ta.
Vì cớ sao? Ta nói rằng, vị Tỷ-kheo ấy, này các Tỷ-kheo, đã thoát khỏi
sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não, giải thoát khỏi khổ đau.
38.- Ðược Nuôi Dưỡng Tế Nhị
1. - Này các Tỷ-kheo, Ta được nuôi
dưỡng tế nhị, tối thắng nuôi dưỡng tế nhị, cứu cánh nuôi dưỡng tế nhị.
Này các Tỷ-kheo, trong nhà Phụ vương ta, các hồ nước được xây lên, trong
một hồ có hoa sen xanh, trong một hồ có hoa sen đỏ, trong một hồ có hoa
sen trắng, tất cả phục vụ cho ta. Không một hương chiên đàn nào ta
dùng, này các Tỷ-kheo, là không từ Kàsi đến. Bằng vải Kàsi là khăn của
ta, này các Tỷ-kheo. Bằng vải kàsi là áo cánh, bằng vải kàsi là nội y,
bằng vải kàsi là thượng y. Ðêm và ngày, một lọng trắng được che cho ta
để tránh xúc chạm lạnh, nóng, bụi, cỏ hay xương. Này các Tỷ-kheo, ba lâu
đài được xây dựng cho Ta, một cái cho mùa đông, một cái cho mùa hạ, một
cái cho mùa mưa. Và Ta, này các Tỷ-kheo, tại lâu đài mùa mưa, trong bốn
tháng mưa, được những nữ nhạc
công đoanh vây, Ta không có xuống dưới lầu. Trong các nhà của người
khác, các người đầy tớ, làm công được cho ăn cơm tấm, cháo chua. Trong
nhà phụ vương Ta, các người đầy tớ, làm công được cho ăn gạo, thịt gà và
cơm nấu.
2.- Với Ta, này các Tỷ-kheo, được
đầy đủ với sự giàu sang như vậy, được cứu cánh nuôi dưỡng tế nhị như
vậy, ta suy nghĩ rằng: "Kẻ vô văn phàm phu tự mình bị già, không vượt
qua khỏi già, khi thấy người khác bị già, lại bực phiền, hổ thẹn, ghê
tởm, quên rằng mình cũng như vậy. Ta cũng bị già, không vượt qua khỏi
già, sau khi thấy người khác già, ta có thể bực phiền, hổ thẹn, ghê tởm?
Như vậy, thật không xứng đáng cho ta". Sau khi quan sát về ta như vậy,
này các Tỷ-kheo, sự kiêu mạn của tuổi trẻ trong tuổi trẻ được đoạn trừ
hoàn toàn.
"Kẻ vô văn phàm phu tự mình bị bệnh, không vượt khỏi bệnh, thấy người
khác bị bệnh, lại bực phiền, hổ thẹn, ghê tởm, quên rằng mình cũng như
vậy. Ta cũng bị bệnh, không vượt qua khỏi bệnh, sau khi thấy người khác
bị bệnh, ta có thể bực phiền, hổ thẹn, ghê tởm? Như vậy, thật không xứng
đáng cho ta". Sau khi quan sát về ta như vậy, này các Tỷ-kheo, sự kiêu
mạn của không bệnh trong không bệnh được đoạn trừ hoàn toàn.
"Kẻ vô văn phàm phu tự mình bị chết, không vượt khỏi chết, thấy người
khác bị chết, lại bực phiền, hổ thẹn, ghê tởm, quên rằng mình cũng như
vậy. Ta cũng bị chết, không vượt qua khỏi chết, sau khi thấy người khác
chết, ta có thể bực phiền, hổ thẹn, ghê tởm sao? Như vậy, thật không
xứng đáng cho ta". Sau khi quan sát về ta như vậy, này các Tỷ-kheo, sự
kiêu mạn của sự sống trong sự sống được đoạn trừ hoàn toàn.
39. Kiêu Mạn
1. - Có ba kiêu mạn này, này các
Tỷ-kheo, Thế nào là ba? Kiêu mạn của tuổi trẻ, Kiêu mạn của không bệnh,
Kiêu mạn của sự sống.
Say sưa trong Kiêu mạn của tuổi trẻ, này các Tỷ-kheo, kẻ vô văn phàm
phu làm các ác hành về thân, làm các ác hành về lời nói, làm các ác hành
về ý. Do làm các ác hành về thân, làm các ác hành về lời nói, làm các
ác hành về ý, sau khi thân hoại mạng chung, bị sanh vào cõi dữ, ác thú,
đọa xứ, địa ngục. Say sưa trong Kiêu mạn của không bệnh, này các
Tỷ-kheo, kẻ vô văn phàm phu làm các ác hành về thân...., về ý . Do làm
các ác hành về thân, làm các ác hành về lời nói, làm các ác hành về ý,
sau khi thân hoại mạng chung, bị sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa
ngục. Say sưa trong Kiêu mạn của sự sống, này các Tỷ-kheo, kẻ vô văn
phàm phu làm các ác hành về thân, làm các ác hành về lời nói, làm các ác
hành về ý. Do làm các ác hành về thân, làm các ác hành về lời nói, làm
các
ác hành về ý, sau khi thân hoại mạng chung, bị sanh vào cõi dữ, ác thú,
đọa xứ, địa ngục.
Say sưa trong Kiêu mạn của tuổi trẻ, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo từ
bỏ học pháp, trở lui lại đời sống thế tục. Say sưa trong kiêu mạn của
không bệnh, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo từ bỏ học pháp, trở lui lại đời
sống thế tục. Say sưa trong kiêu mạn của đời sống, này các Tỷ-kheo, vị
Tỷ-kheo từ bỏ học pháp, trở lui lại đời sống thế tục.
2.
Bị bệnh và bị già
Lại còn phải bị chết
Kẻ phàm phu ghê tởm
Người khác bị như vậy
Nếu ta cũng ghê tởm
Chúng sanh bị như vậy,
Không xứng đáng cho ta,
Với ta được sống vậy
Nên ta sống như thật
Biết pháp không sanh y
Sự say sưa không bệnh
Tuổi trẻ và sự sống
Tất cả ta nhiếp phục
Thấy xuất ly an ổn
Nơi ta khởi tinh tấn
Vì ta thấy Niết-bàn
Ta không còn có thể
Thọ hưởng các dục vọng
ta sẽ không trở lui
Ðích Phạm hạnh ta đến
40.- Tăng Thượng
1-4
- Này các Tỷ-kheo, có ba tăng thượng này. Thế nào là ba? Ngã tăng
thượng, thế giới tăng thượng, pháp tăng thượng.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là ngã tăng thượng?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo đi đến ngôi rừng, hay đi đến gốc
cây, hay đi đến ngôi nhà trống, quan sát như sau: "Không phải vì y áo,
ta xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Không phải vì món ăn
khất thực, không phải vì sàng tọa, không phải vì nhân có mặt hay không
có mặt ở đây mà ta xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình, (nhưng
với ý nghĩ như sau): "Nay ta bị rơi vào sanh, già, chết, sầu, bi, khổ,
ưu, não, rơi vào khổ bị khổ chi phối. Có thể do làm như vậy, sự đoạn tận
tất cả khổ uẩn này được hiện khởi lên (cho ta). Và ta đã xuất gia từ bỏ
gia đình, sống không gia đình, sau khi đã đoạn tận tất cả các dục vọng
như vậy, lại còn đeo đuổi các dục vọng nhu kia hay còn ác tệ hơn. Như
vậy, thật không xứng đáng cho ta".
Vị ấy quan sát như sau: "Thắng tấn là tinh tấn của ta, không có thụ
động; an trú là niệm của ta, không có thất niệm; khinh an là thân của
ta, không có dao động; định tĩnh là tâm của ta, được nhứt tâm". Vị ấy
làm cho tăng thượng tự ngã, từ bỏ bất thiện, tu tập thiện, từ bỏ có tội,
tu tập không tội, gìn giữ cho tự ngã được thanh tịnh. Này các Tỷ-kheo,
đây gọi là tự ngã tăng thượng.
2.- Như thế nào, này các Tỷ-kheo, là
thế giới tăng thượng?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo đi đến ngôi rừng hay đi đến gốc
cây, hay đi đến ngôi nhà trống, rồi thẩm sát như sau: "Không phải vì y
áo, ta xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Không phải vì món
ăn khất thực, không phải vì sàng tọa, không phải vì nhân có mặt hay
không có mặt ở đây mà ta xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình,
(nhưng với ý nghĩ như sau): "Nay ta bị rơi vào sanh, già, chết, sầu, bi,
khổ, ưu, não, rơi vào khổ bị khổ chi phối. Có thể làm như vậy, đoạn tận
của tất cả khổ uẩn này được hiện khởi lên cho ta. Và ta đã xuất gia như
vậy, lại có thể suy nghĩ về dục tầm hay có thể suy nghĩ về sân tầm, hay
có thể suy nghi về hại tầm. To lớn là đại chúng này sống ở trong đời.
Trong đại chúng sống ở đời, có các vị Sa-môn, Bà-la-môn có thần thông,
có thiên nhãn, có tha tâm thông. Các vị này có thể thấy từ xa, tuy ở gần
nhưng không thể thấy chúng được, và chúng có thể biết tâm ta với tâm
của chúng. Chúng biết về ta như sau: "Hãy xem thiện nam tử này, tuy vì
lòng tin xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, nhưng sống xen
lẫn với các pháp ác, bất thiện". Lại có các chư Thiên có thần thông, có
thiên nhãn, có tha tâm thông. Các vị này có thể thấy từ xa, tuy ở gần
nhưng không thấy chúng được, và chúng có thể biết tâm ta với tâm của
chúng. Các vị ấy có thể biết về ta như sau: "Hãy xem thiện nam tử này,
tuy vì lòng tin xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, nhưng
sống xen lẫn với các pháp ác, bất thiện"
Vị ấy lại quan sát như sau: "Thắng tấn là tinh tấn của ta, không có
thụ động; an trú là niệm của ta, không có thất niệm; khinh an là thân
của ta, không có dao động; định tĩnh là tâm của ta, được nhứt tâm". Vị
ấy làm cho tăng thượng thế giới, từ bỏ bất thiện, tu tập thiện, từ bỏ có
tội, tu tập không có tội, giữ gìn cho tự ngã được thanh tịnh. Này các
Tỷ-kheo, đây gọi là thế giới tăng thượng.
3.-Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
pháp tăng thượng?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo đi đến ngôi rừng hay đi đến gốc
cây, hay đi đến ngôi nhà trống, rồi thẩm sát như sau: "Không phải vì y
áo, ta xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Không phải vì món
ăn khất thực, không phải vì sàng tọa, không phải vì nhân có mặt hay
không có mặt ở đây mà ta xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình,
(nhưng với ý nghĩ như sau): "Nay ta bị rơi vào sanh, già, chết, sầu, bi,
khổ, ưu, não, rơi vào khổ bị khổ chi phối. Có thể do làm như vậy, đoạn
tận tất cả các khổ uẩn này được hiện khởi lên cho ta. Pháp được Thế Tôn
khéo thuyết, thiết thực hiện tại, có kết quả ngay tức thời, đến để mà
thấy, có khả năng hướng thượng, được người có trí tự mình tự mình giác
hiểu. Nay ta có những người đồng Phạm hạnh, chúng sống biết và thấy. Ta
đã được xuất gia trong pháp và Luật khéo giảng như vậy, không lẽ ta lại
có thể sống biếng nhác phóng dật. Như vậy, thật không xứng đáng cho ta".
Vị ấy lại quán sát như sau: "Thắng tấn là tinh tấn của ta, không có
thụ động; an trú là niệm của ta, không có thất niệm; khinh an là thân
của ta, không có dao động; định tĩnh là tâm của ta, được nhứt tâm". Vị
ấy làm cho tăng thượng pháp, từ bỏ bất thiện, tu tập thiện, từ bỏ có
tội, tu tập không tội, giữ gìn cho tự ngã được thanh tịnh. Này các
Tỷ-kheo, đây gọi là pháp tăng thượng. Này các Tỷ-kheo, có ba pháp tăng
thượng này.
4.
Trên đời không giấu được
Ác nghiệt tự mình làm
Ngã của ngươi ta biết
Là thật hay là giả
Ngươi thật kinh thiện ngã
Mặt giáp mặt chứng kiến
Muốn che giấu tự ngã
Ðiều ác tự ngã làm
Chư Thiên và Như Lai
Thấy rõ ở trong đời
Sở hành của kẻ ngu
Làm các hạng tà vạy
Vậy vị ngã tăng thượng
Sở hành phải chánh niệm
Vị thế giới tăng thượng
Hãy khôn khéo, Thiền tịnh
Với vị pháp tăng thượng
Hãy sống theo tùy pháp
Ðại sĩ không thối thất
Tinh cần theo chân lý
Nhiếp phục được ma quân
Chiến thắng được tử thần
Với tinh cần tinh tấn
sanh đã được đoạn tận.
Bậc đạo sĩ như vậy,
Hiểu thế gian diệu chí
Ðối với tất cả pháp
Không có gì xúc phạm.
V. Phẩm Nhỏ
41.- Sự Có Mặt
- Do sự có mặt của ba pháp, này các
Tỷ-kheo, một thiện nam tử có lòng tin tạo ra nhiều phước. Thế nào là ba?
Do sự có mặt của lòng tin, này các Tỷ-kheo, một thiện nam tử có lòng
tin tạo ra nhiều phước. Do sự có mặt của vật bố thí, này các Tỷ-kheo,
một thiện nam tử có lòng tin tạo ra nhiều phước. Do sự có mặt của các vị
xứng đáng được cúng dường, này các Tỷ-kheo, một thiện nam tử có lòng
tin tạo ra nhiều phước.
Do sự có mặt của ba pháp này, này các Tỷ-kheo, một thiện nam tử có
lòng tin tạo ra nhiều phước.
42.- Sự Kiện
- Do ba sự kiện, này các Tỷ-kheo, một người được biết là có lòng tin.
Thế nào là ba?
Ưa thấy người có giới hạnh, ưa nghe diệu pháp, với tâm ly cấu uế của
xan tham, sống trong nhà, bố thí rộng rãi với bàn tay sạch sẽ, ưa thích
từ bỏ, sẵn sàng để được yêu cầu, thích phân phát vật bố thí. Do ba sự
kiện này, này các Tỷ-kheo, một người được biết là có lòng tin.
Thích thấy người giới hạnh
Muốn được nghe diệu pháp
Nhiếp phục uế xan tham
Vị ấy gọi có tin
43.- Ba Lợi Ích
- Thấy rõ ba lợi ích này (lý do, lợi ích) là cần thiết cho một người
thuyết pháp cho người khác. Thế nào là ba?
Ai thuyết pháp cần phải liễu giải nghĩa, và cần phải liễu giải pháp.
Ai nghe pháp cần phải liễu giải nghĩa và cần phải liễu giải pháp. Người
thuyết pháp và cả người nghe pháp cần phải liễu giải nghĩa, và cần phải
liễu giải pháp. Thấy rõ ba lợi ích này, này các Tỷ-kheo, là cần thiết
cho một người thuyết pháp cho người khác.
44.- Trường Hợp
- Có ba trường hợp, này các Tỷ-kheo, cuộc pháp thoại được diễn tiến
có lợi ích. Thế nào là ba?
Ai thuyết pháp cần phải liễu giải nghĩa, và cần phải liễu giải pháp.
Ai nghe pháp ... liễu giải pháp. Ai thuyết pháp và ai nghe pháp, cả hai
cần phải liễu giải nghĩa và cần phải liễu giải pháp. Có ba trường hợp
này, này các Tỷ-kheo, là cuộc pháp thoại được diễn tiến có lợi ích.
45.- Bổn Phận
- Ba pháp này, này các Tỷ-kheo, được người Hiền trí tuyên bố, được
bậc Chân nhân tuyên bố. Thế nào là ba?
Bố thí, này các Tỷ-kheo, được người Hiền trí tuyên bố tuyên bố, được
bậc Chân nhân tuyên bố. Xuất gia, này các Tỷ-kheo, được bậc Chân nhân
tuyên bố. Hầu hạ cha mẹ, này các Tỷ-kheo, được người Hiền trí tuyên bố,
được bậc Chân nhân tuyên bố. Ba pháp này, này các Tỷ-kheo, được người
Hiền trí tuyên bố, được bậc Chân nhân tuyên bố.
Biết bố thí thiện sĩ
Bất hại, chế ngự căn
Tự điều, hầu cha mẹ,
Các vị sống phạm hạnh,
Bổn phận kẻ thiện khen
Người Hiền thực hiện chúng
Bậc Thánh thấy rõ vậy
Ðạt được đời an lạc.
46.- Bậc Giới Hạnh
- Gần làng hay thị trấn nào, này các Tỷ-kheo, các bậc xuất gia có
giới hạnh trú ở, tại chỗ ấy, các người nhờ ba sự kiện được gặt nhiều
công đức. Thế nào là ba? Bởi thân, bởi lời nói, bởi ý.
Gần làng hay thị trấn nào, này các Tỷ-kheo, các bậc xuất gia có giới
hạnh trú ở, tại chỗ ấy, các người nhờ ba sự kiện này, được gặt nhiều
công đức.
47.- Hửu Vi
- Có ba tướng hữu vi này, này các Tỷ-kheo, cho các pháp hữu vi. Thế
nào là ba?
Sanh được trình bày rõ, diệt được trình bày rõ, sự biến dị khi đang
trú được trình bày rõ. Có ba tướng hữu vi này, này các Tỷ-kheo, cho các
pháp hữu vi.
- Có ba tướng vô vi này, này các Tỷ-kheo, cho các pháp vô vi. Thế nào
là ba?
Sanh không được trình bày rõ, diệt không được trình bày rõ, sự biến
dị khi đang trú không được trình bày rõ. Có ba tướng vô vi này, này các
Tỷ-kheo, cho các pháp vô vi.
48.- Núi
- Dựa vào vua núi Tuyết Sơn, này các Tỷ-kheo, các cây sàlà to lớn
được lớn lên ba sự tăng trưởng. Thế nào là ba?
Chúng lớn lên về cành, về lá, về toàn bộ lá cây, chúng lớn lên về vỏ
trong và vỏ ngoài hay mầm non, chúng lớn lên về giác cây và lõi cây. Dựa
vào vua núi Tuyết Sơn, này các Tỷ-kheo, các cây sàlà to lớn được lớn
lên ba sự tăng trưởng này.
Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, dựa vào thiện nam tử có lòng tin, các
người trong gia đình được lớn lên ba sự tăng trưởng. Thế nào là ba?
Tăng trưởng về lòng tin, tăng trưởng về giới, tăng trưởng về trí tuệ.
Dựa vào thiện nam tử có lòng tin, này các Tỷ-kheo, các người trong gia
đình được lớn lên ba sự tăng trưởng này.
Như núi đá sừng sựng
Trong rừng sâu rừng rậm
Các cây lớn dựa vào
Lớn lên những thần rừng
Cũng vậy, thiện nam tử
Có lòng tin giới đức
Vợ con và gia quyến
Dựa vào để lớn mạnh
Với tùy tùng bà con
Nhờ cậy để sinh sống
Thấy vị giới hạnh làm
Giới, bố thí, thiện hành
Nếu chúng có mắt sáng
Chúng làm theo vị ấy
Ở đây, làm đúng pháp
Con đường đến cõi lành
Trong Thiên giới hỷ lạc
Ước muốn được hoàn hỷ.
49.- Nhiệt Tình Tinh Tấn
- Có ba trường hợp, này các Tỷ-kheo, nhiệt tình cần phải làm mạnh.
Thế nào là ba?
Các ác bất thiện pháp chưa sanh, cần nhiệt tình làm mạnh đừng cho
sanh. Các Thiện pháp chưa sanh, cần nhiệt tình làm mạnh để cho sanh. Ðể
chịu đựng các thân thọ khổ đã sanh, nhói đau, da diết đau, gay gắt đau,
không thích thú, không thích ý, đoạt mạng sống, cần nhiệt tình làm mạnh.
Có ba trường hợp, này các Tỷ-kheo, nhiệt tình cần phải làm mạnh.
Khi nào Tỷ-kheo, này các Tỷ-kheo, đối với các pháp ác, bất thiện chưa
sanh, nhiệt tình làm mạnh đừng để cho sanh, đối với các pháp thiện chưa
sanh, nhiệt tình làm mạnh để cho sanh khởi. Ðể chịu đựng các thân thọ
đã sanh, khổ đau, nhói đau, da diết đau, gay gắt đau, không thích thú,
không thích ý, đoạt mạng sống, nhiệt tình làm mạnh. Tỷ-kheo ấy, này các
Tỷ-kheo, được gọi là vị có nhiệt tình, thận trọng, chánh niệm để chơn
chánh đoạn tận khổ đau.
50.- Giặc Cướp
- Do đầy đủ ba điều kiện, này các Tỷ-kheo, một tên cướp lớn có thể
chặt được khóa cửa, mang đi được đồ ăn trộm, làm kể cướp trộm một nhà,
làm kẻ đứng đường chận cướp. Thế nào là ba?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, tên cướp lớn dựa vào quanh co hiểm trở, dựa
vào rừng rậm, dựa vào kẻ có quyền lực.
Và thế nào, này các Tỷ-kheo, là tên cướp lớn dựa vào quanh co hiểm
trở? Ở đây, này các Tỷ-kheo, tên cướp lớn dựa vào con sông khó lội qua,
hay sự quanh co hiểm trở của núi non. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là tên
cướp lớn dựa vào sự quanh co hiểm trở.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là tên cướp lớn dựa vào rừng rậm? Ở đây,
này các Tỷ-kheo, tên cướp lớn dựa vào rừng rậm cỏ, hay rừng rậm cây, hay
khóm rừng, hay đám rừng lớn rậm. Như vậy, này các Tỷ-kheo, tên cướp lớn
dựa vào rừng rậm.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là tên cướp lớn dựa vào kẻ có quyền lực? Ở
đây, này các Tỷ-kheo, tên cướp lớn dựa vào vua hay các vị đại thần của
vua và nghĩ như sau: "Nếu có ai kết tội ta, các vua ấy hay các vị đại
thần của vua ấy sẽ giải thích, cứu thoát ta". Và thực sự là như vậy. Như
vậy, này các Tỷ-kheo, tên cướp lớn dựa vào kẻ có quyền lực.
Do đầy đủ ba điều kiện này, này các Tỷ-kheo, một tên cướp lớn có thể
chặt được khóa cửa, mang đi được đồ ăn trộm, làm kể cướp trộm một nhà,
làm kẻ đứng đường chận cướp.
Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, vị ác Tỷ-kheo đầy đủ ba pháp, tự mình sử
sự một vật mất gốc, bị thương tích, phạm tội, bị kẻ trí quở trách, và
tạo nên nhiều điều vô phước. Thế nào là ba?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, ác Tỷ-kheo dựa vào quanh co hiểm trở, dựa vào
rừng rậm và dựa vào kẻ có quyền lực.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là ác Tỷ-kheo dựa vào sự hiểm trở? Ở đây,
này các Tỷ-kheo, ác Tỷ-kheo đầy đủ với thân hành quanh co hiểm trở, với
ngữ hành quanh co hiểm trở, với ý hành quanh co hiểm trở. Như vậy, này
các Tỷ-kheo, là ác Tỷ-kheo dựa vào quanh co hiểm trở.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là ác Tỷ-kheo dựa vào rừng rậm? Ở đây,
này các Tỷ-kheo, ác Tỷ-kheo có tà kiến, đầy đủ những tri kiến đi đến cực
đoan. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là các Tỷ-kheo dựa vào rừng rậm.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là ác Tỷ-kheo dựa vào kẻ có quyền? Ở đây,
này các Tỷ-kheo, dựa vào các vua hay các đại thần của vua, ác Tỷ-kheo
nghĩ rằng: "Nếu có ai kết tội ta, các vua ấy, hay các đại thần của vua
ấy sẽ giải thích, cứu thoát ta". Và thực sự là như vậy. Như vậy, này các
Tỷ-kheo, là ác Tỷ-kheo dựa vào kẻ có quyền lực.
Ðầu đủ ba pháp này, này các Tỷ-kheo, ác Tỷ-kheo tự mình xử sự như một
vật mất gốc, bị thương tích, phạm tội, bị kẻ trí quở trách, và tạo nên
nhiều điều vô phước.
VI. Phẩm Các Bà La Môn
51.- (a) Hai Người
- Có hai vị Bà-la-môn già yếu, trưởng
lão, tuổi lớn, cuộc đời đã được trải qua, đã đến đoạn cuối cuộc đời, đã
120 tuổi, đi đến Thế Tôn ... ngồi xuống một bên, những Bà-la-môn ấy bạch
Thế Tôn:
- Thưa Tôn giả Gotama, chúng tôi là những Bà-la-môn già yếu, trưởng
lão, tuổi lớn, đời đã được trải qua, đã đến đoạn cuối cuộc đời, đã 120
tuổi, nhưng chúng tôi không làm điều lành, không làm điều thiện, không
làm những điều để chấm dứt các sợ hãi. Tôn giả Gotama hãy răn dạy chúng
tôi, Tôn giả Gotama hãy giảng dạy chúng tôi. Nhờ vậy, chúng tôi sẽ được
hạnh phúc, an lạc lâu dài.
- Thật vậy, các ông là những Bà-la-môn già yếu, ... đã 120 tuổi,
nhưng các Ông không làm điều lành ... không làm những điều để chấm dứt
các sợ hãi. Thật vậy, này các Bà-la-môn, thế giới này đã bị già, bệnh,
chết dắt dẫn. Thế giới đã bị già, bệnh, chết dắt dẫn như vậy, này các
Bà-la-môn, thời chế ngự thân, chế ngự lời nói, chế ngự ý trong đời này,
đối với kẻ đã đi đến cõi chết, phải là chỗ nương tựa, là hang trú ẩn, là
hòn cù lao (hay ngọn đèn), là chỗ quy y và là đích xứ nó đến.
Ðời sống bị dắt dẫn
Mạng sống chẳng là bao
Bị già kéo dẫn đi
Không có nơi nương tựa
Hãy luôn luôn quán tưởng
Sợ hãi tử vong này
Hãy làm các công đức
Ðưa đến chơn an lạc.
Ở đây chế ngự thân,
Chế ngự lời và ý,
Kẻ ấy dầu có chết,
Cũng được hưởng an lạc,
Vì khi còn đang sống
Ðã làm các công đức.
52.- (b) Hai Người
Rồi Bà-la-môn già yếu, trưởng lão, tuổi lớn ... đi đến Thế Tôn, bạch
Thế Tôn:
- Thưa Tôn giả Gotama, chúng tôi là những Bà-la-môn già yếu, trưởng
lão, tuổi lớn, đời đã được trải qua, đã đến đoạn cuối cuộc đời, đã 120
tuổi, nhưng chúng tôi không làm điều lành, không làm điều thiện, không
làm những điều để chấm dứt các sợ hãi. Tôn giả Gotama hãy răn dạy chúng
tôi, Tôn giả Gotama hãy giảng dạy chúng tôi. Nhờ vậy, chúng tôi sẽ được
hạnh phúc, an lạc lâu dài.
- Thật vậy, các ông là những Bà-la-môn già yếu, ... đã 120 tuổi,
nhưng các Ông không làm điều lành ... là chỗ quy y và là đích xứ nó đến.
Trong ngôi nhà bị cháy,
Ðồ đạc được đem ra,
Ðồ ấy lợi cho nó,
Không phải đồ bị cháy,
Cũng vậy đời bị cháy,
Do già chết thiêu đốt,
Nhờ bố thí tự cứu
Khéo cứu, đồ bố thí.
Ở đây, chế ngự thân,
Chế ngự lời và ý,
Kẻ ấy dầu có chết,
Cũng được hưởng an lạc,
Vì khi còn đang sống
Ðã làm các công đức.
53.- Vị Bà La Môn
Rồi một Bà-la-môn đi đến Thế Tôn, sau khi đến, nói lên với Thế Tôn
những lời chào đón hỏi thăm ... Ngồi xuống một bên, Bà-la-môn ấy bạch
Thế Tôn:
- Pháp là thiết thực hiện tại, thưa Tôn giả Gotama, được nói đến như
vậy. Cho đến như thế nào, thưa Tôn giả Gotama, pháp là thiết thực hiện
tại, không có thời gian, đến để mà thấy, có khả năng hướng thượng, được
người trí tự mình giác hiểu?
- Bị tham ái làm say đắm, này Bà-la-môn, bị chinh phục, tâm bị xâm
chiếm, nên suy nghĩ điều hại mình, suy nghĩ điều hại người, suy nghĩ
điều hại cả hai, cảm thọ tâm khổ tâm ưu. Tham ái được đoạn trừ, thời
không nghĩ đến tự hại, không nghĩ đến hại người, không nghĩ đến hại cả
hai, không cảm thọ tâm khổ tâm ưu. Như vậy, này Bà-la-môn, pháp là thiết
thực hiện tại, không có thời gian, đến để mà thấy, có khả năng hướng
thượng, được người trí tự mình giác hiểu.
Bị sân làm uế nhiễm, này Bà-la-môn, bị chinh phục, tâm bị xâm chiếm,
nên suy nghĩ điều hại mình, ... tâm khổ tâm ưu. Sân được đoạn trừ, thời
không nghĩ đến tự hại..... không cảm thọ tâm khổ tâm ưu. Như vậy, này
Bà-la-môn, pháp là thiết thực hiện tại, không có thời gian, đến để mà
thấy, có khả năng hướng thượng, được người trí tự mình giác hiểu.
Bị si làm cho mê mờ, này Bà-la-môn, bị chinh phục, tâm bị xâm chiếm,
nên suy nghĩ điều hại mình, ... tâm khổ tâm ưu. Si được đoạn trừ, thời
không nghĩ đến tự hại, không nghĩ đến hại người, không nghĩ đến hại cả
hai, không cảm thọ tâm khổ tâm ưu. Như vậy, này Bà-la-môn, pháp là thiết
thực hiện tại, không có thời gian, đến để mà thấy, có khả năng hướng
thượng, được người trí tự mình giác hiểu.
- Thật vi diệu thay, thưa Tôn giả Gotama! Xin Tôn giả Gotama nhận con
làm đệ tử cư sĩ, từ nay cho đến mạng chung, con xin trọn đời quy
ngưỡng.
54.- Bà La Môn Cư Sĩ
Rồi một Bà-la-môn du sĩ đi đến; Thế Tôn, sau khi đến, ... Ngồi xuống
một bên, Bà-la-môn du sĩ bạch Thế Tôn:
- Pháp là thiết thực hiện tại, thưa Tôn giả Gotama, được nói đến như
vậy. Cho đến như thế nào, thưa Tôn giả Gotama, pháp là thiết thực hiện
tại, không có thời gian, đến để mà thấy, có khả năng hướng thượng, được
người trí tự mình giác hiểu?
- Bị tham ái làm say đắm, này Bà-la-môn, bị chinh phục, tâm bị xâm
chiếm ... cảm thọ tâm khổ tâm ưu. Tham ái được đoạn trừ ... không cảm
thọ tâm khổ tâm ưu.
Bị tham ái làm say đắm, này Bà-la-môn, bị chinh phục, tâm bị xâm
chiếm, vị ấy làm ác hạnh về thân ... ác hạnh về lời nói, ác hạnh về ý.
Tham ái được đoạn trừ, vị ấy không làm ác hạnh về thân ... ác hạnh về
lời nói ... , ác hạnh về ý.
Bị tham ái làm say đắm, này Bà-la-môn, bị chinh phục, tâm bị xâm
chiếm, vị ấy không như thật rõ biết lợi ích của mình, không như thật rõ
biết lo của người, không như thật rõ biết lợi ích của cả hai. Tham ái
được đoạn trừ, vị ấy như thật rõ biết lợi ích của mình, như thật rõ biết
lo của người, như thật rõ biết lợi ích của cả hai
Như vậy, này Bà-la-môn, pháp là thiết thực hiện tại, không có thời
gian, đến để mà thấy, có khả năng hướng thượng, được người trí tự mình
giác hiểu.
Bị sân làm uế nhiễm, này Bà-la-môn ...
Bị si làm mê mờ, này Bà-la-môn, bị chinh phục, tâm bị xâm chiếm, nên
suy nghĩ đến hại mình ... nên suy nghĩ đến hại cả hai, cảm thọ tâm khổ
tâm ưu. Si được đoạn trừ, thời không nghĩ đến tự hại ... không cảm thọ
tâm khổ tâm ưu.
Bị si làm cho mê mờ, này Bà-la-môn, bị chinh phục,tâm bị xâm chiếm,
nên làm ác hạnh về thân ... ác hạnh về lời nói, ác hạnh về ý. Si được
đoạn trừ, thời không làm ác hạnh về thân ... ác hạnh về lời nói ... , ác
hạnh về ý.
Bị si làm cho mê mờ, này Bà-la-môn, bị chinh phục, tâm bị xâm chiếm,
nên không như thật rõ biết lợi ích của mình, không như thật rõ biết lợi
ích cho người, không như thật rõ biết lợi ích của cả hai. Si được đoạn
trừ, thời như thật rõ biết lợi ích cho mình, như thật rõ biết lợi ích
cho người, như thật rõ biết lợi ích của cả hai
Như vậy, này Bà-la-môn, pháp là thiết thực hiện tại, không có thời
gian, đến để mà thấy, có khả năng hướng thượng, được người trí tự mình
giác hiểu.
55.- Niết-bàn
Rồi Bà-la-môn Jànussoni đi đến Thế Tôn ... Ngồi xuống một bên,
Bà-la-môn Jànussoni bạch Thế Tôn:
- Thiết thực hiện tại là Niết bàn, thưa Tôn giả Gotama, được nói đến
như vậy. Cho đến như thế nào, thưa Tôn giả Gotama, Niết bàn là thiết
thực hiện tại, không có thời gian, đến để mà thấy, có khả năng hướng
thượng, được người trí tự mình giác hiểu?
- Bị tham ái làm say đắm, này Bà-la-môn, bị chinh phục, tâm bị xâm
chiếm, nên suy nghĩ điều hại mình, suy nghĩ điều hại người, suy nghĩ
điều hại cả hai, cảm thọ tâm khổ tâm ưu. Tham ái được đoạn trừ, thời
không nghĩ đến tự hại, không nghĩ đến hại người, không nghĩ đến hại cả
hai, không cảm thọ tâm khổ tâm ưu. Như vậy, này Bà-la-môn, Niết bàn là
thiết thực hiện tại, không có thời gian, đến để mà thấy, có khả năng
hướng thượng, được người trí tự mình giác hiểu.
Bị si làm uế nhiễm, này Bà-la-môn ...
Bị sân làm mê mờ, này Bà-la-môn, bị chinh phục, tâm bị xâm chiếm, nên
suy nghĩ đến hại mình ... nên suy nghĩ đến hại cả hai, cảm thọ tâm khổ
tâm ưu. Si được đoạn trừ, thời không nghĩ đến tự hại ... không cảm thọ
tâm khổ tâm ưu.
Như vậy, này Bà-la-môn, Niết bàn là thiết thực hiện tại, không có
thời gian, đến để mà thấy, có khả năng hướng thượng, được người trí tự
mình giác hiểu.
Khi vị ấy, này Bà-la-môn, cảm thọ tham ái được đoạn tận, không có dư
tàn, cảm thọ sân được đoạn tận, không có dư tàn, cảm thọ si được đoạn
tận, không có dư tàn. Như vậy, này Bà-la-môn, Niết bàn là thiết thực
hiện tại, không có thời gian, ... được người trí tự mình giác hiểu.
- Thật vi diệu thay, thưa Tôn giả Gotama! Mong Tôn giả Gotama nhận
con làm đệ tử cư sĩ, từ nay cho đến mạng chung, con xin trọn đời quy
ngưỡng.
56.- Người Giàu Có
Rồi một Bà-la-môn giàu có lớn đi đến Thế Tôn, ... Ngồi xuống một bên,
Bà-la-môn giàu có lớn bạch Thế Tôn:
- Con có nghe, thưa Tôn giả Gotama, các Bà-la-môn thuở xưa, các
trưởng lão lớn tuổi, bậc thầy của các bậc Thầy nói rằng: "Thuở xưa, thế
giới này quá sung mãn, với người, - người ta nghĩ như một vực sâu không
có sóng, các làng, các thị trấn, các kinh thành quá gần để một con gà
trống có thể bước từ chỗ này qua chỗ kia."
Do nhân gì, thưa Tôn giả Gotama, do duyên gì, ngày nay loài người lại
bị tiêu diệt, bị giảm thiểu trông rõ như thế, các làng trở thành không
phải làng, các thị trấn trở thành không phải thị trấn, các thành phố trở
thành không phải thành phố, các quốc độ trở thành không phải quốc độ?
- Ngày nay, này Bà-la-môn, loài người bị tham ái phi pháp làm cho say
đắm, và bị ác tham chinh phục, bị tà kiến chi phối. Vì bị tham ái phi
pháp làm cho say đắm, vì bị ác tham chinh phục, vì bị tà kiến chi phối,
chúng cầm gươm sắc bén sát hại lẫn nhau. Do vậy, nhiều người mạng chung.
Ðây là nhân, này Bà-la-môn, đây là duyên, ngày nay loài người bị tiêu
diệt, bị giảm thiểu trông rõ như thế ... các quốc độ trở thành không
quốc độ.
Lại nữa, này Bà-la-môn, ngày nay, các loài người bị tham ái phi pháp
làm cho say đắm ... bị các tà kiến chi phối. Vì bị tham ái phi pháp làm
cho say đắm ... vì bị tà kiến chi phối, trời không mưa xuống đều đặn. Vì
vậy, bữa ăn khó tìm, mùa màng hư mất, trắng xóa với côn trùng, chỉ còn
lại cọng dẹp. Do vậy, nhiều người mạng chung. Ðây là nhân, này
Bà-la-môn, đây là duyên, vì sao ngày nay loài người bị tiêu diệt, bị
giảm thiểu trông rõ như thế ... các quốc độ trở thành không phải quốc
độ.
Lại nữa, này Bà-la-môn, ngày nay, các loài người bị tham ái phi pháp
làm cho say đắm ... bị các tà kiến chi phối. Vì bị tham ái phi pháp làm
cho say đắm ... vì bị các tà kiến chi phối, các loài Yakkha (Dạ-xoa) thả
ra các loài phi nhân dữ tợn. Vì vậy, nhiều người mệnh chung. Ðây là
nhân, này Bà-la-môn, đây là duyên, ngày nay loài người bị tiêu diệt, bị
giảm thiểu trông rõ như thế ... các quốc độ trở thành không phải quốc
độ.
- Thật vi diệu thay, thưa Tôn giả Gotama! ... Tôn giả Gotama hãy nhận
con làm đệ tử cư sĩ, từ nay cho đến mạng chung, con xin trọn đời quy
ngưỡng.
57.- Vacchagotta
Rồi du sĩ Vacchagotta đi đến Thế Tôn, ... Ngồi xuống một bên, du sĩ
Vacchagotta thưa với Thế Tôn:
- Tôi có được nghe, thưa Tôn giả Gotama, Sa-môn Gotama nói như sau:
"Cần phải bố thí cho Ta, không cần bố thí cho người khác. Cần phải bố
thí cho đệ tử của Ta, không cần phải bố thí cho đệ tử những người khác.
Bố thí cho Ta có quả lớn, bố thí cho những người khác không có quả lớn.
Bố thí cho các đệ tử của ta có quả lớn, bố thí cho những đệ tử của người
khác không có quả lớn!". Thưa Tôn giả Gotama, những ai nói rằng Sa-môn
nói như sau: "Cần phải bố thí cho Ta ... không có được quả lớn!". Những
người nói như vậy, có phải nói đúng lời nói của Tôn giả Gotama, không có
xuyên tạc Tôn giả Gotama với điều không thật? Có phải họ nói như vậy là
đúng pháp và thuận pháp, và những ai là người đồng pháp, nói lời đúng
pháp và thuận pháp, không có cơ hội để chỉ trích? Họ không muốn
xuyên tạc Tôn giả Gotama?
- Này Vaccha, những ai nói rằng Sa-môn Gotama nói như sau: "Cần phải
bố thí cho ta ... có được quả lớn!", những người ấy không nói đúng với
lời nói của ta, họ đã xuyên tạc ta với điều không thật, họ đã nói láo.
Này Vaccha, ai ngăn chận người khác bố thí, người ấy tạo ra ba chướng
ngại pháp và đánh cắp mất ba vật. Thế nào là ba?
Người ấy làm chướng ngại người cho không được công đức, người ấy ngăn
chặn người nhận không được bố thí, và tự ngã người ấy trước đã mất gốc,
lại càng bị thương tổn hơn. Này Vaccha, ai ngăn chặn người cho không bố
thí người khác, tạo ra ba chướng ngaị như vậy, và đánh cắp mất ba vật.
Này Vaccha, ta nói như sau: "Những ai đổ đồ phế thải trên mâm bàn, hay
đồ rửa chén bát vào hố phân hay hố rác rưởi (với ý nghĩ) để các loài hữu
tình trong ấy nhờ đấy được ăn để sống". Do nhân duyên ấy, này Vaccha,
ta nói có đem lại công đức, còn nói gì đối với loài người.
Lại nữa, này Vaccha, Ta tuyên bố rằng, cho người có giới hạnh được
quả lớn, cho người ác giới không phải như vậy. Người có giới hạnh là
người đã đoạn tận năm pháp và đã đầy đủ năm pháp.
Thế nào là năm pháp đã được đoạn tận? Dục tham đã được đoạn tận, sân
đã được đoạn tận, hôn trầm thùy miên đã được đoạn tận, trạo hối đã được
đoạn tận, nghi đã được đoạn tận, năm pháp này đã được đoạn tận.
Năm pháp nào đã được đầy đủ?
Ðầy đủ vô học giới uẩn, đầy đủ vô học định uẩn, đầy đủ vô học tuệ
uẩn, đầy đủ vô học giải thoát uẩn, đầy đủ vô học giải thoát tri kiến
uẩn. Vị ấy được đầy đủ năm pháp này. Ở đây, Ta tuyên bố rằng, bố thí cho
người đoạn tận năm pháp, đầy đủ năm pháp có quả lớn.
Như trong một đàn bò,
Có con đen, trắng, đỏ
Màu hung hay có đốm,
Có con màu bồ câu
Dầu con bò màu gì,
Kiếm được con bò thuần,
Con vật kéo sức mạnh,
Ðẹp, lanh và hăng hái,
Mặc kệ nó màu gì,
Liền mắc vào gánh nặng,
Cũng vậy, giữa loài người,
Dầu có sinh chỗ nào,
Hoàng tộc, Bà-la-môn
Thương gia hay nô bộc,
Kẻ không có giai cấp,
Hay hạ cấp đổ phân,
Giữa những người như vậy.
Ai điều phục thuần thục,
Ngay thẳng, đủ giới đức
Nói thực, biết tàm quý,
Sanh tử đã đoạn tận,
Phạm hạnh được vẹn toàn
Gánh nặng đã hạ xuống,
Không còn bị trói buộc,
Việc cần làm đã làm,
Không còn bị lậu hoặc,
Ðã đến bờ bên kia,
Không chấp pháp tịch tịnh,
Phước điền ấy vô cấu.
Quả lớn đáng cúng dường;
Như kẻ ngu không biết,
Thiếu trí, ít nghe nhiều,
Chỉ bố thí bên ngoài,
Không đến gần kẻ thiện,
Những ai gần kẻ thiện,
Có tuệ, tôn bực hiền
Họ tin bậc Thiện Thệ,
An trú tận gốc rễ.
Sanh Thiên hay ở đây
Ðược sanh gia đình tốt
Bậc trí tuần tự tiến
Chứng được cảnh Niết-bàn.
58.- Tikanna
1-6
Rồi Bà-la-môn Tikanna đi đến Thế Tôn, sau khi đến, nói lên với Thế
Tôn ... Ngồi xuống một bên, Bà-la-môn Tikanna, trước mặt Thế Tôn, tán
thán các bậc Bà-la-môn có đầy đủ ba minh.
- Phải, này Bà-la-môn, họ là các bậc có ba minh. Phải, các Bà-la-môn
có ba minh. Cho đến như thế nào, này Bà-la-môn, các Bà-la-môn diễn tả ba
minh của các Bà-la-môn?
- Ở đây, thưa Tôn giả Gotama, vị Bà-la-môn thiện sanh cả từ mẫu và
phụ hệ, huyết thống thanh tịnh cho đến bảy đời tổ phụ, không bị một vết
nhơ nào, không bị một dèm pha nào về vấn đề huyết thống thọ sanh, nhà
phúng tụng, nhà trì chú, thông hiểu ba tập Veda với danh nghĩa, lễ nghi,
ngữ nguyên, chú giải và các cổ truyện là thứ năm, thông hiểu ngữ pháp
và văn phạm, biện tài về thuận thế (tự nhiên học) và tướng của các vị
đại nhân. Như vậy, thưa Tôn giả Gotama, các vị Bà-la-môn diễn tả ba minh
các vị Bà-la-môn.
- Thật là khác, này Bà-la-môn, các Bà-la-môn diễn tả ba minh của các
Bà-la-môn. Thật là khác ba minh trong luật của bậc thánh.
- Như thế nào, thưa Tôn giả Gotama, là ba minh trong giới luật của
bậc thánh? Lành thay, nếu Tôn giả Gotama thuyết pháp cho chúng tôi về ba
minh trong Luật của bậc Thánh.
- Vậy Bà-la-môn hãy nghe và khéo tác ý, ta sẽ giảng.
- Thưa vâng, Tôn giả.
Bà-la-môn Tikana vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau:
- Ở đây, này Bà-la-môn, Tỷ-kheo ly dục, ly các pháp ác, bất thiện,
chứng đạt và an trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục
sanh, với tầm với tứ, làm cho tịnh chỉ tầm và tứ, vị ấy chứng đạt và an
trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm không
tứ, nội tĩnh, nhất tâm. Ly hỷ, trú xả, chánh niệm, tỉnh giác, thân cảm
sự lạc thọ mà các bậc thánh gọi là xả niệm lạc trú, vị ấy chứng đạt và
an trú Thiền thứ ba. Xả lạc, xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, vị ấy
chứng đạt và an trú Thiền thứ tư, không khổ, không lạc, xả niệm thanh
tịnh.
3- Với tâm định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền não,
nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình thản như vậy, vị ấy dẫn tâm,
hướng tâm đến túc mạng minh. Vị ấy nhớ đến các đời sống quá khứ, như một
đời, hai đời, ba đời, bốn đời, năm đời, mười đời, hai mươi đời, ba mươi
đời, bốn mươi đời, năm mươi đời, một trăm đời, hai trăm đời, một ngàn
đời, một trăm ngàn đời. Nhiều hoại kiếp, nhiều thành kiếp nhiều hoại và
thành kiếp. Vị ấy nhớ rằng: "Tại chỗ kia, ta có tên như thế này, dòng họ
như thế này, giai cấp như thế này, thổ lạc như thế này, tuổi thọ đến
mức như thế này. Sau khi chết tại chỗ kia, ta được sanh ra tại chỗ nọ.
Tại chỗ ấy, ta có tên như thế này, dòng họ như thế này, giai cấp như thế
này, thổ lạc như thế này, tuổi thọ đến mức như thế này. Sau khi
chết tại chỗ nọ, ta được sanh ra ở đây." Như vậy, vị ấy nhớ đến nhiều
đời sống quá khứ, cùng với các nét đại cương và các nét chi tiết. Ðây là
minh thứ nhất đã đạt được, vô minh diệt, minh khởi, bóng tối diệt, ánh
sáng sanh, đối với vị an trú không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần.
4.-Với tâm định tĩnh, thuần tịnh,
không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc,
bình thản như vậy, vị Tỷ-kheo dẫn tâm, hướng tâm đến trí tuệ về sanh tử
của chúng sanh. Vị ấy với thiên nhãn thuần tịnh, siêu nhân, thấy sự sống
và chết của chúng sanh. Vị ấy biết rõ rằng, chúng sanh người hạ liệt,
kẻ cao sang, người đẹp đẽ, kẻ thô xấu, người may mắn, kẻ bất hạnh, đều
do hạnh nghiệp của họ.
Các chúng sanh này làm những ác hạnh về thân, ngữ, ý, phỉ báng các
bậc thánh, theo tà kiến, tạo các nghiệp theo tà kiến. Những người này,
sau khi thân hoại mạng chung, phải sanh vào cõi dữ, ác thú đọa xứ, địa
ngục. Còn những chúng sanh này làm những thiện hạnh về thân, ngữ, ý,
không phỉ báng các bậc thánh, theo chánh kiến, tạo các nghiệp theo chánh
kiến. Những người này, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh lên các
cõi thiện, cõi trời, cõi đời này. Như vậy, vị ấy với Thiên nhãn, thấy sự
sống chết của chúng sanh. Vị ấy biết rõ rằng, chúng sanh người hạ liệt,
kẻ cao sang, người đẹp đẽ, kẻ thô xấu, người may mắn, kẻ bất hạnh, đều
do hạnh nghiệp của họ. Ðây là minh thứ hai đã đạt được, vô minh diệt,
minh khởi, bóng tối diệt, ánh sáng sanh, đối với vị an trú không
phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần.
5.-Với tâm định tĩnh, thuần tịnh,
không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc,
bình thản như vậy, vị ấy dẫn tâm, hướng tâm đến lậu tận trí. Vị ấy biết
như thật: "Ðây là khổ", biết như thật: "Ðây là nguyên nhân của khổ",
biết như thật: "Ðây là khổ diệt", biết như thật: "Ðây là con đường đưa
đến khổ diệt". Biết như thật: "Ðây là những lậu hoặc", biết như thật:
"Ðây là nguyên nhân các lậu hoặc", biết như thật: "Ðây là sự diệt trừ
các lậu hoặc", biết như thật: "Ðây là con đường đưa đến sự diệt trừ các
lậu hoặc". Nhờ hiểu biết như vậy, nhận thức như vậy, tâm của vị ấy thoát
khỏi dục lậu, thoát khỏi hữu lậu, thoát khỏi vô minh lậu. Ðối với tự
thân đã giải thoát như vậy, khởi lên sự hiểu biết: "Ta đã giải thoát".
Vị ấy biết: "Sanh đã tận, Phạm hạnh
đã thành, việc cần làm đã làm, sau đời hiện tại, không có đời sống nào
khác nữa". Ðây là minh thứ ba đã đạt được, vô minh diệt, minh khởi, bóng
tối diệt, ánh sáng sanh, đối với vị an trú không phóng dật, nhiệt tâm,
tinh cần.
6.-
Giới hạnh không cao thấp
Khôn khéo và thiền tịnh,
Với tâm được chinh phục,
Nhứt tâm, khéo định tĩnh,
Bậc trí đoạn mê ám,
Ba minh, diệt tử thần,
Vị ấy được tôn xưng,
Ðại hạnh cho Trời Người,
Bậc "Ðoạn tận tất cả",
Ðầy đủ cả ba minh
An trú không mê vọng,
Ðức Phật, bậc Giác Ngộ,
Bậc chứng thân tối hậu,
Chúng lễ Gotama.
Ai biết được đời trước,
Thấy Thiên giới, đọa giới,
Vị ấy là đạo sĩ,
Ðoạn sanh, đạt thắng trí
Vị Bà-la-môn nào,
Chứng được ba minh này,
Ta gọi là ba minh
Không như thường được gọi.
Như vậy, này Bà-la-môn, là ba minh trong Luật của bậc Thánh.
- Thật khác, thưa Tôn giả Gotama, là ba minh của các Bà-la-môn! Thật
khác là ba minh trong Luật của bậc Thánh! Và thưa Tôn giả Gotama, người
có được ba minh của các Bà-la-môn không sánh bằng một phần mười sáu của
vị chứng minh trong Luật của bậc Thánh.
59. - Jànussoni
1-4
Rồi có Bà-la-môn Jànussoni đi đến Thế Tôn, sau khi đến ... ngồi xuống
một bên, Bà-la-môn Jànussoni bạch Thế Tôn:
- Ai làm lễ tế đàn, thưa Tôn giả Gotama, hay ai làm lễ cúng linh, hay
ai có bố thí, cần phải bố thí các vật ấy cho các vị Bà-la-môn có ba
minh.
Cho đến như thế nào, này Bà-la-môn, các vị Bà-la-môn diễn tả một
Bà-la-môn có ba minh?
Ở đây, thưa Tôn giả Gotama, vị Bà-la-môn thiện sanh cả từ mẫu hệ và
phụ hệ, huyết thống thanh tịnh cho đến bảy đời tổ phụ, không bị một vết
nhơ nào, không bị môt dèm pha nào về vấn đề huyết thống thọ sanh, nhà
phúng tụng, nhà trì chú, thông hiểu ba tập Vệ đà với danh nghĩa, lễ
nghi, ngữ nguyên, chú giải, và các cổ truyện là thứ năm, thông hiểu ngữ
pháp và văn phạm, biện tài về thuận thế (tự nhiên học) và tướng của vị
Ðại nhân. Như vậy, thưa Tôn giả Gotama, các Bà-la-môn diễn tả ba minh
của các Bà-la-môn.
- Thật là khác, này Bà-la-môn, các Bà-la-môn diễn tả ba minh của các
Bà-la-môn. Thật là khác, ba minh trong Luật của bậc Thánh.
- Như thế nào, thưa Tôn giả Gotama, là ba minh trong giới Luật của
bậc Thánh? Lành thay, nếu Tôn giả Gotama thuyết giảng cho chúng tôi về
ba minh trong giới Luật của bậc Thánh.
- Vậy Bà-la-môn hãy nghe và khéo tác ý. Ta sẽ giảng.
- Thưa vâng, Tôn giả.
Bà-la-môn Jànussoni vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau:
2- Ở đây, này Bà-la-môn, Tỷ-kheo ly dục, ly các pháp ác, bất thiện,
chứng đạt và an trú Thiền thứ nhất ... chứng đạt và an trú Thiền thứ tư,
không khổ không lạc, xả niệm thanh tịnh.
Với tâm định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu
nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình thản như vậy, vị ấy dẫn tâm, hướng
tâm đến túc mạng minh. Vị ấy nhớ đến các đời sống quá khứ như một đời,
hai đời ... Ðây là minh thứ nhất đã đạt được, vô minh diệt, minh khởi
bóng tối diệt, ánh sánh sanh, đối với vị an trú không phóng dật, nhiệt
tâm, tinh cần.
Với tâm định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu
nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình thản như vậy, vị ấy dẫn tâm, hướng
tâm đến trí tuệ về sanh tử của chúng sanh. Vị ấy, với thiên nhãn thuần
tịnh, siêu nhân ... đều do hạnh nghiệp của chúng. Ðây là minh thứ hai đã
đạt được, vô minh diệt, minh khởi bóng tối diệt, ánh sánh sanh, đối với
vị an trú không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần.
4.-Với tâm định tĩnh, thuần tịnh,
không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc,
bình thản như vậy, vị ấy dẫn tâm, hướng tâm đến lậu tận trí. Vị ấy biết
như thật: "Ðây là khổ" ... "... không có đời sống nào khác nữa." Ðây là
minh thứ ba đã đạt được, vô minh diệt, minh khởi bóng tối diệt, ánh sánh
sanh, đối với vị không phóng dật, an trú, nhiệt tâm, tinh cần.
Ai đầy đủ giới hạnh
Tinh cần và định tĩnh
Với tầm được chinh phục
Nhứt tâm khéo định tĩnh
Ai biết được đời trước
Thấy Thiên giới đọa xứ
Vị ấy là đạo sĩ
Ðoạn sanh, đạt thắng trí
Vị Bà-la-môn nào,
Chứng được ba minh này,
Ta gọi là ba minh
Không như thường được gọi.
Như vậy, này Bà-la-môn, là ba minh trong Luật của bậc Thánh.
- Thật thế, thưa Tôn giả Gotama, là ba minh của các Bà-la-môn! Thật
khác, là ba minh trong Luật của bậc Thánh! Và thưa Tôn giả Gotama, người
có được ba minh của các Bà-la-môn không sánh bằng một phần mười sáu của
vị chứng ba minh trong Luật của bậc Thánh! Thật vi diệu thay, Tôn giả
Gotama! ... mong Tôn giả Gotama nhận con làm đệ tử, từ nay cho đến mạng
chung, con xin trọn đời quy ngưỡng?
60.- Sangàrava
1-7
- Rồi có Bà-la-môn Sangàrava đi đến Thế Tôn, ... ngồi xuống một bên,
Bà-la-môn Sangàrava bạch Thế Tôn:
- Thưa Tôn giả Gotama, chúng tôi làm lễ tế đàn và khuyên các người
khác làm lễ tế đàn. Ở đây, thưa Tôn giả Gotama, ai làm lễ tế đàn và ai
khuyên các người khác làm lễ tế đàn, tất cả đều thực hành con đường đưa
đến công đức cho nhiều người, tức là kết quả của tế đàn. Thưa Tôn giả
Gotama, ai xuất gia, từ bỏ gia tộc, từ bỏ gia đình, sống không gia đình,
chỉ nhiếp phục một tự ngã của mình, chỉ an tịnh một tự ngã của mình,
chỉ làm cho một tự ngã chứng được Niết-bàn. Như vậy, người ấy thực hành
con đường đưa đến công đức chỉ có một mình, tức là kết quả của sự xuất
gia.
- Vậy này Bà-la-môn, ở đây, Ta sẽ hỏi Ông. Ông kham nhẫn như thế nào,
hãy như vậy trả lời. Ông nghĩ như thế nào, này Bà-la-môn, ở đây, Thế
Tôn xuất hiện ở đời, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiên
Tuệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư,
Phật, Thế Tôn. Vị ấy nói như sau: "Ðây là con đường, đây là đạo lộ, nhờ
thực hành con đường này, Ta đã thể nhập vô thượng Phạm hạnh, tự mình với
thắng trí, chứng đạt, an trú và tuyên thuyết. Các người hãy đến! Hãy
như vậy thực hành! Các người sẽ thể nhập vô thượng Phạm hạnh, tự mình
với thắng trí, chứng đạt và an trú". Như vậy, vị Ðạo sư này thuyết pháp,
và các người khác như thật hành trì. Số người như vậy là hàng trăm,
hàng ngàn, hàng trăm ngàn. Ông nghĩ thế nào, này Bà-la-môn, sự việc là
như vậy, thời con đường đưa đến công đức này ảnh hưởng chỉ đến một người
hay ảnh hưởng đến nhiều người, tức là kết quả của sự xuất gia?
- Sự việc này là như vậy, thưa Tôn giả Gotama, con đường đưa đến công
đức này là ảnh hưởng đến nhiều người, tức là kết quả của sự xuất gia.
Ðược nghe nói như vậy, Tôn giả Ananda nói với Bà-la-môn Sangàrava:
- Trong hai con đường, này Bà-la-môn, con đường nào, Ông có thể kham
nhẫn là giản dị hơn, ít khó chịu hơn, kết quả lớn hơn và lợi ích hơn?
Ðược nói như vậy, Bà-la-môn Sangàrava nói với Tôn giả Ananda:
- Như Tôn giả Gotama và Tôn giả Ananda, cả hai đối với tôi là đáng
kính lễ và đáng tán thán.
Lần thứ hai, Tôn giả Ananda nói với Bà-la-môn Sangàrava:
- Này Bà-la-môn, Ta không hỏi Ông như vậy: "Những ai là đáng đảnh lễ,
hay những ai là đáng tán thán? "Này Bà-la-môn, như thế này Ta hỏi Ông:
"Này Bà-la-môn, trong hai con đường này, con đường nào Ông có thể kham
nhẫn là giản dị hơn, ít khó chịu hơn, kết quả lớn hơn, lợi ích lớn hơn?"
Lần thứ hai, Bà-la-môn Sangàrava nói với Tôn giả Ananda:
- Như Tôn giả Gotama và Tôn giả Ananda, cả hai đối với tôi là đáng
đảnh lễ và đáng tán thán.
Lần thứ ba, Tôn giả Ananda nói với Bà-la-môn Sangàrava:
- Này Bà-la-môn, Ta không hỏi Ông như vậy: "Những ai là đáng kính lễ,
hay những ai là đáng tán thán? "Này Bà-la-môn, như thế này Ta hỏi Ông:
"Này Bà-la-môn, trong hai con đường này, con đường nào Ông có thể kham
nhẫn là giản dị hơn, ít khó chịu hơn, kết quả lớn hơn, lợi ích lớn hơn?"
Lần thứ ba, Bà-la-môn Sangàrava nói với Tôn giả Ananda:
- Như Tôn giả Gotama và Tôn giả Ananda, cả hai đối với tôi là đáng
kính lễ và đáng tán thán.
3. Rồi Thế Tôn suy nghĩ như sau:
"Cho đến lần thứ ba, Bà-la-môn Sangàrava, được hỏi một câu đúng pháp lại
tránh né, không trả lời. Vậy Ta hãy giải tỏa việc này".
Rồi Thế Tôn nói với Bà-la-môn Sangàrava:
- Này Bà-la-môn, câu chuyện gì đã khởi lên hôm nay trong cung điện
Nhà Vua, khi hội chúng nhà vua ngồi tụ họp lại?
- Thưa Tôn giả Gotama, hôm nay, trong cung điện nhà vua, câu chuyện
như sau đã khởi lên, khi hội chúng nhà vua ngồi tụ họp lại: "Thuở xưa,
các Tỷ-kheo ít hơn, nhưng nhiều hơn là các pháp thượng nhân, các thần
thông thần biến được thị hiện. Ngày nay, các Tỷ-kheo nhiều hơn, nhưng ít
hơn là các pháp thượng nhân, các thần thông thần biến được thị hiện."
Thưa Tôn giả Gotama, đấy là câu chuyện đã khởi lên hôm nay trong cung
điện nhà vua, khi hội chúng nhà vua ngồi tụ họp lại.
4. - Này Bà-la-môn, có ba loại thần
thông. Thế nào là ba? Thần thông biến hóa, thần thông ký thuyết, thần
thông giáo hóa, và Bà-la-môn, thế nào là thần thông biến hóa?
Ở đây, này Bà-la-môn, có người chứng được các loại thần thông, một
thân hiện ra nhiều thân, nhiều thân hiện ra một thân, hiện hình, biến
hình, đi ngang qua vách qua tường, qua núi như đi ngang qua hư không,
độn thổ, trồi lên ngang qua đất liền như ở trong nước, đi trên nước,
không nứt rẽ ra như trên đất liền, ngồi kiết già, đi trên hư không như
con chim, với bàn tay, chạm và rờ mặt trăng và mặt trời, những vật có
đại oai lực, đại oai thần như vậy, có thể tự thân bay đến cõi Phạm
Thiên.
5. Và này Bà-la-môn, thế nào là thần
thông ký thuyết?
Ở đây, này Bà-la-môn, có người nói lên nhờ tướng: "Như vầy là ý của
Ông, như thế này là ý của Ông, như thế này là tà tâm của Ông". Nếu vị ấy
nói lên có nhiều, cũng chỉ là như vậy, không có gì khác.
Ở đây, này Bà-la-môn, có người nói lên không nhờ tướng, nhưng nghe
tiếng của loài người hay của phi nhân, hay của Chư Thiên, liền nói lên:
"Như vầy là ý của Ông, như thế này là ý của Ông, như thế này là tà tâm
của Ông". Nếu vị ấy nói lên nhiều, cũng chỉ là như vậy, không có gì
khác.
Ở đây, này Bà-la-môn, có người nói lên không nhờ tướng, cũng không
nhờ nghe tiếng của loài người hay của phi nhân, hay của Chư Thiên, nhưng
sau khi nghe được tiếng trình bày rõ ràng và có suy tư; sau khi suy tầm
và suy tư liền nói lên: "Như vầy là ý của Ông, như thế này là ý của
Ông, như thế này là tâm của Ông". Nếu vị ấy nói lên có nhiều, cũng chỉ
là như vậy, không có gì khác.
Ở đây, này Bà-la-môn, có người không nói lên nhờ tướng, không nói lên
nhờ nghe tiếng của loài người hay của phi nhân, hay của Chư Thiên,
không nói lên sau khi nghe được tiếng trình bày rõ ràng và có suy tư,
sau khi suy tầm và suy tư. Những thành tựu định không tầm không tứ, với
tâm của mình biết rõ tâm của người khác tùy theo hành ý của vị Tôn giả
này hướng đến chỗ nào, thời tâm của vị này lập tức suy tầm đến chỗ ấy.
Nếu vị ấy nói lên có nhiều, cũng chỉ là như vậy, không có gì khác. Này
Bà-la-môn, đây gọi là thần thông ký thuyết.
6. Và như thế nào, này Bà-la-môn, là
thần thông giáo hóa?
Ở đây, này Bà-la-môn, có người giáo giới như sau: "Hãy suy nghĩ như
thế này, chớ suy nghĩ như vậy! Hãy tác ý như thế vậy, chớ tác ý như vậy!
Hãy từ bỏ cái này! Hãy đạt đến cái này và an trú!". Này Bà-la-môn, đây
gọi là thần thông giáo hóa. Nay Bà-la-môn, có ba loại thần thông này.
Trong ba loại thần thông này, Ông có thể chấp nhận loại thần thông
nào là hy hữu hơn, thù diệu hơn?
- Ở đây, thưa Tôn giả Gotama, loại thần thông này: Ở đây có người
chứng được nhiều loại thần thông, một thân hiện ra nhiều thân ... Có thể
tự thân bay đến cõi Phạm Thiên. Loại thần thông này, thưa Tôn giả
Gotama, ai làm loại thần thông ấy, người ấy tự kinh nghiệm lấy. Ai làm
thần thông ấy, tự mình có được thần thông ấy. Loại thần thông này, đối
với tôi, được xem tánh chất như là huyễn hóa. Còn loại thần thông này,
thưa Tôn giả Gotama: Ở đây có người nhờ tướng nói lên ... Với tâm của
mình, rõ biết tâm của người khác. Loại thần thông này, thưa Tôn giả
Gotama, ai làm loại thần thông ấy, người ấy tự kinh nghiệm lấy. Ai làm
thần thông ấy, tự mình có được thần thông ấy. Loại thần thông này, đối
với tôi, được xem tánh chất như là huyễn hóa. Còn loại thần thông này,
thưa Tôn
giả Gotama: Ở đây có người giáo giới như sau: "Hãy suy nghĩ như thế này
... hãy đạt đến cái này và an trú". Loại thần thông này, thưa Tôn giả
Gotama, tôi có thể chấp nhận là hy hữu hơn và thù diệu hơn trong ba loại
thần thông.
Thật là vi diệu, thưa Tôn giả Gotama! Thật là hy hữu, thưa Tôn giả
Gotama! Vấn đề này được Tôn giả Gotama khéo nói như vậy, Chúng tôi thọ
trì rằng Tôn giả Gotama có thành tựu cả ba loại thần thông này. Thật
vậy, Tôn giả Gotama có thể chứng được nhiều loại thần thông ... Thật
vậy, Tôn giả Gotama thành tựu được định không tầm không tứ, với tâm của
mình rõ biết tâm của người khác, tuỳ theo ý hành của vị Tôn giả này
hướng đến chỗ nào, thời tâm của vị này lập tức suy tầm đến chỗ ấy. Tôn
giả Gotama giáo giới như sau: "Hãy suy nghĩ như thế này, chớ suy nghĩ
như vậy! Hãy tác ý như vậy, chớ tác ý như vậy! Hãy từ bỏ cái này, hãy
đạt đến cái này và an trú!".
7. -Thật vậy, này Bà-la-môn, lời nói
của Ông trước như là chống ta, sau xích lại gần ta. Và Ta sẽ trả lời
cho Ông. Này Bà-la-môn, ta chứng được nhiều loại thần thông ... này
Bà-la-môn, ta thành tựu được định không tầm không tứ, với tâm của mình
rõ biết tâm của người khác, tùy theo ý hành của vị Tôn giả này hướng đến
chỗ nào, thời tâm của vị này lập tức suy tầm đến chỗ ấy. Tôn giả Gotama
có thể giáo giới như sau: "Hãy suy nghĩ như thế này, chớ suy nghĩ như
vậy. Hãy tác ý như vậy, chớ tác ý như vậy! Hãy từ bỏ cái này, hãy đạt
được cái này và an trú!".
- Thưa Tôn giả Gotama, có một Tỷ-kheo nào khác, cung thành tựu được
ba loại thần thông này, ngoài Tôn giả Gotama?
- Này Bà-la-môn, không phải chỉ có một trăm, hai trăm, ba trăm, bốn
trăm, năm trăm mà còn nhiều hơn nữa các Tỷ-kheo thành tựu được ba loại
thần thông này.
- Nhưng thưa Tôn giả Gotama, nay các Tỳ kheo ấy hiện ở đâu?
- Này Bà-la-môn, trong chúng Tỷ-kheo này.
- Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama! Thật vi diệu thay, Tôn giả
Gotama! Như người dựng đứng những gì bị quăng ngã xuống, hay trình bày
cái gì bị che kín, hay chỉ đường cho người bị lạc hướng, hay cầm đèn
sáng vào bóng tối để những ai có mắt có thể thấy sắc. Cũng vậy, pháp
được Tôn giả Gotama thuyết giảng với nhiều pháp môn. Con nay xin quy y
Tôn giả Gotama, quy y Pháp, quy y Tăng. Mong Tôn giả Gotama nhận con làm
đệ tử cư sĩ, từ nay cho đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng
VII. Phẩm Lớn
61.- Sở y xứ.
1.- Này
các Tỷ-kheo, có ba y sứ này của ngoại đạo, dầu có bị các bậc Hiền giả
cật vấn, nạn vấn lý do, thảo luận, vẫn kiên trì trong quan điểm truyền
thống về vô vi (không hành động). Thế nào là ba?
Này các Tỷ-kheo, có một số Sa-môn, Bà-la-môn thuyết như sau, chấp
kiến như sau: "Phàm có cảm giác gì về con người này lãnh thọ lạc, khổ
hay không khổ, không lạc, tất cả đều do nhân nghiệp quá khứ". Này các
Tỷ-kheo, có một số Sa-môn, Bà-la-môn, thuyết pháp như sau, chấp kiến như
sau: "Phàm có cảm giác gì về con người này lãnh thọ lạc, khổ hay không
khổ, không lạc, tất cả đều do nhân một tạo hóa tạo ra". Này các Tỷ-kheo,
có một số Sa-môn, hay Bà-la-môn, thuyết pháp như sau, chấp kiến như
sau: "Phàm có cảm giác gì về con người này lãnh thọ lạc, khổ hay không
khổ, không lạc, tất cả đều do không nhân, không duyên".
2.- Ở đây, này các Tỷ-kheo, đối với
các vị Sa-môn, Bà-la-môn, thuyết như sau, chấp kiến như sau: "Phàm có
cảm giác gì về con người này lãnh thọ lạc, khổ hay không khổ, không lạc,
tất cả đều do nhân nghiệp quá khứ". Ðối với các vị ấy, Ta đến và nói:
"Chư Tôn giả, có thật chăng, Chư Tôn giả có thuyết như sau, chấp kiến
như sau: "Phàm có cảm giác gì về con người này lãnh thọ lạc, khổ hay
không khổ, không lạc, tất cả đều do nhân nghiệp quá khứ? "".
Ðược Ta hỏi vậy, họ trả lời: "Thưa phải, có như vậy".
Ta nói với họ như sau: "Như vậy, thời theo các Tôn giả, do nhân
nghiệp quá khứ, sẽ trở thành người sát sanh; do nhân nghiệp quá khứ, sẽ
trở thành người lấy của không cho; do nhân nghiệp quá khứ, sẽ trở thành
người không Phạm hạnh; do nhân nghiệp quá khứ, sẽ trở thành người nói
láo; do nhân nghiệp quá khứ, sẽ trở thành người nói hai lưỡi; do nhân
nghiệp quá khứ, sẽ trở thành người ác khẩu; do nhân nghiệp quá khứ, sẽ
trở thành người nói lời phù phiếm; do nhân nghiệp quá khứ, sẽ trở thành
người tham lam; do nhân nghiệp quá khứ, sẽ trở thành người theo tà
kiến". Nhưng này các Tỷ-kheo, với những ai trở lại dựa vào nghiệp quá
khứ là do kiên thực, với những người ấy sẽ không có ước muốn, không có
tinh tấn, không có "Ðây là việc phải làm", hay "Ðây là việc không nên
làm".
Như vậy, sự cần thiết cần phải làm hay không cần phải làm không được tìm
thấy là chân thực, là đáng tin cậy, thời danh từ Sa-môn không thể áp
dụng đúng pháp cho các Ông được, vì các Ông sống thất niệm và với các
căn không hộ trì.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, đây là sự chỉ trích đúng pháp thứ nhất của
ta đối với các vị Sa-môn, Bà-la-môn có thuyết như vậy, có chấp kiến như
vậy.
3.- Ở đây, này các Tỷ-kheo, đối với
các vị Sa-môn, Bà-la-môn, thuyết như sau, chấp kiến như sau: "Phàm có
cảm giác gì về con người này lãnh thọ lạc, khổ hay không khổ, không lạc,
tất cả đều do nhân một tạo hóa tạo ra". Ðối với các vị ấy, Ta đến và
nói: "Chư Tôn giả, có thật chăng, Chư Tôn giả có thuyết như sau: "Phàm
có cảm giác gì về con người này lãnh thọ lạc, khổ hay không khổ, không
lạc, tất cả đều do nhân một tạo hóa tạo ra? ".
Ðược Ta hỏi vậy, họ trả lời: "Thưa phải, có như vậy".
Ta nói với họ như sau: "Như vậy, thời theo các Tôn giả, do nhân một
vị tạo hóa tạo ra, sẽ trở thành người sát sanh ... Do nhân một vị tạo
hóa tạo ra, sẽ trở thành người theo tà kiến". Nhưng này các Tỷ-kheo, với
những ai trở lại dựa vào vị tạo hóa tạo ra là lý do kiên thực, với
những người ấy sẽ không có ước muốn, không có tinh tấn, không có "Ðây là
việc phải làm", hay "Ðây là việc không nên làm". Như vậy, sự cần thiết
cần phải làm hay không cần phải làm không được tìm thấy là chân thực, là
đáng tin cậy, thời danh từ Sa-môn không thể áp dụng đúng pháp cho các
Ông được, vì các Ông sống thất niệm và với các căn không hộ trì.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, đây là sự chỉ trích đúng pháp thứ hai của
ta đối với các vị Sa-môn, Bà-la-môn có thuyết như vậy, có chấp kiến như
vậy.
Ở đây, này các Tỷ-kheo, đối với các vị Sa-môn, Bà-la-môn, thuyết như
sau, chấp kiến như sau: "Phàm có cảm giác gì về con người này lãnh thọ
lạc, khổ hay không khổ, không lạc, tất cả đều do không nhân không
duyên". Ðối với các vị ấy, Ta đến và nói: "Chư Tôn giả, có thật chăng,
Chư Tôn giả có thuyết như sau chấp kiến như sau: "Phàm có cảm giác gì về
con người này lãnh thọ lạc, khổ hay không khổ, không lạc, tất cả đều do
không nhân không duyên? "".
Ðược Ta hỏi vậy, họ trả lời: "Thưa phải, có như vậy".
Ta nói với họ như sau: "Như vậy, thời theo các Tôn giả, do không nhân
không duyên, sẽ trở thành người sát sanh ... Do không nhân không duyên,
sẽ trở thành người theo tà kiến". Nhưng này các Tỷ-kheo, với những ai
trở lại dựa vào vị tạo hóa tạo ra là lý do kiên thực, với những người ấy
sẽ không có ước muốn, không có tinh tấn, không có "Ðây là việc phải
làm", hay "Ðây là việc không nên làm". Như vậy, sự cần thiết cần phải
làm hay không cần phải làm không được tìm thấy là chân thực, là đáng tin
cậy, thời danh từ Sa-môn không thể áp dụng đúng pháp cho các Ông được,
vì các Ông sống thất niệm và với các căn không hộ trì.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, đây là sự chỉ trích đúng pháp thứ ba của ta
đối với các vị Sa-môn, Bà-la-môn có thuyết như vậy, có chấp kiến như
vậy. Này các Tỷ-kheo, đây là ba y xứ của ngoại đạo, dù có được các bậc
Tôn giả cật vấn, nạn vấn lý do thảo luận, vẫn kiên trì trong quan điểm
truyền thống về vô vi (không hành động).
5.- Và này các Tỷ-kheo, đây là pháp
ta thuyết giảng, không bị chỉ trích, không bị uế nhiễm, không có tội
lỗi, không bị các Sa-môn, các Bà-la-môn có trí quở trách. Và này các
Tỷ-kheo, thế nào là pháp ta thuyết giảng, không bị chỉ trích, không bị
uế nhiễm, không có tội lỗi, không bị các Sa-môn, các Bà-la-môn có trí
quở trách?
Sáu giới này, này các Tỷ-kheo, là pháp Ta thuyết giảng, ... không bị
các Sa-môn, các Bà-la-môn có trí quở trách. Sáu xúc xứ này, này các
Tỷ-kheo, là pháp Ta thuyết giảng ... không bị các Sa-môn, các Bà-la-môn
có trí quở trách. Mười tám ý cận hành này, này các Tỷ-kheo, là pháp Ta
thuyết giảng ... không bị các Sa-môn, các Bà-la-môn có trí quở trách.
Bốn Thánh đế này, này các Tỷ-kheo, là pháp Ta thuyết giảng ... không bị
các Sa-môn, các Bà-la-môn có trí quở trách.
6.- Sáu giới này, này các Tỷ-kheo,
là pháp Ta thuyết giảng ... không bị các Sa-môn, các Bà-la-môn có trí
quở trách, được nói đến như vậy. Do duyên gì được nói đến? Này các
Tỷ-kheo, có sáu giới này: địa giới, thủy giới, phong giới, hỏa giới,
không giới, thức giới. Sáu giới này, này các Tỷ-kheo, là pháp được Ta
thuyết giảng, không bị chỉ trích, không bị uế nhiễm, không có tội lỗi,
không bị các Sa-môn, các Bà-la-môn có trí quở trách. Ðiều đã được nói
đến, chính do duyên này đã được nói đến.
7.- Có sáu xúc xứ này, này các
Tỷ-kheo, là pháp ta thuyết giảng ... không bị các Sa-môn, các Bà-la-môn
có trí quở trách. Ðiều đã được nói đến, chính do duyên nào đã được nói
đến? Này các Tỷ-kheo, có sáu xúc xứ này: nhãn xúc xứ, nhĩ xúc xứ, tỷ xúc
xứ, thiệt xúc xứ, thân xúc xứ, ý xúc xứ. Có sáu xúc xứ này, này các
Tỷ-kheo, ... không bị các Sa-môn, các Bà-la-môn có trí quở trách. Ðiều
đã được nói đến, chính do duyên này đã được nói đến.
8.-Có mười tám ý cận hành này, này
các Tỷ-kheo, là pháp được Ta thuyết giảng, ... không bị các Sa-môn, các
Bà-la-môn có trí quở trách. Ðiều đã được nói đến, chính do duyên nào đã
được nói đến? Khi con mắt thấy sắc, tư tưởng hướng về và đến gần sắc,
làm y xứ cho hỷ, hướng về và đến gần sắc, làm y xứ cho ưu, hướng về và
đến gần sắc, làm y xứ cho xả. Khi tai nghe tiếng, tư tưởng hướng về và
đến gần tiếng, làm y xứ cho hỷ, hướng về và đến gần tiếng, làm y xứ cho
ưu, hướng về và đến gần tiếng, làm y xứ cho xả. Khi mũi ngửi hương ...
khi lưỡi nếm vị ... khi thân cảm xúc ... khi ý nhận thức pháp, tư tưởng
hướng về và đến gần pháp, làm y xứ cho hỷ, hướng về và đến gần pháp, làm
y xứ cho ưu, hướng về và đến gần pháp, làm y xứ cho xả. Có mười tám ý
cận hành này, này các
Tỷ-kheo, được Ta thuyết giảng ... không bị các Sa-môn, các Bà-la-môn có
trí quở trách. Ðiều đã được nói đến, chính do duyên này đã được nói đến.
9.- Bốn thánh đế này, này các
Tỷ-kheo, được Ta thuyết giảng ... không bị các Sa-môn, các Bà-la-môn có
trí quở trách. Ðiều đã được nói đến, chính do duyên nào đã được nói đến?
Do chấp thủ sáu giới, này các Tỹ kheo, nên có nhập thai. Do có nhập
thai, nên có danh sắc. Do duyên danh sắc, nên có sáu xứ. Do duyên sáu
xứ, nên có xúc. Do duyên xúc, nên có thọ. Với người có cảm thọ, này các
Tỷ-kheo, Ta nêu rõ: "Ðây là khổ", Ta nêu rõ: "Ðây là khổ tập; Ta nêu rõ:
"Ðây là khổ diệt", Ta nêu rõ: "Ðây là con đường đưa đến khổ diệt".
10.- Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
Khổ Thánh đế?
Sanh là khổ, già là khổ, bệnh là khổ, chết là khổ, sầu bi, khổ, ưu
não là khổ. Ðiều mong cầu không được là khổ. Tóm lại, năm thủ uẩn là
khổ. Này các Tỷ-kheo, đây là Khổ Thánh đế.
11.- Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
Thánh đế về Khổ tập?
Vô minh duyên hành, hành duyên thức, thức duyên sắc, danh sắc duyên
sáu xứ, sáu xứ duyên xúc, xúc duyên thọ, thọ duyên ái, ái duyên thủ, thủ
duyên hữu, hữu duyên sanh, sanh duyên già, chết, sầu, bi, khổ, ưu não.
Như vầy là sự tập khởi của toàn bộ khổ uẩn này. Này các Tỷ-kheo, đây gọi
là Thánh đế về Khổ tập.
12.-Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
Thánh đế về Khổ diệt?
Do vô minh diệt không có tàn dư, nên các hành diệt. Do hành diệt, nên
thức diệt. Do thức diệt nên danh sắc diệt. Do danh sắc diệt nên sáu xứ
diệt. Do sáu xứ diệt nên xúc diệt. Do xúc diệt nên thọ diệt. Do thọ diệt
nên ái diệt. Do ái diệt nên thủ diệt. Do thủ diệt nên hữu diệt. Do hữu
diệt nên sanh diệt. Do sanh diệt nên già, chết, sầu, bi, khổ, ưu não đều
diệt. Như vầy là sự đoạn diệt toàn bộ của khổ uẩn này. Này các Tỷ-kheo,
Ðây gọi là Thánh đế về Khổ diệt.
13.-Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
Thánh đế về con đường đưa đến Khổ diệt?
Ðây là Thánh đạo Tám ngành, tức là chánh tri kiến, chánh tư duy,
chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh
định. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là Thánh đế về con đường đưa đến Khổ
diệt.
Bốn Thánh đế này, này các Tỷ-kheo, do Ta thuyết giảng, không bị chỉ
trích, không có uế nhiễm, không có tội lỗi, không bị các Sa-môn, các
Bà-la-môn có trí quở trách. Ðiều đã được nói đến, chính do duyên này
được nói đến.
62.- Các Sợ Hãi.
1. - Có ba sợ hãi này, này các
Tỷ-kheo, làm chia rẽ mẹ con, được người phàm phu không học nói đến. Thế
nào là ba?
Có một thời, này các Tỷ-kheo, một hỏa tai lớn khởi lên. Khi hỏa tai
lớn này khởi lên,naỹ các Tỹ Kheo, các làng bị thiêu, các thị trấn lớn bị
thiêu, các thành phố bị thiêu. Khi các làng bị thiêu, các thị trấn lớn
bị thiêu, các thành phố bị thiêu, mẹ không tìm được con, con không tìm
được mẹ. Ðây là sợ hãi thứ nhất, này các Tỷ-kheo, làm chia rẽ mẹ con,
được kẻ phàm phu không học nói đến.
2.- Lại nữa, này các Tỷ-kheo, một
thời có mưa lớn khởi lên. Khi mưa lớn khởi lên, này các Tỷ-kheo, lụt lội
lớn sanh khởi. Do có lụt lớn sanh khởi, nên các làng bị cuốn trôi, các
thị trấn bị cuốn trôi, các thành phố bị cuốn trôi. Khi các làng bị cuốn
trôi, các thị trấn bị cuốn trôi, các thành phố bị cuốn trôi, mẹ không
tìm được con, con không tìm được mẹ. Ðây là sợ hãi thứ hai, này các
Tỷ-kheo, làm chia rẽ mẹ con, được kẻ phàm phu không học nói đến.
3.- Lại nữa, này các Tỷ-kheo, một
thời có sợ hãi về giặc cướp rừng nổi lên, và dân chúng leo lên xe chạy
trốn. Khi sợ hãi giặc cướp rừng nổi lên, này các Tỷ-kheo, khi dân chúng
leo lên xe chạy trốn, mẹ không tìm được con, con không tìm được mẹ. Ðây
là sợ hãi thứ ba, này các Tỷ-kheo, làm chia rẽ mẹ con, được kẻ phàm phu
không học nói đến.
Có ba sợ hãi này, này các Tỷ-kheo, làm chia rẽ mẹ con, được kẻ phàm
phu không học nói đến.
4.- Có ba sợ hãi này, này các
Tỷ-kheo, có khi chia rẽ mẹ con, có khi không chia rẽ mẹ con, được kẻ
phàm phu không học nói đến. Thế nào là ba?
Có một thời, này các Tỷ-kheo, một hỏa tai lớn khởi lên. Khi hỏa tai
lớn này khởi lên, này các Tỹ Kheo, các làng bị thiêu, các thị trấn lớn
bị thiêu, các thành phố bị thiêu. Khi các làng bị thiêu, các thị trấn
lớn bị thiêu, các thành phố bị thiêu, trong khi ấy, có thời có trường
hợp mẹ có thể tìm được con, con có thể tìm được mẹ. Này các Tỷ-kheo, đây
là sợ hãi thứ nhất, có khi làm chia rẽ mẹ con, có khi không làm chia rẽ
mẹ con, được kẽ phàm phu không học nói đến.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, một thời có mưa lớn khởi lên. Do có thủy
tai lớn sanh khởi nên các làng bị cuốn trôi, các thị trấn bị cuốn trôi,
các thành phố bị cuốn trôi. Khi các thành phố bị cuốn trôi, trong khi
ấy, có thời có trường hợp mẹ có thể tìm được con, con có thể tìm được
mẹ. Này các Tỷ-kheo, đây là sợ hãi thứ hai, có khi làm chia rẽ mẹ con,
có khi không làm chia rẽ mẹ con, được kẽ phàm phu không học nói đến.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, một thời có sợ hãi về giặc cướp rừng nổi
lên. Và dân chúng leo lên xe chạy trốn. Khi sợ hãi về giặc cướp rừng nổi
nên, này các Tỷ-kheo, khi dân chúng leo lên xe chạy trốn, trong khi ấy,
có thời có trường hợp mẹ có thể tìm được con, con có thể tìm được mẹ.
Này các Tỷ-kheo, đây là sợ hãi thứ ba, có khi làm chia rẽ mẹ con, có khi
không làm chia rẽ mẹ con, được kẽ phàm phu không học nói đến.
Có ba sợ hãi này, này các Tỷ-kheo, có khi làm chia rẽ mẹ con, có khi
không làm chia re mẹ con, được kẽ phàm phu không học nói đến.
5.-Có ba sợ hãi này, này các
Tỷ-kheo, làm chia rẽ mẹ con. Thế nào là ba?
Sợ hãi về già, sợ hãi về bệnh, sợ hãi về chết.
Này các Tỷ-kheo, mẹ không muốn con mình bị già: "Ta nay bị già, mong
rằng con Ta không bị già!". Hay người con không muốn mẹ mình bị già: "Ta
nay bị già, mong rằng mẹ Ta không bị già!".
Này các Tỷ-kheo, mẹ không muốn con mình bị bệnh: "Ta nay bị bệnh,
mong rằng con Ta không bị bệnh!". Hay con không muốn mẹ mình bị bệnh:
"Ta nay bị già, mong rằng mẹ Ta không bị bệnh!".
Này các Tỷ-kheo, mẹ không muốn con mình bị chết: "Ta nay bị chết,
mong rằng con Ta không bị chết!". Hay người con không muốn mẹ mình bị
chết: "Ta nay bị chết, mong rằng mẹ Ta không bị chết!". Ðây là ba sợ
hãi, này các Tỷ-kheo, làm chia rẽ mẹ con.
6.- Có con đường, này các Tỷ-kheo,
có đạo lộ đưa đến từ bỏ, vượt qua ba sợ hãi, không làm chia rẽ mẹ con
này, và ba sợ hãi làm chia rẽ mẹ con này. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
con đường, thế nào là đạo lộ đưa đến từ bỏ, vượt qua ba sợ hãi không
làm chia rẽ mẹ con này, và ba sợ hãi làm chia rẽ mẹ con này?
Ðây là con đường Thánh Tám ngành, tức là chánh tri kiến, chánh tư
duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm,
chánh định. Ðây là con đường, này các Tỷ-kheo, đây là đạo lộ là đưa đến
từ bỏ, vượt qua ba sợ hãi không làm chia rẽ mẹ con này, và ba sợ hãi làm
chia rẽ mẹ con này.
63.- Venaga
1-7
1. Một thời, Thế Tôn đang đi du hành
giữa dân chúng Kosala cùng với đại chúng Tỷ-kheo, đi đến một làng
Bà-la-môn Kosala, tên là Venàgapura. Các gia chủ Bà-la-môn ở Venàgapura
được nghe: "Sa-môn Gotama, dòng họ Thích-ca, xuất gia từ gia tộc
Thích-ca đến Venàgapura. Tiếng đồn tốt đẹp sau đây được truyền đi về Thế
Tôn Gotama: "Ðây là Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, Minh Hạnh
Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên
Nhân sư, Phật, Thế Tôn. Ngài với thắng trí, tự thân chứng ngộ và tuyên
bố về thế giới này, cùng với Thiên Giới, Ma Giới, Phạm Thiên Giới, cùng
với chúng Sa-môn, Bà-la-môn, các loài Trời. Ngài thuyết pháp, sơ thiện,
trung thiện, hậu thiện, có nghĩa, có văn, và giới thiệu đời sống Phạm
hạnh hoàn toàn đầy đủ trong sạch". Tốt
đẹp thay được chiêm ngưỡng một vị A-la-hán như vậy".
2. Rồi các Bà-la-môn gia chủ ở
Venàgapura đi đến Thế Tôn, sau khi đến, có người đảnh lễ Sa-môn Gotama
rồi ngồi xuống một bên; có người nói lên với Sa-môn Gotama những lời
chào đón hỏi thăm rồi ngồi xuống một bên; Ccó người chắp tay vái chào
Sa-môn Gotama rồi ngồi xuống một bên; có người xưng tên và dòng họ rồi
ngồi xuống một bên; có người im lặng rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống
một bên, Bà-la-môn Vacchagotta, người xứ Venàgapura bạch Thế Tôn:
3- Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama! Thật hy hữu thay, Tôn giả
Gotama! Các căn của Tôn giả Gotama thật trong sáng, màu da thật thanh
tịnh chói sáng. Ví như, thưa Tôn giả Gotama, trái táo vàng vào mùa thu,
được thanh tịnh chói sáng; cũng vậy, các căn của Tôn giả Gotama thật
trong sáng, màu da thật thanh tịnh chói sáng. Ví như, thưa Tôn giả
Gotama, trái cây tala chín vừa rời khỏi cành, thanh tịnh, chói sáng;
cũng vậy, các căn của Tôn giả Gotama thật trong sáng, màu da thật thanh
tịnh, chói sáng. Ví như, thưa Tôn giả Gotama, một đồ trang sức bằng vàng
đỏ, được người thợ vàng thiện xảo khéo luyện trong lò, khéo đạp và đặt
tên tấm vải vàng, được chiếu sáng, chói sáng, rực sáng; cũng vậy, các
căn của Tôn giả Gotama thật trong sáng, màu da thật thanh tịnh chói
sáng.
Thưa Tôn giả Gotama, còn các giường cao và lớn như ghế bành, nệm trải
giường bằng lông cừu, vải trải giường nhiều tấm, nhiều màu, chăn len
trắng, chăn len thêu bông nệm bông, nệm thêu hình các con thú, mền bằng
lông thú cả hai phía, mền bằng lông thú một phía, mền có đính ngọc, mền
bằng lụa, tấm thảm lớn có thể chứa mười sáu người múa, nệm voi, nệm
ngựa, nệm xe, nệm bằng da sơn dương khâu lại với nhau, nệm bằng da con
sơn dương gọi là Kadali, tấm thảm có lầu che phía trên, ghế dài có hai
đầu gối chân màu đỏ. Các loại giường cao và giường lớn như vậy, chắc Tôn
giả Gotama có được không khó khăn, có được không mệt nhọc, có được
không phí sức?
4. - Này Bà-la-môn, các giường cao
và lớn ấy, như ghế bành ... có hai đầu gối chân màu đỏ, thật rất khó
được các vật ấy. Và nếu có được, cũng không thích hợp với những người
xuất gia.
Này Bà-la-môn, có ba loại giường cao và giường lớn này, nay Ta được
chúng không khó khăn, có được không mệt nhọc, có được không phí sức. Thế
nào là ba?
Giường cao, giường lớn chư Thiên, giường cao, giường lớn Phạm thiên,
giường cao, giường lớn Bậc thánh. Ba giường cao, giường lớn này, này
Bà-la-môn, Ta được chúng không khó khăn, có được không mệt nhọc, có được
không phí sức.
5- Và thưa Tôn giả Gotama, thế nào là giường cao, giường lớn chư
Thiên, mà Tôn giả Gotama được không có khó khăn ... được chúng không có
phí sức?
Ở đây, này Bà-la-môn, Ta sống gần một làng hay một thị trấn. Buổi
sáng, Ta đắp y, cầm y bát, đi vào làng ấy hay vaò thị trấn ấy để khất
thực. Sau khi ăn xong, trên con đường đi khất thực trở về, Ta đi đến góc
cuối của ngôi rừng. Ở tại đấy, Ta lượm cỏ hay là chất thành một đống,
rồi ta ngồi kiết già, lưng thẳng, để niệm trước mặt, ly dục, ly pháp bất
thiện, Ta chứng đạt và an trú sơ Thiền, một trạng thái hỷ lạc do ly dục
sanh, có tầm có tứ. Làm cho chỉ tịnh tầm và tứ, Ta chứng đạt và an trú
Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm không tứ,
nội tỉnh nhất tâm. Ly hỷ, trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm lạc thọ
mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú, Ta chứng đạt và an trú Thiền
thứ ba. Ðoạn lạc và đoạn khổ, chấm dứt hỷ ưu đã cảm thọ trước, Ta
chứng đạt và an trú Thiền thứ tư, không khổ lạc, xả niệm thanh tịnh.
Này Bà-la-môn, trong trạng thái như vậy, nếu ta đi kinh hành, thời
trong lúc ấy, chỗ kinh hành của Ta thuộc chư Thiên. Này Bà-la-môn, trong
trạng thái như vậy, nếu ta đứng, thời trong lúc ấy, chỗ đứng của Ta
thuộc chư Thiên. Này Bà-la-môn, trong trạng thái như vậy, nếu ta ngồi,
thời trong lúc ấy, chỗ ngồi của ta thuộc Chư Thiên. Này Bà-la-môn, trong
trạng thái như vậy, nếu ta nằm, thời trong lúc ấy giường cao và giường
lớn cuả Ta thuộc chư Thiên. Này Bà-la-môn, đây là giường cao, giường lớn
thuộc chư Thiên, mà Ta có được không khó khăn, được chúng không có mệt
nhọc, được chúng không phí sức.
- Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama! Thật hy hữu thay, Tôn giả
Gotama! Ai khác, ngoài Tôn giả Gotama, có thể có được giường cao, giường
lớn chư Thiên như vậy, được chúng không có khó khăn, được chúng không
có mệt nhọc, được chúng không có phí sức!
6. -Thế nào, thưa Tôn giả Gotama,
thế nào là giường cao, giường lớn Phạm thiên, mà Tôn giả Gotama được
chúng không khó khăn, được chúng không mệt nhọc, được chúng không phí
sức?
Ở đây, này Bà-la-môn, Ta sống gần một làng hay một thị trấn. Buổi
sáng, Ta đắp y, cầm y bát, đi vào làng ấy hay thị trấn ấy để khất thực.
Sau khi ăn xong, trên con đường đi khất thực trở về, Ta đi đến góc cuối
của ngôi rừng. Ở tại đấy, Ta lượm cỏ hay là chất thành một đống, rồi ta
ngồi kiết già, lưng thẳng, để niệm trước mặt. Ta an trú, biến mãn một
phương với tâm câu hữu với từ, cũng vậy phương thứ hai, cũng vậy phương
thứ ba, cũng vậy phương thứ tư. Như vậy, cùng khắp thế giới, trên, dưới,
bề ngang, hết thảy phương xứ cùng khắp vô biên giới.Ta an trú biến mãn
với tâm câu hữu với từ, quảng đại, đại hành, vô biên, không hận, không
sân. Với tâm câu hữu với bi, ... Với tâm câu hữu với hỷ, ... Với tâm câu
hữu với xả, cũng vậy phương thứ hai ... quảng đại, đại hành, vô
biên, không hận, không sân.
Này Bà-la-môn, trong trạng thái như vậy, nếu ta đi kinh hành, thời
trong lúc ấy, chỗ kinh hành của Ta thuộc Phạm Thiên. Này Bà-la-môn,
trong trạng thái như vậy, nếu ta đứng, thời trong lúc ấy, chỗ đứng của
Ta thuộc Phạm Thiên. Này Bà-la-môn, trong trạng thái như vậy, nếu ta
ngồi, thời trong lúc ấy, chỗ Ta ngồi thuộc Phạm Thiên. Này Bà-la-môn,
trong trạng thái như vậy, nếu Ta nằm, thời trong lúc ấy, các giường cao
giường lớn của Ta thuộc Phạm Thiên. Này Bà-la-môn, đây là giường cao,
giường lớn thuộc Phạm Thiên, mà Ta có được không khó khăn, được chúng
không có mệt nhọc, được chúng không phí
Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama! Thật hy hữu thay, Tôn giả Gotama!
Ai khác, ngoài Tôn giả Gotama, có thể có được giường cao, giường lớn
Phạm Thiên như vậy, được chúng không có khó khăn, được chúng không có
mệt nhọc, được chúng không có phí sức!
7. Thế nào, thưa Tôn giả Gotama, thế
nào là giường cao, giường lớn bậc Thánh, mà Tôn giả Gotama được chúng
không khó khăn, được chúng không mệt nhọc, được chúng không phí sức?
Ở đây, này Bà-la-môn, Ta sống gần một làng hay một thị trấn. Buổi
sáng, Ta đắp y, cầm y bát, đi vào làng ấy hay thị trấn ấy để khất thực.
Sau khi ăn xong, trên con đường đi khất thực trở về, Ta đi đến góc cuối
của ngôi rừng. Ở tại đấy, Ta lượm cỏ hay là chất thành một đống, rồi ta
ngồi kiết già, lưng thẳng, để niệm trước mặt. Ta biết rõ như sau: "Tham
ái đã được Ta đoạn tận, chặt đứt từ gốc rễ, làm cho như thân cây tala,
làm cho không thể hiện hữu, làm cho không thể sanh khởi trong tương lai.
Sân đã được ta đoạn tận ... trong tương lai. Si đã được Ta đoạn tận,
chặt đứt từ gốc rễ, làm cho như thân cây tala, làm cho không thể hiện
hữu, làm cho không thể sanh khởi trong tương lai".
Này Bà-la-môn, trong trạng thái như vậy, nếu ta đi kinh hành, thời
trong lúc ấy, chỗ kinh hành của Ta thuộc bậc Thánh. Này Bà-la-môn, trong
trạng thái như vậy, nếu ta đứng, thời trong lúc ấy, chỗ đứng của Ta
thuộc bậc Thánh. Này Bà-la-môn, trong trạng thái như vậy, nếu ta ngồi,
thời trong lúc ấy, chỗ Ta ngồi thuộc bậc Thánh. Này Bà-la-môn, trong
trạng thái như vậy, nếu ta nằm, thời trong lúc ấy, các giường cao,
giuờng lớn, của Ta thuộc bậc Thánh. Này Bà-la-môn, đây là giường cao,
giường lớn thuộc bậc Thánh, mà Ta có được, không có khó khăn, được chúng
không có mệt nhọc, được chúng không phí
Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama! Thật hy hữu thay, Tôn giả Gotama!
Ai khác, ngoài Tôn giả Gotama, có thể có được giường cao, giường lớn bậc
Thánh như vậy, được chúng không có khó khăn, được chúng không có mệt
nhọc, được chúng không có phí sức! Thật vi diệu thay, thưa Tôn giả
Gotama! Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama! Thưa Tôn giả, như người dựng
đứng lại những gì bị quăng ngã xuống ... Mong Tôn giả nhận con làm đệ tử
cư sĩ, từ nay cho đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng.
64.- Sarabha
1-6
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở Ràjagaha (Vương Xá), tại núi Gijjhakùta (Linh
Thứu).
Lúc bấy giờ, du sĩ Sarabha, từ bỏ pháp và Luật này không bao lâu,
đang tuyên bố như sau với hội chúng ở Ràjagaha: "Ta đã hiểu rõ pháp của
các Sa-môn Thích tử. Và vì hiểu rõ pháp của các Sa-môn Thích tử, nên ta
đã từ bỏ Pháp và Luật ấy".
2. Rồi có nhiều Tỷ-kheo, vào buổi
sáng đắp y, cầm bát y đi vào Ràjagaha để khất thực. Các vịTỳ kheo ấy,
nghe du sĩ Sarabha tuyên bố như sau với hội chúng ở Ràjagaha: "Ta đã
hiểu rõ pháp của các Sa-môn Thích tử. Và vì hiểu rõ pháp của các Sa-môn
Thích tử, nên ta đã từ bỏ Pháp và Luật ấy".
Rồi các vị Tỷ-kheo đi khất thực ở Ràjagaha xong, trên con đường khất
thực trở về, đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống
một bên. Ngồi xuống một bên, các Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn:
- Du sĩ Sarabha, bạch Thế Tôn, đã từ bỏ pháp và Luật này không bao
lâu. Vị ấy tuyên bố: "Ta đã hiểu rõ pháp của các Sa-môn Thích tử. Và vì
hiểu rõ pháp của các Sa-môn Thích tử, nên ta đã từ bỏ Pháp và Luật ấy".
Lành thay, bạch Thế Tôn, nếu Thế Tôn vì lòng lân mẫn, hãy đi đến du sĩ
Sarabha!
Thế Tôn im lặng nhận lời.
3.- Thế Tôn vào buổi chiều, từ chỗ
Thiền định đứng dậy, đi đến bờ sông Sappinikàti, khu vườn của các du sĩ,
đến du sĩ Sarabha; sau khi đến, ngồi xuống trên chỗ đã soạn sẵn. Sau
khi ngồi xuống, Thế Tôn nói với du sĩ Sarabha:
- Có thật chăng, này Sarabha, Ông đã nói như sau: "Ta đã hiểu rõ pháp
của các Sa-môn Thích tử. Và vì hiểu rõ pháp của các Sa-môn Thích tử,
nên ta đã từ bỏ Pháp và Luật này "?
Khi được nghe nói như vậy, du sĩ Sarabha giữ im lặng.
Lần thứ hai, Thế Tôn nói với du sĩ Sarabha:
- Hãy nói lên, này Sarabha, Ông đã hiểu rõ pháp các Sa-môn Thích tử
như thế nào? Nếu Ông hiểu chưa được đầy đủ, thời Ta sẽ làm cho được đầy
đủ. Nhưng nếu Ông hiểu được đầy đủ, thời Ta sẽ hoan hỉ tiếp nhận.
Lần thứ hai, du sĩ Sarabha giữ im lặng.
Lần thứ ba, Thế Tôn nói với du sĩ Sarabha:
- Chính do Ta, này Sarabha, pháp các Sa-môn Thích tử được trình bày
lên. Hãy nói lên, này Sarabha, Ông đã hiểu rõ pháp các Sa-môn Thích tử
như thế nào? Nếu Ông hiểu chưa được đầy đủ, thời Ta sẽ làm cho được đầy
đủ. Nhưng nếu Ông hiểu được đầy đủ, thời Ta sẽ hoan hỉ tiếp nhận.
Lần thứ ba, du sĩ Sarabha giữ im lặng.
Rồi các du sĩ ở Ràjagaha nói với du sĩ Sarabha:
- Này Hiền giả, những điều gì, Hiền giả cần hỏi Sa-môn Gotama, Sa-môn
Gotama đã cho Hiền giả có cơ hội nói lên. Hãy nói lên, này Sarabha,
Hiền giả đã hiểu pháp các Sa-môn Thích tử như thế nào? Nếu Hiền giả hiểu
chưa được đầy đủ, Sa-môn Gotama sẽ làm cho đầy đủ. Nếu Hiền giả hiểu
được đầy đủ, Sa-môn Gotama sẽ hoan hỷ tiếp nhận.
Ðược nói như vậy, du sĩ Sarabha giữ im lặng, hoang mang, rụt vai, cúi
đầu, sững sờ, không thể trả lời.
5. Rồi Thế Tôn biết được du sĩ
Sarabha đang giữ im lặng, hoang mang, rụt vai, cúi đầu, sững sờ, ngồi
không trả lời, liền nói với các du sĩ ấy:
- Này các du sĩ, ai nói với Ta như sau: "Dầu Ông tự cho là đã Chánh
Ðẳng Giác, nhưng Ông không có Chánh Ðẳng Giác các pháp này". Ở đây, Ta
sẽ khéo cật vấn, nạn vấn, thảo luận với người ấy. Người ấy bị ta khéo
cật vấn, nạn vấn, thảo luận như vậy, không có chỗ nào, không có trường
hợp nào, ngoài cách dựa vào một trong ba thái độ như sau: Hoặc là tránh
né về vấn đề với một vấn đề khác, sẽ hướng dẫn câu chuyện ra ngoài (đề
tài chính), hay tỏ lộ phẫn nộ, sân hận, và bất mãn hay im lặng, hoang
mang, rụt vai, cúi đầu, sững sở, không nói gì, như du sĩ Sarabha.
Này các du sĩ, nếu có ai nói về ta như sau: "Dầu Ông tự cho đã đoạn
tận các lậu hoặc, nhưng các lậu hoặc này chưa được đoạn tận!". Ở đây, Ta
sẽ cật vấn, nạn vấn, chất vấn người ấy. Người ấy bị Ta cật vấn, nạn
vấn, chất vấn ... sững sờ không nói gì, như du sĩ Sarabha.
Này các du sĩ, nếu có ai nói về Ta như sau: "Pháp Ông thuyết giảng
với mục đích chơn chánh đoạn tận khổ đau, không có đưa người thực hành
đến mục đích ấy". Ở đây, Ta sẽ cật vấn, nạn vấn, chất vấn người ấy.
Người ấy bị Ta cật vấn, nạn vấn, chất vấn ... sững sờ không nói gì, như
du sĩ Sarabha.
Rồi Thế Tôn, tại khu vườn các du sĩ, trên bờ sông Sappinnikàti, sau
khi rống lên ba lần tiếng rống con sư tử, liền ra đi trên hư không.
6. Các du sĩ ấy, sau khi Thế Tôn ra
đi không bao lâu, liền bao vây du sĩ Sarabha, công kích du sĩ Sarabha
với những dòng nước nhiếc mắng như sau:
- "Này Hiền giả Sarabha, như con dã can già yếu trong rừng rậm nghĩ
rằng: "Ta sẽ rống tiếng con Sư tử", nhưng nó chỉ thốt ra tiếng rú con dã
can, chỉ thốt ra tiếng rú con thú ăn thịt. Cũng vậy, này Hiền giả
Sarabha, ngoài Sa-môn Gotama có thể có tiếng rống con sư tử, Ông nghĩ:
"Ta sẽ rống tiếng rống con sư tử", nhưng Ông chỉ thốt ra tiếng rú con
giã can, chỉ thốt ra tiếng rú con thú ăn thịt.
Ví như, này Hiền giả Sarabha, con gà con nghĩ rằng: "Ta sẽ gáy lên
tiếng gáy con gà trống", nhưng nó chỉ có thể thốt ra tiếng kêu con gà
con. Cũng vậy, này Hiền giả Sarabha, ngoài Sa-môn Gotama có thể gáy lên
tiếng áy gà trống, Ông nghĩ: "Ta có thể gáy lên tiếng gáy con gà trống",
nhưng Ông chỉ thốt ra tiếng gáy con gà con.
Ví như, con bò cái con, này Hiền giả Sarabha, khi chuồng bò trống
không, nghĩ rằng có thể rống tiếng rống sâu đậm con bò đực. Cũng vậy,
này Hiền giả Sarabha, ngoài Sa-môn Gotama ra, Ông nghĩ rằng Ông có thể
rống lên tiếng rống sâu đậm con bò đực.
Như vậy, các du sĩ ấy bao vây du sĩ Sarabha, công kích du sĩ Sarabha
với những dòng nước nhiếc mắng như vậy.
65.- Các Vị Ở Kesaputta
1-17
1.- Như vầy tôi nghe.
Một thời, Thế Tôn đang đi du hành giữa dân chúng Kosala, cùng với đại
chúng Tỷ-kheo, đi đến thị trấn của các người Kàlàmà tên là Kesaputta.
Các người Kàlàmà ở Kesaputta được nghe: "Sa-môn Gotama là Thích tử, xuất
gia từ dòng họ Thích ca đã đến Kesaputta. Tiếng đồn tốt đẹp như sau
được truyền đi về Sa-môn Gotama: "Ngài là Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh
Ðẳng Giác ... ". Lành thay, nếu chúng tôi được yết kiến một vị A-la-hán
như vậy".
2.- Rồi các người Kàlàmà ở Kesaputta
đi đến Thế Tôn; sau khi đến, có người đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống
một bên; có người nói lên với Thế Tôn những lời chào đón thăm hỏi, sau
khi nói lên những lời chào đón thăm hỏi thân hữu rồi ngồi xuống một bên;
có người chắp tay vái chào Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên; có người
xưng tên và dòng họ rồi ngồi xuống một bên; có người im lặng rồi ngồi
xuống một bên. Sau khi ngồi xuống một bên, các người Kàlàmà ở Kesaputta
bạch Thế Tôn:
- Có một số Sa-môn, Bà-la-môn, bạch Thế Tôn, đi đến Kesaputta. Họ làm
sáng tỏ, làm chói sáng quan điểm của mình, nhưng họ bài xích quan điểm
người khác, khinh miệt, chê bai, xuyên tạc. Bạch Thế Tôn, và một số
Sa-môn, Bà-la-môn khác cũng đi đến Kesaputta, Họ làm sáng tỏ, làm chói
sáng quan điểm của mình, nhưng họ bài xích quan điểm người khác, khinh
miệt, chê bai, xuyên tạc. Ðối với họ, bạch Thế Tôn, chúng con có những
nghi ngờ phân vân: "Trong những Tôn giả Sa-môn này, ai nói sự thật, ai
nói láo?"
3. - Ðương nhiên, này các Kàlàmà,
các Ông có những nghi ngờ! Ðương nhiên, này các Kàlàmà, các Ông có những
phân vân! Trong những trường hợp đáng nghi ngờ, các Ông đương nhiên
khởi lên phân vân.
Này các Kàlàmà, chớ có tin vì nghe truyền thuyết; chớ có tin vì theo
truyền thống; chớ có tin vì nghe theo người ta nói; chớ có tin vì được
Kinh Tạng truyền tụng; chớ có tin vì nhân lý luận siêu hình; chớ có tin
vì đúng theo một lập trường; chớ có tin vì đánh giá hời hợt những dữ
kiện; chớ có tin vì phù hợp với định kiến; chớ có tin vì phát xuất từ
nơi có uy quyền, chớ có tin vì vị Sa-môn là bậc đạo sư của mình. Nhưng
này các Kàlàmà, khi nào tự mình biết rõ như sau: "Các pháp này là bất
thiện; Các pháp này là có tội; Các pháp này bị các người có trí chỉ
trích; Các pháp này nếu thực hiện và chấp nhận đưa đến bất hạnh khổ
đau", thời này Kàlàmà, hãy từ bỏ chúng!
4. - Các Ông nghĩ thế nào, này
Kàlàmà! Lòng tham khởi lên trong nội tâm người nào, khởi lên như vậy là
đưa lại hạnh phúc hay bất hạnh?
- Bất hạnh, bạch Thế Tôn.
- Người này có tham, này các Kàlàmà, bị tham chinh phục, tâm bị xâm
chiếm, giết các sinh vật, lấy của không cho, đi đến vợ người, nói láo,
khích lệ người khác cũng làm như vậy. Như vậy, có làm cho người ấy bất
hạng đau khổ lâu dài hay không?
- Thua có, bạch Thế Tôn.
5. - Các Ông nghĩ thế nào, này các
Kàlàmà, lòng sân khi khởi lên trong nội tâm người nào, khởi lên như vậy
là đưa lại hạnh phúc hay bất hạnh?
- Bất hạnh, bạch Thế Tôn.
- Người này có sân, này các Kàlàmà, bị sân chinh phục, tâm bị xâm
chiếm, giết các sinh vật, lấy của không cho, đi đến vợ người, nói láo,
khích lệ người khác cũng làm như vậy. Như vậy, có làm cho người ấy bất
hạng đau khổ lâu dài hay không?
- Thua có, bạch Thế Tôn..
6. - Các Ông nghĩ thế nào, này các
Kàlàmà, lòng si khi khởi lên trong nội tâm người nào, khởi lên như vậy
là đưa lại hạnh phúc hay bất hạnh?
- Bất hạnh, bạch Thế Tôn.
- Người này có si, này các Kàlàmà, bị si chinh phục, tâm bị xâm
chiếm, giết các sinh vật, lấy của không cho, đi đến vợ người, nói láo,
khích lệ người khác cũng làm như vậy. Như vậy, có làm cho người ấy bất
hạng đau khổ lâu dài hay không?
- Thưa có, bạch Thế Tôn.
7. - Các Ông nghĩ thế nào, này các
Kàlàmà, các pháp này là thiện hay bất thiện?
- Là bất thiện, bạch Thế Tôn.
- Có tội hay không có tội?
- Có tội, bạch Thế Tôn.
- Bị người có trí quở trách hay không bị người có trí quở trách?
- Bị người có trí quở trách, bạch Thế Tôn.
- Nếu được thực hiện, được chấp nhận, có đưa đến bất hạnh đau khổ
không? hay ở đây, là như thế nào?
- Ðược thực hiện, được chấp nhận, bạch Thế Tôn, chúng đưa đến bất
hạnh, đau khổ, ở đây, đối với chúng con là vậy.
8. - Như vậy, này các Kàlàmà, điều
Ta vừa nói với các Ông: "Chớ có tin vì nghe theo truyền thống; chớ có
tin vì nghe theo người ta nói; chớ có tin vì được Kinh Tạng truyền tụng;
chớ có tin vì nhân lý luận siêu hình; chớ có tin vì đúng theo một lập
trường; chớ có tin vì đánh giá hời hợt những dữ kiện; chớ có tin vì phù
hợp với định kiến; chớ có tin vì phát xuất từ nơi có uy quyền, chớ có
tin vì vị Sa-môn là bậc đạo sư của mình. Nhưng này các Kàlàmà, khi nào
tự mình biết rõ như sau: "Các pháp này là bất thiện; Các pháp này là có
tội; Các pháp này bị các người có trí quở trách; Các pháp này nếu thực
hiện và chấp nhận đưa đến bất hạnh khổ đau", thời này Kàlàmà, hãy từ bỏ
chúng! Ðiều đã được nói lên như vậy, chính do duyên như vậy được nói
lên.
Này các Kàlàmà, chớ có tin vì nghe theo truyền thống; chớ có tin vì
nghe theo người ta nói; chớ có tin vì được Kinh Tạng truyền tụng; chớ có
tin vì nhân lý luận siêu hình; chớ có tin vì đúng theo một lập trường;
chớ có tin vì đánh giá hời hợt những dữ kiện; chớ có tin vì phù hợp với
định kiến; chớ có tin vì phát xuất từ nơi có uy quyền, chớ có tin vì vị
Sa-môn là bậc đạo sư của mình. Nhưng này các Kàlàmà, khi nào tự mình
biết như sau: "Các pháp này là thiện; Các pháp này là không có tội; Các
pháp này không bị các người có trí chỉ trích; Các pháp này nếu thực hiện
và chấp nhận đưa đến hạnh phúc an lạc", thời này Kàlàmà, hãy từ đạt đến
và an trú!
10. Các Ông nghĩ thế nào, này các
Kàlàmà, không tham, khi khởi lên trong nội tâm người nào, khởi lên như
vậy, là đưa lại hạnh phúc hay bất hạnh cho người ấy?
- Hạnh phúc, bạch Thế Tôn.
- Người này không tham, này các Kàlàmà, không bị tham chinh phục, tâm
không bị xâm chiếm, không giết các sinh vật, không lấy của không cho,
không đi đến vợ người, không nói láo, khích lệ người khác cũng làm như
vậy. Như vậy, có làm cho người ấy hạnh phúc an lạc lâu dài hay không?
- Thưa có, bạch Thế Tôn.
11. - Các Ông nghĩ thế nào, này các
Kàlàmà, không sân, khi khởi lên trong nội tâm người nào, khởi lên như
vậy là đưa lại hạnh phúc hay bất hạnh cho người ấy?
- Hạnh phúc, bạch Thế Tôn.
- Người này không sân, này các Kàlàmà, không bị sân chinh phục, tâm
không bị xâm chiếm, không giết các sinh vật, không lấy của không cho,
không đi đến vợ người, không nói láo, khích lệ người khác cũng làm như
vậy. Như vậy, có đem lại đem lại hạnh phúc, an lạc lâu dài cho người ấy
hay không?
- Thưa có, bạch Thế Tôn.
12. - Các Ông nghĩ thế nào, này các
Kàlàmà, không si khi khởi lên trong nội tâm người nào, khởi lên như vậy
là đưa lại hạnh phúc hay bất hạnh cho người ấy?
- Hạnh phúc, bạch Thế Tôn.
- Người này không si, này các Kàlàmà, không bị si chinh phục, tâm
không bị xâm chiếm, không giết các sinh vật, không lấy của không cho,
không đi đến vợ người, không nói láo, khích lệ người khác cũng làm như
vậy. Như vậy, có đem lại hạnh phúc an lạc lâu dài cho người ấy bất hay
không?
- Thưa có, bạch Thế Tôn.
13. - Các Ông nghĩ thế nào, này các
Kàlàmà, các pháp này là thiện hay bất thiện?
- Là thiện, bạch Thế Tôn.
- Các pháp này là có tội hay không có tội?
- Không có tội, bạch Thế Tôn.
- Bị người có trí quở trách hay được người có trí tán thán?
- Ðược người trí tán thán, bạch Thế Tôn.
- Nếu được thực hiện, được chấp nhận, có đưa đến hạnh phúc an lạc
không, hay ở đây, là như thế nào?
- Ðược thực hiện, được chấp nhận, bạch Thế Tôn, chúng đưa đến hạnh
phúc, an lạc. Ở đây, đối với chúng con là vậy.
14. - Như vậy, này các Kàlàmà, điều
Ta vừa nói với các Ông: "Chớ có tin vì nghe theo truyền thuyết; chớ có
tin vì nghe theo truyền thống, chớ có tin vì nghe theo người ta nói; chớ
có tin vì được Kinh Tạng truyền tụng; chớ có tin vì nhân lý luận siêu
hình; chớ có tin vì đúng theo một lập trường; chớ có tin vì đánh giá hời
hợt những dữ kiện; chớ có tin vì phù hợp với định kiến; chớ có tin vì
phát xuất từ nơi có uy quyền, chớ có tin vì vị Sa-môn là bậc đạo sư của
mình. Nhưng này các Kàlàmà, khi nào tự mình biết rõ như sau: "Các pháp
này là thiện; Các pháp này là không có tội; Các pháp này được người có
trí tán thán; Các pháp này nếu được thực hiện, được chấp nhận đưa đến
hạnh phúc an lạc", thời này Kàlàmà, hãy chứng đạt và an trú! Ðiều đã
được nói lên như vậy, chính do
duyên như vậy được nói lên.
15.- Này các Kàlàmà, vị Thánh đệ tử
nào ly tham, ly sân, ly si như vậy, tỉnh giác, chánh niệm, với tâm câu
hữu với từ ... với tâm câu hữu với bi ... với tâm câu hữu với hỷ ... với
tâm câu hữu với xả, biến mãn một phương, cũng vậy phương thứ hai; cũng
vậy phương thứ ba; cũng vậy phương thứ tư; Như vậy, cùng khắp thế giới,
trên, dưới, bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới, vị ấy
an trú biến mãn với tâm câu hữu với xả, quảng đại, đại hành, vô biên,
không hận, không sân. Thánh đệ tử ấy, này các Kàlàmà, với tâm không oán
như vậy, không sân như vậy, không uế nhiễm như vậy, thanh tịnh như vậy,
ngay trong hiện tại, người ấy đạt được bốn sự an ủi.
16. -"Nếu có đời sau, nếu có kết quả
dị thục các nghiệp thiện ác, sau khi thân hoại mạng chung, ta sẽ sanh
lên cõi thiện, cõi trời, coi đời này"; đây là an ủi thứ nhất vị ấy có
được. "Nếu không có đời sau, nếu không có kết quả dị thục các nghiệp
thiện ác thời ở đây, trong hiện tại, ta tự sống với tâm không oán, không
sân, không phiền não, được an lạc"; đây là an ủi thứ hai vị ấy có được.
Nếu việc ác có làm, nhưng ta không có tâm ác đối với ai cả, và nếu ta
không làm điều ác, sao ta có thể cảm thọ khổ đau được"; đây là an ủi thứ
ba vị ấy có được. "Nếu việc ác không có làm, như vậy, cả hai phương
diện (do ta làm vô ý hay cố ý), ta quán thấy ta hoàn toàn thanh tịnh";
đây là an ủi thứ tư vị ấy có được. Thánh đệ tử ấy, này các Kàlàmà, với
tâm không oán như vậy, với tâm
không sân như vậy, với tâm không uế nhiễm như vậy, với tâm thanh tịnh
như vậy, ngay trong hiện tại, vị có được bốn an ủi này.
17. - Sự việc là như vậy, bạch Thế
Tôn! Sự việc là như vậy, bạch Thiện Thệ! Thánh đệ tử ấy, bạch Thế Tôn,
với tâm không oán như vậy, với tâm không sân như vậy, với tâm không uế
nhiễm như vậy, với tâm thanh tịnh như vậy, ngay trong hiện tại, vị có
được bốn an ủi: "Nếu có đời sau, nếu có kết quả dị thục các nghiệp thiện
ác, sau khi thân hoại mạng chung, ta sẽ được sanh lên cõi thiện, cõi
Trời, cõi đời này"; đây là an ủi thứ nhất vị ấy có được. "Nếu không có
đời sau, nếu không có kết quả dị thục các nghiệp thiện ác thời ở đây,
trong hiện tại, ta tự sống với tâm không oán, không sân, không phiền
não, được an lạc"; đây là an ủi thứ hai vị ấy có được. Nếu việc ác có
làm, nhưng ta không có tâm ác đối với ai cả, và nếu ta không làm điều
ác, sao ta có thể cảm thọ khổ đau
được"; đây là an ủi thứ ba vị ấy có được. "Nếu việc ác không có làm, như
vậy, cả hai phương diện (do ta làm vô ý hay cố ý), ta quán thấy ta hoàn
toàn thanh tịnh"; đây là an ủi thứ tư vị ấy có được. Vị Thánh đệ tử ấy,
bạch Thế Tôn, với tâm không oán như vậy, với tâm không sân như vậy, với
tâm không uế nhiễm như vậy, với tâm thanh tịnh như vậy, ngay trong hiện
tại, vị có được bốn an ủi này.
Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn, ... bạch Thế Tôn, chúng con xin quy y
Thế Tôn, quy y pháp, quy y chúng Tỷ-kheo. Mong Thế Tôn nhận chúng con
làm đệ tử cư sĩ, từ nay cho đến mạng chung, chúng con xin trọn đời quy
ngưỡng.
66.- Sàlhà
1-13
Như vầy tôi nghe.
Một thời Tôn giả Nandaka trú ở Sàvatthi, tại Ðông Viên, ở lâu đài mẹ
của Migàra.
Rồi Sàlhà, cháu của Migàra, và Rohana, cháu của Pekhuniya đi đến Tôn
giả Nandaka; sau khi đến, đảnh lễ Tôn giả Nandaka rồi ngồi xuống một
bên. Ngồi xuống một bên, Tôn giả Nandaka nói với Sàlhà, cháu trai của
Migàra như sau:
2. - Hãy đến này các Sàlhà Nandaka,
chớ có tin vì nghe theo truyền thống; chớ có tin vì nghe theo người ta
nói; chớ có tin vì được Kinh Tạng truyền tụng; chớ có tin vì nhân lý
luận siêu hình; chớ có tin vì đúng theo một lập trường; chớ có tin vì
đánh giá hời hợt những dữ kiện; chớ có tin vì phù hợp với định kiến; chớ
có tin vì phát xuất từ nơi có uy quyền, chớ có tin vì vị Sa-môn là bậc
đạo sư của mình. Nhưng này các Sàlhà, khi nào tự mình biết như sau: "Các
pháp này là bất thiện; các pháp này là có tội; các pháp này bị người
trí quở trách; các pháp này nếu được thực hành và chấp nhận, đưa lại bất
hạnh và đau khổ:, thời này các Sàlhà, các thầy cần phải từ bỏ chúng
Này các Sàlhà, các thầy nghĩ thế nào, có tham hay không?
- Thưa có, bạch Tôn giả.
- Tham, này các Sàlhà, ta nói nghĩa này là vậy. Này các Sàlhà, người
có tham này bị tham chinh phục, giết các sinh loại, lấy của không cho,
đi đến vợ người, nói láo, khích lệ người khác cùng làm như vậy, như vậy
có làm người ấy bất hạnh đau khổ lâu dài hay không?
- Thưa có, bạch Tôn giả.
4. - Này các Sàlhà, các thầy nghĩ
thế nào, có sân hay không?
- Thưa có, bạch Tôn giả.
- Sân, này các Sàlhà, ta nói nghĩa này là vậy. Này các Sàlhà, người
có sân này bị sân chinh phục, giết các sinh loại, lấy của không cho, đi
đến vợ người, nói láo, khích lệ người khác cũng làm như vậy, như vậy có
làm người ấy bất hạnh đau khổ lâu dài hay không?
- Thưa có, bạch Tôn giả.
5. - Này các Sàlhà, các thầy nghĩ
thế nào, có si hay không?
- Thưa có, bạch Tôn giả.
- Si, này các Sàlhà, ta nói nghĩa này là vậy. Này các Sàlhà, người có
si này bị si chinh phục, giết các sinh loại, lấy của không cho, đi đến
vợ người, nói láo, khích lệ người khác cũng làm như vậy, như vậy có làm
người ấy bất hạnh đau khổ lâu dài hay không?
- Thưa có, bạch Tôn giả.
6. - Các thầy nghĩ thế nào, này các
Sàlhà. Các pháp này là thiện hay bất thiện?
- Là bất thiện, thưa Tôn giả.
- Có tội hay không có tội?
- Có tội, thưa Tôn giả.
- Bị ngườicó trí quở trách hay được người có trí tán thán?
- Bị người có trí quở trách, thưa Tôn giả.
- Ðược thực hiện, được chấp thuận, có đưa lại bất hạnh hay đau khổ
không? Hay ở đây là thế nào?
- Ðược thực hiện, được chấp thuận, thưa Tôn giả, chúng đưa lại bất
hạnh đau khổ. Ở đây, đối với chúng con là như vậy.
7.-Như vậy, này các Sàlhà, điều ta
vừa nói với các thầy, "Chớ có tin vì nghe theo truyền thống; chớ có tin
vì nghe theo người ta nói; chớ có tin vì được Kinh Tạng truyền tụng; chớ
có tin vì nhân lý luận; chớ có tin vì nhân định lý; chớ có tin, sau khi
thẩm lự hay chấp nhận một vài lý thuyết; chớ có tin vì thấy là thích
hợp; chớ có tin, sau khi thẩm lự hay chấp nhận một vài lý thuyết, chớ có
tin vì thấy là thích hợp, chớ có tin vì vị Sa-môn là bậc đạo sư của
mình". Này các Sàlhà, khi nào tự mình biết như sau: "Các pháp này là bất
thiện; các pháp này là có tội; các pháp này bị người có trí quở trách;
các pháp này nếu được thực hành và chấp nhận, đưa lại bất hạnh cà đau
khổ", thời này các Sàlhà, hãy từ bỏ chúng! Ðiều này đã được nói lên như
vậy, chính là do duyên như
vậy được nói lên.
Như vậy, này các Sàlhà, chớ có tin vì nghe theo truyền thống; chớ có
tin vì nghe theo người ta nói; chớ có tin vì được Kinh Tạng truyền tụng;
chớ có tin vì nhân lý luận siêu hình; chớ có tin vì đúng theo một lập
trường; chớ có tin vì đánh giá hời hợt những dữ kiện; chớ có tin vì phù
hợp với định kiến; chớ có tin vì phát xuất từ nơi có uy quyền, chớ có
tin vì vị Sa-môn là bậc đạo sư của mình. Nhưng này các Sàlhà, khi nào tự
mình biết như sau: "Các pháp này là thiện; các pháp này là không có
tội; các pháp này không bị người có trí quở trách; các pháp này nếu được
thực hành và chấp nhận, đưa đến hạnh phúc an lạc", thời này các Sàlhà,
hãy đạt đến và an trú!
8. - Các Ông nghĩ như thế nào, này
các Sàlhà, không tham khi khởi lên trong nội tâm người nào, khởi lên như
vậy là đưa lại bất hạnh hay hạnh phúc lâu dài cho người ấy?
- Hạnh phúc, thưa Tôn giả.
- Người này không tham, này các Sàlhà, không bị tham chinh phục, tâm
không bị xâm chiếm, không giết các sinh vật, không lấy của không cho,
không đi đến vợ người, không nói láo, khích lệ người khác cũng làm như
vậy. Như vậy, có làm cho người ấy được hạnh phúc, an lạc lâu dài hay
không?
- Thưa có, bạch Tôn giả.
9. - Các Ông nghĩ như thế nào, này
các Sàlhà, không sân khi khởi lên trong nội tâm người nào, khởi lên như
vậy là đưa lại bất hạnh hay hạnh phúc lâu dài cho người ấy?
- Hạnh phúc, thưa Tôn giả.
- Người này không sân, này các Sàlhà, không bị sân chinh phục, tâm
không bị xâm chiếm, không giết các sinh vật, không lấy của không cho,
không đi đến vợ người, không nói láo, không khích lệ người khác cũng làm
như vậy. Như vậy, có làm cho người ấy được hạnh phúc, an lạc lâu dài
hay không?
- Thưa có, bạch Tôn giả.
10. - Các Ông nghĩ như thế nào, này
các Sàlhà, không si khi khởi lên trong nội tâm người nào, khởi lên như
vậy là đưa lại bất hạnh hay hạnh phúc lâu dài cho người ấy?
- Hạnh phúc, thưa Tôn giả.
- Người này không si, này các Sàlhà, không bị si chinh phục, tâm
không bị xâm chiếm, không giết các sinh vật, không lấy của không cho,
không đi đến vợ người, không nói láo, khích lệ người khác cũng làm như
vậy. Như vậy, có làm cho người ấy được hạnh phúc, an lạc lâu dài hay
không?
- Thưa có, bạch Tôn giả.
11. - Các ông nghĩ thế nào, này các
Sàlhà. Các pháp này là thiện hay bất thiện?
- Là thiện, bạch Tôn giả.
- Các Pháp này là tội hay không có tội?
- Không có tội, bạch Tôn giả.
- Bị người trí quở trách hay được người trí tán thán?
- Ðược người trí tán thán, bạch Tôn giả.
- Nếu được thực hiện, được chấp thuận, có đem đến hạnh phúc an lạc
không? Hay ở đây là như thế nào?
- Ðược thực hiện, được chấp thuận, bạch Tôn giả, chúng đưa đến hạnh
phúc an lạc. Ở đây, đối với chúng con là như vậy.
12.- Như vậy, này các Sàlhà, điều ta
vừa nói với các thầy, "Chớ có tin vì theo truyền thống; chớ có tin vì
nghe người ta nói, chớ có tin vì được Kinh Tạng truyền tụng; chớ có tin
vì nhân lý luận siêu hình, chớ có tin vì đúng theo một lập trường; chớ
có tin vì đánh giá hời hợt những dữ kiện; chớ có tin vì phù hợp với định
kiến; chớ có tin vì phát xuất từ nơi có uy quyền; chớ có tin vì vị
Sa-môn là bậc đạo sư của mình". Nhưng Này các Sàlhà, khi nào tự mình
biết như sau: "Các pháp này là thiện; các pháp này không có tội; các
pháp này dược các người trí tán thán; các pháp này nếu được thực hiện,
được chấp nhận, đưa lại hạnh phúc an lạc", thời này các Sàlhà, hãy chứng
đạt và an trú! Ðiều đã được nói lên như vậy, chính là do duyên như vậy
được nói lên.
13.- Này các Sàlhà, vị Thánh đệ tử
nào ly tham, ly sân, ly si như vậy, tỉnh giác, chánh niệm, với tâm câu
hữu với từ ... với tâm câu hữu với bi ... với tâm câu hữu với hỷ ... với
tâm câu hữu với xả, biến mãn một phương, cũng vậy phương thứ hai, cũng
vậy phương thứ ba; cũng vậy phương thứ tư. Như vậy, cùng khắp thế giới,
trên, dưới, bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới, vị ấy
an trú biến mãn với tâm câu hữu với xả, quảng đại, đại hành, vô biên,
không hận, không sân. Vị ấy rõ biết như sau: "Có trạng thái này, có
trạng thái liệt, có trạng thái thù thắng, có xuất ly ra khỏi tướng giới
này." Do vị ấy biết như vậy, thấy như vậy, tâm được giải thoát khởi dục
lậu, tâm được giải thoát khỏi vô minh lậu. Trong sự giải thoát, trí khởi
lên: "Ta đã được giải
thoát". Vị ấy rõ biết: "Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, các việc nên
làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa".
Vị ấy rõ biết như sau: "Trước ta có tham, tham ấy là bất thiện. Nay
ta không có nữa. Như vầy là thiện. Trước ta có sân, sân ấy là bất thiện.
Nay ta không có nữa. Như vầy là thiện. Trước ta có si, si ấy là bất
thiện. Nay ta không có nữa. Như vậy là thiện". Như vậy, ngay trong đời
sống hiện tại, vị ấy được giải thoát khỏi hy cầu, được tịch tịnh, được
thanh lương, cảm thấy an lạc, tự mình an trú trong Phạm tánh.
67.- Các Vấn Ðề Ðược Nói Ðến
1. - Này các Tỷ-kheo, có ba vấn đề
này được nói đến. Thế nào là ba? Có thể nói về quá khứ, này các Tỷ-kheo,
nói rằng: "Như vầy đã xảy ra trong thời quá khứ. Có thể nói về tương
lai, này các Tỷ-kheo, nói rằng: "Như vầy sẽ xảy ra trong thời tương
lai". Có thể nói về hiện tại, này các Tỷ-kheo, nói rằng: "Như vầy đang
xảy ra trong thời hiện tại".
2.-Với sự thảo luận, này các
Tỷ-kheo, một người có thể biết được là có khả năng nói chuyện hay không
có khả năng?
Nếu người nào, này các Tỷ-kheo, khi được hỏi một câu không trả lời
một cách dứt khoát một câu hỏi cần phải trả lời dứt khoát, không trả lời
một cách phân tích một câu hỏi cần trả lời một cách phân tích, không
trả lời một câu hỏi ngược lại với một câu hỏi cần phải trả lời với một
câu hỏi ngược lại, không có gạt qua một bên một câu hỏi cần phải gạt qua
một bên. Như vậy, này các Tỷ-kheo, một người như vậy không có khả năng
để thảo luận.
Nếu người nào, này các Tỷ-kheo, khi được hỏi một câu trả lời một cách
dứt khoát một câu hỏi cần phải trả lời dứt khoát, trả lời phân tích một
câu hỏi cần trả lời một cách phân tích, trả lời với một câu hỏi ngược
lại một câu hỏi cần phải trả lời với một hỏi ngược lại, gạt qua một bên
một câu hỏi cần phải gạt qua một bên. Như vậy, này các Tỷ-kheo, một
người như vậy có khả năng để thảo luận.
3.- Với sự thảo luận, này các
Tỷ-kheo, một người có thể biết được là có khả năng thảo luận hay không
có khả năng thảo luận?
Nếu một người, này các Tỷ-kheo, khi được hỏi một câu, không xác nhận
là đúng hay không đúng, không xác nhận là một giả thuyết, không xác nhận
là quan điểm của bậc trí, không xác nhận là sở hành thường làm. Nếu là
như vậy, này các Tỷ-kheo, người ấy không có khả năng thảo luận.
Nếu một người, này các Tỷ-kheo, khi được hỏi một câu, xác nhận là
đúng hay không đúng, xác nhận là một giả thuyết, xác nhận là quan điểm
của bậc trí, xác nhận là sở hành thường làm. Nếu là như vậy, này các
Tỷ-kheo, người ấy có khả năng thảo luận.
4.- Với sự thảo luận, này các
Tỷ-kheo, một người có thể biết được là có khả năng thảo luận hay không
có khả năng thảo luận?
Nếu một người, này các Tỷ-kheo, khi được hỏi một câu, tránh câu hỏi
ấy với một câu hỏi khác, hướng câu chuyện ra ngoài vấn đề, bày tỏ sự
phẫn nộ, sân, hận, bất mãn. Nếu là như vậy, này các Tỷ-kheo, người này
không có khả năng thảo luận.
Nếu một người, này các Tỷ-kheo, khi được hỏi một câu, không tránh câu
hỏi ấy với một câu hỏi khác, không hướng câu chuyện ra ngoài vấn đề,
không bày tỏ sự phẫn nộ, sân, hận, bất mãn. Nếu là như vậy, này các
Tỷ-kheo, người này có khả năng thảo luận.
5.-Với sự thảo luận, này các
Tỷ-kheo, một người có thể biết được là có khả năng thảo luận hay không
có khả năng thảo luận?
Nếu người, này các Tỷ-kheo, khi được hỏi một câu, lại mắng chửi, đánh
đập, nhạo báng, chụp lấy chỗ sơ hở. Nếu là như vậy, này các Tỷ-kheo,
người này không có khả năng thảo luận.
Nếu một người, này các Tỷ-kheo, khi được hỏi một câu, không mắng
chửi, không đánh đập, không nhạo báng, không chụp lấy chỗ sơ hở. Nếu là
như vậy, này các Tỷ-kheo, người này có khả năng thảo luận.
6.- Với sự thảo luận, này các
Tỷ-kheo, có thể biết được một người có duyên hay không có duyên.
Không có lóng tai, này các Tỷ-kheo, là không có duyên. Có lóng tai là
có duyên. Người có duyên thắng tri một pháp, biến tri một pháp, từ bỏ
một pháp, chứng đắc mot65t pháp. Do thắng tri một pháp, liễu tri một
pháp, từ bỏ một pháp, chứng đắc một pháp, vị ấy cảm thấy chánh giải
thoát. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là lợi ích của thảo luận, như vậy là
lợi ích của đàm luận, như vậy là lợi ích có duyên, như vậy là lợi ích
nghe lời khuyên, tức là tâm giải thoát không có chấp thủ.
7.
Nói chuyện với hiềm thù
Thiên chấp và kiêu mạn
Nghịch lại đức bậc Thánh
Bới móc lỗi lầm nhau
Thích nghe nói xấu người
Người lầm, người bối rối
Người bị thua, bị hại
Bậc Thánh không làm vậy.
Nếu muốn cùng đàm luận
Bậc hiền biết thời gian
Câu chuyện của bậc Thánh
Liên hệ pháp, pháp nghĩa
Người có trí nói chuyện
Không hiềm thù kiêu mạn
Với tâm không chấp trước
Không hiềm hận độc đoán
Không để tâm lơ đãng
Nói lên với chánh trí
Hoan hỷ lời khéo nói
Không vui lời vụng về
Không học cách chỉ trích,
Không chụp sơ hở người
Không nhiếc mắng đánh đập
Không nói lời vu vơ
Lời nói của bậc Thánh
Vừa dạy vừa hoan hỷ
Như vầy bậc Thánh nói
Như vầy bậc Thánh luận đàm
Bậc trí biết rõ vậy
Nói lời thật khiêm tốn
68. Du Sĩ Ngoại Ðạo.
1. - Này các Tỷ-kheo, nếu các du sĩ
ngoại đạo hỏi như sau: "Có ba pháp này, này các Hiền giả. Thế nào là ba?
Tham, sân, si. Những pháp này, này các Hiền giả, là ba pháp. Trong ba
pháp này, này các Hiền giả, thế nào là đặc thù, thế nào là thù thắng,
thế nào là khác biệt? "Ðược hỏi vậy, này các Tỷ-kheo, các Ông trả lời
như thế nào với các du sĩ ngoại đạo ấy?
- Ðối với chúng con, bạch Thế Tôn, các pháp lấy Thế Tôn làn căn bản,
lấy Thế Tôn làm lãnh đạo, lấy Thế Tôn làm nương tựa. Lành thay, bạch Thế
Tôn, nếu Thế Tôn thuyết ý nghĩa lời nói này cho chúng con. Sau khi nghe
Thế Tôn, các Tỷ-kheo sẽ thọ trì.
- Vậy này các Tỷ-kheo, hãy nghe và khéo tác ý, ta sẽ nói!
- Thưa vâng, bạch Thế Tôn. Các vị Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn.
Thế Tôn nói như sau:
- Này các Tỷ-kheo, nếu các du sĩ ngoại đạo hỏi như sau: "Có ba pháp
này, này các Hiền giả. Thế nào là ba? Tham, sân, si. Những pháp này, này
các Hiền giả, là ba pháp. Trong ba pháp này, này các Hiền giả, thế nào
là đặc thù, thế nào là thù thắng, thế nào là khác biệt? "Ðược hỏi vậy,
này các Tỷ-kheo, các Thầy cần phải trả lời cho các du sĩ ngoại đạo ấy
như sau: "Tham, thưa các Hiền giả, là tội nhỏ, nhưng ly tham là chậm
chạp. Sân là tội lớn, nhưng ly sân là mau chóng. Si là tội lớn, và ly si
là chậm chạp."
2.- "Do nhân gì, này chư Hiền, do
duyên gì tham chưa sanh được sanh khởi, và tham sanh rồi đưa đến tăng
trưởng, quảng đại?"
Cần phải trả lời là "Tịnh tướng". "Với ai không như lý tác ý tịnh
tướng, thời tham chưa sanh được sanh khởi, và tham đã sanh được tăng
trưởng quảng đại. Ðây là nhân, này các Hiền giả, đây là duyên, tham chưa
sanh được sanh khởi, và tham đã sanh được tăng trưởng quảng đại".
3. "Do nhân gì, này các chư Hiền, do
duyên gì sân chưa sanh được sanh khởi, và sân đã sanh được tăng trưởng,
quảng đại?"
Cần phải trả lời là "Chướng ngại tướng". "Với ai không như lý tác ý
chướng ngại tướng, thời sân chưa sanh được sanh khởi, sân sanh rồi được
tăng trưởng quảng đại. Ðây là nhân, này các Hiền giả, đây là duyên,
khiến sân chưa sanh được sanh khởi, và sân đã sanh được tăng trưởng
quảng đại".
4. "Do nhân gì, này các chư Hiền, do
duyên gì si chưa sanh được sanh khởi, và si đã sanh được tăng trưởng,
quảng đại?"
Cần phải trả lời là "Không như lý tác ý". "Với ai không như lý tác ý
chướng ngại tướng, thời si chưa sanh được sanh khởi, và si đã sanh được
tăng trưởng quảng đại. Ðây là nhân, này các Hiền giả, đây là duyên,
khiến si chưa sanh được sanh khởi, và si đã sanh được tăng trưởng quảng
đại".
5.-"Do nhân gì, này các chư Hiền, do
duyên gì tham chưa sanh được không sanh khởi, hay tham đã sanh được
đoạn tận?"
Cần phải trả lời là "tướng bất tịnh". "Với ai như lý tác ý tướng bất
tịnh, thời tham chưa sanh khởi không sanh khởi, hay tham đã sanh khởi
được đoạn tận. Ðây là nhân, này các Hiền giả, đây là duyên khiến tham
chưa sanh khởi không sanh khởi, hay tham đã sanh khởi được đoạn tận."
6. "Do nhân gì, này các chư Hiền, do
duyên gì sân chưa sanh được không sanh khởi, hay sân đã sanh được đoạn
tận?"
Cần phải trả lời là "từ tâm giải thoát". "Với ai như lý tác ý từ tâm
giải thoát, thời sân chưa sanh khởi không sanh khởi, hay sân đã sanh
khởi được đoạn tận. Ðây là nhân, này các Hiền giả, đây là duyên khiến
sân chưa sanh khởi không sanh khởi, hay sân đã sanh khởi được đoạn tận."
7. "Do nhân gì, này các chư Hiền, do
duyên gì si chưa sanh được không sanh khởi, hay si đã sanh được đoạn
tận?"
Cần phải trả lời là "như lý tác ý". "Với ai như lý tác ý thời si chưa
sanh khởi không sanh khởi, và si đã sanh khởi được đoạn tận. Ðây là
nhân, này các Hiền giả, đây là duyên khiến si chưa sanh khởi không sanh
khởi, hay si đã sanh khởi được đoạn tận."
69.- Các Căn Bản Bất Thiện
1. - Này các Tỷ-kheo, có ba căn bản
bất thiện này. Thế nào là ba? Tham là căn bản bất thiện, sân là căn bản
bất thiện, si là căn bản bất thiện.
Cái gì là tham, này các Tỷ-kheo, cái ấy bất thiện. Ai với lòng tham
có làm về thân, về lợi, về ý, cái ấy bất thiện. Với ai có lòng tham, bị
lòng tham chinh phục, tâm không được tự chủ, vu cáo làm người khác đau
khổ, bằng cách sát hại, trói buộc, tịch thu tài sản, mắng nhiếc hay tẩn
xuất, dựa trên: "Ta là sức mạnh, ta có sức mạnh." Cái ấy là bất thiện.
Như vậy, rất nhiều ác bất thiện pháp này sanh từ tham, duyên khởi từ
tham, tập khởi từ tham, khởi lên nơi người ấy.
2.- Cái gì là sân, này các Tỷ-kheo,
cái ấy bất thiện. Ai với lòng sân có làm gì về thân, về ý, cái ấy bất
thiện. Với ai có lòng sân, bị lòng sân chinh phục, tâm không được tự
chủ, vu cáo làm người khác đau khổ, bằng cách sát hại, trói buộc, tịch
thu tài sản, mắng nhiếc hay tẩn xuất, dựa trên: "Ta là sức mạnh, ta có
sức mạnh." Cái ấy là bất thiện. Như vậy, rất nhiều ác bất thiện pháp này
sanh từ sân, duyên khởi từ sân, tập khởi từ sân, khởi lên nơi người ấy.
3.- Cái gì là si, này các Tỷ-kheo,
cái ấy bất thiện. Ai với lòng si có làm gì về thân, về lời, về ý, cái ấy
bất thiện. Với ai có lòng si, bị lòng si chinh phục, tâm không được tự
chủ, vu cáo làm người khác đau khổ, bằng cách sát hại, trói buộc, tịch
thu tài sản, mắng nhiếc hay tẩn xuất, dựa trên: "Ta là sức mạnh, ta có
sức mạnh." Cái ấy là bất thiện. Như vậy, rất nhiều ác bất thiện pháp này
sanh từ si, duyên khởi từ si, tập khởi từ si, khởi lên nơi người ấy.
4.- Như vậy, này các Tỷ-kheo, người
này được gọi là người nói phi thời, nói không thực, nói không trúng
đích, nói phi pháp, nói phi luật. Vì sao người như vậy, này các Tỷ-kheo,
được gọi là người nói phi thời, nói không thực, nói không trúng đích,
nói phi pháp, nói phi luật? Như vầy là vì người này, này các Tỷ-kheo, đã
vu cáo làm người khác đau khổ, bằng cách sát hại, trói buộc, tịch thu
tài sản, mắng nhiếc hay tẩn xuất, dựa trên: "Ta là sức mạnh, ta có sức
mạnh." Khi được đối chất với sự thật, người ấy phủ nhận, không có chấp
nhận; khi được đối chất với sự không thật, người ấy không có nhiệt tình
thoát mở ra ngoài, nói rằng: "Ðây là không chân, đây là không thực". Cho
nên, người như vậy được gọi là người nói phi thời, nói không thực, nói
không trúng đích, nói phi
pháp, nói phi luật. Người như vậy, này các Tỷ-kheo, bị các ác bất thiện
pháp do tham sanh nhiếp phục, tâm mất tự chủ, ngay trong hiện tại sống
đau khổ với sự tổn não, với sự ưu não, với sự nhiệt não, sau khi thân
hoại mạng chung, được chờ đợi là ác thú. Người như vậy, này các Tỷ-kheo,
bị các ác bất thiện pháp do sân sanh nhiếp phục, tâm mất sự tự chủ,
ngay trong hiện tại sống đau khổ với sự tổn não, với sự ưu não, với sự
nhiệt não, sau khi thân hoại mạng chung, được chờ đợi là ác thú. Người
như vậy, này các Tỷ-kheo, bị các ác bất thiện pháp do si sanh nhiếp
phục, tâm mất tự chủ, ngay trong hiện tại sống đau khổ với sự tổn não,
với sự ưu não, với sự nhiệt não, sau khi thân hoại mạng chung, được chờ
đợi là ác thú.
5.- Ví như này các Tỷ-kheo, cây sàla
hay cây dhava hay cây phandana bị phá hoại, bị bao trùm bởi ba loại tầm
gởi, đi đến tổn hại, đi đến bất hạnh, đi đến tổn hại, và bất hạnh. Cũng
vậy, này các Tỷ-kheo, người như vậy, bị các ác bất thiện pháp do tham
sanh chinh phục, tâm mất tự chủ, ngay trong hiện tại sống đau khổ với sự
tổn não, với sự ưu não, với sự nhiệt não, sau khi thân hoại mạng chung,
được chờ đợi là ác thú ... bị các ác bất thiện pháp do sân sanh ... bị
các ác bất thiện pháp do si sanh chinh phục, tâm mất tự chủ, ngay trong
hiện tại sống đau khổ với sự tổn não, với sự ưu não, với sự nhiệt não,
sau khi thân hoại mạng chung, được chờ đợi là ác thú.
Những pháp này, này các Tỷ-kheo, là ba căn bản bất thiện.
6.- Có ba căn bản của thiện, này các
Tỷ-kheo. Thế nào là ba? Không tham là căn bản của thiện, không sân là
căn bản của thiện, không si là căn bản của thiện.
Cái gì là không tham, này các Tỷ-kheo, cái ấy thiện. Ai với lòng
không tham có làm gì về thân, về lợi, về ý, cái ấy thiện. Ai không có
lòng tham, không bị lòng tham chinh phục, tâm được tự chủ, không vu cáo
làm người khác đau khổ, bằng cách sát hại, trói buộc, tịch thu tài sản,
mắng nhiếc hay tẩn xuất, dựa trên: "Ta là sức mạnh, ta có sức mạnh." Cái
ấy là thiện. Như vậy, rất nhiều thiện pháp này sanh từ không tham,
duyên khởi từ không tham, tập khởi từ không tham, khởi lên nơi người ấy.
7.- Cái gì là không sân, này các
Tỷ-kheo, cái ấy thiện. Ai với lòng không sân có làm về thân, về lợi, về
ý, cái ấy thiện. Với ai không có lòng sân, không bị lòng sân chinh phục,
tâm được tự chủ, không vu cáo làm người khác đau khổ, bằng cách sát
hại, trói buộc, tịch thu tài sản, mắng nhiếc hay tẩn xuất, dựa trên: "Ta
là sức mạnh, ta có sức mạnh." Cái ấy là thiện. Như vậy, rất nhiều thiện
pháp này sanh từ không sân, duyên khởi từ không sân, tập khởi từ không
sân, khởi lên nơi người ấy.
8.- Cái gì là không si, này các
Tỷ-kheo, cái ấy là thiện. Ai với lòng không si có làm về thân, về lợi,
về ý, cái ấy thiện. Với ai không có lòng si, không bị lòng si chinh
phục, tâm được tự chủ, không vu cáo làm người khác đau khổ, bằng cách
sát hại, trói buộc, tịch thu tài sản, mắng nhiếc hay tẩn xuất, dựa trên:
"Ta là sức mạnh, ta có sức mạnh." Cái ấy là thiện. Như vậy, rất nhiều
thiện pháp này sanh ra từ không si, duyên khởi từ không si, tập khởi từ
không si, khởi lên nơi người ấy.
9.- Như vậy, này các Tỷ-kheo, người
này được gọi là người nói đúng thời, nói thực, nói trúng đích, nói đúng
pháp, nói đúng luật. Vì sao người như vậy, này các Tỷ-kheo, được gọi là
người nói đúng thời, nói thực, nói trúng đích, nói đúng pháp, nói đúng
luật? Như vầy là vì người này, này các Tỷ-kheo, đã không vu cáo làm
người khác đau khổ, bằng cách sát hại, trói buộc, tịch thu tài sản, mắng
nhiếc hay tẩn xuất, dựa trên: "Ta là sức mạnh, ta có sức mạnh." Khi
được đối chất với sự thật, người ấy chấp nhận, không có phủ nhận; khi
được đối chất với sự không thật, người ấy nhiệt tình thoát mở ra ngoài,
nói rằng: "Ðây là chân, đây là thực". Cho nên, người như vậy được gọi là
người nói đúng thời, nói thực, nói trúng đích, nói đúng pháp, nói đúng
luật.
10.- Người như vậy, này các Tỷ-kheo,
đoạn tận các ác bất thiện do tham sanh, cắt đứt từ gốc rễ, làm cho như
thân cây tala, làm cho không hiện hữu, làm cho không thể sanh khởi trong
tương lai, ngay trong hiện tại sống an lạc, không có tổn não, không có
ưu não, không có nhiệt não, sau khi thân hoại mạng chung, ngay trong
hiện tại được Bát-niết-bàn. Người như vậy, này các Tỷ-kheo, không bị các
ác bất thiện pháp do sân sanh nhiếp phục, tâm không mất tự chủ ...
Người như vậy, này các Tỷ-kheo, không bị các ác bất thiện pháp do si
sanh nhiếp phục, tâm không mất tự chủ, ngay trong hiện tại sống an lạc,
không có tổn não, không có ưu não, sau khi thân hoại mạng chung, ngay
trong hiện tại được Bát-niết-bàn.
11.- Ví như, này các Tỷ-kheo, cây
sàla hay cây dhava, cây phandana, bị ba cây tầm gởi phá hoại bao trùm.
Rồi có người đi đến, cầm cuốc và thúng. Người ấy chặt đứt rễ cây tầm gởi
ấy, sau khi chặt đứt rễ, người ấy đào mương. Ðào mương xong, người ấy
nhổ các rễ lên, nhỏ cho đến các rễ nhỏ, rễ usira. Rồi người ấy chặt cây
tầm gởi thành từng khúc nhỏ, bửa và chẻ thành từng mảnh nhỏ, người ấy
đem phơi giữa gió và mặt trời. Sau khi phơi giữa gió và mặt trời, người
ấy lấy lửa đốt, làm thành một đống tro, và quạt chúng ra giữa gió lớn,
hay đổ chúng xuống dòng nước chảy nhanh. Như vậy, này các Tỷ-kheo, các
cây tầm gởi ấy, bị cắt đứt gốc từ rễ, bị làm cho như thân cây tala, làm
cho không hiện hữu, làm cho không thể sanh khởi trong tương lai. Cũng
vậy, này các Tỷ-kheo, với người
như vậy, các ác bất thiện pháp do tham sanh đã được đoạn tận, được chặt
từ gốc rễ, được làm cho như thân cây tala, được làm cho không thể hiện
hữu, được làm cho không sanh khởi trong tương lai, ngay trong hiện tại
được sống an lạc, không có tổn não, không có ưu não, không có nhiệt não,
ngay trong hiện tại được Bát-niết-bàn ... do sân, sanh ... các ác bất
thiện pháp do si sanh đã được đoạn tận, được chặt từ gốc rễ, được làm
cho như thân cây tala, được làm cho không thể hiện hữu, được làm cho
không sanh khởi trong tương lai, ngay trong hiện tại được sống an lạc,
không có tổn não, không có ưu não, không có nhiệt não, ngay trong hiện
tại được Bát-niết-bàn
Những pháp này, này các Tỷ-kheo, là ba căn bản của thiện.
70.- Các Lễ Uposatha
Như vầy tôi nghe.
1. Một thời Thế Tôn ở Savatthi
(Xá-vệ), Pubbarama (Ðông viên), lâu đài của mẹ Migara. Rồi Visakha, mẹ
của Migara, trong ngày Uposatha (Bố tát trai-giới) đi đến Thế Tôn, sau
khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Thế Tôn nói với
Visakha, mẹ của Migara đang ngồi xuống một bên:
- Này Visàkhà, từ đâu bà đến sáng sớm như thế này?
- Bạch Thế Tôn, hôm nay con thọ trai giới.
- Có ba loại trai giới này, này Visàkhà. Thế nào là ba?
Trai giới người chăn bò, trai giới Niganthà, và trai giới bậc Thánh.
Như thế nào, này Visàkhà, là trai giới người chăn bò?
Ví như, này Visàkhà, người chăn bò vào buổi chiều lùa các con bò về
cho chủ của chúng. Người ấy suy nghĩ: "Hôm nay, các con bò đã ăn cỏ tại
chỗ này và chỗ này, đã uống nước tại chỗ này và chỗ này. Này mai, các
con bò đã ăn cỏ tại chỗ này và chỗ này, đã uống nước tại chỗ này và chỗ
này". Cũng vậy, này Visàkhà, ở đây có người giữ trai giới suy nghĩ: "Hôm
nay, ta đã ăn loại đồ ăn cứng này, loại đồ ăn cứng này ta đã ăn; ta đã
ăn loại đồ ăn mềm này, loại đồ ăn mềm này ta đã ăn. Ngày mai ta sẽ ăn
loại đồ ăn cứng này, loại đồ ăn cứng này ta sẽ ăn; ta sẽ ăn loại đồ ăn
mềm này, loại đồ ăn mềm này ta sẽ ăn". Như vậy, người ấy sống cả ngày
với tâm đồng hành với tham dục. Như vậy, này Visàkhà, là trai giới người
chăn bò.
Này Visàkhà, thế nào là trai giới các Nigantha?
Ở đây, này Visàkhà, có hạng Sa-môn tên là Niganthà, họ khích lệ đệ tử
như sau: "Ông hãy quăng bỏ trượng đốivới các sinh loại sống ở phương
Ðông, ngoài một trăm do tuần. Hãy quăng bỏ trượng đối với các sinh loại
sống ở phương Tây, ngoài một trăm do tuần ... sống ở phương Bắc ... sống
ở phương Nam, ngoài một trăm do tuần." Như vậy, họ khích lệ vì lòng
thương, vì lòng từ mẫn đối với một số sinh loại mà thôi, họ không khích
lệ vì lòng thương, vì lòng từ mẫn, đối với một số sinh loại khác. Trong
ngày Uposatha, họ khích lệ đệ tử như sau: "Này các Ông, hãy quăng bỏ tất
cả áo quần và nói như sau: "Ta không có bất cứ vật gì, bất cứ ở đâu,
bất cứ chỗ nào. Bất cứ vật gì, bất cứ ở đâu, bất cứ chỗ nào, không có
cái gì là của ta. ""Nhưng cha và mẹ của người ấy biết người ấy là con
của mình. Và người ấy biết họ là cha mẹ của mình. Vợ và con người ấy
biết người ấy là chồng, là cha của mình, và người ấy biết họ là vợ, là
con của mình. Các người nô tỳ làm công biết người ấy là chủ của họ. Và
người ấy biết họ là nô tỳ, là nhân viên của mình. Như vậy, trong thời
gian đáng phải khích lệ đúng với sự thật, trong thời gian ấy, lại được
khích lệ bằng điều nói láo. Ðây ta tuyên bố là một sự nói láo. Sau khi
đêm ấy đã qua, người ấy thọ hưởng tất cả tài sản chưa đem cho. Ðây ta
tuyên bố là lấy của không cho. Như vậy, này Visàkhà, là lễ Uposathà của
các Niganthà . Ðược sống thực hành như vậy, này Visàkhà, Uposatha của
các Nigànthã không quả lớn, không lợi ích lớn, không chói sáng, không
ánh sáng lớn.
4. - Và này Visàkhà, thế nào là trai
giới các bậc Thánh? Chính là làm thanh tịnh một tâm uế nhiễm với phương
pháp thích nghi.
Và này Visàkhà, thế nào là làm thanh tịnh một tâm uế nhiễm với phương
pháp thích nghi?
Ở đây, này Visàkhà, Thánh đệ tử niệm Phật: "Ðây là Thế Tôn, bậc
A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô
Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn." Do vị ấy
niệm Như Lai. tâm được tịnh tín, hân hoan sanh khởi, các phiền não của
tâm được đoạn tận. Ví như, này Visàkhà, đầu uế nhiễm được gột sạch với
phương pháp thích nghi.
Và này Visàkhà, thế nào là đầu uế nhiễm được gột sạch với phương pháp
thích nghi?
Do duyên bột nhồi, do duyên đất sét, do duyên nước và do duyên nỗ lực
thích nghi của con người. như vậy, này Visàkhà, là đầu uế nhiễm được
gột sạch với phương pháp thích nghi. Cũng vậy, này Visàkhà, là tâm uế
nhiễm được gột sạch với phương pháp thích nghi.
Và này Visàkhà, thế nào là tâm uế nhiễm được gột sạch với phương pháp
thích nghi?
Ở đây, này Visàkhà, Thánh đệ tử niệm Như Lai: "Ðây là Thế Tôn, bậc
A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiên Thệ, Thế Gian Giải, Vô
Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn." Do vị ấy
niệm Như Lai. tâm được tịnh tín, hân hoan khởi lên, các phiền não của
tâm được đoạn tận. Này Visàkhà, đây gọi là Thánh đệ tử để thực hành trai
giới Phạm Thiên, vị ấy cùng sống với Phạm Thiên. Do duyên Phạm Thiên,
tâm vị ấy được tịnh tín, hân hoan sanh khởi, các phiền não của tâm được
đoạn tận. Như vậy, này Visàkhà, là tâm uế nhiễm được gột sạch với phương
pháp thích nghi.
5.-Này Visàkhà, tâm uế nhiễm được
gột sạch với phương pháp thích nghi. Và này Visàkhà, thế nào là tâm uế
nhiễm được gột sạch với phương pháp thích nghi?
Ở đây, này Visàkhà, vị Thánh đệ tử niệm pháp: "Pháp được Thế Tôn khéo
thuyết giảng, thiết thực hiện tại, không có thời gian, đến để mà thấy,
có khả năng hướng thượng, được nhà nước trí tự mình giác hiểu". Do vị ấy
niệm Pháp, tâm được tịnh tín, hân hoan sanh khởi, các phiền não của tâm
được đoạn tận. Ví như, này Visàkhà, thân uế nhiễm được gột sạch với
phương pháp thích nghi.
Và này Visàkhà, thế nào là thân uế nhiễm được gột sạch với phương
pháp thích nghi? Do duyên sottim (một thứ đá bọt dùng để chà lưng), do
duyên bột tắm, do duyên nước và do duyên nỗ lực thích nghi của con
người. Như vậy, này Visàkhà, là thân uế nhiễm được gột sạch với phương
pháp thích nghi. Cũng vậy, này Visàkhà, là tâm uế nhiễm được gột sạch
với phương pháp thích nghi.
Và như thế nào, này Visàkhà, là tâm uế nhiễm được gột sạch với phương
pháp thích nghi?
Ở đây, này Visàkhà, Thánh đệ tử niệm pháp: "Pháp được Thế Tôn khéo
thuyết giảng, thiết thực hiện tại, không có thời gian, đến để mà thấy,
có khả năng hướng thượng, được nhà nước trí tự mình giác hiểu". Do người
ấy niệm Pháp, tâm được tịnh tín, hân hoan sanh khởi, các phiền não của
tâm được đoạn tận. Này Visàkhà, đây gọi là Thánh đệ tử thực hành pháp
trai giới, vị ấy sống với pháp. Chính nhờ pháp, tâm vị ấy tịnh tín, hân
hoan sanh khởi, các phiền não của tâm được đoạn tận. Như vậy, này
Visàkhà, là tâm uế nhiễm được gột sạch nhờ phương pháp thích nghi.
6.- Này Visàkhà, tâm uế nhiễm được
gột sạch với phương pháp thích nghi. Và này Visàkhà, thế nào là tâm uế
nhiễm được gột sạch nhớ phương pháp thích nghi?
Ở đây, này Visàkhà, Thánh đệ tử niệm Tăng: "Diệu hạnh là chúng đệ tử
Thế Tôn; Trực hạnh là chúng đệ tử Thế Tôn; ứng lý là hạnh là chúng đệ tử
Thế Tôn; Chơn chánh hạnh là chúng đệ tử Thế Tôn, tức là bốn đôi tám
chúng. Chúng đệ tử của Thế Tôn là đáng cung kính, đáng tôn trọng, đáng
cúng dường, đáng được bắt tay, là phước điền vô thượng ở đời". Do vị ấy
niệm Tăng, tâm vị ấy tịnh tín, hân hoan sanh khởi, các phiền não của tâm
được đoạn tận. Ví như, này Visàkhà, một tấm vải bị uế được gột sạch nhờ
phương pháp thích nghi.
Và này Visàkhà, thế nào là một tấm vải bị uế nhiễm được gột sạch nhờ
phương pháp thích nghi?
Do duyên usam (đất mặn) do duyên khàram (nước tro), do duyên phân bò,
do duyên nước, và do duyên nỗ lực thích nghi của con người. Như vậy,
này Visàkhà, một tấm vải bị uế nhiễm được gột sạch nhờ phương pháp thích
nghi. Cũng vậy, này Visàkhà, là tâm uế nhiễm được gột sạch nhờ phương
pháp thích nghi.
Và này Visàkhà, thế nào là tâm uế nhiễm được gột sạch nhờ phương pháp
thích nghi?
Ở đây, này Visàkhà, Thánh đệ tử niệm Tăng: "Diệu hạnh là chúng đệ tử
Thế Tôn; Trực hạnh là chúng đệ tử Thế Tôn; ứng lý là hạnh là chúng đệ tử
Thế Tôn; Chơn chánh hạnh là chúng đệ tử Thế Tôn, tức là bốn đôi tám
chúng. Chúng đệ tử của Thế Tôn là đáng cung kính, đáng tôn trọng, đáng
cúng dường, đáng được bắt tay, là phước điền vô thượng ở đời". Nhờ vị ấy
niệm Tăng, tâm được tịnh tín, hân hoan sanh khởi, các phiền não của tâm
được đoạn tận. Này Visàkhà, đây gọi là Thánh đệ tử thực hành chúng Tăng
trai giới, sống với chúng tăng. Chính nhờ chúng tăng, tâm vị ấy tịnh
tín, hân hoan sanh khởi, các phiền não của tâm được đoạn tận. Như vậy,
này Visàkhà, là tâm uế nhiễm được gột sạch nhờ phương pháp thích nghi.
7.- Này Visàkhà, tâm uế nhiễm được
gột sạch nhò phương pháp thích nghi. Và này Visàkhà, thế nào là tâm uế
nhiễm được gột sạch nhờ phương pháp thích nghi?
Ở đây, này Visàkhà, Thánh đệ tử niệm Giới: "Không bị phá hoại, không
bị đâm cắt, không bị nhiễm ô, không bị uế nhiễm, đem lại giải thoát,
được người trí tán thán, không bị chấp thủ, đưa đến Thiền định". Vị ấy
nhờ niệm Giới, tâm vị ấy tịnh tín, hân hoàn sanh khởi, các phiền não của
tâm được đoạn tận. Ví như, này Visàkhà, một tấm gương uế nhiễm được gột
sạch với phương pháp thích nghi?
Và này Visàkhà, thế nào là một tấm gương uế nhiễm được rửa sạch nhờ
phương pháp thích nghi?
Do duyên dầu, do duyên tro, do duyên bàn chải lông và do duyên nỗ lực
thích nghi của con người. Như vậy, này Visàkhà, là tấm gương uế nhiễm
được rửa sạch với phương pháp thích nghi.
Và này Visàkhà, thế nào là một tấm gương uế nhiễm được rửa sạch nhờ
phương pháp thích nghi?
Ở đây, này Visàkhà, Thánh đệ tử niệm Giới: "Không bị phá hoại, không
bị đâm cắt, không bị nhiễm ô, không bị uế nhiễm, đem lại giải thoát,
được người trí tán thán, không bị chấp thủ, đưa đến Thiền định". Vị ấy
nhờ niệm Giới, tâm được tịnh tín, hân hoàn sanh khởi, các phiền não của
tâm được đoạn tận. Này Visàkhà, đây gọi là thánh đệ tử thực hành giới
Uposatha, sống chung với giới. Nhờ giới, tâm được tịnh tín, hân hoàn
sanh khởi, các phiền não của tâm được đoạn tận. Như vậy, này Visàkhà, là
tâm uế nhiễm được rửa sạch nhờ phương pháp thích nghi?
8. Này Visàkhà, tâm uế nhiễm được
gột sạch với phương pháp thích nghi. Và này Visàkhà, thế nào là tâm uế
nhiễm được gột sạch với phương pháp thích nghi?
Ở đây, này Visàkhà, Thánh đệ tử niệm Thiên: "Có Chư Thiên bốn Thiên
Vương; có Chư Thiên cõi trời ba mươi ba; có chư Thiên Yàmà; có chư Thiên
Tusita (Ðâu suất); có chư Thiên hóa lạc; có chư Thiên tha hóa tự tại;
có chư Thiên Phạm chúng; có chư Thiên cao hơn nữa. Ðầy đủ với lòng tin
như vậy, chư Thiên ấy, sau khi chết ở chỗ này, được sanh tại chỗ kia.
Lòng tin như vậy cũng có đầy đủ nơi ta. Ðầy đủ với giới như vậy, chư
Thiên ấy, sau khi chết ở chỗ này, được sanh tại chỗ kia. Giới như vậy
cũng có đầy đủ nơi ta. Ðầy đủ với nghe pháp như vậy, chư Thiên ấy, sau
khi chết ở chỗ này, được sanh tại chỗ kia. Nghe pháp như vậy cũng có đầy
đủ nơi ta. Ðầy đủ với thí như vậy, chư Thiên ấy, sau khi chết ở chỗ
này, được sanh tại chỗ kia. Thí như vậy cũng có đầy đủ nơi ta. Ðầy đủ
tuệ
như vậy, chư Thiên ấy, sau khi chết ở chỗ này, được sanh tại chỗ kia.
Tuệ như vậy cũng có đầy đủ nơi ta. Khi người ấy niệm giới, nghe pháp,
thí và tuệ của tự mình và chư Thiên ấy, tâm được tịnh tín, hân hoan sanh
khởi. Các phiền não của tâm được đoạn tận. Ví như, này Visàkhà, là vàng
bị uế nhiễm được làm cho thanh tịnh nhờ phương pháp thích nghi.
Và này Visàkhà, thế nào là vàng bị uế nhiễm được làm cho thanh tịnh
nhờ phương pháp thích nghi?
Do duyên lò, do duyên đất muối, do duyên phấn đỏ, do duyên ống bệ, do
duyên cái kìm, và do duyên nỗ lực thích nghi của con người. Như vậy,
này Visàkhà, là vàng bị uế nhiễm được làm cho thanh tịnh nhờ phương pháp
thích nghi. Cũng vậy, này Visàkhà, là tâm bị uế nhiễm được làm cho
thanh tịnh nhờ phương pháp thích nghi?
Và này vì, thế nào là tâm bị uế nhiễm được làm cho thanh tịnh nhờ
phương pháp thích nghi.
Ở đây, này Visàkhà, Thánh đệ tử niệm Thiên: "Có Chư Thiên bốn Thiên
Vương; có Chư Thiên cõi trời ba mươi ba; có chư Thiên Yàmà; có chư Thiên
Tusita (Ðâu suất); có chư Thiên hóa lạc; có chư Thiên tha hóa tự tại;
có chư Thiên Phạm chúng; có chư Thiên cao hơn nữa. Ðầy đủ với lòng tin
như vậy, chư Thiên ấy, mạng chung ở chỗ này, được sanh tại chỗ ấy. Ta
cũng có lòng tin như vậy. Ðầy đủ với giới như vậy, chư Thiên ấy, sau khi
chết ở chỗ này, được sanh tại chỗ kia. Giới như vậy cũng có đầy đủ nơi
ta. Ðầy đủ với nghe pháp như vậy, chư Thiên ấy, sau khi chết ở chỗ này,
được sanh tại chỗ kia. Nghe pháp như vậy cũng có đầy đủ nơi ta. Ðầy đủ
với thí như vậy, chư Thiên ấy, sau khi chết ở chỗ này, được sanh tại chỗ
kia. Thí như vậy cũng có đầy đủ nơi ta. Ðầy đủ tuệ như vậy, chư
Thiên ấy, sau khi chết ở chỗ này, được sanh tại chỗ kia. Ta cũng có trí
tuệ như vậy". Khi vị ấy niệm tín, giới, nghe pháp, thí, và tuệ của tự
mình và của chư Thiên ấy, tâm được tịnh tín, hân hoan sanh khởi. Các
phiền não của tâm được đoạn tận. Ðây gọi là Thánh đệ tử thực hành Thiên
trai giới, sống chung với chư Thiên. Nhờ chư Thiên, tâm vị ấy được tịnh
tín, hân hoan sanh khởi. Các phiền não của tâm được đoạn tận. Như vậy,
này Visàkhà, là tâm bị uế nhiễm được làm cho thanh tịnh nhờ phương pháp
thích nghi.
9. - Thánh đệ tử ấy, này Visàkhà,
suy tư như sau: "Cho đến trọn đời, các vị A-la-hán từ bỏ sát sanh, tránh
xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương
xót đến hạnh phúc của tất cả chúng sanh và loài hữu tình. Cũng vậy đêm
nay và ngày nay, ta sống từ bỏ sát sanh. tránh xa sát sanh, bỏ trượng,
bỏ kiếm, biết tàm quí, có lòng từ, sống thương xót đến hạnh phúc của tất
cả chúng sanh và loài hưũ tình. Về chi phần này, ta theo gương các vị
A-la-hán và ta sẽ thực hành trai giới".
10.- "Cho đến trọn đời, các vị
A-la-hán từ bỏ lấy của không cho, chỉ lấy những vật đã cho, chỉ mong
những vật đã cho, tự sống thanh tịnh, không có trộm cướp. Cũng vậy, đêm
nay và ngày nay, ta sống từ bỏ lấy của không cho, chỉ lấy những vật đã
cho, chỉ mong những vật đã cho, tự sống thanh tịnh, không có trộm cướp.
Về chi phần này, ta theo gương các vị A-la-hán và ta sẽ thực hành trai
giới".
11.-"Cho đến trọn đời, các vị
A-la-hán từ bỏ tà Hạnh, tịnh tu Phạm hạnh, sống giải thoát, từ bỏ dâm
dục hèn hạ. Cũng vậy, đêm nay và ngày nay, ta sống từ bỏ tà Hạnh, tịnh
tu Phạm hạnh, sống giải thoát, từ bỏ dâm dục hèn hạ. Về chi phần này, ta
theo gương các vị A-la-hán và ta sẽ thực hành trai giới".
12.-"Cho đến trọn đời, các vị
A-la-hán từ bỏ nói láo, tránh xa nói láo, nói những lời chân thật, y chỉ
nơi sự thật chắc chắn, đáng tin cậy, không lừa gạt, không phản lại lời
hứa đối với đời. Cũng vậy, đêm nay và ngày nay, ta sống từ bỏ nói láo,
tránh xa nói láo, nói những lời chân thật, y chỉ nơi sự thật chắc chắn,
đáng tin cậy, không lừa gạt, không phản lại lời hứa đối với đời. Về chi
phần này, ta theo gương các vị A-la-hán và ta sẽ thực hành trai giới".
13.-"Cho đến trọn đời, các vị
A-la-hán từ bỏ rượu men, rượu nấu làm cho đắm say, tránh xa rượu men,
rượu nấu làm cho đắm say. Cũng vậy, đêm nay và ngày nay, ta sống từ bỏ
rượu men, rượu nấu làm cho đắm say, tránh xa rượu men, rượu nấu làm cho
đắm say. Về chi phần này, ta theo gương các vị A-la-hán và ta sẽ thực
hành trai giới".
14.- "Cho đến trọn đời, các vị
A-la-hán ăn một ngày một bữa, không ăn ban đêm, không ăn phí thời. Cũng
vậy, đêm nay và ngày nay, ta sống ăn một ngày một bữa, không ăn ban đêm,
không ăn phí thời. Về chi phần này, ta theo gương các vị A-la-hán và ta
sẽ thực hành trai giới".
15.- "Cho đến trọn đời, các vị
A-la-hán tránh xa không xem múa, hát, nhạc, diễn kịch, không trang sức
bằng vòng hoa, hương liệu, dầu thoa và các thời trang. Cũng vậy, đêm nay
và ngày nay, ta sống tránh xa không xem múa, hát, nhạc, diễn kịch,
không trang sức bằng vòng hoa, hương liệu, dầu thoa và các thời trang.
Về chi phần này, ta theo gương các vị A-la-hán và ta sẽ thực hành trai
giới".
16.- "Cho đến trọn đời, các vị
A-la-hán từ bỏ giường cao, giường lớn, tránh xa giường cao, giường lớn.
Các vị ấy nằm trên giường thấp, trên giường nhỏ hay trên đệm cỏ. Cũng
vậy, đêm nay và ngày nay, ta từ bỏ giường cao, giường lớn, tránh xa
giường cao, giường lớn. Các vị ấy nằm trên giường thấp, trên giường nhỏ
hay trên đệm cỏ. Về chi phần này, ta theo gương các vị A-la-hán và ta sẽ
thực hành trai giới".
Như vậy, này Visàkhà, là Thánh trai giới, thực hành Thánh trai giới,
này Visàkhà, có quả lớn, có lợi ích lớn, có chói sáng lớn, có ánh sáng
lớn.
17. - Quả lớn là như thế nào? Lợi
ích lớn như thế nào? Chói sáng lớn như thế nào? Ánh sáng lớn như thế
nào?
Ví như, này Visàkhà, có người áp đặt chủ quyền trên 16 quốc độ lớn
tràn đầy bảy báu như Anga, Magadha, Kàsi, Kosala, Vajji, Mallà, Ceti,
Vangà, Kurù, Pancàlà, Macchà, Surasenà, Assakà, Avanti, Gandhàrà,
Kambojà, nhưng chủ quyền ấy không bằng một phần mười sáu của một trai
giới thực hành đầy đủ cả tám mặt. Vì cớ sao? Nhỏ nhoi thay, này Visàkhà,
là vương quyền của loài người, so sánh với hạnh phúc Chư Thiên!
18. - Năm mươi năm của một đời
người, này Visàkhà, bằng một đêm một ngày của chư Thiên của Bốn Thiên
Vương. Ba mươi đêm như vậy, làm thành một tháng. Mười hai tháng như vậy
làm thành một năm. Năm mươi năm chư thiên như vậy làm thành thọ mạng của
chư Thiên Bốn Thiên Vương. Sự kiện này có xảy ra, này Visàkhà, ở đây có
người đàn bà hay người đàn ông, sau khi thực hiện trai giới đầy đủ cả
tám mặt, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh cộng trú với chư Thiên
của Bốn Thiên Vương. Chính dựa trên trường hợp này được nói lên rằng:
"Nhỏ nhoi thay là vương quyền của loài người, so sánh với hạnh phúc chư
Thiên!"
19.- Một trăm năm của một đời người,
này Visàkhà, bằng một ngày một đêm của chư Thiên ở cõi trời ba mươi ba.
Ba mươi đêm như vậy, làm thành một tháng. Mười hai tháng như vậy làm
thành một năm. Một ngàn năm chư Thiên như vậy làm thành thọ mạng của chư
Thiên ở cõi trời ba mươi ba. Sự kiện này có xảy ra, này Visàkhà, ở đây
có người đàn bà hay người đàn ông, sau khi thực hiện trai giới đầy đủ cả
tám mặt, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh cộng trú với chư Thiên
ở cõi trời ba mươi ba. Chính dựa trên trường hợp này được nói lên rằng:
"Nhỏ nhoi thay là vương quyền của loài người, so sánh với hạnh phúc chư
Thiên!"
20.- Hai trăm năm của một đời người,
này Visàkhà, bằng một ngày một đêm của chư Thiên ở cõi trời Yàmà. Ba
mươi đêm như vậy, làm thành một tháng. Mười hai tháng như vậy làm thành
một năm. Hai ngàn năm chư Thiên như vậy làm thành thọ mạng của chư Thiên
ở cõi trời Yàmà. Sự kiện này có xảy ra, này Visàkhà, ở đây ... được
sanh cộng trú với chư Thiên ở cõi trời Yàmà ... chính dựa trên trường
hợp này ... với hạnh phúc chư Thiên".
21.- Bốn trăm năm của một đời người,
này Visàkhà, bằng một ngày một đêm của chư Thiên ở cõi trời Tusita
(Ðâu-xuất). Ba mươi đêm như vậy, làm thành một tháng ... làm thành một
năm. Bốn ngàn năm chư Thiên như vậy làm thành thọ mạng của chư Thiên ở
cõi trời Tusita. Sự kiện này có xảy ra, này Visàkhà, ở đây ... được sanh
cộng trú với chư Thiên ở cõi trời Tusita ... chính dựa trên trường hợp
này ... với hạnh phúc chư Thiên".
22.- Tám trăm năm của một đời người,
này Visàkhà, bằng một ngày một đêm của chư Thiên ở cõi trời Hóa lạc. Ba
mươi đêm như vậy, làm thành một tháng ... làm thành một năm. Tám ngàn
năm chư Thiên như vậy làm thành thọ mạng của chư Thiên ở cõi trời Hóa
lạc. Sự kiện này có xảy ra, này Visàkhà, ở đây ... được sanh cộng trú
với chư Thiên ở cõi trời Hóa lạc ... chính dựa trên trường hợp này ...
với hạnh phúc chư Thiên".
23.- Mười sáu trăm năm của một đời
người, này Visàkhà, bằng một ngày một đêm của chư Thiên ở cõi trời Tha
Hóa Tự tại. Ba mươi đêm như vậy, làm thành một tháng, mười hai tháng như
vậy làm thành một năm. Mười sáu ngàn năm chư Thiên như vậy làm thành
thọ mạng của chư Thiên ở cõi trời Tha Hóa Tự tại. Sự kiện này có xảy ra,
này Visàkhà, ở đây có người đàn bà hay người đàn ông, sau khi thực hàng
Uposatha đầy đủ cả tám mặt, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh
cộng trú với chư Thiên ở cõi trời Tha Hóa Tự tại. Chính dựa trên trường
hợp này, được nói lên rằng: "Nhỏ nhoi thay là vương quyền của loài
người, so sánh với hạnh phúc chư Thiên".
24.
Chớ giết hại sinh loài
Chớ lấy của không cho
Chớ nói lời nói láo
Chớ uống thứ rượu say
Từ bỏ không phạm hạnh
Từ bỏ, không dâm dục
Không ăn vào ban đêm
Tránh không ăn phi thời
Không mang các vòng hoa
Không dùng các hương liệu
Hãy nằm trên tấm thảm
Ðược trải dài trên đất
Chính hạnh trai giới này
Ðược gọi có tám phần
Do Đức Phật nói lên
Ðưa đến đoạn tận khổ
Mặt trăng và mặt trời
Ðược thấy là lành tốt
Chỗ nào chúng đi tới
Chúng chói sáng hào quang
Chúng làm mây sáng chói
Giữa hư không chúng đi
Trên trời chúng chói sáng
Sáng rực mọi phương hướng
Trong khoảng không gian ấy
Tài sản được tìm thấy
Trân châu và ngọc báu
Lưu ly, đá cầu may
Vàng cục trong lòng đất
Hay loại Kancana
Cùng loại vàng sáng chói
Ðược gọi là Hattaka
Tuy vậy chúng giá trị
Chỉ một phần mười sáu
Với hạnh giữ trai giới
Ðầy đủ cả tám mặt
Kể cả ánh sáng trăng
Với cả vòm trời cao.
Vậy người nữ người nam
Hãy giữ theo định giới
Hành bố-tát trai giới
Ðầy đủ cả tám mặt
Làm thiện các công đức
Ðem lại nhiều an lạc
Ðược sanh lên cõi trời
Không bị người cười chê
VIII. Phẩm Ananda
71.-
Channa
1.
Nhân duyên ở Sàvatthi.
Rồi du sĩ Channa đi đến Tôn giả Ananda, sau khi đến, nói lên với Tôn
giả những lời chào đón thăm hỏi; sau khi nói lên với Tôn giả những lời
chào đón thăm hỏi thân hữu, rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên,
du sĩ Channa nói với Tôn giả Ananda:
- Thưa Hiền giả Ananda, có phải các người tuyên thuyết về đoạn tận
tham, đoạn tận sân, đoạn tận si?
- Vâng, thưa Hiền giả, chúng tôi tuyên thuyết về đoạn tận tham, đoạn
tận sân, đoạn tận si.
- Thưa Hiền giả, do thấy nguy hại của tham như thế nào, các Người
tuyên thuyết về đoạn tận tham? Do thấy nguy hại của sân như thế nào, các
Người tuyên thuyết về đoạn tận sân? Do thấy nguy hại của si như thế
nào, các Người tuyên thuyết về đoạn tận si?
2. - Người có tham, thưa Hiền giả,
bị tham chinh phục, tâm mất tự chủ, nghĩ đến hại mình, nghĩ đến hại
người, nghĩ đến hại cả hai, cảm giác khổ ưu thuộc về tâm. Khi tham được
đoạn tận, không nghĩ đến hại mình, không nghĩ đến hại người, không nghĩ
đến hại cả hai, không cảm giác khổ ưu thuộc về tâm.
Người có tham, thưa Hiền giả, bị tham chinh phục, tâm mất tự chủ,
thân làm ác, miệng nói ác, ý nghĩ ác. Khi tham được đoạn tận, thân không
làm ác, miệng không nói ác, ý không nghĩ ác.
Người có tham, thưa Hiền giả, bị tham chinh phục, tâm mất tự chủ,
không như thật rõ biết lợi mình, không như thật rõ biết lợi người, không
như thật rõ biết lợi cả hai. Khi tham được đoạn tận, như thật rõ biết
lợi mình, như thật rõ biết lợi người, như thật rõ biết lợi cả hai.
Tham, thưa Hiền giả, làm thành mù, làm thành không mắt, làm thành
không trí, đoạn diệt trí tuệ, dự phần vào tổn não, không đưa đến
Niết-bàn.
Người có sân, thưa Hiền giả, bị sân chinh phục, tâm mất tự chủ, nghĩ
đến hại mình ... như thật rõ biết lợi cả hai.
Sân, thưa Hiền giả, làm thành mù, làm thành không mắt, làm thành
không trí, đoạn diệt trí tuệ, dự phần vào tổn não, không đưa đến
Niết-bàn.
Người có si, thưa Hiền giả, bị si chinh phục, tâm mất tự chủ, nghĩ
đến hại mình ... Khi si được đoạn tận, không nghĩ đến hại mình ... không
cảm giác khổ ưu thuộc về tâm. như thật rõ biết lợi cả hai. Người có si,
thưa Hiền giả, bị si chinh phục, tâm mất tự chủ, làm ác hạnh với thân
... làm ác hạnh với ý. Khi si được đoạn tận, không làm ác hạnh với thân
... với ý.
Người có si, thưa Hiền giả, bị si chinh phục, tâm mất tự chủ, không
như thật rõ biết lợi mình, ... không như thật rõ biết lợi cả hai. Khi si
được đoạn tận, như thật rõ biết lợi mình ... như thật rõ biết lợi cả
hai.
Si, thưa Hiền giả, làm thành mù, làm thành không mắt, làm thành không
trí, đoạn diệt trí tuệ, dự phần vào tổn não, không đưa đến Niết-bàn.
Thấy sự nguy hại này của tham, thưa Hiền giả, chúng tôi tuyên thuyết
đoạn tận tham. Thấy sự nguy hại này của sân, thưa Hiền giả, chúng tôi
tuyên thuyết đoạn tận sân. Thấy sự nguy hại này của si, thưa Hiền giả,
chúng tôi tuyên thuyết đoạn tận si.
3. - Có con đường nào, thưa Hiền
giả, có đạo lộ nào đưa đến đoạn tận tham, sân, si?
- Có con đường, thưa Hiền giả, có đạo lộ đưa đến đoạn tận tham, sân,
si.
- Con đường ấy là gì, thưa Hiền giả, đạo lộ ấy là gì đưa đến đoạn tận
tham, sân, si?
- Chính là Thánh đạo tám ngành, tức là chánh tri kiến, chánh tư duy,
... chánh định. Ðây là con đường, thưa Hiền giả, đây là đạo lộ đưa đến
đoạn tận tham, sân, si.
- Hiền thiện là con đường, thưa Hiền giả! Hiền thiện là đạo lộ đưa
đến đoạn tận tham, sân, si! Thật là vừa đủ, thưa Hiền giả Ananda, để áp
dụng không phóng dật.
72.- Tà Mạng Ðệ Tử
1. Một thời, Tôn giả Ananda trú ở
Kosambi, tại khu vườn Ghosità
Rồi một tà mạng đệ tử gia chủ đi đến Tôn giả Ananda; sau khi đến,
đảnh lễ Tôn giả Ananda rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, tà
mạng đệ tử gia chủ nói với Tôn giả Ananda:
- Thưa Tôn giả Ananda, pháp của những ai được khéo thuyết? Những ai
khéo hành trì ở đời? Những ai khéo vượt qua ở đời?
- Vậy này gia chủ, về vấn đề này Ta sẽ hỏi Ông. Ông kham nhẫn thế
nào, hãy trả lời như vậy. Ông nghĩ thế nào, này gia chủ, những ai thuyết
pháp để đoạn tận tham, thuyết pháp để đoạn tận sân, thuyết pháp để đoạn
tận si, pháp có được các vị ấy khéo thuyết hay không? Hay ở đây, Ông
nghĩ thế nào?
- Thưa Tôn giả, ai thuyết pháp để đoạn tận tham, thuyết pháp để đoạn
tận sân, thuyết pháp để đoạn tận si, pháp ấy được khéo thuyết. Và ở đây,
tôi nghĩ như vậy.
2. - Ông nghĩ thế nào, này gia chủ,
những ai thực hành đoạn tham, thực hành đoạn sân, thực hành đoạn si,
những vị ấy có khéo thực hành ở đời hay không? Hay ở đây, Ông nghĩ thế
nào?
- Thưa Tôn giả, những ai thực hành đoạn tham, thực hành đoạn sân,
thực hành đoạn si, những vị ấy khéo thực hành ở đời. Và ở đây, tôi nghĩ
như vậy.
3. - Ông nghĩ thế nào, này gia chủ,
với những ai tham được đoạn tận, cắt đứt từ gốc rễ, làm cho như thân cây
tala, làm cho không thể hiện hữu, làm cho không thể sanh khởi trong
tương lai; với những ai, sân được đoạn tận ... với những ai, si được
đoạn tận, cắt đứt từ gốc rễ, làm cho như thân cây tala, làm cho không
thể hiện hữu, làm cho không thể sanh khởi trong tương lai; những vị ấy
có khéo vượt qua ở đời hay không? Hay ở đây, Ông nghĩ thế nào?
- Thưa Tôn giả, với những ai tham được đoạn tận, ... với những ai,
sân được đoạn tận ... với những ai, si được đoạn tận, cắt đứt từ gốc rễ,
làm cho như thân cây tala, làm cho không thể hiện hữu, làm cho không
thể sanh khởi trong tương lai; những vị ấy khéo vượt qua ở đời. Và ở
đây, tôi nghĩ như vậy.
4.-- Như vậy, Ông đã trả lời như
sau: "Thưa Tôn giả, những ai thuyết pháp để đoạn tận tham, thuyết pháp
để đoạn tận sân, thuyết pháp để đoạn tận si, pháp được các vị ấy khéo
thuyết." Và Ông đa trả lời như sau: "Thưa Tôn giả, những ai đã thực hành
đoạn tận tham ... đoạn tận sân ... đoạn tận si, những ai đã khéo thực
hành ở đời". Và Ông đã trả lời như sau: "Thưa Tôn giả, những ai đã đoạn
tận tham, cắt đứt từ gốc rễ, làm cho như thân cây tala, làm cho không
thể hiện hữu, làm cho không thể sanh khởi trong tương lai. Những ai đã
đoạn tận sân ... Những ai đã đoạn tận si, đã cắt đứt từ gốc rễ ... làm
cho không thể sanh khởi trong tương lai. Những vị ấy khéo vượt qua ở
đời".
- Thật vi diệu thay, thưa Tôn giả! Thật hy hữu thay, thưa Tôn giả! Ở
đây sẽ không có tự khen pháp của mình, không có chê trách pháp của người
khác, chỉ có thuyết pháp trong giới xứ, chỉ nói đến mục đích mà không
đề cập đến tự ngã.
5.- Thưa Tôn giả, Tôn giả thuyết
pháp để đoạn tham, thuyết pháp để đoạn sân, thuyết pháp để đoạn si, và
thưa Tôn giả, pháp được Tôn giả khéo thuyết. Thưa Tôn giả Ananda, Tôn
giả thực hành đoạn tham, ... đoạn sân, ... Tôn giả thực hành đoạn si,
Tôn giả đã khéo thực hành ở đời. Thưa Tôn giả Ananda, tham đã được Tôn
giả đoạn tận, cắt đứt từ gốc rễ, làm cho như thân cây tala, làm cho
không thể hiện hữu, làm cho không thể sanh khởi trong tương lai ... sân
đã được Tôn giả đoạn tận ... si đã được Tôn giả đoạn tận, cắt đứt từ gốc
rễ, làm cho như thân cây tala, làm cho không thể hiện hữu, làm cho
không thể sanh khởi trong tương lai. Tôn giả đã khéo vượt qua ở đời.
Thật vi diệu thay, thưa Tôn giả! Thật vi diệu thay, thưa Tôn giả!
Thưa Tôn giả, người như dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống ...
Thưa Tôn giả Ananda, con nay xin quy y Thế Tôn, quy y pháp và chúng
Tăng. Mong Tôn giả Ananda nhận con làm đệ tử cơ sở, từ nay cho đến mạng
chung, con xin trọn đời quy ngưỡng!
73.- Người Họ Thích
1. Một thời, Thế Tôn trú giữa dân
chúng Thích tử, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha.
Lúc bấy giờ, Thế Tôn khỏi bệnh, được khỏi bệnh không bao lâu. Rồi họ
Thích Mahànàma đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn, rồi ngồi
xuống một bên. Ngồi xuống một bên, họ Thích (Sakka) bạch Thế Tôn:
- Ðã lâu ngày, bạch Thế Tôn, con biết pháp đã được dạy như sau: "Trí
đến với người định tĩnh, không đến với người không định tĩnh". Bạch Thế
Tôn, định đến trước rồi trí đến sau? Hay trí đến trước rồi định đến sau?
2.- Rồi Tôn giả Ananda suy nghĩ như
sau: "Thế Tôn mới khỏi bệnh, khỏi bệnh không bao lâu. Họ Thích Mahànàma
này hỏi một câu rất thâm sâu. Vậy ta hãy đưa họ Thích Mahànàma qua một
bên và thuyết pháp cho họ Thích".
Rồi Tôn giả Ananda cầm tay họ Thích Mahànàma, kéo qua một bên rồi nói
với họ Thích Mahànàma:
3. - Giới của bậc hữu học, này
Mahànàma, được Thế Tôn nói đến. Và giới của bậc vô học cũng được Thế Tôn
nói đến. Ðịnh bậc hữu học được Thế Tôn nói đến. Ðịnh bậc vô học cũng
được Thế Tôn nói đến. Tuệ bậc hữu học được Thế Tôn nói đến. Tuệ bậc vô
học cũng được Thế Tôn nói đến
4. - Này Mahànàma, thế nào là bậc
hữu học?
Ở đây, này Mahànàma, vị Tỷ-kheo giữ giới, sống hộ trì với sự hộ trì
của giới bổn, đầy đủ quy nghi chánh hạnh, thấy sợ hãi trong những lỗi
nhỏ nhặt, cấp nhận và học tập các học giới. Này Mahànàma, đây là giới
bậc hữu học.
5. - Và này Mahànàma, thế nào là
định bậc hữu học?
Ở đây, này Mahànàma, ly dục, ly bất thiện pháp, vị Tỷ-kheo chứng đạt
và an trú sơ Thiền ...Thiền thứ hai .. Thiền thứ ba ... chứng đạt và an
trú Thiền thứ tư. Này Mahànàma, đây là định của bậc hữu học.
Và này Mahànàma, thế nào là trí tuệ của bậc hữu học?
Ở đây, này Mahànàma, vị Tỷ-kheo như thật quán tri: "Ðây là khổ" ...
"Ðây là khổ tập" ... "Ðây là khổ diệt" ... như thật quán tri: "Ðây là
con đường đưa đến Khổ diệt". Này Mahànàma, đây gọi là trí tuệ của bậc
Hữu học. Vị Thánh đệ tử như vậy đầy đủ giới, như vậy đầy đủ định, như
vậy đầy đủ tuệ, do đoạn tận các lậu hoặc, ngay trong hiện tại, tự mình
với thắng trí, chứng ngộ, chứng đạt và an trú vô lậu tâm giải thoát, tuệ
giải thoát. Như vậy, này Mahànàma, là giới bậc Hữu học được Thế Tôn
thuyết, là giới bậc Vô học được Thế Tôn thuyết, là định bậc Hữu học được
Thế Tôn thuyết, là định bậc Vô học được Thế Tôn thuyết, là tuệ bậc Hữu
học được Thế Tôn thuyết, là tuệ bậc Vô học được Thế Tôn thuyết.
74.- Vị Lõa Thể
1. Một thời, Tôn giả Ananda trú tại
Vesàli, rừng Ðại Lâm, trong ngôi giảng đường có góc nhọn. Rồi Abhaya
người Licchavi và Panditakumàrako người Licchiva, đi đến Tôn giả Ananda,
sau khi đến, đảnh lễ Tôn giả Ananda rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống
một bên, Abhaya người Licchiva thưa với Tôn giả Ananda:
- Niganthà Nàthaputta, thưa Tôn giả, tự cho là toàn tri, toàn kiến,
có tri kiến toàn diện: "Khi ta đi, ta đứng, ta ngủ, ta thức, tri kiến
luôn luôn được an trú, không có gián đoạn". Vị ấy tuyên bố chấm dứt các
nghiệp cũ với khổ hạnh, và phá hoại các nghiệp mới với vô Visàkhà (không
hành động). Như vậy, do nghiệp đoạn diệt nên khổ đoạn diệt; do khổ đoạn
diệt nên thọ đoạn diệt; do thọ đoạn diệt nên tất cả khổ sẽ được tiêu
diệt. Như vầy là (pháp môn) siêu thoát, thanh tịnh, diệt nhiệt não,
thiết thực hiện tại. Ở đây, thưa Tôn giả, Thế Tôn nói thế nào?
2- Này Abhaya, có ba (pháp môn) thanh tịnh, diệt nhiệt não, được Thế
Tôn, bậc Trí giả, bậc Kiến giả, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác chơn chánh
tuyên bố, khiến chúng sanh được thanh tịnh, khiến vượt qua sầu bi,
khiến chấm dứt khổ ưu, khiến đạt được chánh lý, khiến chứng được Niết
bàn. Thế nào là ba?
Ở đây, này Abhaya, vị Tỷ-kheo giữ giới, sống hộ trì với sự hộ trì của
giới bổn, đầy đủ uy nghi chánh hạnh, thấy sợ hãi trong những lỗi nhỏ
nhặt, chấp nhận và học tập trong các học giới. Vị ấy không làm các
nghiệp mới, và với các nghiệp cũ ảnh hưởng đến mình, chấm dứt các nghiệp
ấy. Ðây là (sự thanh tịnh thứ nhất), thiết thực hiện tại, diệt nhiệt
não, không có thời gian, đến để mà thấy, có khả năng hướng thượng, được
người trí tự mình giác hiểu.
Vị Tỷ-kheo ấy, này Abhaya, đầy đủ với giới như vậy, ly dục, ly pháp
bất thiện, chứng đạt và an trú sơ Thiền ... Thiền thứ hai .. Thiền thứ
ba ... chứng đạt và an trú Thiền thứ tư. Vị ấy không làm các nghiệp mới,
và với các nghiệp cũ ảnh hưởng đến mình, chấm dứt các nghiệp ấy. Ðây là
(sự thanh tịnh thứ hai), thiết thực hiện tại, diệt nhiệt não, không có
thời gian, đến để mà thấy, có khả năng hướng thượng, được người trí tự
mình giác hiểu.
Vị Tỷ-kheo ấy, này Abhaya, đầy đủ với giới như vậy, với sự đoạn diệt
các lậu hoặc ngay trong hiện tại, tự mình với thắng trí, chứng ngộ,
chứng đạt và an trú vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát. Vị ấy không
làm các nghiệp mới, và với các nghiệp cũ ảnh hưởng đến mình, chấm dứt
các nghiệp ấy. Ðây là (sự thanh tịnh thứ ba), thiết thực hiện tại, diệt
nhiệt não, không có thời gian, đến để mà thấy, có khả năng hướng thượng,
được người trí tự mình giác hiểu.
Này Abhaya, có ba sự thanh tịnh, diệt nhiệt não này, được Thế Tôn,
bậc Trí giả, bậc Kiến giả, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác chơn chánh
tuyên bố, khiến chúng sanh được thanh tịnh, vượt qua sầu bi, chấm dứt ưu
khổ, đạt được chánh lý, chứng được Niết bàn.
3.- Khi được nói như vậy,
Panditakumàrako người Licchavi nói với Abhaya người Licchavi:
- Này bạn Abhaya, bạn có tín thọ lời khéo nói của Tôn giả Ananda là
khéo nói không?
- Này bạn, tôi là ai lại không tín thọ lời khéo nói của Tôn giả
Ananda là khéo nói. Ðầu người ấy sẽ vỡ tan, nếu ai không tín thọ lời
khéo nói của Tôn giả Ananda là khéo nói.
75.- Cần Phải Khích Lệ
1. Rồi Tôn giả Ananda đi đến Thế
Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Thế Tôn nói
với Tôn giả Ananda đang ngồi xuống một bên:
- Này Ananda, với ai, Thầy có lòng từ mẫn, và với những ai, Thầy nghĩ
là nên nghe theo, các bạn bè, thân hữu, bà con hay cùng một huyết
thống? Với những người ấy, này Ananda, Thầy cần phải khích lệ, cần phải
hướng dẫn, cần phải an trú trong ba điểm. Thế nào là ba?
2. - Hãy khích lệ, hướng dẫn và an
trú vào tịnh tín bất động đối với Ðức Phật: "Ðây là Thế Tôn, bậc
A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, Minh Mạng Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô
Thượng Sĩ, Ðiều Nghị Trượng Phu, Thiên Nhân sư, Phật, Thế Tôn". Hãy
khích lệ, hướng dẫn và an trú vào tịnh tín bất động đối với pháp: "Pháp
được Thế Tôn khéo thuyết, thiết thực hiện tại, không có thời gian, đến
để mà thấy, có khả năng hướng thượng, được người trí tự mình giác hiểu".
Hãy khích lệ, hướng dẫn và an trú vào tịnh tín bất động đối với chúng
Tăng: "Diệu hạnh là chúng đệ tử của Thế Tôn, Trực hạnh là chúng đệ tử
của Thế Tôn, ứng lý hạnh là chúng đệ tử của Thế Tôn, Chơn chánh hạnh là
chúng đệ tử của Thế Tôn. Tức là bốn đôi tám chúng. Chúng đệ tử của Thế
Tôn là đáng cung kính, được cúng dường,
đáng tôn trọng, đáng được chắp tay, là phước điền vô thượng ở đời".
3.- Dầu cho bốn đại chúng có đổi
khác, này Ananda, địa đại, thủy đại. hỏa đại, phong đại, nhưng vị thánh
đệ tử thành tựu tịnh tín bất động đối với Phật không có đổi khác. Ở đây,
đổi khác là như thế này: Vị Thánh đệ tử ấy, này Ananda, thành tựu tịnh
tín bất động đối với Đức Phật, sẽ sanh vào địa ngục, loại bàng sanh hay
cõi ngạ quỷ. Sự kiện này không xảy ra.
4.- Dầu cho bốn đại chúng có đổi
khác, này Ananda, địa đại, thủy đại, hỏa đại, phong đại, nhưng vị thánh
đệ tử thành tựu tịnh tín bất động đối với Pháp không có đổi khác. Ở đây,
đổi khác là như thế này: Vị Thánh đệ tử ấy, này Ananda, thành tựu tịnh
tín bất động đối với Pháp, sẽ sanh vào địa ngục, loại bàng sanh hay cõi
ngạ quỷ. Sự kiện này không xảy ra.
5.- Dầu cho bốn đại chúng có đổi
khác, này Ananda, địa đại, thủy đại,hỏa đại, phong đại, nhưng vị thánh
đệ tử thành tựu tịnh tín bất động đối với chúng Tăng không có đổi khác. Ở
đây, đổi khác là như thế này: Vị Thánh đệ tử ấy, này Ananda, thành tựu
tịnh tín bất động đối với chúng Tăng, sẽ sanh vào địa ngục, loại bàng
sanh hay cõi ngạ quỷ. Sự kiện này không xảy ra.
Này Ananda, với ai Thầy có lòng từ mẫn, và với những ai Thầy nghĩ là
nên nghe theo, các bạn bè, thân hữu, bà con hay cùng một huyết thống?
Với những người ấy, này Ananda, Thầy cần phải khích lệ, cần phải hướng
dẫn, cần phải an trú trong ba điểm này.
76.- Hiện Hữu
1. Rồi Tôn giả Ananda đi đến Thế
Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một
bên, Tôn giả Ananda bạch Thế Tôn:
- Hữu, hữu, bạch Thế Tôn, được nói đến như vậy. Cho đến như thế nào,
bạch Thế Tôn, được xem là có hữu?
- Này Ananda, nếu không có hành động (nghiệp) và sự chín muồi của dục
giới thời dục hữu có thể trình bày được không?
- Thưa không, bạch Thế Tôn.
- Như vậy, này Ananda, nghiệp là thửa ruộng, thức là hột giống, ái là
sự nhuận ướt. Chúng sanh bị vô minh che lấp, bị ái trói buộc, nên thức
được an lập trong giới thấp kém. Như vậy, trong tương lai có sự tái sanh
sanh khởi. Như vậy, này Ananda, hữu có mặt.
2.- Và này Ananda, nếu không có hành
động và sự chín muồi của sắc giới, thời sắc hữu có thể trình bày được
không?
- Thưa không, bạch Thế Tôn.
- Như vậy, này Ananda, nghiệp là thửa ruộng, thức là hột giống, ái là
sự nhuận ướt. Chúng sanh bị vô minh che lấp, bị ái trói buộc, nên thức
được an lập trong giới bậc trung. Như vậy, trong tương lai có sự tái
sanh sanh khởi. Như vậy, này Ananda, hữu có mặt.
3.- Và này Ananda, nếu không có hành
động và sự chín muồi của vô sắc giới, thời vô sắc hữu có thể trình bày
được không?
- Thưa không, bạch Thế Tôn.
- Như vậy, này Ananda, nghiệp là thửa ruộng, thức là hột giống, ái là
sự nhuận ướt. Chúng sanh bị vô minh che lấp, bị ái trói buộc, nên thức
được an lập trong giới bậc thù thắng. Như vậy, trong tương lai có sự tái
sanh sanh khởi. Như vậy, này Ananda, hữu có mặt.
77.- Tư và Khởi Ðiểm
1. Rồi Tôn giả Ananda đi đến Thế
Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên, Tôn giả Ananda
bạch Thế Tôn:
(như kinh trên cho đến) ...
- Như vậy, này Ananda, nghiệp là thửa ruộng, thức là hột giống, ái là
sự nhuận ướt. Chúng sanh bị vô minh che lấp, bị ái trói buộc, nên tư
được an lập, khởi điểm được an lập trong giới thấp kém. Như vậy, trong
tương lai có sự tái sanh sanh khởi. Như vậy, này Ananda, hữu có mặt.
(Ðoạn còn lại như kinh trên, chỉ khác "thức" được "tư" và "khởi
điểm" thay thế) ...
78.- Sự Hầu Hạ Giúp Ðỡ
(Nhân duyên như kinh trên). Thế Tôn nói với Tôn giả Ananda
đang ngồi một bên:
- Này Ananda, mọi giới cấm, sinh sống Phạm hạnh, sự hầu hạ căn bản
đều có quả phải không?
- Ở đây, bạch Thế Tôn, không thể trả lời một chiều được.
- Vậy này Ananda, hãy phân tích thêm!
- Bạch Thế Tôn, phàm giới cấm, sinh sống Phạm hạnh, sự hầu hạ căn bản
nào được áp dụng, khiến pháp không thiện tăng trưởng, pháp thiện đoạn
tận, thời giới cấm, sinh sống Phạm hạnh, sự hầu hạ căn bản như vậy không
có kết quả. Và bạch Thế Tôn, phàm giới cấm, sinh sống Phạm hạnh, sự hầu
hạ căn bản nào được áp dụng, khiến pháp không thiện đoạn tận, pháp
thiện tăng trưởng, thời giới cấm, sinh sống Phạm hạnh, sự hầu hạ căn bản
như vậy có kết quả.
Tôn giả Ananda nói như vậy và bậc Ðạo Sư đồng ý.
Rồi Tôn giả Ananda nghĩ: "Bậc Ðạo Sư đã đồng ý với ta", từ chỗ ngồi
đứng dậy, thân phía hữu hướng về ngài rồi ra đi.
Rồi Thế Tôn, khi Tôn giả Ananda ra đi không bao lâu, nói với các
Tỷ-kheo:
- Này các Tỷ-kheo, Ananda còn là hữu học, nhưng không dễ gì tìm được
người có trí tuệ ngang bằng.
79.- Hương
1. Rồi Tôn giả Ananda đi đến Thế
Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một
bên, Tôn giả Ananda bạch Thế Tôn:
- Có ba loại cây hương này, bạch Thế Tôn, hương của chúng bay theo
gió, không bay ngược gió. Thế nào là ba? Cây hương rễ, cây hương lõi và
cây hương hoa. Có ba loại cây hương này, bạch Thế Tôn, hương của chúng
bay theo chiều gió, không bay ngược gió. Bạch Thế Tôn, có thể có loại
cây hương nào, có hương bay thuận gió, có hương bay ngược gió, có hương
bay thuận gió ngược gió?
- Có loại cây hương, này Ananda, có hương bay thuận gió, có hương bay
ngược gió, có hương bay thuận gió ngược gió.
2. - Bạch Thế Tôn, loại cây hương ấy
là gì, có hương bay thuận gió, có hương bay ngược gió, có hương bay
thuận gió ngược gió?
- Ở đây, này Ananda, tại làng nào hay tại thị trấn nào, có nữ nhân
hay nam nhân quy y Phật, quy y Pháp, quy y chúng Tăng, từ bỏ sát sanh,
từ bỏ lấy của không cho, từ bỏ sống tà hạnh trong dục vọng, từ bỏ nói
láo, từ bỏ dùng rượu, men rượu nấu làm say người, giữ giới, tâm tánh
hiền lương, sống trong nhà với tâm không nhiễm xan tham, bố thí không
luyến tiếc với tay rộng mở, thích thú từ bỏ, sẵn sàng được yêu cầu, ưa
thích chia xẻ đồ bố thí. Người như vậy, được các Sa-môn, Bà-la-môn tán
thán khắp bốn phương: tại làng ấy, hay tại thị trấn ấy, có nữ nhân hay
nam nhân quy y Phật, quy y Pháp, quy y chúng Tăng, ... ưa thích chia xẻ
đồ bố thí. Chư Thiên và các phi nhân cũng tán thán: tại làng ấy, hay tại
thị trấn ấy, có nữ nhân hay nam nhân quy y Phật, quy y Pháp, quy y
chúng
Tăng, ... ưa thích chia xẻ đồ bố thí. Cây hương như vậy, này Ananda, có
hương bay thuận gió, có hương bay ngược gió, có hương bay thuận gió
ngược gió.
3.
Không một hương hoa nào
Bay ngược chiều gió thổi
Dầu là hoa chiên-đàn
Già-là hay mạt-ly
Chỉ hương người đức hạnh
Bay ngược chiều gió thổi
Chỉ có Bậc Chân nhân
Biến mãn mọi phương trời.
80.-
Abhibhù
1. Rồi Tôn giả Ananda đi đến Thế
Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một
bên, Tôn giả Ananda bạch Thế Tôn:
- Con được nghe trước mặt Thế Tôn, con được nắm giữ trước mặt Thế
Tôn: "Abhibhù, đệ tử Ðức Phật Sikhi, đứng ở Phạm Thiên Giới, có thể làm
cho ngàn thế giới nghe tiếng của mình". Nhưng bạch Thế Tôn, Thế Tôn bậc
A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác có thể làm cho nghe tiếng xa như thế nào?
- Vị ấy chỉ là một đệ tử, này Ananda. Các Như Lai là vô lượng.
Lần thứ hai, Tôn giả Ananda bạch Thế Tôn:
- Con được nghe trước mặt Thế Tôn, ... có thể làm cho nghe tiếng xa
như thế nào?
- Vị ấy chỉ là một đệ tử, này Ananda. Các Như Lai là vô lượng.
2. Lần thứ ba, Tôn giả Ananda bạch
Thế Tôn:
- Con được nghe trước mặt Thế Tôn, ... có thể làm cho nghe tiếng xa
như thế nào?
- Này Ananda, Thầy có được nghe nói đến tiểu thiên thế giới không?
- Nay đã đến thời, bạch Thế Tôn! Nay đã đến thời, bạch Thế Tôn Thiên
Thệ, để Thế Tôn nói về vấn đề này. Sau khi nghe Thế Tôn, các Tỷ-kheo sẽ
thọ trì.
- Vậy này Ananda, hãy nghe và khéo tác ý, ta sẽ nói.
- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Tôn giả Ananda vâng đáp Thế Tôn, Thế Tôn nói như sau:
3. - Xa cho đến mặt trăng, mặt trời
chạy trong quỹ đạo của chúng và chói sáng khắp bốn phương với ánh sáng
của chúng, xa như vậy là một ngàn thế giới. Trong ấy có một ngàn mặt
trăng, một ngàn mặt trời, một ngàn núi Sineru (Tu-di), một ngàn
Jambudìta (Diêm-phù-đề), một ngàn Aparagoyànà (Tây ngưu hóa châu), một
ngàn Uttarakurù (Bắc-cu-vô châu), một ngàn Pubbavidehà (Ðông thắng thần
châu), bốn ngàn biển lớn, bốn ngàn đại vương, 1000 cõi trời Bốn thiên
vương, 1000 cõi trời ba mươi ba, 1000 Dạ-ma thiên, 1000 Tusità (Ðâu-suất
thiên), 1000 Hóa Lạc thiên, 1000 Tha Hóa Tự tại thiên, 1000 Phạm Thiên.
Này Ananda, đây gọi là một tiểu thiên thế giới. Này Ananda, cho đến
1000 lần một tiểu thiên thế giới, được gọi là, này Ananda, ba Ðại thiên
thế giới. Này Ananda, Như Lai có thể
làm cho tiếng mình nghe xa cho đến ba ngàn Ðại thiên thế giới hay xa hơn
nữa nếu muốn.
4. - Làm sao, bạch Thế Tôn, Thế Tôn
có thể làm cho tiếng mình nghe xa cho đến ba ngàn Ðại thiên thế giới hay
xa hơn nữa nếu muốn?
- Ở đây, này Ananda, Như Lai chiếu ánh sáng cho đến ba ngàn Ðại thiên
thế giới, cho đến khi các chúng sanh nhận thức được ánh sáng ấy. Rồi
Thế Tôn phát âm và làm cho tiếng mình được nghe. Như vậy, này Ananda,
Như Lai làm cho tiếng mình nghe xa cho đến ba ngàn Ðại thiên thế giới
hay xa hơn nữa nếu muốn.
5. Khi được nói như vậy, Tôn giả
Ananda nói với Tôn giả Udàyi:
- Ðược lợi thay cho tôi, khéo được lợi thay cho tôi, có được bậc Ðạo
sư có thần lực như vậy, có uy lực như vậy!
Khi được nghe nói như vậy, Tôn giả Udàyi nói với Tôn giả Ananda:
- Này Hiền giả Ananda, ở đây Hiền giả nghĩ có được gì, nếu bậc Ðạo sư
của Hiền giả có đại thần lực như vậy, có đại uy lực như vậy?
Khi được nghe nói như vậy, Thế Tôn nói với Tôn giả Udàyi:
- Chớ có nói như vậy, này Udàyi; chớ nói vậy, này Udàyi. Này Udàyi,
nếu Ananda chưa có đoạn tận tham và mệnh chung, nhưng với tâm tịnh tín
của mình, vị ấy có thể bảy lần ngự trị trên thế giới chư Thiên, có thể
bảy lần ngự trị trên cõi Jambudìpa này. Nhưng này Udàyi, Ananda ngay
trong hiện tại sẽ được Bát-Niết-bàn.
IX. Phẩm Sa-Môn
81.-
Sa Môn
1.
- Này các Tỷ-kheo, có ba hạnh Sa-môn cần
phải làm này của Sa-môn. Thế nào là ba?
Thọ trì tăng thượng giới học, thọ trì tăng thượng tâm học, thọ trì
tăng thượng tuệ học. Ðây là ba hạnh Sa-môn cần phải làm naỳ của Sa-môn. Ở
đây vậy, này các Tỷ-kheo, hãy học tập như sau: "Sắc bén sẽ là ước muốn
chúng ta để thọ trì tăng thượng giới học. Sắc bén sẽ là ước muốn chúng
ta để thọ trì tăng thượng định học. Sắc bén sẽ là ước muốn chúng ta để
thọ trì tăng thượng tuệ học". Như vậy, này các Tỷ-kheo, các Thầy cần
phải học tập.
2. Ví như, này các Tỷ-kheo, một con
lừa đi theo sau lưng một đàn bò nghĩ rằng: "Ta cũng là con bò, ta cũng
là con bò", nhưng nó không có màu sắc giống như con bò. Nó không có
tiếng giống như con bò. Nó không có chân giống như con bò. Tuy vậy, nó
vẫn đi theo đàn bò, nghĩ rằng: "Ta cũng là con bò, ta cũng là con bò".
Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, ở đây Tỷ-kheo đi theo sau lưng chúng Tỷ-kheo,
nghĩ rằng: "Ta cũng là Tỷ-kheo, ta cũng là Tỷ-kheo". Nhưng vị ấy không
có ước muốn thọ trì tăng thượng giới học như các Tỷ-kheo khác. Vị ấy
không có ước muốn thọ trì tăng thượng tâm học như các Tỷ-kheo khác. Vị
ấy không có ước muốn thọ trì tăng thượng tuệ học như các Tỷ-kheo khác.
Tuy vậy, vị ấy vẫn đi theo sau lưng chúng Tỷ-kheo, nghĩ rằng: "Ta cũng
là Tỷ-kheo, ta cũng là Tỷ-kheo"
Do vậy, này các Tỷ-kheo, cần phải học tập như sau: "Sắc bén sẽ là ước
muốn chúng ta để thọ trì tăng thượng giới học. Sắc bén sẽ là ước muốn
chúng ta để thọ trì tăng thượng tâm học. Sắc bén sẽ là ước muốn chúng ta
để thọ trì tăng thượng tuệ học". Như vậy, này các Tỷ-kheo, các Thầy cần
phải học tập.
82. Nghề Nông
1. Có ba việc này, này các Tỷ-kheo,
một nông phu gia chủ cần phải làm trước. Thế nào là ba?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, người nông phu gia chủ, trước hết khéo cày và
khéo bừa. Khéo cày và khéo bừa xong, người ấy cho gieo hạt giống đúng
thời. Cho gieo hạt giống đúng thời xong, người ấy cho nước chảy vô chảy
ra đúng thời. Ba việc này, này các Tỷ-kheo, một nông phu gia chủ cần
phải làm trước.
2. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, có ba
công việc này, một Tỷ-kheo cần phải làm trước. Thế nào là ba? Thọ trì
tăng thượng giới học, thọ trì tăng thượng tâm học, thọ trì tăng thượng
tuệ học. Ba công việc này, này các Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo cần phải làm
trước. Do vậy, này các Tỷ-kheo, cần phải học tập như sau: "Sắc bén sẽ là
ước muốn của tôi thọ trì tăng thượng giới học. Sắc bén sẽ là ước muốn
của tôi thọ trì tăng thượng tâm học. Sắc bén sẽ là ước muốn của tôi thọ
trì tăng thượng tuệ học". Như vậy, này các Tỷ-kheo, các Thầy cần phải
học tập.
83.- Người Vajji.
1. Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn trú ở Vesàli, tại Ðại Lâm, chỗ giảng đường có góc
nhọn. Rồi một Tỷ-kheo người Vajji đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ
Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Tỷ-kheo người Vajji
bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, hơn 150 học pháp này, nửa tháng một lần con phải tụng
đọc, ở đây, con không có thể học nổi.
- Này Tỷ-kheo, Thầy có thể học ba học pháp không, tăng thượng giới
học, tăng thượng tâm học, tăng thượng tuệ học?
- Bạch Thế Tôn, con có thể học ba học pháp, tăng thượng giới học,
tăng thượng tâm học, tăng thượng tuệ học.
2. - Do vậy, này Tỷ-kheo, Thầy hãy
học tập ba học pháp, tăng thượng giới học, tăng thượng tâm học, tăng
thượng tuệ học. Nếu Thầy học tập tăng thượng giới học, tăng thượng tâm
học, tăng thượng tuệ học. Này Tỷ-kheo, nhờ học tập ba học pháp này, tham
sẽ đoạn tận, sân sẽ đoạn tận, si sẽ đoạn tận. Do đoạn tận tham, đoạn
tận sân, đoạn tận si; điều bất thiện, Thầy sẽ không làm; điều ác, Thầy
sẽ không theo.
3. - Tỷ-kheo ấy, sau một thời gian
học tập tăng thượng giới, học tập tăng thượng tâm, hjọc tập tăng thượng
tuệ; do học tập tăng thượng giới, học tập tăng thượng tâm, học tập tăng
thượng tuệ, tham được đoạn tận, sân được đoạn tận, si được đoạn tận. Vị
ấy, do đoạn tận tham, đoạn tận sân, đoạn tận si; nên không làm điều bất
thiện, không theo điều ác.
84.- Hữu Học (1)
1. Rồi một Tỷ-kheo đi đến Thế Tôn;
sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên,
Tỷ-kheo bạch Thế Tôn:
- Hữu học, hữu học, bạch Thế Tôn, được nói đến như vậy. Cho đến như
thế nào, bạch Thế Tôn, là hữu học?
- Học tập, này Tỷ-kheo, nên được gọi là hữu học, và học tập cái gì?
Học tập tăng thượng giới, Học tập tăng thượng tâm, Học tập tăng thượng
tuệ. Vị ấy, này Tỷ-kheo, do vậy được gọi là vị hữu học.
Bậc hữu học, học tập
Ði theo con đường thẳng
Ở trong sự diệt tận
Trí thứ nhất khởi lên
Tiếp theo không gián đoạn
Chánh trí mới sanh khởi
Rồi chánh trí giải thoát
Trí như vậy khởi lên
Bất động ta giải thoát
Hữu kiết sử đoạn tận.
85.- Hữu Học (2)
1. - Này các Tỷ-kheo, bản tụng đọc
này gồm hơn 150 học giới cần phải đọc nửa tháng một lần, ở đây các người
thiện nam tử muốn được lợi ích, học tập bản tụng ấy. Này các Tỷ-kheo,
tất cả được thâu nhiếp họp lại thành ba học giới này. Thế nào là ba?
Tăng thượng giới học, tăng thượng tâm học, tăng thượng tuệ học. Chính ba
học giới này, này các Tỷ-kheo, thâu nhiếp tất cả.
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ Kheo
đối với các giới luật, hành trì toàn phần, đối với định, hành trì một
phần, đối với tuệ, hành trì một phần. Vị ấy có vi phạm học pháp nhỏ nhặt
nhỏ nhiệm nào, vị ấy được xem là thanh tịnh. Vì cớ sao? Ở đây, này các
Tỷ-kheo, Ta không tuyên bố chúng làm cho vị ấy không có khả năng. Phàm
có những học pháp nào là căn bản Phạm hạnh, tương xứng Phạm hạnh, ở đây,
vị ấy kiên trì giới ấy, kiên trú giới ấy, chấp nhận và học tập trong
các học pháp. Vị ấy, do đoạn tận ba kiết sử, là bậc Dự lưu, không còn bị
thối đọa, quyết chắc đạt đến Chánh giác.
3. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ Kheo
đối với các giới luật, hành trì toàn phần, đối với định, hành trì toàn
phần, đối với tuệ, hành trì một phần. Vị ấy có vi phạm học pháp nhỏ nhặt
nhỏ nhiệm nào, vị ấy được xem là thanh tịnh. Vì cớ sao? Ở đây, này các
Tỷ-kheo, Ta không tuyên bố chúng làm cho vị ấy không có khả năng. Phàm
có những học pháp nào là căn bản Phạm hạnh, tương xứng Phạm hạnh, ở đây,
vị ấy kiên trì giới ấy, kiên trú giới ấy, chấp nhận và học tập trong
các học pháp. Vị ấy, do đoạn tận ba kiết sử, làm cho muội lược tham,
sân, si là bậc Nhất lai, chỉ trở về thế giới này một lần, rồi đoạn tận
khổ đau.
4. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ kheo
đối với các giới luật, hành trì toàn phần, đối với định, hành trì toàn
phần, đối với tuệ, hành trì một phần. Vị ấy có vi phạm học pháp nhỏ nhặt
nhỏ nhiệm nào, vị ấy được xem là thanh tịnh. Vì cớ sao? Ở đây, này các
Tỷ-kheo, Ta không tuyên bố chúng làm cho vị ấy không có khả năng. Phàm
có những học pháp nào là căn bản Phạm hạnh, tương xứng Phạm hạnh, ở đây,
vị ấy kiên trì giới ấy, kiên trú giới ấy, chấp nhận và học tập trong
các học pháp. Vị ấy, do đoạn tận năm hạ phần kiết sử, được hóa sanh, tại
đấy nhập Niết-bàn, không còn phải trở lui đời này nữa.
5. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ kheo
đối với các giới luật, hành trì toàn phần, đối với định, hành trì toàn
phần, đối với tuệ, hành trì toàn phần. Vị ấy có vi phạm học pháp nhỏ
nhặt nhỏ nhiệm nào, vị ấy được xem là thanh tịnh. Vì cớ sao? Ở đây, này
các Tỷ-kheo, Ta không tuyên bố chúng làm cho vị ấy không có khả năng.
Phàm có những học pháp nào là căn bản Phạm hạnh, tương xứng Phạm hạnh, ở
đây, vị ấy kiên trì giới ấy, kiên trú giới ấy, chấp nhận và học tập
trong các học pháp. Vị ấy, do đoạn tận các lậu hoặc, ngay trong hiện
tại, tự mình với thắng trí, chứng ngộ, chứng đạt và an trú vô lậu tâm
giải thoát, tuệ giải thoát.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, người hành trì có một phần, thành tựu được
một phần; người hành trì toàn phần, thành tựu được toàn phần. Ta tuyên
bố rằng, này các Tỷ-kheo, các học giới không phải là rỗng không.
86.- Bản Tụng Ðọc (1)
1. - Này các Tỷ-kheo, bản tụng đọc
này gồm hơn 150 học giới cần phải đọc nửa tháng một lần, ở đây các người
thiện nam tử muốn được lợi ích, học tập bản tụng ấy. Này các Tỷ-kheo,
tất cả được thâu nhiếp làm thành ba học giới này. Thế nào là ba? Tăng
thượng giới học, tăng thượng tâm học, tăng thượng tuệ học. Chính ba học
pháp này, này các Tỷ-kheo, thâu nhiếp tất cả.
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, có Tỷ
kheo đối với các giới luật, hành trì toàn phần, đối với định, hành trì
một phần, đối với tuệ, hành trì một phần. Vị ấy có vi phạm học pháp nhỏ
nhặt nhỏ nhiệm nào, vị ấy được xem là thanh tịnh. Vì cớ sao? Ở đây, này
các Tỷ-kheo, Ta không tuyên bố chúng làm cho vị ấy không có khả năng.
Phàm có những học giới nào là căn bản Phạm hạnh, tương xứng Phạm hạnh, ở
đây, vị ấy kiên trì giới ấy, kiên trú giới ấy, chấp nhận và học tập
trong các học pháp. Vị ấy, do đoạn tận ba kiết sử, là bậc tối đa phải
sanh lại bảy lần. Sau khi sanh lại bảy lần, sau khi dong ruổi, luân
chuyển tối đa bảy lần giữa chư Thiên và loài người, liền đoạn tận khổ
đau. Vị ấy, do đoạn tận ba kiết sử, là bậc "Gia gia", dong ruổi, lưu
chuyển trong hai hay ba gia đình, rồi
đoạn tận khổ đau. Vị ấy, do đoạn tận ba kiết sử, là bậc Nhất chủng, sau
khi phải sanh hiện hữu làm người một lần, rồi đoạn tận khổ đau. Vị ấy do
đoạn tận ba kiết sử, làm cho muội lược tham, sân, si là bậc Nhất lai,
phải trở lui lại đời này chỉ một lần, rồi đoạn tận khổ đau.
3. Nhưng ở đây, này các Tỷ-kheo, vị
Tỷ-kheo đối với các giới luật, hành trì toàn phần, đối với định, hành
trì toàn phần, đối với tuệ, hành trì một phần. Vị ấy có vi phạm ... chấp
nhận và học tập trong các học pháp. Vị ấy do đoạn tận năm hạ phần kiết
sử, là bậc Thượng lưu, đạt được Sắc cứu kính thiên. Vị ấy, do đoạn tận
năm hạ phần kiết sử, là bậc Hữu hành Bát-Niết-bàn. Vị ấy do đoạn tận năm
hạ phần kiết sử, là bậc Vô hành Bát-Niết-bàn. Vị ấy do đoạn tận năm hạ
phần kiết sử, là bậc Tổn hại Bát-Niết-Bàn .Vị ấy do đoạn tận năm hạ phần
kiết sử, là bậc Trung gian Bát-Niết-bàn.
4. Nhưng ở đây, này các Tỷ-kheo, vị
Tỷ-kheo đối với các giới luật, hành trì toàn phần, đối với định, hành
trì toàn phần, đối với tuệ, hành trì toàn phần. Vị ấy có vi phạm ...
chấp nhận và học tập trong các học pháp. Vị ấy do đoạn tận các lậu hoặc
ngay trong hiện tại, tự mình với thắng trí, chứng ngộ, chứng đạt và an
trú vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, người hành trì có một phần, thành tựu được
một phần; người hành trì toàn phần, thành tựu được toàn phần. Ta tuyên
bố rằng, này các Tỷ-kheo, các học giới không phải là rỗng không.
87.- Bản Tụng Ðọc (2)
1. - Này các Tỷ-kheo, bản tụng đọc
này ... (như kinh trước, đoạn số 1) ... này các Tỷ-kheo, thâu
nhiếp tất cả.
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
đối với các giới luật, hành trì toàn phần, đối với định, hành trì toàn
phần, đối với tuệ, hành trì toàn phần. Vị ấy có vi phạm ... chấp nhận và
học tập trong các học pháp. Vị ấy do đoạn tận các lậu hoặc ngay trong
hiện tại, tự mình với thắng trí, chứng ngộ, chứng đạt và an trú vô lậu
tâm giải thoát, tuệ giải thoát.
3. Hoặc nếu chưa chứng đạt, nếu chưa
thể nhập, sau khi đoạn tận năm hạ phần kiết sử, là bậc Trung gian
Bát-Niết-bàn. Hoặc nếu chưa chứng đạt, nêu chưa thể nhập, sau khi đoạn
tận năm hạ phần kiết sử, là bậc Tổn hại Bát-Niết-bàn ... là bậc Vô hành
Bát-Niết-bàn ... là bậc Hữu hành Bát-Niết-bàn ... là bậc Thượng lưu,
chứng đạt Sắc cứu kính thiên. Hoặc nếu chưa chứng đạt, nếu chưa thể
nhập, sau khi đoạn tận ba kiết sử, sau khi làm cho muội lược tham, sân,
si, là bậc Nhất lai, chỉ trở lui đời này một lần nữa, rồi đoạn tận khổ
đau. Hoặc nếu chưa chứng đạt, nếu chưa thể nhập, sau khi đoạn tận ba
kiết sử, là bậc Nhất chủng, sau khi phải sanh hiện hữu làm người một
lần, rồi đoạn tận khổ đau. Hoặc nếu chưa chứng đạt, nếu chưa thể nhập,
sau khi đoạn tận ba kiết sử, là bậc "Gia
gia", sau khi dong ruổi, luân chuyển trong hai hay ba gia đình, rồi đoạn
tận khổ đau. Hoặc nếu chưa chứng đạt, nếu chưa thể nhập, sau khi đoạn
tận ba kiết sử, là bậc Tối đa phải sanh lại bảy lần, sau khi dong ruổi,
luân chuyển tối đa bảy giữa chư Thiên và loài người, rồi đoạn tận khổ
đau.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, người hành trì có một phần, thành tựu được
một phần; người hành trì toàn phần, thành tựu được toàn phần. Ta tuyên
bố rằng, này các Tỷ-kheo, các học giới không phải là rỗng không.
88.- Học Giới
1. - Có ba học giới này. Thế nào là
ba? Tăng thượng giới học, tăng thượng tâm học, tăng thượng tuệ học.
Thế nào là tăng thượng giới học? Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo
giữ giới ... chấp nhận, học tập trong các học giới. Này các Tỷ-kheo, đây
gọi là tăng thượng giới học.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là tăng thượng tâm học? Ở đây, này các
Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo ly dục, ly pháp bất thiện ... chứng và trú Thiền thứ
tư. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là tăng thượng tâm học.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là tăng thượng tuệ học? Ở đây, này các
Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo như thật rõ biết: "Ðây là khổ", như thật rõ biết:
"Ðây là con đường đưa đến khổ diệt". Này các Tỷ-kheo, đây gọi là tăng
thượng tuệ học.
Những pháp này, này các Tỷ-kheo, là ba học giới.
89.- Học Pháp
1. - Này các Tỷ-kheo, có ba học pháp
này. Thế nào là ba? Tăng thượng giới học, tăng thượng tâm học, tăng
thượng tuệ học.
...
(Hoàn toàn giống như kinh trước với tăng thượng giới học và tăng
thượng tâm học, nhưng tăng thượng tuệ học có khác)
...
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là tăng thượng tuệ học? Ở đây, này các
Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo do đoạn trừ các lậu hoặc, ngay trong hiện tại tự
mình với thắng trí, chứng ngộ, chứng đạt và an trú vô lậu tâm giải
thoát, tuệ giải thoát. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là tăng thượng tuệ học.
Các pháp này, này các Tỷ-kheo, là ba học pháp.
Người tinh tấn, nghị lực
Kiên trì và Thiền tu
Sống hộ trì các căn
Hãy hành ba tăng thượng
Trước thế nào, sau vậy
Sau thế nào, trước vậy
Dưới thế nào, trên vậy
Trên thế nào, dưới vậy
Ngày thế nào, đêm vậy
Ðêm thế nào, ngày vậy.
Hãy nhiếp phục mọi phương
Với vô lượng tâm định
Ðây gọi hữu đạo học
Là thuần tịnh hạnh đức
Ðây gọi là Chánh giác
Bậc trí đạt tối hậu
Với thức được đoạn diệt
Ái diệt, được giải thoát
Như đèn sáng tịch diệt
Tâm vị ấy giải thoát.
90.
Pankadhà
1. Một thời Thế Tôn đang du hành
giữa dân chúng Kosala cùng với đại chúng Tỷ-kheo, đi đến một thị trấn
của dân chúng Kosala, tên là Pankadhà. Tại đấy, Thế Tôn trú ở Pankadhà.
Pankadhà là một thị trấn của dân chúng Kosala.
Lúc bấy giờ, một Tỷ-kheo tên là Kassapogotta trú ở Pankadhà. Tại đấy,
Thế Tôn với một pháp thoại liên hệ đến học giới, giảng dạy cho các
Tỷ-kheo, khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỉ. Rồi Tỷ-kheo
Kassapogotta, trong khi Thế Tôn với một pháp thoại liên hệ đến học pháp,
giảng cho các Tỷ-kheo, khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ,
lấy làm bất nhẫn, lấy làm bất mãn, nghĩ rằng: "Sa-môn này quá tăn măn tỉ
mỉ!".
2. Thế Tôn, sau khi trú ở Pankadhà
cho đến khi thỏa mãn, rồi ra đi, du hành hướng đến Ràjagaha, tiếp tục du
hành và đến tại Ràjagaha. Tại đấy, Thế Tôn trú ở Ràjagaha, núi
Gitjjhakùta.
Rồi Tỷ-kheo Kassapogotta, sau khi Thế Tôn đi không bao lâu, cảm thấy
hối hận, ăn năn, nghĩ rằng: "Thật không lợi ích cho ta, thật lợi ích
không được tốt cho ta, thật không khéo lợi ích cho ta, khi Thế Tôn với
pháp thoại liên hệ đến học pháp, giảng cho các Tỷ-kheo, khích lệ, làm
cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ, ta lại lấy làm bất nhẫn, lấy làm bất
mãn, nghĩ rằng: "Sa-môn này quá tăn măn, tỉ mỉ! ". Vậy ta hãy đi đến Thế
Tôn, sau khi đến, trước mặt Thế Tôn, hãy tỏ lộ có phạm tội là có phạm
tội".
3. Rồi Tôn giả Kassapogotta, sau khi
dọn dẹp lại chỗ nằm, cầm y bát, rồi ra đi đến hướng Ràjagaha, tiếp tục
đi đến Ràjagaha, núi Gijjhakùta, đến Thế Tôn, sau khi đến. Ðảnh lễ Thế
Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Tỷ-kheo Kassapogotta
bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, một thời Thế Tôn trú ở Pankadhà, Pankadhà là một thị
trấn các dân tộc Kosala. Tại đấy, Thế Tôn với một pháp thoại liên hệ đến
pháp học, giảng dạy cho các Tỷ-kheo, khích lệ, làm cho phấn khởi, làm
cho hoan hỷ. Bạch Thế Tôn, trong khi Thế Tôn, với một pháp thoại liên hệ
đến pháp học, giảng dạy cho các Tỷ-kheo, khích lệ, làm cho phấn khởi,
làm cho hoan hỷ, con lấy làm bất nhẫn, con cảm thấy bất mãn, nghĩ rằng:
"Vị Sa-môn này quá tăn măn tỉ mỉ". Rồi Thế Tôn sau khi trú ở Pankadhà
cho đến khi thỏa mãn, liền ra đi, du hành đến Ràjagaha. Bạch Thế Tôn,
sau khi Thế Tôn đi không bao lâu, con cảm thấy hối hận, ăn năn: "Thật
không lợi ích cho ta, thật lợi ích không được tốt cho ta, thật không
khéo lợi ích cho ta, khi Thế Tôn với pháp thoại liên hệ đến học pháp,
giảng cho các Tỷ-kheo, khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ, lại
lấy làm bất nhẫn, lấy làm bất mãn, nghĩ rằng: "Sa-môn này quá tăn măn,
tỉ mỉ!". Vậy ta hãy đi đến Thế Tôn, sau khi đến, trước mặt Thế Tôn, hãy
tỏ lộ có phạm tội là có phạm tội!". Phạm tội đã chinh phục con, bạch Thế
Tôn, ngu si như con, đần độn như con, bất thiện như con. Vì rằng trong
khi Thế Tôn, với pháp thoại liên hệ đến pháp học, giảng dạy cho các
Tỷ-kheo, khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ, con lấy làm bất
nhẫn, con cảm thấy bất mãn, nghĩ rằng: "Vị Sa-môn này quá tăn măn tỉ
mỉ". Bạch Thế Tôn, mong Thế Tôn chấp nhận con có phạm tội là có phạm
tội, để con ngăn chận trong tương lai.
4. - Thật vậy, này Kassapogotta,
phạm tội đã chinh phục Thầy, ngu si đần độn như Thầy, bất thiện như
Thầy! Vì rằng trong khi ta với pháp thoại liên hệ đến pháp học, giảng
dạy cho các Tỷ-kheo, khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ, Thầy
lại lấy làm bất nhẫn, lấy làm bất mãn, nghĩ rằng: "Vị Sa-môn này quá tăn
măn tỉ mỉ". Và này Kassapogotta, khi Thầy thấy có phạm tội là có phạm
tội, và như pháp phát lộ, thời Ta chấp nhận cho Thầy. Ðây là sự tăng
trưởng giới luật của bậc Thánh này, khi ai thấy có phạm tội là có phạm
tội, và như pháp phát lộ, để ngăn chặn trong tương lai.
5. Nếu một trưởng lão Tỷ-kheo, này
Kassapa, không ưa thích học tập, không tán thán chấp hành học tập, và
đối với các Tỷ-kheo không ưa thích học tập, vị này không khích lệ họ học
tập. Còn đối với các Tỷ-kheo ưa thích học tập, vị này không tán thán họ
chơn thực và đúng thời. Tỷ-kheo trưởng lão như vậy, này Kassapa, Ta
không có tán thán. Vì cớ sao? Vì các Tỷ-kheo khác có thể thân cận với
trưởng lão ấy, nghĩ rằng: "Bậc Ðạo sư tán thán vị ấy". Và những ai thân
cận với vị ấy, họ có thể chấp nhận tri kiến của vị ấy. Và những ai chấp
nhận tri kiến của vị ấy, sẽ đem lại bất hạnh, đau khổ lâu dài cho họ. Do
vậy, này Kassapa, Ta không tán thán Tỷ-kheo trưởng lão ấy.
6. Nếu một trung niên Tỷ-kheo, này
Kassapa, ... nếu một tân học Tỷ-kheo, này Kassapa, không ưa thích học
tập, không tán thán chấp hành học tập, và có các Tỷ-kheo không ưa thích
học tập, vị này không khích lệ họ học tập. Còn đối với các Tỷ-kheo ưa
thích học tập, vị này không tán thán họ chơn thực và đúng thời. Tỷ-kheo
tân học như vậy, này Kassapa, Ta không có tán thán. Vì cớ sao? Vì các
Tỷ-kheo khác có thể thân cận với Tỷ kheo tân học ấy, nghĩ rằng: "Bậc Ðạo
sư tán thán vị ấy". Và những ai thân cận với vị ấy, họ có thể chấp nhận
tri kiến của vị ấy. Và những ai chấp nhận tri kiến của vị ấy, sẽ đem
lại bất hạnh, đau khổ lâu dài cho họ. Do vậy, này Kassapa, Ta không tán
thán Tỷ-kheo tân học ấy.
7. Nếu một trưởng lão Tỷ-kheo, này
Kassapa, ưa thích học tập, tán thán chấp hành học tập, và có các Tỷ-kheo
không ưa thích học tập, vị này khích lệ họ học tập. Còn đối với các
Tỷ-kheo ưa thích học tập, vị này tán thán họ chơn thực và đúng thời.
Tỷ-kheo trưởng lão như vậy, này Kassapa, Ta tán thán. Vì cớ sao? Vì các
Tỷ-kheo khác có thể thân cận với Tỷ kheo trưởng lão ấy, nghĩ rằng: "Bậc
Ðạo sư tán thán vị ấy". Và những ai thân cận với vị ấy, họ có thể chấp
nhận tri kiến của vị ấy. Và những ai chấp nhận tri kiến của vị ấy, như
vậy sẽ đem lại hạnh phúc, an lạc lâu dài cho họ. Do vậy, này Kassapa, Ta
tán thán Tỷ-kheo trưởng lão ấy.
8. Nếu một Tỷ-kheo trung niên, này
Kassapa, ... nếu một Tỷ-kheo tân học, này Kassapa, ưa thích học tập, tán
thán chấp hành học tập, và có các Tỷ-kheo không ưa thích học tập, vị
này khích lệ họ học tập. Còn đối với các Tỷ-kheo ưa thích học tập, vị
này tán thán họ chơn thực và đúng thời. Tỷ-kheo tân học như vậy, này
Kassapa, Ta tán thán. Vì cớ sao? Vì các Tỷ-kheo khác có thể thân cận với
Tỷ kheo tân học ấy, nghĩ rằng: "Bậc Ðạo sư tán thán vị ấy". Và những ai
thân cận với vị ấy, họ có thể chấp nhận tri kiến của vị ấy. Và những ai
chấp nhận tri kiến của vị ấy, sẽ đem lại hạnh phúc, an lạc lâu dài cho
họ. Do vậy, này Kassapa, Ta tán thán Tỷ-kheo tân học ấy.
X. Phẩm Hạt Muối
91.- Cấp Thiết
1.
- Này các Tỷ-kheo, có ba việc cấp thiết
này, người nông phu gia chủ cần phải làm. Thế nào là ba?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, người nông phu gia chủ mau lẹ khéo cày thửa
ruộng, khéo bừa thửa ruộng, sau khi mau lẹ khéo cày thửa ruộng, khéo bừa
thửa ruộng, liền mau lẹ gieo hạt giống, sau khi mau lẹ gieo hạt giống,
liền mau lẹ cho nước vô, cho nước ra. Này các Tỷ-kheo, đây là ba việc
cấp thiết mà người nông phu gia chủ cần phải làm.
Người nông phu gia chủ ấy, này các Tỷ-kheo, không có thần lực hay
không có uy lực (để ra lệnh): "Hôm nay lúa của ta được mọc lên, ngày mai
chúng sẽ trổ hạt, ngày kế tiếp chúng sẽ chín".
Nhưng chính theo thời gian của người nông phu gia chủ, các cây lúa do
sự hướng dẫn của thời tiết được mọc lên, được trổ hạt và được chín.
2. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, có ba
công việc cấp thiết này Tỷ-kheo cần phải làm. Thế nào là ba?
Chấp hành tăng thượng giới học, chấp hành tăng thượng tâm học, chấp
hành tăng thượng tuệ học. Ba công việc cấp thiết này, này các Tỷ-kheo,
một Tỷ-kheo cần phải làm.
Tỷ-kheo ấy, này các Tỷ-kheo, không có thần lực hay không có uy lực
(để ra lệnh): "Hôm nay, tâm ta được giải thoát khỏi các lậu hoặc, không
có chấp thủ, ngày mai cũng vậy, ngày kế tiếp cũng vậy". Nhưng này các
Tỷ-kheo, chính do thời gian Tỷ-kheo ấy sử dụng để học tập tăng thượng
giới, để học tập tăng thượng tâm, để học tập tăng thượng tuệ, mà tâm
được giải thoát khỏi các lậu hoặc, không có chấp thủ.
Do vậy, này các Tỷ-kheo, cần phải học tập như sau: "Sắc bén sẽ là ước
muốn của ta để chấp hành tăng thượng giới học. Sắc bén sẽ là ước muốn
của ta để chấp hành tăng thượng tâm học. Sắc bén sẽ là ước muốn của ta
để chấp hành tăng thượng tuệ học". Như vậy, này các Tỷ-kheo, các Thầy
cần phải học tập.
62.- Sống Viễn Ly
1. - Có ba hạnh viễn ly này được các
du sĩ ngoại đạo trình bày. Thế nào là ba? Viễn ly y áo, viễn ly đồ ăn
khất thực, viễn ly sàng tọa.
Ở đây, này các Tỷ-kheo, các du sĩ ngoại đạo trình bày về viễn ly y
áo, mang vải gai thô, mặc vải gai thô lẫn với các vải khác, mặc vải tẩm
liệm quăng đi, mặc vải lượm từ đồng rác, y thì dùng vỏ cây tiritaka làm
áo, mặc da con sơn dương đen, mặc áo bện từng mảnh da con sơn dương đen,
mặc áo từ cỏ kusa bện lại, mặc áo bằng vỏ cây, mặc áo bằng đuôi ngựa
bện lại, mặc áo bằng lông cú. Như vậy, này các Tỷ-kheo, các du sĩ ngoại
đạo trình bày về viễn ly y áo.
Ở đây, này các Tỷ-kheo, các du sĩ ngoại đạo trình bày về viễn ly đồ
ăn khất thực: ăn rau, cây kê, gạo sống, gạo rừng, cây lau, bột gạo, bột
gạo cháy, ăn bột vừng, ăn cỏ, ăn phân bò, ăn trái cây, ăn rễ cây trong
rừng, ăn trái cây rụng để sống. Như vậy, này các Tỷ-kheo, các du sĩ
ngoại đạo trình bày về viễn ly đồ ăn khất thực.
Ở đây, này các Tỷ-kheo, các du sĩ ngoại đạo trình bày về viễn ly sàng
tọa: sống trong rừng, tại một gốc cây, tại bãi tha ma, tại khóm rừng
rậm, sống ngoài trời, trên một đống rơm, trong nhà bằng tranh. Như vậy,
này các Tỷ-kheo, các du sĩ ngoại đạo trình bày về viễn ly sàng tọa.
Này các Tỷ-kheo, các du sĩ ngoại đạo trình bày về ba hạnh viễn ly
này.
2. Này các Tỷ-kheo, có ba hạnh viễn
ly này của vị Tỷ-kheo trong pháp và luật. Thế nào là ba?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo gìn giữ giới luật, từ bỏ ác giới,
viễn ly ác giới, có chánh tri kiến, từ bỏ tà kiến, viễn ly tà kiến, đoạn
tận các lậu hoặc, từ bỏ các lậu hoặc, viễn ly các lậu hoặc. Vì rằng,
này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo gìn giữ giới luật, từ bỏ ác giới, viễn ly ác
giới, có chánh tri kiến, từ bỏ tà kiến, viễn ly tà kiến, đoạn tận các
lậu hoặc, từ bỏ các lậu hoặc, viễn ly các lậu hoặc, nên Tỷ-kheo này, này
các Tỷ-kheo, được gọi là đạt được tối thượng, đạt được căn bản thanh
tịnh, được an trú trên căn bản.
3. Ví như, này các Tỷ-kheo, ruộng
lúa của người nông phu gia chủ đã chín, người nông phu gia chủ ấy mau
mắn gặt lúa; sau khi mau mắn gặt lúa, phải mau mắn chất lúa thành đống;
sau khi mau mắn chất lúa thành đống, phải mau mắn chở lúa về; sau khi
mau mắn chở lúa về, phải mau mắn đánh lúa thành đống; sau khi mau mắn
đánh lúa thành đống, phải mau mắn đập lúa; sau khi mau mắn đập lúa, phải
mau mắn giũ rơm; sau khi mau mắn giũ rơm, phải mau mắn lấy thóc ra; sau
khi mau mắn lấy thóc ra, phải mau mắn quạt thóc; sau khi mau mắn quạt
thóc, phải mau mắn chứa thóc; sau khi mau mắn chứa thóc, phải mau mắn
say thóc; sau khi mau mắn say thóc, phải mau mắn sàng cám lấy gạo. Như
vậy, này các Tỷ-kheo, với người nông phu gia chủ ấy, lúa gạo ấy đạt được
tối thượng, đạt được căn bản
thanh tịnh, đạt được an trú trên căn bản. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo gìn giữ giới luật, từ bỏ ác giới, viễn ly ác giới, có chánh tri
kiến, từ bỏ tà kiến, viễn ly tà kiến, đoạn tận các lậu hoặc, từ bỏ các
lậu hoặc, viễn ly các lậu hoặc, nên Tỷ-kheo này, này các Tỷ-kheo, được
gọi là đạt được tối thượng, đạt được căn bản thanh tịnh, được an trú
trên căn bản.
4. Ví như, này các Tỷ-kheo, vào mùa
thu, khi bầu trời quang đãng, không có mây và mặt trời mọc lên giữa bầu
trời, phá sạch hắc ám khắp cả hư không, và chói sáng, bừng sáng, rực
sáng; cũng vậy, này các Tỷ-kheo, với vị Thánh đệ tử; pháp nhãn ly trần
ly cấu khởi lên; và do tri kiến này khởi lên, này các Tỷ-kheo, ba kiết
sử được đoạn tận, thân kiến, nghi giới cấm thủ. Lại nữa, vị ấy được
thoát khỏi hai pháp tham và sân. Vị ấy ly dục, ly pháp bất thiện, chứng
đạt và an trú sơ Thiền, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm có
tứ. Trong thời gian ấy, này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử nếu có mạng
chung, sẽ không có kiết sử nào, do kiết sử ấy, vị Thánh đệ tử phải đi
đến thế giới này nữa.
93.- Hội Chúng
1. - Có ba hội chúng này, này các
Tỷ-kheo, Thế nào là ba? Hội chúng tối thượng, hội chúng không hòa hợp,
hội chúng hòa hợp.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hội chúng tối thượng?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, hội chúng nào có các Tỷ-kheo trưởng lão,
không có sống đầy đủ, không có biếng nhác, từ bỏ dẫn đầu về đọa lạc, đi
đầu về hạnh viễn ly, tinh cần tinh tấn, để chứng đạt những gì chưa chứng
đạt, để chứng đắc những gì chưa chứng đắc, để chứng ngộ những gì chưa
chứng ngộ. Và những thế hệ kế tiếp chúng tùy thuận theo tri kiến của
chúng. Hội chúng ấy không có sống đầy đủ, không có biếng nhác, từ bỏ dẫn
đầu về đọa lạc, đi đầu về hạnh viễn ly, tinh cần tinh tấn, để chứng
những gì chưa chứng đạt, để chứng đắc những gì chưa chứng đắc, để chứng
ngộ những gì chưa chứng ngộ. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là hội chúng tối
thượng.
2. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
hội chúng không hòa hợp?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, tại hội chúng nào các Tỷ-kheo sống cạnh
tranh, tranh luận, đấu tranh nhau, đả thương nhau bằng những binh khí
miệng lưỡi. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là hội chúng không hòa hợp.
3. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
hội chúng hòa hợp?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, tại hội chúng nào các Tỷ-kheo sống hòa hợp
hoan hỷ, không có luận tranh, sống như nước với sữa lẫn lộn, nhìn nhau
bằng cặp mắt ái kính. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là hội chúng hòa hợp.
4. Lúc nào, này các Tỷ-kheo, các
Tỷ-kheo sống hòa hợp, hoan hỷ, không có luận tranh, như nước và sữa lẫn
lộn, nhìn nhau với cặp mắt ái kính, lúc ấy, này các Tỷ-kheo, các Tỷ-kheo
tạo được công đức, lúc ấy, này các Tỷ-kheo, các Tỷ-kheo sống phạm trú.
Nghĩa là, với ai hân hoan với tâm giải thoát liên hệ với hỷ, thời hỷ
sanh; với ai có hỷ, thân được khinh an; với thân khinh an, cảm giác được
lạc thọ; với ai cảm giác lạc thọ, tâm được định tĩnh.
5. Ví như, này các Tỷ-kheo, trên một
ngọn núi có mưa rơi nặng hột, nước mưa ấy chảy theo sườn dốc, làm đầy
các hang núi, các khe núi, các thung lũng. Sau khi làm đầy các hang núi,
các khe núi, các thung lũng, chúng làm đầy các hồ nhỏ. Sau khi làm đầy
các hồ nhỏ, chúng làm đầy các hồ lớn. Sau khi làm đầy các hồ lớn, chúng
làm đầy các sông nhỏ. Sau khi làm đầy các sông nhỏ, chúng làm đầy biển
cả. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, lúc nào các Tỷ-kheo sống hòa hợp, hoan
hỷ, không có luận tranh, như nước và sưã lẫn lộn, nhìn nhau với cặp mắt
ái kính, lúc ấy, này các Tỷ-kheo, các Tỷ-kheo tạo được công đức, lúc ấy,
này các Tỷ-kheo, các Tỷ-kheo sống phạm trú. Nghĩa là, với ai hân hoan
với tâm giải thoát liên hệ với hỷ, thời hỷ sanh; với ai có hỷ, thân được
khinh an; với ai có thân
khinh an, cảm giác được lạc thọ; với ai cảm giác lạc thọ, tâm được định
tĩnh.
Những pháp này, này các Tỷ-kheo, là ba hội chúng.
94.- Con Ngựa Thuần Thục
1. - Ðầy đủ với ba đức tánh, này các
Tỷ-kheo, một con ngựa của vua, hiền thiện, thuần thục, xứng đáng để vua
dùng, thuộc quyền sở hữu của vua, và được xem như một biểu tượng của
vua. Thế nào là ba?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, một con ngựa của vua hiền thiện, thuần thục,
đầy đủ với sắc đẹp, đầy đủ với sức mạnh, đầy đủ với tốc lực. Ðầy đủ với
ba đức tánh này, này các Tỷ-kheo, một con ngựa của vua, hiền thiện,
thuần thục, xứng đáng để vua dùng, thuộc quyền sở hữu của vua, và được
xem như một biểu tượng của vua.
2. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, đầy đủ
với ba pháp, một Tỷ-kheo đáng được cung kính. Ðáng được tôn trọng, đáng
được cúng dường, đáng được chắp tay, là ruộng phước vô thượng ở đời.
Thế nào là ba? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đầy đủ sắc đẹp, đầy đủ
sức mạnh, đầy đủ tốc lực.
3. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
Tỷ-kheo đầy đủ sắc đẹp?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo giữ gìn giới luật, sống hộ trì với sự
hộ trì của giới bổn, đầy đủ uy nghi chánh hạnh, thấy sợ hãi trong những
lỗi nhỏ nhặt, chấp nhận và học tập trong các học pháp. Như vậy, này các
Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo đầy đủ sắc đẹp.
4. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
Tỷ-kheo đầy đủ sức mạnh?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo sống tinh cần tinh cấn, đoạn tận các
pháp bất thiện, thành tựu đầy đủ các pháp thiện, nỗ lức kiên trì, dõng
mãnh, không từ bỏ trách nhiệm đối với các pháp thiện. Như vậy, này các
Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo đầy đủ sức mạnh.
5. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
Tỷ-kheo đầy đủ tốc lực?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo như thật rõ biết: "Ðây là khổ", như
thật rõ biết: "Ðây là khổ tập", như thật rõ biết: "Ðây là khổ diệt", như
thật rõ biết: "Ðây là con đường đưa đến khổ diệt". Như vậy, này các
Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo đầy đủ tốc lực.
Ðầy đủ với ba pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đáng được cung kính,
đáng được tôn trọng, đáng được cúng dường, đáng được chắp tay, và ruộng
phước vô thượng ở đời.
95.- Con Ngựa Thuần Thục
1-4.
... (Hoàn toàn giống như kinh trên)
5. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
Tỷ-kheo đầy đủ tốc lực?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo do đoạn diệt năm hạ phần kiết sử,
được hóa sanh tại chỗ ấy nhập Bát-Niết-bàn, khỏi phải trở lui từ thế
giới ấy, đến thế giới này. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là đầy đủ tốc lực.
Ðầy đủ với ba pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đáng được cung kính,
đáng được tôn trọng, đáng được cúng dường, đáng được chắp tay, và ruộng
phước vô thượng ở đời.
96.- Con Ngựa Thuần Thục
1-4.
... (Hoàn toàn giống như kinh số 94, từ 1-4)
5. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
Tỷ-kheo đầy đủ tốc lực?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo do đoạn diệt các lậu hoặc ngay trong
hiện tại, tự mình với thắng trí, chứng ngộ và chứng đạt an trú vô lậu
tâm giải thoát, tuệ giải thoát. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo đầy
đủ tốc lực.
Ðầy đủ với ba pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo xúng đáng được cung
kính, xứng đáng được tôn trọng, xúng đáng được cúng dường, xứng đáng
được chắp tay, và ruộng phước vô thượng ở đời.
97.- Vải Thô Bằng Vỏ Cây
1. - Này các Tỷ-kheo, có tấm vải
bằng vỏ cây hoàn toàn mới, sắc xấu, cảm xúc khó chịu, và không có giá
trị. Này các Tỷ-kheo, có tấm vải bằng vỏ cây bậc trung, sắc xấu, cảm xúc
khó chịu, và không có giá trị. Này các Tỷ-kheo, có tấm vải bằng vỏ cây
cũ kỹ, để lau chùi nồi niêu, hay đáng được quăng trên đống rác.
2. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, nếu
Tỷ-kheo mới tu hành, ác giới, theo ác pháp, Ta nói rằng vị Tỷ-kheo ấy có
sắc xấu. Này các Tỷ-kheo, ví như tấm vải bằng vỏ cây sắc xấu ấy, này
các Tỷ-kheo, Ta nói rằng người ấy là giống như ví dụ ấy.
Còn những ai theo vị ấy, thân cận, hầu hạ, chấp nhận, thuận theo trí
kiến của vị ấy, họ bị bất hạnh, đau khổ lâu dài; đấy, Ta nói rằng vị ấy
có cảm xúc khó chịu. Này các Tỷ-kheo, ví như tấm vải bằng vỏ cây có cảm
xúc khó chịu ấy, này các Tỷ-kheo, Ta nói rằng người ấy là giống như ví
dụ ấy.
Còn những ai, vị này nhận các vật dụng như y áo, đồ ăn khất thực,
sàng tọa, các dược phẩm trị bệnh, sẽ không có quả lớn, không có lợi ích
lớn; đây, Ta nói rằng, không có giá trị. Này các Tỷ-kheo, ví như tấm vải
bằng vỏ cây không có giá trị ấy, này các Tỷ-kheo, Ta nói rằng người ấy
là giống như ví dụ ấy.
3. Này các Tỷ-kheo, nếu là trung
niên Tỷ-kheo ... (như trên) ... này các Tỷ-kheo, nếu là trưởng lão
Tỷ-kheo, ác giới, theo ác pháp. Ta nói rằng vị ấy có sắc xấu. Này các
Tỷ-kheo, ví như tấm vải làbm ằng vỏ cây có sắc xấu ấy, này các Tỷ-kheo,
Ta nói rằng người ấy là giống như ví dụ ấy.
Còn từ những ai theo vị ấy, thân cận, hầu hạ, chấp nhận, thuận theo
trí kiến của vị ấy, họ bị bất hạnh, đau khổ lâu dài; đấy, Ta nói rằng vị
ấy có xúc chỏ mkhó chịu. Này các Tỷ-kheo, ví như tấm vải bằng vỏ cây có
xúc chạm khó chịu ấy, này các Tỷ-kheo, Ta nói rằng người ấy là giống
như ví dụ ấy.
Còn từ những ai, vị này nhận các vật dụng như y áo, đồ ăn khất thực,
sàng tọa, các dược phẩm trị bệnh, họ sẽ không có quả lớn, không có lợi
ích lớn; đây, Ta nói rằng, vị ấy không có giá trị. Này các Tỷ-kheo, ví
như tấm vải bằng vỏ cây không có giá trị ấy, này các Tỷ-kheo, Ta nói
rằng người ấy là giống như ví dụ ấy.
4. Như vậy, này các Tỷ-kheo, nếu
Tỷ-kheo trưởng lão này nói lên ở giữa chúng Tăng, các Tỷ-kheo nói như
sau: "Sao Thầy nghĩ rằng Thầy có thể tuyên bố, một người ngu si, không
thông minh? "Vị ấy phẫn nộ, bất mãn, sẽ nói lên những lời này, chúng
Tăng đuổi vị ấy ra khỏi, như người ta quăng bỏ tấm vải bằng vỏ cây ấy
trên đống rác.
98.- Vải Ba-la-nại
1 - Này các Tỷ-kheo, có tấm vải kàsi (Ba-la-nại), hoàn toàn mới, có
sắc đẹp, cảm xúc dễ chịu, và có giá trị lớn. Này các Tỷ-kheo, có tấm vải
kàsi bậc trung, có sắc đẹp, cảm xúc dễ chịu, và có giá trị lớn. Này các
Tỷ-kheo, có tấm vải kàsi cũ, có sắc đẹp, cảm xúc dễ chịu, và có giá trị
lớn. Và này các Tỷ-kheo, có tấm vải kàsi cũ kỹ dùng để gói các châu
báu, hay được đặt vào trong một hộp có hương thơm.
2. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, nếu
Tỷ-kheo mới tu hành, giữ gìn giới luật theo thiện pháp, Ta nói rằng vị
Tỷ-kheo ấy có sắc đẹp. Này các Tỷ-kheo, ví như tấm vải kàsi có sắc đẹp
ấy, này các Tỷ-kheo, Ta nói rằng người này là giống như ví dụ ấy.
Còn những ai theo vị ấy, thân cận, hầu hạ, chấp nhận, thuận theo trí
kiến của vị ấy, họ được hạnh phúc, an lạc lâu dài; đấy, Ta nói rằng vị
ấy có cảm xúc dễ chịu. Này các Tỷ-kheo, ví như tấm vải kàsi có cảm xúc
dễ chịu ấy, này các Tỷ-kheo, Ta nói rằng người này là giống như ví dụ
ấy.
Còn những ai, vị này nhận các vật dụng như y áo, đồ ăn khất thực,
sàng tọa, các dược phẩm trị bệnh, họ sẽ có quả lớn, có lợi ích lớn; đây,
Ta nói rằng, vị ấy có giá trị lớn. Này các Tỷ-kheo, ví như tấm vải kàsi
có giá trị ấy, này các Tỷ-kheo, Ta nói rằng người này là giống như ví
dụ ấy.
3. Còn nếu là trung niên Tỷ-kheo,
... này các Tỷ-kheo, nếu là trưởng lão Tỷ-kheo, giữ gìn giới luật theo
thiện pháp, đây ta tuyên bố là vị ấy có sắc đẹp. Này các Tỷ-kheo, ví như
tấm vải kàsi có sắc đẹp ấy, này các Tỷ-kheo, Ta nói rằng người này là
giống như ví dụ ấy.
Còn những ai theo vị ấy, thân cận, hầu hạ, chấp nhận, thuận theo trí
kiến của vị ấy, họ được hạnh phúc, an lạc lâu dài; đấy, Ta nói rằng vị
ấy có cảm xúc dễ chịu. Này các Tỷ-kheo, ví như tấm vải kàsi có cảm xúc
dễ chịu ấy, này các Tỷ-kheo, Ta nói rằng người này là giống như ví dụ
ấy.
Còn những ai, vị này nhận các vật dụng như y áo, đồ ăn khất thực,
sàng tọa, các dược phẩm trị bệnh, họ sẽ có quả lớn, có lợi ích lớn; đây,
Ta nói rằng, vị ấy có giá trị lớn. Này các Tỷ-kheo, ví như tấm vải kàsi
có giá trị ấy, này các Tỷ-kheo, Ta nói rằng người này là giống như ví
dụ ấy.
4. Như vậy, này các Tỷ-kheo, nếu
Tỷ-kheo trưởng lão này nói lên ở giữa chúng Tăng. Các Tỷ kheo ấy nói như
sau:"Chư Tôn giả hãy im lặng, Tỷ-kheo trưởng lão đang nói pháp và luật,
và lời nói của vị ấy trở thành châu báu cần phải cất giữ, như một người
cất giữ tấm vải kàsi trong một hộp có hương thơm." Do vậy, này các
Tỷ-kheo, hãy học tập như sau: "Chúng ta sẽ được như ví dụ tấm vải kàsi,
không giống như ví dụ tấm vải bằng vỏ cây". Như vậy, này các Tỷ-kheo,
các Thầy cần phải học tập.
99.- Hạt Muối.
1. - Ai nói như sau, này các
Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm
thọ như vậy, như vậy". Nếu sự kiện là vậy, này các Tỷ-kheo, thời không
có đời sống Phạm hạnh, không có cơ hội để nêu rõ đau khổ được chơn chánh
đoạn diệt. Và này các Tỷ-kheo, ai nói như sau: "Người này làm nghiệp
được cảm thọ như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ quả dị thục như
vậy, như vậy". Nếu sự kiện là vậy, này các Tỷ-kheo, thời có đời sống
Phạm hạnh, có cơ hội để nêu rõ đau khổ được chơn chánh đoạn diệt.
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người làm nghiệp ác nhỏ mọn, và nghiệp ác
ấy đưa người ấy vào địa ngục. Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người làm
nghiệp ác nhỏ mọn tương tợ, và nghiệp ác ấy đưa người ấy đến cảm thọ
ngay trong hiện tại, cho đến chút ít cũng không thấy được (trong đời
sau), nói gì là nhiều.
2. Hạng người như thế nào, này các
Tỷ-kheo, có làm nghiệp ác nhỏ mọn, và nghiệp ác ấy đưa người ấy vào địa
ngục?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người thân không tu tập, giới không tu
tập, tâm không tu tập, tuệ không tu tập, hạn hẹp, tự ngã nhỏ nhen, sống
chịu khổ ít oi. Người như vậy, này các Tỷ-kheo, làm nghiệp ác nhỏ mọn,
và nghiệp ác ấy đưa người ấy vào địa ngục.
Hạng người như thế nào, này các Tỷ-kheo, có làm nghiệp ác nhỏ mọn
tương tợ, và nghiệp ác ấy đưa người ấy đến cảm thọ ngay trong hiện tại,
cho đến chút ít cũng không thấy được (trong đời sau), nói gì là nhiều?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người thân được tu tập, giới được tu tập,
tâm được tu tập, tuệ được tu tập, không có hạn hẹp, tự ngã to lớn, sống
đời vô lượng. Người như vậy, này các Tỷ-kheo, có làm nghiệp ác nhỏ mọn
tương tợ, và nghiệp ác ấy đưa người ấy đến cảm thọ ngay trong hiện tại,
cho đến chút ít cũng không thấy được (trong đời sau), nói gì là nhiều.
3. Ví như, này các Tỷ-kheo, có người
bỏ một nắm muối vào trong một chén nước nhỏ. Các Thầy nghĩ như thế nào,
này các Tỷ-kheo, nước trong chén ấy có vì nắm muối trở thành mặn và
không uống được phải không?
- Thưa đúng vậy, bạch Thế Tôn. Vì cớ sao? Nước trong chén nhỏ này là
ít, do nắm muối này, nước trở thành mặn, không uống được.
- Ví như, này các Tỷ-kheo, có người bỏ một nắm muối vào sông Hằng.
Các Thầy nghĩ như thế nào, này các Tỷ-kheo, sông Hằng có vì nắm muối trở
thành mặn và không uống được phải không?
- Thưa không, bạch Thế Tôn. Vì cớ sao? Lớn là cả khối nước sông Hằng.
Khối nước ấy không vì nắm muối này, nước trở thành mặn và không uống
được.
- Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, ở đây, có người làm nghiệp ác nhỏ mọn,
và nghiệp ác ấy đưa người ấy vào địa ngục. Ở đây, này các Tỷ kheo, có
người làm nghiệp ác nhỏ mọn tương tợ, và nghiệp ác ấy đưa người ấy đến
cảm thọ ngay trong hiện tại, cho đến chút ít cũng không thấy được (trong
đời sau), nói gì là nhiều.
4. Hạng người như thế nào, này các
Tỷ-kheo, có làm nghiệp ác nhỏ mọn, và nghiệp ác ấy đưa người ấy vào địa
ngục? Ở đây, này các Tỷ-kheo có người thân không tu tập, giới không tu
tập, tâm không tu tập, tuệ không tu tập, hạn hẹp, tự ngã nhỏ nhen, sống
chịu khổ ít oi. Hạng người như vậy, này các Tỷ-kheo, làm nghiệp ác nhỏ
mọn, và nghiệp ác ấy đưa người ấy vào địa ngục. Hạng người như thế nào,
này các Tỷ-kheo, có làm nghiệp ác nhỏ mọn tương tợ, và nghiệp ác ấy đưa
người ấy đến cảm thọ ngay trong hiện tại, cho đến chút ít cũng không
thấy được (trong đời sau), nói gì là nhiều. Ở đây, này các Tỷ-kheo, có
người thân được tu tập, giới được tu tập, tâm được tu tập, tuệ được tu
tập, hạn hẹp, tự ngã to lớn, sống đời vô lượng. Người như vậy, này các
Tỷ-kheo, có làm nghiệp ác nhỏ
mọn tương tợ, và nghiệp ác ấy đưa người ấy đến cảm thọ ngay trong hiện
tại, cho đến chút ít cũng không thấy được, nói gì là nhiều.
5. Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người
bị tù tội vì nửa đồng tiền, bị tù tội vì một đồng tiền, bị tù tội vì một
trăm đồng tiền. Nhưng ở đây, này các Tỷ-kheo, có người không bị tù tội
vì nửa đồng tiền, không bị tù tội vì một đồng tiền, không bị tù tội vì
một trăm đồng tiền.
Như thế nào, này các Tỷ-kheo, bị tù tội vì nửa đồng tiền, bị tù tội
vì một đồng tiền, bị tù tội vì một trăm đồng tiền? Ở đây, này các
Tỷ-kheo, có người nghèo khổ, ít sở hữu, ít tài sản. Người như vậy, này
các Tỷ-kheo, bị tù tội vì nửa đồng tiền, bị tù tội vì một đồng tiền, bị
tù tội vì một trăm đồng tiền.
Như thế nào, này các Tỷ-kheo, không bị tù tội vì nửa đồng tiền, không
bị tù tội vì một đồng tiền, không bị tù tội vì một trăm đồng tiền? Ở
đây, này các Tỷ-kheo, có người giàu có, có tiền của lớn, có tài sản lớn.
Người như vậy, này các Tỷ-kheo, không bị tù tội vì nửa đồng tiền, không
bị tù tội vì một đồng tiền, không bị tù tội vì một trăm đồng tiền.
Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, ở đây có người làm nghiệp ác nhỏ mọn,
nghiệp ác ấy đưa người ấy vào địa ngục. Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người
làm nghiệp ác nhỏ mọn tương tự, nghiệp ác ấy đưa người ấy đến cảm thọ
ngay trong hiện tại, cho đến chút ít cũng không thấy được, còn nói gì là
nhiều.
6. Hạng người như thế nào, này các
Tỷ-kheo, có làm nghiệp ác nhỏ mọn, nghiệp ác ấy đưa người ấy vào địa
ngục? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người thân không tu tập, giới không tu
tập, tâm không tu tập, tuệ không tu tập, hạn hẹp, tự ngã nhỏ nhen, sống
chịu khổ ít oi. Người như vậy, này các Tỷ-kheo, làm nghiệp ác nhỏ mọn.
nghiệp ác ấy đưa người ấy vào địa ngục.
Hạng người như thế nào, này các Tỷ-kheo, có làm nghiệp ác nhỏ mọn
tương tự, nghiệp ác ấy đưa người ấy đến cảm thọ ngay trong hiện tại, cho
đến chút ít cũng không thấy được, còn nói gì là nhiều? Ở đây, này các
Tỷ-kheo, có người thân được tu tập, giới được tu tập, tâm được tu tập,
tuệ được tu tập, không có hạn hẹp, tự ngã to lớn, sống dời vô lượng.
Người như vậy, này các Tỷ-kheo, có làm nghiệp ác nhỏ mọn tương tự,
nghiệp ác ấy đưa người ấy đến cảm thọ ngay trong hiện tại, cho đến chút
ít cũng không thấy được, còn nói gì là nhiều.
7. Ví dụ một người đồ tể hay người
giết dê, này các Tỷ-kheo, đối với một số người đánh cắp dê, có thể giết
hay trói, hay tịch thu tài sản, hay làm như ý muốn. Ðối với một số người
cũng đánh cắp dê, không có thể giết, không có thể trói, không có thể
tịch thu tài sản, hay không có thể làm như ý muốn.
Như thế nào, này các Tỷ-kheo, người đồ tể hay người giết dê, đối với
một số người đánh cắp dê, có thể giết, có thể trói, có thể tịch thu tài
sản, hay có thể làm như ý người ấy muốn?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người nghèo khổ, ít sở hữu tài sản. Kẻ đồ
tể hay người giết dê, đối với kẻ đánh cắp dê như vậy có thể giết, hay
trói, hay có thể tịch thu tài sản, hay có thể làm như ý người ấy muốn.
Như thế nào, này các Tỷ-kheo, người đồ tể hay người giết dê, đối với
kẻ đánh cắp dê như vậy không có thể giết, không có thể trói, không có
thể tịch thu tài sản, hay không có thể làm như ý muốn?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người giàu có, có sở hữu lớn, có tài sản
lớn, hay nhà vua, hay đại thần của nhà vua. Người đồ tể hay người giết
dê, đối với kẻ đánh cắp dê như vậy không có thể giết, không có thể trói,
không có thể tịch thu tài sản, hay không có thể làm như ý người ấy
muốn. Không có gì phải làm khác hơn là chắp tay và cầu xin như sau:
"Thưa ngài, hãy cho con lại con dê hay giá tiền con dê".
Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, ở đây, đối với một số người có làm nghiệp
ác nhỏ mọn, và nghiệp ác ấy đưa người ấy vào địa ngục. Nhưng ở đây, này
các Tỷ-kheo, đối với một số người làm nghiệp ác nhỏ mọn tương tự, và
nghiệp ác ấy đưa người ấy đến cảm thọ ngay trong hiện tại, cho đến chút
ít cũng không thấy được, còn nói gì là nhiều.
8. Hạng người như thế nào, này các
Tỷ-kheo, có làm nghiệp ác nhỏ mọn, và nghiệp ác ấy đưa người ấy vào địa
ngục? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người có người thân không tu tập, giới
không tu tập, tâm không tu tập, tuệ không tu tập, hạn hẹp, tự ngã nhỏ
nhen, sống chịu khổ ít oi. Người như vậy, này các Tỷ-kheo, làm nghiệp ác
nhỏ mọn. và nghiệp ác ấy đưa người ấy vào địa ngục.
Hạng người như thế nào, này các Tỷ-kheo, có người làm nghiệp ác nhỏ
mọn tương tự, nghiệp ác ấy đưa người ấy đến cảm thọ ngay trong hiện tại,
cho đến chút ít cũng không thấy được, còn nói gì là nhiều? Ở đây, này
các Tỷ-kheo, có người thân được tu tập, giới được tu tập, tâm được tu
tập, tuệ được tu tập, không có hạn hẹp, tự ngã to lớn, sống đời vô
lượng. Người như vậy, này các Tỷ-kheo, có làm nghiệp ác nhỏ mọn tương
tự, nghiệp ác ấy đưa người ấy đến cảm thọ ngay trong hiện tại, cho đến
chút ít cũng không thấy được, còn nói gì là nhiều.
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp ác như thế
nào, như thế nào người ấy sẽ cảm thọ (quả) như vậy, như vậy". Nếu sự
kiện là vậy, này các Tỷ-kheo, thời không có đời sống Phạm hạnh, không có
cơ hội để nêu rõ đau khổ được chơn chánh đoạn diệt. Và này các Tỷ-kheo,
có ai nói như sau: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào người
ấy sẽ cảm thọ quả dị thục như vậy, như vậy". Nếu sự kiện là vậy, này
các Tỷ-kheo, thời có đời sống Phạm hạnh, có cơ hội để nêu rõ đau khổ
được chơn chánh đoạn diệt.
100.- Kẻ Lọc Vàng
1. - Này các Tỷ-kheo, có những uế
nhiễm thô tạp của vàng như bụi, cát, đá, sạn và đá sỏi. Người đãi lọc
bụi hay đệ tử của người đã lọc bụi đem đổ vào trong cái máng, rồi rửa
sạch qua, rửa sạch lại, rửa sạch thêm nữa.
Làm như vậy xong, làm như vậy hoàn tất, còn lại những uế nhiễm bậc
trung của vàng, như cát đá, sạn tế nhị và các hột cát thô tạp. Người đãi
lọc bụi hay đệ tử của người đãi lọc bụi rửa sạch, rửa sạch thêm nữa,
rửa sạch hoàn toàn.
Làm như vậy xong, làm như vậy hoàn tất, còn lại những uế nhiễm tế
nhị, như cát mịn và cát bụi đen. Người đãi lọc bụi hay đệ tử của người
đãi lọc bụi rửa sạch, rửa sạch thêm nữa, rửa sạch hoàn toàn.
Làm xong như vậy, làm như vậy hoàn tất, chỉ còn lại bụi vàng.
2. Rồi người thợ vàng hay đệ tử
người thợ vàng bỏ bụi vàng ấy vào trong cái lò, rồi thụt ống bệ, thụt
ống bệ thêm, thụt ống bệ cho đến khi vàng bắt đầu chảy, người không chảy
ra khỏi miệng lò. Vàng ấy được thụt bệ, được thụt bệ thêm nữa, được
thụt bệ hơn nữa, người không chảy ra khỏi miệng lò, chưa làm xong, chưa
sạch các uế nhiễm, chưa có nhu nhuyễn, chưa có kham nhậm, chưa có sáng
chói. Vàng ấy còn có thể bể vụn và chưa có thể được tác thành tốt đẹp.
Có một thời, này các Tỷ-kheo, người thợ vàng hay đệ tử người thợ vàng
ấy lại thụt bệ, thụt bệ thêm nữa, thụt bệ hơn nữa, cho đến khi vàng
chảy ra khỏi lò. Vàng ấy lại được thụt bệ, được thụt bệ thêm nữa, được
thụt bệ hơn nữa, cho đến khi vàng ấy chảy ra khỏi lò, được làm xong,
được sạch các uế nhiễm, được nhu nhuyễn, được kham nhậm, và được sáng
chói. Vàng ấy còn không bị bể vụn và có thể tác thành tốt đẹp. Và loại
trang sức nào người ấy muốn, như vàng lá, hay nhẫn, hay vòng cổ, hay dây
chuyền, người ấy có thể làm thành như ý muốn.
3. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo tu tập tăng thượng tâm, còn tồn tại các kiết sử thô tạp, thân ác
hành, khẩu ác hành, ý ác hành. Tỷ-kheo có tư lự, có thông minh, từ bỏ,
gột sạch, chấm dứt, không cho sanh khởi lại.
Làm như vậy xong, làm như vậy hoàn tất, Tỷ-kheo tu tập tăng thượng
tâm, còn tồn tại các kiết sử thuộc bậc trung, dục tầm, sân tầm, hại tầm.
Tỷ-kheo có tư lự, có thông minh, từ bỏ, gột sạch, chấm dứt, không cho
sanh khởi .
Làm như vậy xong, làm như vậy hoàn tất, Tỳ kheo tu tập tăng thượng
tâm, còn tồn tại các kiết sử tế nhị, như tư tưởng về gia tộc, tư tưởng
về quốc độ, tư tuởng không bị khinh rẻ. Tỳ kheo có tư lự, có thông minh,
từ bỏ, gột sạch, chấm dứt không cho chúng sanh khởi.
Làm như vậy xong, làm như vậy hoàn tất, chỉ còn lại các pháp tầm (tư
tưởng về pháp).
4. Ðịnh như vậy không có an tịnh,
không có thù thắng, không được khinh an, không đạt đến nhứt tâm, nhưng
là một trạng thái chế ngự thường xuyên dằn ép. Nhưng đến một thời, này
các Tỷ-kheo, tâm của vị ấy được nội trú, lắng đứng lại, được nhứt tâm,
được định tĩnh. Ðịnh ấy được an tịnh, được thù diệu, được khinh an, đạt
đến nhứt tâm, không phải một trạng thái chế ngự thường xuyên dằn ép, tùy
thuộc vào pháp gì tâm người ấy hướng đến để thắng tri, để chứng ngộ; vị
ấy có khả năng, có năng lực đạt đến pháp ấy, dầu thuộc loại xứ nào.
5. Nếu vị ấy ước muốn, ta sẽ chứng
được các loại thần thông, một thân hiện ra nhiều thân, nhiều thân hiện
ra một thân, hiện hình, biến hình, đi ngang qua vách, qua tường, qua
núi, như đi ngang hư không, độn thổ, trồi lên ngang qua đất liền, ngồi
kiết già đi đến hư không như con chim, với bàn tay chạm và rờ mặt trăng
và mặt trời, những vật có đại oai lực, đại oai thần như vậy, có thể tự
thân bay đến cõi Phạm thiên"; vị ấy có khả năng, có năng lực đạt đến
trạng thái ấy, dầu thuộc loại xứ nào.
6. Vị ấy nếu ước muốn: "Với thiên
nhĩ thanh tịnh siêu nhân, có thể nghe hai loại tiếng chư Thiên và loài
người"; vị ấy có khả năng, có năng lực đạt đến trạng thái ấy, dầu thuộc
loại xứ nào.
7. Nếu vị ấy ước muốn: "Mong rằng
với tâm của mình có thể biết tâm của các loại chúng sanh khác, tâm của
các loài Người khác như sau: Tâm có tham biết là tâm có tham. Tâm không
tham biết là tâm không tham. Tâm có sân biết là tâm có sân. Tâm không
sân biết là tâm không sân. Tâm có si biết là tâm có si. Tâm không si
biết là tâm không si. Tâm chuyên chú biết là tâm chuyên chú. Tâm tán
loạn biết là tâm tán loạn. Ðại hành tâm biết là đại hành tâm. Không phải
đại hành tâm biết là không phải đại hành tâm. Tâm chưa vô thượng biết
là tâm chưa vô thượng. Tâm vô thượng biết là tâm vô thượng. Tâm thiền
định biết là tâm thiền định. Tâm không thiền định biết là tâm không
thiền định.Tâm giải thoát biết là tâm giải thoát. Tâm không giải thoát
biết là tâm không giải thoát"; vị ấy có
khả năng, có năng lực đạt đến trạng thái ấy, dầu thuộc loại xứ nào.
8. Nếu vị ấy ước muốn: "Ta sẽ nhớ
đến nhiều đời sống quá khứ, như một đời, hai đời, ba đời, bốn đời, năm
đời, mười đời, hai mươi đời, ba mươi đời, bốn mươi đời, năm mươi đời,
một trăm đời, hai trăm đời, một ngàn đời, một trăm ngàn đời, nhiều hoại
kiếp, nhiều thành kiếp, nhiều hoại và thành kiếp; vị ấy nhớ rằng: "Tại
chỗ kia, ta có tên như thế này, dòng họ như thế này, giai cấp như thế
này, thọ khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến mức như thế này. Sau khi chết
tại chỗ kia, ta được sanh tại chỗ nọ. Tại chỗ ấy, ta có tên như thế
này, dòng họ như thế này, giai cấp như thế này, thọ khổ lạc như thế này,
tuổi thọ đến mức như thế này. Sau khi chết tại chỗ nọ, ta được sanh tại
đây". Vị ấy có khả năng, có năng lực đạt đến trạng thái ấy, dầu thuộc
loại xứ nào".
9. Nếu vị ấy ước muốn: Với thiên
nhãn thanh tịnh siêu nhân, ta thấy sự sống và chết của chúng sanh. Ta
biết rõ chúng sanh, người hạ liệt, kẻ cao sang, người đẹp đẽ, kẻ thô
xấu, người may mắn, kẻ bất hạnh, đều do hạnh nghiệp của họ. Các chúng
sanh ấy làm những ác nghiệp về thân, ngữ và ý, phỉ báng các bậc thánh,
theo tà kiến, tạo các nghiệp theo tà kiến. Những người này, sau khi thân
hoại mạng chung, phải sanh vào cõi dữ, ác thú, địa ngục, đọa xứ. Các
chúng sanh nào làm những thiện hạnh về thân, ngữ và ý, không phỉ báng
các bậc thánh, theo chánh kiến, tạo các nghiệp theo chánh kiến. Những vị
này, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh lên các cõi thiện, cõi
Trời, cõi đời này. Như vậy, với thiên nhãn thuần tịnh siêu nhân, ta có
thể thấy sự sống chết của chúng sanh,
người hạ liệt, kẻ cao sang, người đẹp đẽ, kẻ thô xấu, người may mắn, kẻ
bất hạnh, đều do hạnh nghiệp của họ"; vị ấy có khả năng, có năng lực đạt
đến trạng thái ấy, dầu thuộc loại xứ nào.
10. Nếu vị ấy ước muốn: "Do đoạn
diệt các lậu hoặc ngay trong hiện tại, với thắng trí, ta chứng ngộ,
chứng đạt và an trú vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát"; vị ấy có khả
năng, có năng lực đạt đến trạng thái ấy, dầu thuộc loại xứ nào.
11. Tỷ-kheo siêng tu tập tăng thượng
tâm, này các Tỷ-kheo, cần phải thỉnh thoảng tác ý ba tướng. Cần phải
thỉnh thoảng tác ý thướng định, cần phải thỉnh thoảng tác ý tướng cần,
cần phải thỉnh thoảng tác ý tướng xả.
12. Tỷ-kheo siêng tu tập tăng thượng
tâm, này các Tỷ-kheo, nếu một chiều tác ý tướng định, thời có sự kiện
tâm vị ấy đi đến thụ động. Tỷ-kheo siêng tu tập tăng thượng tâm, này các
Tỷ kheo, nếu một chiều tác ý tướng tinh cần, thời có sự kiện tâm vị ấy
đi đến trạo cử. Tỷ-kheo siêng tu tập tăng thượng tâm, này các Tỷ kheo,
nếu một chiều tác ý tướng xả, thời có sự kiện tâm vị ấy không chơn chánh
định tĩnh để đoạn diệt các lậu hoặc. Nhưng nếu Tỷ-kheo siêng tu tập
tăng thượng tâm, này các Tỷ-kheo, nếu thỉnh thoảng tác ý thướng định,
thỉnh thoảng tác ý tướng tinh cần, thỉnh thoảng tác ý tướng xả, tâm vị
ấy trở thành nhu nhuyến, kham nhậm, chói sáng, không bể vụn, chơn chánh
định tĩnh để đoạn tận các lậu hoặc.
13. Ví như một thợ làm vàng, này các
Tỷ-kheo, hay đệ tử người làm vàng, xây lên các lò đúc. Sau khi xây lên
các lò đúc, người ấy nhóm lửa đốt miệng lò. Sau khi đốt miệng lò, với
cái kềm, người ấy cầm vàng bỏ vào miệng lò; rồi thỉnh thoảng người ấy
thụt ống bệ, thỉnh thoảng người ấy rưới nước, thỉnh thoảng người ấy quan
sát kỹ lưỡng. Nếu người làm vàng hay đệ tử người làm vàng, này các
Tỷ-kheo, một chiều thổi ống bệ, thì có sự kiện vàng ấy bị cháy. Nếu
người làm vàng hay đệ tử người làm vàng, này các Tỷ-kheo, một chiều rưới
nước, thì có sự kiện vàng ấy bị nguội lạnh. Nếu người làm vàng hay đệ
tử người làm vàng, này các Tỷ-kheo, một chiều quan sát kỹ lưỡng, thì có
sự kiện vàng ấy không chơn chánh đi đến thuần thục. Còn nếu người làm
vàng hay đệ tử người làm vàng, này
các Tỷ-kheo, thỉnh thoảng thổi ống bệ vàng ấy, thỉnh thoảng rưới nước,
thỉnh thoảng quan sát kỹ lưỡng, thời vàng ấy trở thành trở thành nhu
nhuyến, kham nhậm, chói sáng, không bể vụn, và được thành tốt đẹp. Và
loại trang sức nào người ấy muốn như vàng lá, hay nhẫn, hay vòng cổ, hay
dây chuyền, người ấy có thể làm thành như ý muốn.
14. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo siêng năng tu tập tăng thượng tâm, cần phải thỉnh thoảng tác ý
ba tướng. Cần phải thỉnh thoảng tác ý tướng định, cần phải thỉnh thoảng
tác ý tướngtinh cần, cần phải thỉnh thoảng tác ý tướng xả. Nếu Tỷ-kheo
siêng tu tập tăng thượng tâm, này các Tỷ-kheo, nếu một chiều tác ý tướng
định, thời có sự kiện tâm vị ấy đi đến thụ động. Nếu Tỷ-kheo siêng tu
tập tăng thượng tâm, này các Tỷ kheo, nếu một chiều tác ý tướng tinh
cần, thời có sự kiện tâm vị ấy đi đến trạo cử. Nếu Tỷ-kheo siêng tu tập
tăng thượng tâm, này các Tỷ kheo, nếu một chiều tác ý tướng xả, thời có
sự kiện tâm vị ấy không chơn chánh định tĩnh để đoạn diệt các lậu hoặc.
Nhưng nếu Tỷ-kheo siêng tu tập tăng thượng tâm, này các Tỷ-kheo, thỉnh
thoảng tác ý tướng định, thỉnh
thoảng tác ý tướng tinh cần, thỉnh thoảng tác ý tướng xả, tâm vị ấy trở
thành nhu nhuyến, kham nhậm, chói sáng, không bể vụn, chơn chánh định
tĩnh để đoạn tận các lậu hoặc. Tùy thuộc theo pháp gì, tâm vị ấy hướng
đến để thắng tri, để chứng ngộ, vị ấy có khả năng, có năng lực đạt đến
pháp ấy, dầu thuộc loại xứ nào.
15. Nếu vị ấy muốn: "Ta sẽ chứng đạt
nhiều loại thần thông ... (như 100.5) ... chứng tri sáu loại
thắng trí ... do đoạn diệt các lậu hoặc ... (như 100.10) ... sau
khi chứng ngộ, ta sẽ chứng đạt và an trú"; vị ấy có khả năng, có năng
lực đạt đến pháp ấy, dầu thuộc loại xứ nào.
XI. Phẩm Chánh Giác
101.- Trước Khi Giác Ngộ
1.
- Này các Tỷ-kheo, trước khi Ta giác
ngộ, chưa chánh đẳng giác, còn là Bồ-tát, ta suy nghĩ như sau: "Cái gì
là vị ngọt ở đời? Cái gì là nguy hại, cái gì là xuất ly?". Rồi này các
Tỷ-kheo, về vấn đề ấy, tư tưởng sau đây khởi lên nơi ta: "Do duyên với
đời, khởi lên lạc hỷ gì, đây là vị ngọt ở đời. Cái gì ở đời là vô
thường, khổ, chịu sự biến hoại, đấy là nguy hại ở đời. Ðiều phục dục
tham ở đời, đoạn tận tham dục, đấy là xuất ly ở đời".
2. Này các Tỷ-kheo, cho đến khi nào
ta chưa như thật giác tri vị ngọt ở đời là vị ngọt, nguy hại là nguy
hại, xuất ly là xuất ly, cho đến khi ấy, này các Tỷ-kheo, ta không có
xác nhận Ta đã giác liễu vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, cùng với thế
giới gồm có Thiên giới, Ma giới, Phạm thiên giới, cùng với quần chúng
Sa-môn, Bà-la-môn, chư Thiên và loài Người. Này các Tỷ-kheo, cho đến khi
nào ta như thật giác tri vị ngọt ở đời là vị ngọt, nguy hại là nguy
hại, xuất ly là xuất ly, cho đến khi ấy, này các Tỷ-kheo, ta mới xác
nhận Ta đã giác liễu vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, cùng với thế giới
gồm có Thiên giới, Ma giới, Phạm thiên giới, cùng với quần chúng Sa-môn,
Bà-la-môn, chư Thiên và loài Người. Và tri kiến khởi lên nơi ta: "Bất
động là tâm giải thoát của ta. Ðây
là đời sống cuối cùng. Nay không còn tái sanh nữa".
3. Này các Tỷ-kheo, ta đã đi tìm cầu
vị ngọt ở đời. Vị ngọt ở đời là gì, Ta đã tìm được. Cho đến như thế
nào, vị ngọt có mặt ở đời, với trí tuệ ta khéo thấy vị ấy ngọt. Này các
Tỷ-kheo, ta đã tìm cầu nguy hại ở đời. Nguy hại ở đời là gì, Ta đã tìm
được. Cho đến như thế nào, nguy hại có mật ở đời, với trí tuệ ta, ta
khéo thấy nguy hại ấy, này các Tỷ-kheo ta đã tìm cầu xuất ly ở đời. Xuất
ly ở đời là gì, Ta đã tìm được. Cho đến như thế nào, xuất ly có mặt ở
đời, với trí tuệ ta, ta khéo thấy xuất ly ấy.
4. Này các Tỷ-kheo, cho đến khi nào
ta chưa như thật giác tri vị ngọt ở đời là vị ngọt, nguy hại là nguy
hại, xuất ly là xuất ly, cho đến khi ấy, này các Tỷ-kheo, ta không có
xác nhận Ta đã giác liễu vô thượng chánh đẳng giác, cùng với thế giới
như Thiên giới, Ma giới, Phạm thiên giới, cùng với quần chúng Sa-môn,
Bà-la-môn, chư Thiên và loài Người. Này các Tỷ-kheo, cho đến khi nào ta
như thật giác tri vị ngọt ở đời là vị ngọt, nguy hại là nguy hại, xuất
ly là xuất ly, cho đến khi ấy, này các Tỷ-kheo, ta mới xác nhận Ta đã
giác liễu vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, cùng với thế giới gồm có
Thiên giới, Ma giới, Phạm thiên giới, cùng với quần chúng Sa-môn,
Bà-la-môn, chư Thiên và loài Người. Và tri kiến khởi lên nơi ta: "Bất
động là tâm giải thoát của ta. Ðây là đời
sống cuối cùng. Nay không còn tái sanh nữa".
102.- Vị Ngọt.
1. - Này các Tỷ-kheo, nếu không có
vị ngọt ở đời, thời các loài hữu tình không có tham nhiễm đối với đời.
Vì rằng, này các Tỷ-kheo, có vị ngọt ở đời, nên các loài hữu tình có
tham nhiễm ở đời. Này các Tỷ-kheo, nếu không có nguy hại ở đời, thời các
loài hữu tình không có nhàm chán đối với đời. Vì rằng, này các Tỷ-kheo,
có nguy hại ở đời, nên các loài hữu tình có nhàm chán đối với đời. Này
các Tỷ-kheo, nếu không có xuất ly ra khỏi đời, thời các loài hữu tình
không có xuất ly đối với đời. Vì rằng, này các Tỷ-kheo, có xuất ly đối
với đời, nên các loài hữu tình có xuất ly ra khỏi đời.
Và này các Tỷ-kheo, cho đến khi nào các loài hữu tình chưa như thật
giác tri vị ngọt ở đời là vị ngọt, nguy hại là nguy hại, xuất ly là xuất
ly, cho đến khi ấy, này các Tỷ-kheo, các loài hữu tình không có thể an
trú với tâm thoát ly, không có hệ phược, giải thoát, không bị hạn cuộc
khỏi thế giới gồm có Thiên giới, Ma giới, Phạm thiên giới, cùng với quần
chúng Sa-môn, Bà-la-môn, chư Thiên và loài Người. Và này các Tỷ-kheo,
cho đến khi nào các loài hữu tình đã như thật giác tri vị ngọt ở đời là
vị ngọt, nguy hại là nguy hại, xuất ly là xuất ly, cho đến khi ấy, này
các Tỷ-kheo, các loài hữu tình có thể an trú với tâm thoát ly, không có
hệ phược, giải thoát, không bị hạn cuộc khỏi thế giới gồm có Thiên giới,
Ma giới, Phạm thiên giới, cùng với quần chúng Sa-môn,
Bà-la-môn, chư Thiên và loài Người.
Các Sa-môn hay Bà-la-môn nào, này các Tỷ-kheo, không như thật rõ biết
là vị ngọt là vị ngọt, nguy hại là nguy hại, xuất ly là xuất ly, các
Sa-môn hay Bà-la-môn ấy, này các Tỷ-kheo, đối với Ta không được công
nhận là Sa-môn trong các hàng Sa-môn, không được công nhận là các
Bà-la-môn trong các hàng Bà-la-môn. Và các Tôn giả ấy, ngay trong hiện
tại không có chứng ngộ với thắng trí, chứng đạt và an trú mục đích của
Sa-môn hạnh hay mục đích của Bà-la-môn hạnh.
Các Sa-môn hay Bà-la-môn nào, này các Tỷ-kheo, như thật rõ biết vị
ngọt là vị ngọt, nguy hại là nguy hại, xuất ly là xuất ly, các Sa-môn
hay Bà-la-môn ấy, này các Tỷ-kheo, đối với Ta được công nhận là Sa-môn
trong các hàng Sa-môn, được công nhận là các Bà-la-môn trong các hàng
Bà-la-môn. Và các Tôn giả ấy, ngay trong hiện tại sẽ có chứng ngộ với
thắng trí, chứng đạt và an trú mục đích của Sa-môn hạnh hay mục đích của
Bà-la-môn hạnh.
103.-
Khóc Than
- Này các Tỷ-kheo, đây được xem là khóc than trong giới luật bậc
Thánh, tức là ca vịnh. Này các Tỷ-kheo, đây được xem là điên loạn trong
giới luật bậc Thánh, tức là múa nhảy. Này các Tỷ-kheo, đây được xem là
trẻ con trong giới luật bậc Thánh, tức là cười quá đáng để lộ cả răng.
Do luật này, này các Tỷ-kheo, hãy phá cây cầu đi đến hát. Hãy phá cây
cầu đi đến múa nhảy. Thật là vừa đủ nếu các Thầy được hoan hỷ đúng pháp,
mỉm cười để tỏ là các Thầy được hoan hỷ.
104.- Không Thoả Mãn
- Này các Tỷ-kheo, hưởng thọ ba sự ở đời, không bao giờ thỏa mãn. Thế
nào là ba?
Hưởng thọ ngủ nghỉ, này các Tỷ-kheo, không bao giờ thỏa mãn. Hưởng
thọ rượu men rượu nấu, này các Tỷ-kheo, không bao giờ thỏa mãn. Hưởng
thọ sự dâm dục giao hợp, này các Tỷ kheo, không bao giờ thỏa mãn.
105.- Nóc Nhọn (1)
Rồi gia chủ Anathapindika đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế
Tôn rồi ngồi xuống một bên; Thế Tôn nói với gia chủ Anathapindika đang
ngồi xuống một bên:
- Này gia chủ, khi tâm không phòng hộ, thời thân nghiệp cũng không
phòng hộ, khẩu nghiệp không phòng hộ, ý nghiệp cũng không phòng hộ. Với
ai thân nghiệp không phòng hộ, khẩu nghiệp không phòng hộ, ý nghiệp
không phòng hộ, thời thân nghiệp đầy ứ tham dục và rỉ chảy; khẩu nghiệp
đầy ứ tham dục và rỉ chảy; ý nghiệp đầy ứ tham dục và rỉ chảy; Với ai
thân nghiệp đầy ứ tham dục và rỉ chảy, khẩu nghiệp đầy ứ tham dục và rỉ
chảy, ý nghiệp đầy ứ tham dục và rỉ chảy, thời thân nghiệp bị hủ bại,
khẩu nghiệp ... ý nghiệp bị hủ bại. Với ai thân nghiệp bị hủ bại, khẩu
nghiệp ... ý nghiệp bị hủ bại, sự chết không được hiền thiện, mạng chung
không được hiền thiện.
Này gia chủ, ví như ngôi nhà nóc nhọn vụng lợp, thời nóc nhọn không
được phòng hộ, rui kèo không được phòng hộ, vách tường không được phòng
hộ; nóc nhọn bị đấy ứ, rỉ nước, các rui kèo bị đầy ứ rỉ nước, các vách
tường bị đầy ứ, rỉ nước, nóc nhọn bị hủ bại, rui kèo bị hủ bại, vách
tường bị hủ bại. Cũng vậy, này gia chủ, khi tâm không được phòng hộ,
thời thân nghiệp cũng không được phòng hộ, khẩu nghiệp ... ý nghiệp ...
sự chết không được hiền thiện, mạng chung không được hiền thiện.
Này gia chủ, khi tâm được phòng hộ, thời thân nghiệp cũng được phòng
hộ, khẩu nghiệp ... ý nghiệp cũng được phòng hộ. Với ai thân nghiệp được
phòng hộ, khẩu nghiệp được phòng hộ, ý nghiệp được phòng hộ, thời thân
nghiệp đầy không ứ tham dục và rỉ chảy; khẩu nghiệp không đầy ứ tham dục
và rỉ chảy; ý nghiệp không đầy ứ tham dục và rỉ chảy; Với ai thân
nghiệp không đầy ứ tham dục và rỉ chảy, khẩu nghiệp không đầy ứ tham dục
và rỉ chảy, ý không nghiệp đầy ứ tham dục và rỉ chảy, thời thân nghiệp
không bị hủ bại, khẩu nghiệp ... ý nghiệp không bị hủ bại. Với ai thân
nghiệp không bị hủ bại, khẩu nghiệp ... ý nghiệp không bị hủ bại, thời
sự chết được hiền thiện, mạng chung được hiền thiện ...
Này gia chủ, ví như ngôi nhà nóc nhọn khéo lợp, thời nóc nhọn được
phòng hộ, rui kèo được phòng hộ, vách tường được phòng hộ; nóc nhọn
không đầy ứ, rỉ nước, các rui kèo không đầy ứ rỉ nước, các vách tường
không đầy ứ, rỉ nước, nóc nhọn không bị hủ bại, rui kèo không bị hủ bại,
vách tường không bị hủ bại. Cũng vậy, này gia chủ, khi tâm được phòng
hộ, thời thân nghiệp cũng được phòng hộ, khẩu nghiệp ... ý nghiệp không
bị hủ bại, thời sự chết được hiền thiện, mạng chung được hiền thiện.
106.- Nóc Nhọn (2)
(Kinh này hoàn toàn giống như kinh trên, chỉ khác có một chữ. Chỗ nào
kinh trên dùng chữ "không phòng hộ", thời ở đây dùng chữ "thất thế,
lung lay" với những thay đổi cần thiết).
107.-
Ba Nhân Duyên (1)
- Có ba nhân duyên này, này các Tỷ-kheo, khiến các nghiệp tập khởi.
Thế nào là ba?
Tham là nhân duyên khiến các nghiệp tập khởi, sân là nhân duyên khiến
các nghiệp tập khởi, si là nhân duyên khiến các nghiệp tập khởi.
Phàm nghiệp nào do tham tác thành, này các Tỷ-kheo, sanh ra từ tham,
do tham làm nhân duyên, do tham tập khởi, nghiệp ấy là bất thiện, nghiệp
ấy có phạm tội, nghiệp ấy có khổ dị thục, nghiệp ấy làm nghiệp tập
khởi, nghiệp ấy không đưa đến nghiệp đoạn diệt. Phàm nghiệp nào do sân
tác thành ... Phàm nghiệp nào do si tác thành, này các Tỷ-kheo, sanh ra
từ si, do si làm nhân duyên, do si tập khởi, nghiệp ấy là bất thiện,
nghiệp ấy có phạm tội, nghiệp ấy có khổ dị thục, nghiệp ấy làm nghiệp
tập khởi, nghiệp ấy không đưa đến nghiệp đoạn diệt. Ba pháp này, này các
Tỷ-kheo, là ba nhân duyên khiến các nghiệp tập khởi.
108.-
Ba Nhân Duyên (2)
- Có ba nhân duyên này, này các Tỷ-kheo, khiến các nghiệp tập khởi.
Thế nào là ba?
Vô tham là nhân duyên khiến các nghiệp tập khởi, vô sân là nhân duyên
khiến các nghiệp tập khởi, vô si là nhân duyên khiến các nghiệp tập
khởi.
Phàm nghiệp nào do vô tham tác thành, này các Tỷ-kheo, sanh ra từ vô
tham, do vô tham làm nhân duyên, do vô tham tập khởi, nghiệp ấy là
thiện, nghiệp ấy không có phạm tội, nghiệp ấy có lạc dị thục, nghiệp ấy
đưa đến nghiệp đoạn diệt, nghiệp ấy không đưa đến nghiệp tập khởi. Phàm
nghiệp nào do vô sân tác thành ... Phàm nghiệp nào do vô si tác thành,
này các Tỷ-kheo, sanh ra từ vô si, do vô si làm nhân duyên, do vô si tập
khởi, nghiệp ấy là thiện, nghiệp ấy không có phạm tội, nghiệp ấy có lạc
dị thục, nghiệp ấy không đưa đến nghiệp tập khởi, nghiệp ấy đưa đến
nghiệp đoạn diệt. Ba pháp này, này các Tỷ-kheo, là ba nhân duyên khiến
các nghiệp tập khởi.
109.-
Nhân Duyên (3)
1. - Có ba nhân duyên này, này các
Tỷ-kheo, khiến các nghiệp tập khởi. Thế nào là ba?
Này các Tỷ-kheo, do duyên các pháp làm chỗ y xứ cho dục tham trong
quá khứ; ước muốn khởi lên. Này các Tỷ-kheo, do duyên các pháp làm chỗ y
xứ cho dục tham trong tương lai; ước muốn khởi lên. Này các Tỷ-kheo, do
duyên các pháp làm chỗ y xứ cho dục tham trong hiện tại; ước muốn khởi
lên.
2. Như thế nào, này các Tỷ-kheo, do
duyên các pháp làm chỗ ý xứ cho dục tham trong quá khứ, ước muốn khởi
lên?
Này các Tỷ-kheo, do duyên các pháp làm chỗ y xứ cho dục tham trong
quá khứ; với tâm, nó tầm cầu, nó tư sát. Do duyên các pháp làm chỗ ý xứ
cho dục tham trong quá khứ; với tâm, nó tầm cầu, nó tư sát, nên ước muốn
khởi sanh. Vì có ước muốn, nên nó bị liên hệ với các pháp ấy. Này các
Tỷ-kheo, Ta nói rằng đó là một kiết sử, vì tâm ấy có tham ái. Như vậy,
này các Tỷ-kheo, do duyên các pháp làm chỗ ý xứ cho dục tham trong quá
khứ, ước muốn sanh khởi.
3. Như thế nào, này các Tỷ-kheo, do
duyên các pháp làm chỗ ý xứ cho dục tham trong tương lai, ước muốn sanh
khởi?
Này các Tỷ-kheo, do duyên các pháp làm chỗ y xứ cho dục tham trong
tương lai; với tâm, nó tầm cầu, nó tư sát. Do duyên các pháp làm chỗ ý
xứ cho dục tham trong tương lai; với tâm, nó tầm cầu, nó tư sát, nên ước
muốn khởi sanh. Vì có ước muốn, nên nó bị liên hệ với các pháp ấy. Này
các Tỷ-kheo, Ta nói rằng đó là một kiết sử, vì tâm ấy có tham ái. Như
vậy, này các Tỷ-kheo, do duyên các pháp làm chỗ ý xứ cho dục tham trong
tương lai, ước muốn sanh khởi.
4. Và như thế nào, này các Tỷ-kheo,
do duyên các pháp làm chỗ ý xứ cho dục tham trong hiện tại, ước muốn
khởi sanh?
Này các Tỷ-kheo, do duyên các pháp làm chỗ y xứ cho dục tham trong
hiện tại; với tâm, nó tầm cầu, nó tư sát. Do duyên các pháp làm chỗ ý xứ
cho dục tham trong hiện tại; với tâm, nó tầm cầu, nó tư sát, nên ước
muốn khởi sanh. Vì có ước muốn, nên nó bị liên hệ với pháp ấy. Này các
Tỷ-kheo, Ta nói rằng đó là một kiết sử, vì tâm ấy có tham ái. Như vậy,
này các Tỷ-kheo, do duyên các pháp làm chỗ ý xứ cho dục tham trong hiện
tại, ước muốn sanh khởi.
110.
Nhân Duyên (4)
1. - Có ba nhân duyên này, này các
Tỷ-kheo, khiến các nghiệp tập khởi. Thế nào là ba?
Này các Tỷ-kheo, do duyên các pháp làm chỗ y xứ cho dục tham trong
quá khứ; ước muốn không khởi sanh. Này các Tỷ-kheo, do duyên các pháp
làm chỗ y xứ cho dục tham trong tương lai; ước muốn không khởi sanh. Này
các Tỷ-kheo, do duyên các pháp làm chỗ y xứ cho dục tham trong hiện
tại; ước muốn không sanh khởi.
2. Và như thế nào, này các Tỷ-kheo,
do duyên các pháp làm chỗ ý xứ cho dục tham trong quá khứ, ước muốn
không sanh khởi?
Có người rõ biết, này các Tỷ-kheo, quả dị thục trong tương lai của
các pháp làm chỗ y xứ cho dục tham trong quá khứ. Sau khi biết rõ quả dị
thục trong tương lai, người ấy tránh né quả dị thục ấy. Sau khi tránh
né quả dị thục ấy, sau khi tâm người ấy không còn tham đắm; với trí tuệ,
vị ấy thể nhập và thấy. Như vậy, này các Tỷ-kheo, do duyên các pháp làm
chỗ ý xứ cho dục tham trong quá khứ, ước muốn không sanh khởi.
3. Và như thế nào, này các Tỷ-kheo,
do duyên các pháp làm chỗ ý xứ cho dục tham trong tương lai, ước muốn
không sanh khởi?
Có người rõ biết, này các Tỷ-kheo, quả dị thục trong tương lai của
các pháp làm chỗ y xứ cho dục tham trong tương lai. Sau khi biết rõ quả
dị thục trong tương lai, người ấy tránh né quả dị thục ấy. Sau khi tránh
né quả dị thục ấy, sau khi tâm người ấy không còn tham đắm; với trí
tuệ, người ấy thể nhập và thấy. Như vậy, này các Tỷ-kheo, do duyên các
pháp làm chỗ ý xứ cho dục tham trong tương lai, ước muốn không sanh
khởi.
4. Và như thế nào, này các Tỷ-kheo,
do duyên các pháp làm chỗ ý xứ cho dục tham trong hiện tại, ước muốn
không sanh khởi?
Có người rõ biết, này các Tỷ-kheo, quả dị thục trong tương lai của
các pháp làm chỗ y xứ cho dục tham trong hiện tại. Sau khi biết rõ quả
dị thục trong tương lai, người ấy tránh né quả dị thục ấy. Sau khi tránh
né quả dị thục ấy, sau khi tâm người ấy không còn tham đắm; với trí
tuệ, người ấy thể nhập và thấy. Như vậy, này các Tỷ-kheo, do duyên các
pháp làm chỗ ý xứ cho dục tham trong hiện tại, ước muốn không sanh khởi.
XII. Phẩm Ðọa Xứ
111.- Rơi Vào Ðọa Xứ
-
Này các Tỷ-kheo, ba hạng người này rơi
vào đọa xứ, rơi vào địa ngục, trừ phi họ đoạn bỏ pháp này. Thế nào là
ba?
Ai sống không Phạm hạnh, tự xưng là có sống Phạm hạnh; đối với người
sống Phạm hạnh thanh tịnh, hành Phạm hạnh thật thanh tịnh, ai công kích
là không Phạm hạnh một cách không căn cứ; ai chủ trương như sau: "Không
có lỗi lầm trong các dục vọng" và rơi vào say đắm trong các dục vọng;
những hạng người này, này các Tỷ-kheo, là ba hạng người rơi vào trong
đọa xứ, rơi vào địa ngục, trừ phi họ đoạn bỏ pháp này.
112.- Khó Tìm Ðược
- Sự xuất hiện của ba hạng người này, này các Tỷ-kheo, khó tìm được ở
đời. Thế nào là ba?
Này các Tỷ-kheo, sự xuất hiện của Như Lai, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng
Chánh Giác, khó tìm được ở đời. Người có thể thuyết pháp và luật do Như
Lai tuyên thuyết, khó tìm được ở đời. Người tri ân, người biết ơn, khó
tìm được ở đời.
Sự xuất hiện của ba hạng người này, này các Tỷ-kheo, khó tìm được ở
đời.
113. Không Thể Ước Lượng
- Có ba hạng người này, này các Tỷ-kheo, có mặt, xuất hiện ở đời. Thế
nào là ba? Dễ ước lượng, khó ước lượng và không thể ước lượng.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là người dễ ước lượng?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người tháo động, kiêu căng, dao động, lắm
mồm lắm miệng, lắm lời, thất niệm không tỉnh giác, không định tĩnh, tâm
tán loạn, các căn thả lỏng. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là hạng người dễ
ước lượng.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào gọi là người khó ước lượng?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng người không tháo động, không kiêu
căng, không dao động, không lắm mồm lắm miệng, không lắm lời, trú niệm,
tỉnh giác, định tĩnh, nhất tâm, các căn được bảo vệ. Này các Tỷ-kheo,
đây gọi là hạng người khó ước lượng.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào gọi là người không thể ước lượng?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo là bậc A-la-hán, các lậu hoặc được
đoạn tận. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là hạng người không thể ước lượng.
Ba hạng người này, này các Tỷ-kheo, có mặt, xuất hiện ở đời.
114.- Không Vô Biên Xứ
- Có ba hạng người này, này các Tỷ-kheo, có mặt, xuất hiện ở đời. Thế
nào là ba?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người hoàn toàn vượt qua sắc tưởng, chấm
dứt đối ngại tưởng, không tác ý các tưởng sai biệt, xem "hư không là vô
biên", đạt đến an trú và Không vô biên xứ. Vị ấy thưởng thức cảnh giới
ấy, hy cầu cảnh giới ấy, thỏa mãn với cảnh giới ấy, an trú trong cảnh
giới ấy, tín giải cảnh giới ấy, an trú nhiều trong cảnh giới ấy, không
có từ bỏ cảnh giới ấy, đến khi mạng chung, được sanh cộng trú với chư
Thiên đã đạt đến Không vô biên xứ. Này các Tỷ-kheo, thọ mạng của chư
Thiên đã đạt đến Không vô biên xứ là hai mươi ngàn kiếp. Kẻ phàm phu,
sau khi trú ở đấy cho đến hết thọ mạng, sau khi trải qua tất cả thời
gian thọ mạng của chư Thiên ấy, kẻ ấy đi vào địa ngục, đi vào loại bàng
sanh, đi vào cõi ngạ quỷ. Nhưng đệ tử của Thế Tôn, sau khi trú ở đấy cho
hết thọ mạng, sau khi trải qua tất cả thời gian thọ mạng của chư Thiên
ấy, cuối cùng nhập Niết-bàn trong hiện hữu ấy. Ðây là sự đặc thù, đây là
sự tăng thượng, đây là sự sai biệt giữa vị Thánh đệ tử có nghe nhiều và
kẻ vô văn phàm phu về vấn đề sanh thú và tái sanh.
2. Lại nữa, này các Tỷ Kheo, ở đây
có người vượt qua Không vô biên xứ, xem "thức là vô biên", đạt đến an
trú Thức vô biên xứ. Vị ấy thưởng thức cảnh giới ấy, hy cầu cảnh giới
ấy, thỏa mãn với cảnh giới ấy, an trú trong cảnh giới ấy, tín giải cảnh
giới ấy, an trú nhiều trong cảnh giới ấy, không có từ bỏ cảnh giới ấy,
đến khi mạng chung, được sanh cộng trú với chư Thiên đã đạt Thức vô biên
xứ. Này các Tỷ-kheo, thọ mạng của chư Thiên đã đạt đến Thức vô biên xứ
là bốn mươi ngàn kiếp. Kẻ phàm phu, sau khi trú ở đấy cho đến hết thọ
mạng, sau khi trải qua tất cả thời gian thọ mạng của chư Thiên ấy, kẻ ấy
đi vào địa ngục, đi vào loại bàng sanh, đi vào cõi ngạ quỷ. Nhưng đệ tử
của Thế Tôn, sau khi trú ở đấy cho hết thọ mạng, sau khi trải qua tất
cả thời gian thọ mạng của chư
Thiên ấy, cuối cùng nhập Niết-bàn trong hiện hữu ấy. Ðây là sự đặc thù,
đây là sự tăng thượng, đây là sự sai biệt giữa vị Thánh đệ tử có nghe
nhiều và kẻ vô văn phàm phu về vấn đề sanh thú và tái sanh.
3. Lại nữa, naỳ các Tỷ kheo, ở đây
có người vượt qua Thức vô biên xứ, xem "không có gì cả", đạt đến an trú
Vô sở hữu xứ. Vị ấy thưởng thức cảnh giới ấy, hy cầu cảnh giới ấy, thỏa
mãn với cảnh giới ấy, an trú trong cảnh giới ấy, tín giải cảnh giới ấy,
không có từ bỏ cảnh giới ấy, đến khi mạng chung, được sanh cộng trú với
chư Thiên đã đạt Vô sở hữu xứ. Này các Tỷ-kheo, thọ mạng của chư Thiên
đã đạt đến Vô sở hữu xứ là sáu mươi ngàn kiếp. Kẻ phàm phu, sau khi trú ở
đấy cho đến hết thọ mạng, sau khi trải qua tất cả thời gian thọ mạng
của chư Thiên ấy, kẻ ấy đi vào địa ngục, đi vào loại bàng sanh, đi vào
cõi ngạ quỷ. Nhưng đệ tử của Thế Tôn, sau khi trú ở đấy cho hết thọ
mạng, sau khi trải qua tất cả thời gian thọ mạng của chư Thiên ấy, cuối
cùng nhập Niết-bàn trong hiện
hữu ấy. Ðây là sự đặc thù, đây là sự tăng thượng, đây là sự sai biệt
giữa vị Thánh đệ tử có nghe nhiều và kẻ vô văn phàm phu về vấn đề sanh
thú và tái sanh.
Ba hạng người này, này các Tỷ-kheo, có mặt, xuất hiện ở đời.
115.- Khiếm Khuyết Và Viên Mãn.
1. - Này các Tỷ-kheo, có ba sự khiếm
khuyết này. Thế nào là ba? Khiếm khuyết về giới, khiếm khuyết về tâm,
khiếm khuyết về tri kiến.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là khiếm khuyết về giới?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người sát sanh, lấy của không cho, tà hạnh
trong các dục, nói láo, nói hai lưỡi, nói lời độc ác, nói lời phù
phiếm. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là khiếm khuyết về giới.
2. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
khiếm khuyết về tâm?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người tham lam, với tâm sân hận. Này các
Tỷ-kheo, đây gọi là khiếm khuyết về tâm.
3. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
khiếm khuyết về tri kiến?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người có tà kiến, có tri kiến điên đảo:
"Không có bố thí, không có lễ hy sinh, không có cúng tế, không có quả dị
thục trong các nghiệp thiện ác, không có đời này, không có đời sau,
không có mẹ, không có cha, không có các loại hóa sanh, ở đời không có
các hàng Sa-môn, Bà-la-môn chánh hướng, chánh hạnh, đã tự mình với thắng
trí, giác ngộ đời này, đời sau và truyền dạy lại". Này các Tỷ-kheo, đây
gọi là khiếm khuyết về tri kiến.
4. Do nhân khiếm khuyết về giới, này
các Tỷ-kheo, các loại hữu tình, sau khi thân hoại mạng chung, sanh vào
cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Do nhân khiếm khuyết về tâm, này các
Tỷ-kheo, các loại hữu tình, sau khi thân hoại mạng chung, sanh vào cõi
dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Do nhân khiếm khuyết về tri kiến, này các
Tỷ-kheo, các loại hữu tình, sau khi thân hoại mạng chung, sanh vào cõi
dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Những pháp này, này các Tỷ-kheo, là ba
khiếm khuyết.
5. Này các Tỷ-kheo, có ba viên mãn
này. Thế nào là ba? Viên mãn về giới, viên mãn về tâm, viên mãn về tri
kiến.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là viên mãn về giới?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không
cho, từ bỏ tà hạnh trong các dục, từ bỏ nói láo, từ bỏ nói hai lưỡi, từ
bỏ nói lời độc ác, từ bỏ nói lời phù phiếm. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là
viên mãn về giới.
6. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
viên mãn về tâm?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người không tham lam, không có tâm sân
hận. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là viên mãn về tâm.
7. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
viên mãn về tri kiến?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người có chánh kiến, không có tri kiến
điên đảo: "Có bố thí, có lễ hy sinh, có cúng tế, có quả dị thục trong
các nghiệp thiện ác, có đời này, có đời sau, có mẹ, có cha, có các loại
hóa sanh, ở đời có các hàng Sa-môn, Bà-la-môn chánh hướng, chánh hạnh,
đã tự mình với thắng trí, giác ngộ đời này, đời sau và truyền dạy lại".
Này các Tỷ-kheo, đây gọi là viên mãn về tri kiến.
8. Do nhân viên mãn về giới, này các
Tỷ-kheo, các loại hữu tình, sau khi thân hoại mạng chung, sanh vào cõi
thiện, cõi Trời, cõi đời này. Do nhân viên mãn về tâm, này các Tỷ-kheo,
các loại hữu tình, sau khi thân hoại mạng chung, sanh lên cõi thiện, cõi
Trời, cõi đời này. Do nhân viên mãn về tri kiến, này các Tỷ-kheo, các
loại hữu tình, sau khi thân hoại mạng chung, sanh lên cõi thiện, cõi
Trời, cõi đời này. Những pháp này, này các Tỷ-kheo, là ba viên mãn.
116.-
Chính Xác.
1.- Này các Tỷ kheo, có ba khiếm
khuyết này, thế nào là ba?
Khiếm khuyết về giới, khiếm khuyết về tâm, khiếm khuyết về tri
kiến... (Giống như kinh 115, 1-4).
2.- Ví như naỳ các Tỷ Kheo, một hột
súc sắc chính xác, nếu được liệng về mặt trên, được nằm về mặt ấy, được
nằm khéo đặt. Cũng vậy, Này các Tỷ kheo, do nhân khiếm khuyết về giói
các loại hữu tình, sau khi thân hoại mạng chung, sanh vào cõi dữ, ác
thú, đọa xứ, địa ngục..... Do nhân khiếm khuyết về tâm,....Do nhân khiếm
khuyết về tri kiến...... này các Tỷ-kheo, ... sanh vào cõi dữ, ác thú,
đọa xứ, địa ngục . Các pháp này, naỳ các Tỷ kheo, là ba khuyết điểm.
3.- Này các Tỷ-kheo, có ba viên mãn
này. Thế nào là ba? Viên mãn về giới, viên mãn về tâm, viên mãn về tri
kiến. .... (Như kinh 115, 5-8).
4.- Ví như này các Tỷ Kheo, một hột
súc sắc chính xác, nếu được liệng về mặt trên, được nằm về mặt ấy, được
nằm khéo đặt. Cũng vậy, Này các Tỷ kheo, do nhân viên mãn về giơi.... do
nhân viên mãn về tâm .... do nhân viên mãn về tri kiến, này các Tỷ
kheo, các loại hữu tình, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh lên cõi
thiện, cõi trời, cõi đời này. Các pháp này, này các Tỷ kheo, là ba viên
mãn.
117.- Hành Ðộng
1 - Này các Tỷ-kheo, có ba khiếm khuyết này. Thế nào là ba? Khiếm
khuyết về hành động, khiếm khuyết về sanh kế, khiếm khuyết về tri kiến.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là khiếm khuyết về hành động?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, người sát sanh ... (như 115.1)nói lời
phù phiếm. Này các Tỷ-kheo, đây là khiếm khuyết về hành động.
2. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
khiếm khuyết về sanh kế?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người theo tà sanh kế, nuôi sống bằng tà
sanh kế. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là khiếm khuyết về sanh kế.
3. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
khiếm khuyết về tri kiến? (như kinh 115.3).
4. Này các Tỷ-kheo, có ba viên mãn
này. Thế nào là ba? Viên mãn về hành động, viên mãn về sanh kế, viên mãn
về tri kiến.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là viên mãn về hành động? ... (như
kinh 115.5)
5. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
viên mãn về sanh kế?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người theo chánh sanh kế, nuôi sống bằng
chánh sanh kế. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là viên mãn về sanh kế.
6. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
viên mãn về tri kiến? ... (như kinh 115.7)
Này các Tỷ-kheo, các pháp này là ba viên mãn.
118.- Thanh Tịnh (1)
- Này các Tỷ-kheo, có ba thanh tịnh này. Thế nào là ba? Thân thanh
tịnh, lời nói thanh tịnh, ý thanh tịnh.
Thế nào là thân thanh tịnh?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người từ bỏ sánh sanh, từ bỏ lấy của không
cho, từ bỏ tà hạnh trong các dục, này các Tỷ-kheo, đây gọi là thân
thanh tịnh.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là lời nói thanh tịnh?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người tục nói láo, từ bỏ nói hai lưỡi, từ
bỏ nói lời độc ác, từ bỏ nói lời phù phiếm. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là
lời nói thanh tịnh.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là ý thanh tịnh?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người không có tham lam, với tâm không sân
không hận, có chánh tri kiến. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là ý thanh tịnh.
Những pháp này, này các Tỷ-kheo, là ba thanh tịnh.
119.- Thanh Tịnh (2)
1. - Này các Tỷ-kheo, có ba thanh
tịnh này, Thế nào là ba? Thân thanh tịnh, lời nói thanh tịnh, ý thanh
tịnh.
2. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
thân thanh tịnh? (như kinh 118, về thân thanh tịnh).
3. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
lời nói thanh tịnh? (như kinh 118, về lời nói thanh tịnh).
4. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là ý
thanh tịnh?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo, nếu nội tâm có ước muốn về dục,
vị ấy rõ biết: "Nội tâm ta có ước muốn về dục". Nếu nội tâm không có ước
muốn về dục, vị ấy rõ biết: "Nội tâm ta không có ước muốn về dục". Ước
muốn về dục chưa sanh khởi, được sanh khởi thế nào, vị ấy rõ biết như
vậy. Ước muốn về dục đã sanh khởi, được đoạn trừ thế nào, vị ấy rõ biết
như vậy. Và ước muốn về dục đã được đoạn trừ, tương lai không sanh khởi
thế nào, vị ấy rõ biết như vậy.
5. Nếu nội tâm có sân, vị ấy rõ
biết: "Nội tâm ta có sân". Nếu nội tâm không có sân, vị ấy rõ biết: "Nội
tâm ta không có sân". Sân chưa sanh khởi, được sanh khởi thế nào, vị ấy
rõ biết như vậy. Sân đã sanh khởi, được đoạn trừ thế nào, vị ấy rõ biết
như vậy. Và sân đã được đoạn trừ, tương lai không sanh khởi thế nào, vị
ấy rõ biết như vậy.
6. Nếu tâm có hôn trầm thụy miên, vị
ấy rõ biết: "Nội tâm ta có hôn trầm thụy miên". Nếu nội tâm không có
hôn trầm thụy miên, vị ấy rõ biết: "Nội tâm ta không có hôn trầm thụy
miên". Hôn trầm thụy miên chưa sanh khởi, được sanh khởi thế nào, vị ấy
rõ biết như vậy. Hôn trầm thụy miên đã sanh khởi, được đoạn trừ thế nào,
vị ấy rõ biết như vậy. Và hôn trầm thụy miên đã được đoạn trừ, tương
lai không sanh khởi thế nào, vị ấy rõ biết như vậy.
7. Nếu tâm có trạo hối, vị ấy rõ
biết: "Nội tâm ta có trạo hối". Nếu nội tâm không có trạo hối, vị ấy rõ
biết: "Nội tâm ta không có trạo hối". Trạo hối chưa sanh khởi, được sanh
khởi thế nào, vị ấy rõ biết như vậy. Trạo hối đã sanh khởi, được đoạn
trừ thế nào, vị ấy rõ biết như vậy. Và trạo hối đã được đoạn trừ, tương
lai không sanh khởi thế nào, vị ấy rõ biết như vậy.
8. Nếu tâm có nghi, vị ấy rõ biết:
"Nội tâm ta có nghi". Nếu nội tâm không có nghi, vị ấy rõ biết: "Nội tâm
ta không có nghi". Nghi chưa sanh khởi, được sanh khởi thế nào, vị ấy
rõ biết như vậy. Nghi đã sanh khởi, được đoạn trừ thế nào, vị ấy rõ biết
như vậy. Và nghi đã được đoạn trừ, tương lai không sanh khởi thế nào,
vị ấy rõ biết như vậy.
Này các Tỷ-kheo, đây gọi là ý thanh tịnh. Các pháp này, này các
Tỷ-kheo, là ba thanh tịnh.
9.
Thân và lời thanh tịnh
Tâm thanh tịnh vô lậu
Trong sạch được thanh tịnh
Ðược gọi ác đoạn trừ.
120.- Toàn Hảo.
- Này các Tỷ-kheo, có ba sự toàn hảo. Thế nào là ba? Toàn hảo về
thân, toàn hảo về lời nói, toàn hảo về ý.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là toàn hảo về thân? ... (như kinh
118).
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là toàn hảo về lời nói? ... (như kinh
118).
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là toàn hảo về ý? Ở đây, này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo do đoạn trừ có lậu hoặc ngay trong hiện tại, tự mình với thắng
trí, chứng ngộ, chứng đạt và an trú vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải
thoát. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là ý toàn hảo.
Này các Tỷ-kheo, các pháp này là ba toàn hảo.
Thân và lời toàn hảo,
Tâm toàn hảo vô lậu,
Toàn hảo, được toàn hảo
Ðược gọi đoạn tất cả.
XIII. Phẩm Kusinàra
121. Tại Kusinàra
Một thời Thế Tôn trú ở Kusinàra, tại
khóm rừng Bariharana. Tại đấy, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo:
- Này các Tỷ-kheo.
- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn, Thế Tôn nói như sau:
- Ở đây, này các Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo sống dựa vào một làng hay một
thị trấn. Rồi người gia chủ hay con người gia chủ đi đến vị ấy mời mai
lại dùng cơm. Nếu muốn, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nhận lời. Sau khi đêm
ấy đã mãn, Tỷ-kheo ấy vào buổi sáng, đắp y, cầm y bát và đi đến trú xứ
người gia chủ hay con người gia chủ. Sau khi đến, vị ấy ngồi xuống trên
chỗ đã soạn sẵn. Rồi người gia chủ hay con người gia chủ tự tay đứng mời
và làm cho thỏa mãn Tỷ-kheo ấy với các món ăn thượng vị loại cứng và
loại mềm. Vị ấy suy nghĩ: "Thật tốt lành thay, người gia chủ hay con
người gia chủ này tự tay đứng mời và làm thỏa mãn ta với các món ăn
thượng vị, loại cứng và loại mềm! "Rồi vị ấy suy nghĩ như sau: "Mong
rằng người gia chủ hay con người gia chủ này trong tương lai, tự tay
đứng
mời và làm thỏa mãn ta với các món ăn thượng vị, loại cứng và loại
mềm!". Vị ấy thọ hưởng món ăn khất thực ấy, tham dính say đắm, đam
trước, không thấy sự nguy hại, không thấy được sự xuất ly. Vị ấy ở đây
khởi lên suy tầm về dục, khởi lên sự suy tầm về sân, khởi lên sự suy tầm
về hại. Này các Tỷ-kheo, Ta nói rằng bố thí cho Tỷ-kheo như vậy không
có quả lớn. Vì cớ sao? Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo sống phóng dật.
Nhưng ở đây, này các Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo sống dựa vào một làng hay
một thị trấn. Rồi một gia chủ hay con người gia chủ đi đến vị ấy mời mai
lại dùng cơm. Nếu muốn, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nhận lời. Sau khi đêm
ấy đã mãn, Tỷ-kheo ấy vào buổi sáng, đắp y, cầm y bát và đi đến trú xứ
người gia chủ hay con người gia chủ. Sau khi đến, vị ấy ngồi xuống trên
chỗ đã soạn sẵn. Rồi người gia chủ hay con người gia chủ tự tay đứng mời
và làm cho thỏa mãn Tỷ-kheo ấy với các món ăn thượng vị loại cứng và
loại mềm. Vị ấy không có suy nghĩ: "Thật tốt lành thay, người gia chủ
hay con người gia chủ này tự tay đứng mời và làm thỏa mãn ta với các món
ăn thượng vị, loại cứng và loại mềm!". Rồi vị ấy không suy nghĩ như
sau: "Mong rằng người gia chủ hay con người gia chủ này trong tương
lai, tự tay đứng mời và làm thỏa mãn ta với các món ăn thượng vị, loại
cứng và loại mềm!". Vị ấy thọ hưởng món ăn khất thực ấy, không tham
dính, không say đắm, không đam trước, thấy được sự nguy hại, thấy được
sự xuất ly. Vị ấy ở đây khởi lên suy tầm về viễn ly, khởi lên sự suy tầm
về vô sân, khởi lên sự suy tầm về vô hại. Này các Tỷ-kheo, Ta nói rằng
bố thí cho Tỷ-kheo như vậy có quả lớn. Vì cớ sao? Này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo không sống phóng dật.
122.- Tranh Luận
- Tại phương hướng nào, này các Tỷ-kheo, các Tỷ-kheo sống cạnh tranh,
luận tranh, đấu tranh, đả thương nhau với binh khí miệng lưỡi, thật
không thoải mái cho ta, này các Tỷ-kheo, khi nghĩ đến phương hướng ấy,
còn nói gì đến chỗ ấy. Ở đây, Ta đi đến kết luận như sau: "Thật vậy, các
Tỷ-kheo ấy đã từ bỏ ba pháp và đã làm quá nhiều ba pháp".
Ba pháp họ đã từ bỏ là gì? Viễn ly tầm, vô sân tầm, bất hại tầm. Ba
pháp này họ đã từ bỏ.
Ba pháp gì họ đã làm quá nhiều? Dục tầm, sân tầm, hại tầm. Ba pháp
này họ đã làm quá nhiều.
Tại phương hướng nào, này các Tỷ-kheo, các Tỷ-kheo sống cạnh tranh,
luận tranh, đấu tranh, đả thương nhau với binh khí miệng lưỡi, thật
không thoải mái cho ta, này các Tỷ-kheo, khi nghĩ đến phương hướng ấy,
còn nói gì đến chỗ ấy. Ở đây, Ta đi đến kết luận như sau: "Thật vậy, các
Tỷ-kheo ấy đã từ bỏ ba pháp này và đã làm quá nhiều ba pháp này".
Tại phương hướng nào, này các Tỷ-kheo, các Tỷ-kheo sống hòa hợp, hoan
hỷ, không đấu tranh nhau, như sữa và nước lẫn lộn, nhìn nhau với cặp
mắt ái kính, này các Tỷ-kheo, đi đến phương hướng ấy thật thoải mái cho
ta, còn nói gì nghĩ đến phương hướng ấy. Ở đây, Ta đi đến kết luận như
sau: "Thật vậy, các Tỷ-kheo ấy đã từ bỏ ba pháp này và đã làm quá nhiều
ba pháp này".
Ba pháp họ đã từ bỏ là gì? Dục tầm, sân tầm, hại tầm. Ba pháp này họ
đã từ bỏ.
Ba pháp gì họ đã làm quá nhiều? Viễn ly vô tầm, vô sân tầm, bất hại
tầm.
Tại phương hướng nào, này các Tỷ-kheo, các Tỷ-kheo sống hòa hợp, hoan
hỷ, không đấu tranh nhau, như sữa và nước lẫn lộn, nhìn nhau với cặp
mắt ái kính, này các Tỷ-kheo, đi đến phương hướng ấy thật thoải mái cho
ta, còn nói gì nghĩ đến phương hướng ấy. Ở đây, Ta đi đến kết luận như
sau: "Thật vậy, các Tỷ-kheo ấy đã từ bỏ ba pháp này và đã làm quá nhiều
ba pháp này".
123.- Ðiện Thờ Gotama
Một thời, Thế Tôn trú ở Vesàli, tại điện thờ Gotama. Tại đấy, Thế Tôn
gọi các Tỷ-kheo:
- Này các Tỷ-kheo.
- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn, Thế Tôn nói như sau:
- Này các Tỷ-kheo, Ta thuyết pháp với thắng trí, không phải với không
thắng trí. Này các Tỷ-kheo, Ta thuyết pháp với nhân duyên, không phải
với không nhân duyên. Này các Tỷ-kheo, Ta thuyết pháp với thần thông,
không phải với không thần thông. Này các Tỷ-kheo, do vì Ta thuyết pháp
có thắng trí, không phải với không thắng trí; do vì Ta thuyết pháp có
nhân duyên, không phải không có nhân duyên; do vì Ta thuyết pháp có thần
thông, không phải không có thần thông, nên giáo giới cần phải làm,
giảng dạy cần phải làm.
Thật là vừa đủ, này các Tỷ-kheo, để các Thầy bằng lòng. Thật là vừa
đủ để các Thầy hân hoan. Thật là vừa đủ để các Thầy hoan hỷ, Chánh Ðẳng
Giác là Thế Tôn! Pháp được Thế Tôn khéo thuyết, khéo hành trì, chúng
Tăng!
Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Các Tỷ-kheo ấy hoan hỷ lời Thế Tôn
giảng. Trong khi lời thuyết giảng này được nói lên, một ngàn thế giới
đều rung động.
124.
Bharandu
1. Một thời, Thế Tôn đang du hành
giữa dân chúng Kosala và đi đến Kapilavatthu. Họ Thích Mahànàma nghe tin
Thế Tôn đã đến Kapilavatthu. Rồi họ Thích Mahànàma đi đến Thế Tôn; sau
khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi đứng một bên. Thế Tôn nói với họ Thích
Mahànàma đang đứng một bên:
- Hãy đi, này Mahànàma và tìm xem ở Kapilavatthu có chỗ nào, tại chỗ
ấy, hôm nay chúng ta sẽ trú lại một đêm.
- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Họ Thích Mahànàma vâng đáp Thế Tôn, đi vào Kapilavatthu, đi khắp toàn
vùng Kapilavatthu và không thấy một chỗ nào, Thế Tôn có thể trú một
đêm. Rồi họ Thích Mahànàma đi đến Thế Tôn, sau khi đến bạch Thế Tôn:
2. - Bạch Thế Tôn, ở Kapilavatthu
không có chỗ nào, tại đây, hôm nay Thế Tôn có thể trú một đêm. Nhưng có
Bharandu, người Kàlàmà này, trước tu Phạm hạnh với Thế Tôn. Hôm nay, Thế
Tôn hãy ở một đêm tại am thất của vị ấy.
- Này Mahànàma, hãy đi và trải một tấm thảm cho ta ở đó.
- Thua vâng, bạch Thế Tôn.
Họ Thích Mahànàma vâng đáp Thế Tôn, đi đến am thất của Bharandu người
Kàlàmà, sau khi đến, trải tấm thảm, đặt nước để rửa chân, rồi đi đến
Thế Tôn, sau khi đến, bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, tấm thảm đã trải, nước để rửa chân đã sẵn sàng, bạch
Thế Tôn, nay Thế Tôn hãy làm gì Ngài nghĩ là phải thời!
3. Rồi Thế Tôn đi đến am thất của
Bharandu người Kàlàmà, sau khi đến, ngồi xuống chỗ đã soạn sẵn. Sau khi
ngồi, Thế Tôn rửa chân.
Rồi họ Thích Mahànàma nghĩ như sau: "Nay không phải thời để hầu hạ
Thế Tôn. Thế Tôn đang mệt mỏi. Ngày mai ta sẽ đến hầu hạ Thế Tôn". Nghĩ
vậy xong bèn đảnh lễ Thế Tôn, thân phía hữu hướng về ngài rồi đi ra.
Họ Thích Mahànàma, sau khi đêm ấy đã mãn, đi đến Thế Tôn, sau khi
đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Thế Tôn nói với họ Thích
Mahànàma đang ngồi một bên:
4. - Này Mahànàma, có ba vị đạo sư
có mặt, xuất hiện ở đời. Thế nào là ba?
Ở đây, này Mahànàma, có vị đạo sư trình bày sự biến tri của các dục
vọng, nhưng không trình bày sự biến tri của các sắc, không trình bày sự
biến tri của các cảm thọ. Ở đây, này Mahànàma, có vị đạo sư trình bày sự
biến tri của các dục vọng, trình bày sự biến tri của các sắc, nhưng
không trình bày sự biến tri của các cảm thọ. Nhưng ở đây, này Mahànàma,
có vị đạo sư trình bày sự biến tri của các dục vọng, trình bày sự biến
tri của các sắc, trình bày sự biến tri của các cảm thọ. Này Mahànàma, có
ba vị đạo sư này có mặt, xuất hiện ở đời. Trong ba vị này, này
Mahànàma, kết luận là một hay là sai khác?
5. Khi được nói như vậy, Bharandu,
người Kàlàmà, nói với họ Thích Mahànàma:
- Này Mahànàma, hãy nói là một.
Khi nghe nói vậy, Thế Tôn nói với họ Thích Mahànàma:
-
Này Mahànàma, hãy nói là khác.
Lần thứ hai, Brahandu, người Kàlàmà nói với họ Thích Mahànàma:
- Này Mahànàma, hãy nói là một.
Lần thứ hai, Thế Tôn nói với họ Thích Mahànàma:
-
Này Mahànàma, hãy nói là khác.
Lần thứ ba Brahandu, người Kàlàmà nói với họ Thích Mahànàma:
- Này Mahànàma, hãy nói là một.
Lần thứ ba, Thế Tôn nói với họ Thích Mahànàma:
-
Này Mahànàma, hãy nói là khác.
6. Rồi Bharandu, người Kàlàmà suy
nghĩ như sau: "Trước mặt họ Thích Mahànàma có thế lực lớn này, ta bị
Sa-môn Gotama nói trái ngược cho đến lần thứ ba. Vậy ta hãy rời khỏi
Kapilavatthu".
Rồi Bharandu người Kàlàmà đi ra khỏi Kapilavatthu, một sự ra đi khỏi
Kapilavatthu, không bao giờ có trở lại nữa.
125.-
Hatthaka
1. Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi,
tại Jetanava, khu vườn của Anàthapindika.
Rồi Thiên tử Hatthaka, sau khi đêm đã gần tàn, với dung sắc thù thắng
chói sáng toàn vùng Jetanava đi đến Thế Tôn. Sau khi đến, vị ấy nghĩ:
"Ta sẽ đứng thẳng trước Thế Tôn", nhưng vị ấy chìm xuống, lún xuống,
không có thể đứng thẳng; ví như thục tô hay dầu đổ trên cát, chìm xuống,
lún xuống, không thể giữ lại. Cũng vậy, Thiên tử Hatthaka nghĩ rằng:
"Ta sẽ đứng thẳng trước mặt Thế Tôn", nhưng vị ấy chìm xuống, lún xuống,
không thể đứng thẳng.
2. Rồi Thế Tôn nói với Thiên tử
Hatthaka:
- Này Hatthaka, hãy hóa thành một tự thể thô xấu.
- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Thiên tử Hatthaka vâng đáp Thế Tôn sau khi hóa thành một tự thể thô
xấu, đảnh lễ Thế Tôn rồi đứng một bên. Thế Tôn nói với Thiên tử Hatthaka
đang đứng một bên:
- Này Hatthaka, các pháp được diễn tiến trước kia, khi Ông còn làm
người, các pháp ấy được diễn tiến hiện nay đối với Ông không?
- Bạch Thế Tôn, các pháp được diễn tiến trước kia, khi con còn làm
người, các pháp ấy có được diễn tiến hiện nay với con. Và bạch Thế Tôn,
có các pháp không được diễn tiến trước kia, khi con còn làm người, các
pháp ấy có được diễn tiến hiện nay đối với con. Ví như, bạch Thế Tôn,
nay Thế Tôn sống, được các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ni, nam cư sĩ, nữ cư sĩ, các
vua chúa, các đại thần của vua, các ngoại đạo, các đệ tử ngoại đạo
đoanh vây. Cũng vậy, bạch Thế Tôn, con sống được các Thiên tử đoanh vây.
Từ xa, bạch Thế Tôn, các Thiên tử đi đến, nghĩ rằng: "Chúng ta hãy đến
nghe pháp từ Thiên tử Hatthaka".
Có ba pháp, bạch Thế Tôn, con cảm thấy không bao giờ vừa đủ, con chết
con vẫn còn ân hận luyến tiếc. Thế nào là ba?
Bạch Thế Tôn, con cảm thấy không bao giờ vừa đủ được thấy Thế Tôn,
con chết con vẫn còn ân hận luyến tiếc. Bạch Thế Tôn, con cảm thấy không
bao giờ vừa đủ được nghe Diệu pháp, con chết con vẫn còn ân hận luyến
tiếc. Bạch Thế Tôn, con cảm thấy không bao giờ được phục vụ hầu hạ chúng
Tăng, con chết con vẫn còn ân hận luyến tiếc.
Có ba pháp này, bạch Thế Tôn, con cảm thấy không bao giờ vừa đủ. Con
chết con vẫn còn ân hận luyến tiếc.
Con thấy không vừa đủ
Khi được gặp Thế Tôn
Ðược phục vụ chúng Tăng
Ðược lắng nghe Diệu pháp
Học tập tăng thượng giới
Thích thú nghe Diệu pháp
Do đối với ba pháp
Cảm thấy không vừa đủ
Thiên tử Hatthaka
Ðược sanh vô phiền thiên
126.- Thối Nát.
1. Một thời, Thế Tôn trú ở Bàrànasi,
tại Isipatana vườn Nai
Rồi Thế Tôn vào buổi sáng đắp y, cầm y bát, đi vào Ba-la-nại để khất
thực. Thế Tôn, trong khi đi khất thực tại Goyogapilakkha, gần cây sung,
chỗ cột đàn bò, thấy một Tỷ-kheo hưởng thọ hương vị trống không, không
có Thiền định, hưởng thọ hương vị hướng ngoại của vật dục, thất niệm,
không tỉnh giác, không định tĩnh, với tâm tán loạn, với các căn phóng
túng. Thấy vậy, Thế Tôn liền nói với vị Tỷ-kheo ấy:
- Này Tỷ-kheo, này Tỷ-kheo! Thầy chớ có làm cho tự ngã trở thành thối
nát. Này Tỷ-kheo, ai làm cho tự ngã thối nát đầy ứ, thoát ra toàn mùi
hôi thối, rồi mong rằng các loài ruồi lằng sẽ không bu đậu, sẽ không có
chiếm cứ, sự kiện như vậy không xảy ra.
2. Tỷ-kheo ấy được Thế Tôn giáo giới
với lời giáo giới như vậy, cảm thấy xúc động mạnh. Rồi Thế Tôn, sau khi
đi khất thực ở Ba-la-nại xong, sau bữa ăn, sau khi đi khất thực trở về,
bảo các Tỷ-kheo:
- Này các Tỷ-kheo, ở đâ y, sau khi đắp y vào buổi sáng, Ta cầm lấy y
bát, đi vào Ba-la-nại để khất thực. Này các Tỷ-kheo, trong khi đi khất
thực tại Goyogapilakkha, Ta thấy một Tỷ-kheo hưởng thọ hương vị trống
không, không có Thiền định, hưởng thọ hương vị hướng ngoại của vật dục,
thất niệm, không tỉnh giác, không định tĩnh, với tâm tán loạn, với các
căn phóng túng. Thấy vậy, Ta liền nói với vị Tỷ-kheo ấy: "Này Tỷ-kheo,
này Tỷ-kheo! Thầy chớ có làm cho tự ngã trở thành thối nát. Này Tỷ-kheo,
ai làm cho tự ngã thối nát đầy ứ, thoát ra toàn mùi hôi thối, rồi mong
rằng: "Các loài ruồi lằng sẽ không bu đậu, sẽ không có chiếm cứ, sự kiện
như vậy không xảy ra"".
Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy được ta giáo giới với lời giáo giới này,
cảm thấy xúc động mạnh.
3. Khi nghe nói như vậy, một Tỷ-kheo
bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, thối nát cái gì, mùi hôi thối cái gì, các loài rồi
lằng là gì?
- Tham cầu, này các Tỷ-kheo, là thối nát; sân là mùi hôi thối, các
suy tầm ác bất thiện là ruồi lằng. Này các Tỷ-kheo, ai làm cho các tự
ngã thối nát, đầy ứ, thoát ra mùi hôi thối, rồi mong rằng: "Các loài
ruồi lằng sẽ không bu đậu, sẽ không chiếm cứ", sự kiện như vậy không xảy
ra.
Tai mắt không giữ gìn
Các căn không phòng hộ
Ruồi lằng sẽ bu đậu
Các tư duy tham ái
Tỷ-kheo làm thối nát
Ðầy ứ những mùi hôi
Xa thay là Niết-bàn!
Chịu phần về bất hạnh
Tại làng hay trong rừng
Tự ngã không an tịnh
Kẻ ngu và không trí
Ði đứng đầy ruồi lằng
Ai đầy đủ giới luật
Thích tịch tịnh trí tuệ
Sống an tịnh hạnh phúc
Mọi ruồi lằng diệt trừ
127.
Anuruddha (1)
1. Rồi Tôn giả Anuruddha đi đến Thế
Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một
bên, Tôn giả Anuruddha bạch Thế Tôn:
- Ở đây, bạch Thế Tôn, với thiên nhãn thanh tịnh siêu nhân, con thấy
phần lớn các nữ nhân, sau khi thân hoại mạng chung, phải sanh vào cõi
dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Do đầy đủ với bao nhiêu pháp, bạch Thế
Tôn, các nữ nhân, sau khi thân hoại mạng chung, phải sanh vào cõi dữ, ác
thú, đọa xứ, địa ngục?
2. - Do đầy đủ ba pháp, này
Anuruddha, các nữ nhân, sau khi thân hoại mạng chung, phải sanh vào cõi
dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Thế nào là ba?
Ở đây, này Anuruddha, nữ nhân vào buổi sáng sống ở trong nhà, tâm bị
ám ảnh bởi cấu uế của xan lẫn; vào buổi trưa sống ở trong nhà, tâm bị ám
ảnh bởi cấu uế của tật đố; vào buổi chiều sống ở trong nhà, tâm bị ám
ảnh cấu uế của dục tham. Do đầy đủ với ba pháp này, này Anuruddha các nữ
nhân, sau khi thân hoại mạng chung, phải sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa
xứ, địa ngục.
128.-
Anuruddha (2)
1. Rồi Tôn giả Anuruddha đi đến Tôn
giả Sàriputta, sau khi đến, nói lên với Tôn giả Sàriputta những lời chào
đón hỏi thăm thân hữu rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Tôn
giả Anuruddha nói với Tôn giả Sàriputta:
- Thưa Tôn giả Sàriputta, với thiên nhãn thanh tịnh siêu nhiên, tôi
có thể nhìn một ngàn thế giới. Phấn chấn là tinh tấn của tôi; không có
thụ động, niệm được an trú, không có thất niệm; tâm được khinh an, không
có cuồng nhiệt; tâm được định tĩnh nhất tâm. Tuy vậy, tâm của tôi chưa
được giải thoát khỏi các lậu hoặc, không có không chấp thủ.
2. Này Hiền giả Anuruddha, Hiền giả
suy nghĩ như sau: "Với thiên nhãn thanh tịnh siêu nhânn, tôi có thể nhìn
một ngàn thế giới". Ðây là kiêu mạn của Hiền giả. Này Hiền giả
Anuruddha, nếu Hiền giả suy nghĩ như sau: "Phấn chấn là tinh tấn của
tôi; không có thụ động, niệm được an trú, không có thất niệm; tâm được
khinh an, không có cuồng nhiệt; tâm được định tĩnh nhất tâm", đây là
trạo cử của Hiền giả. Này Hiền giả Anuruddha, Hiền giả suy nghĩ như sau:
"Tuy vậy, tâm của tôi chưa được giải thoát khỏi các lậu hoặc, không có
không chấp thủ"; đây là hối quá của Hiền giả. Lành thay, nếu Tôn giả
Anuruddha đoạn trừ ba pháp này, không tác ý ba pháp này, hãy chú tâm vào
giới bất tử.
3. Rồi Tôn giả Anuruddha, sau môt
thời gian, sau khi đoạn trừ ba pháp này, sau khi không tác ý ba pháp
này, chú tâm vào giới bất tử. Rồi Tôn giả Anuruddha sống một mình, an
tịnh, không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, không bao lâu đạt được mục
đích mà một thiện nam tử chơn chánh xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không
gia đình. Chính là vô thượng cứu cánh Phạm hạnh, ngay trong hiện tại,
tự mình với thắng trí, sau khi chứng ngộ, chứng đạt, vị ấy an trú. Vị ấy
chứng tri: "Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, các việc nên làm đã làm,
không còn trở lui trạng thái này nữa. Tôn giả Anuruddha trở thành một vị
A-la-hán nữa.
129.- Che Giấu
1. - Này các Tỷ-kheo, có ba pháp này
được che giấu khi thực hành, không có hiển lộ. Thế nào là ba?
Sở hành của nữ nhân, này các Tỷ-kheo, được che dấu khi thực hành,
không có hiển lộ. Chú thuật của Bà-la-môn, này các Tỷ-kheo, được che dấu
khi thực hành, không có hiển lộ. Tà kiến, này các Tỷ-kheo, được che dấu
khi thực hành, không có hiển lộ. Ba pháp này, này các Tỷ-kheo, được che
giấu khi thực hành, không có hiển lộ.
2. Này các Tỷ-kheo, ba pháp này chói
sáng, được hiển lộ, không có che giấu. Vành tròn của mặt trăng, này các
Tỷ-kheo, chói sáng, được hiển lộ, không có che giấu. Vành tròn của mặt
trời, này các Tỷ-kheo, chói sáng, được hiển lộ, không có che giấu. Pháp
và Luật được Thế Tôn tuyên thuyết, này các Tỷ-kheo, chói sáng, được hiển
lộ, không có che giấu. Ba pháp này chói sáng, được hiển lộ, không có
che giấu.
130.- Chữ Viết Trên Ðá, Trên Ðất, Trên Nước.
1. - Ba hạng người này, này các
Tỷ-kheo, có mặt, xuất hiện ở đời. Thế nào là ba? Hạng người như chữ viết
trên đá, hạng người như chữ viết trên đất, hạng người như chữ viết trên
nước.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hạng người như chữ viết trên đá?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người luôn luôn phẫn nộ và phẫn nộ của
người này tiếp tục lâu dài. Này các Tỷ-kheo, ví như chữ viết trên đá
không bị gió hay nước tẩy xóa mau chóng, được tồn tại lâu dài. Cũng vậy,
này các Tỷ-kheo, ở đây có người luôn luôn phẫn nộ và phẫn nộ của người
này tiếp tục lâu dài. Này các Tỷ-kheo, đây được gọi là hạng người như
chữ được viết trên đá.
2. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
hạng người như chữ viết trên đất?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người luôn luôn phẫn nộ và phẫn nộ của
người này không tiếp tục lâu dài. Này các Tỷ-kheo, ví như chữ viết trên
đất bị gió hay nước tẩy xóa mau chóng, không có tồn tại lâu dài. Cũng
vậy, này các Tỷ-kheo, ở đây có người luôn luôn phẫn nộ và phẫn nộ của
người này không có tiếp tục lâu dài. Này các Tỷ-kheo, đây được gọi là
hạng người như chữ được viết trên đất.
3. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
hạng người như chữ viết trên nước?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người dầu bị nói một cách kịch liệt, dầu
có bị nói một cách ác độc, dầu có bị nói một cách thô lỗ, tuy vậy vẫn dễ
dàng hòa hợp, thân thiện, và hoan hỷ. Này các Tỷ-kheo, ví như chữ viết
trên nước được mau chóng biến mất, không có tồn tại lâu dài. Cũng vậy,
này các Tỷ-kheo, có người dầu bị nói một cách kịch liệt, dầu có bị nói
một cách ác độc, dầu có bị nói một cách thô lỗ, tuy vậy vẫn dễ dàng hòa
hợp, thân thiện, và hoan hỷ. Này các Tỷ-kheo, đây được gọi là hạng người
như chữ được viết trên nước.
Ba hạng người này, này các Tỷ-kheo, có mặt, xuất hiện ở đời
XIV. Phẩm Kẻ Chiến Sĩ
131.- Kẻ Chiến Sĩ
1.
- Ðầy đủ ba đức tánh, này các Tỷ-kheo,
một kẻ chiến sĩ xứng đáng cho vua sử dụng, thuộc sở hữu của vua, là biểu
tượng của vua.
Ở đây, này các Tỷ-kheo, kẽ chiến sĩ là người bắn xa, bắn như chớp
nhoáng và đâm thủng được vật lớn. Ðầy đủ ba đức tánh này, này các
Tỷ-kheo, một kẻ chiến sĩ xứng đáng cho vua sử dụng, thuộc sở hữu của
vua, là biểu tượng của vua.
2. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, đầy đủ
ba đức tánh, Tỷ-kheo đáng được cung kính, đáng được tôn trọng, đáng
được cúng dường, đáng được chắp tay, là ruộng phước vô thượng ở đời. Thế
nào là ba?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo là kẻ bắn xa, bắn như chớp nhoáng và
đâm thủng được vật to lớn.
3. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
Tỷ-kheo bắn xa?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo phàm có sắc gì, quá khứ, vị lai, hiện
tại, hoặc nội hay ngoại, hoặc thô hay tế, hoặc liệt hay thắng, hoặc xa
hay gần, tất cả sắc, vị ấy thấy như thật với chánh trí tuệ rằng: "Cái
này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự
ngã của tôi".
Phàm có cảm thọ gì, quá khứ, vị lai, hiện tại, hoặc nội hay ngoại,
hoặc thô hay tế, hoặc liệt hay thắng, hoặc xa hay gần, tất cả cảm thọ,
vị ấy thấy như thật với chánh trí tuệ rằng: "Cái này không phải của tôi,
cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi".
Phàm có tưởng gì, quá khứ, vị lai, hiện tại, hoặc nội hay ngoại, hoặc
thô hay tế, hoặc liệt hay thắng, hoặc xa hay gần, tất cả tưởng, vị ấy
thấy như thật với chánh trí tuệ rằng: "Cái này không phải của tôi, cái
này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi".
Phàm có các hành gì, quá khứ, vị lai, hiện tại, hoặc nội hay ngoại,
hoặc thô hay tế, hoặc liệt hay thắng, hoặc xa hay gần, tất cả các hành,
vị ấy thấy như thật với chánh trí tuệ rằng: "Cái này không phải của tôi,
cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi".
Phàm có thức gì, quá khứ, vị lai, hiện tại, hoặc nội hay ngoại, hoặc
thô hay tế, hoặc liệt hay thắng, hoặc xa hay gần, tất cả các thức, vị ấy
thấy như thật với chánh trí tuệ rằng: "Cái này không phải của tôi, cái
này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi".
4. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
Tỷ-kheo bắn như chớp nhoáng?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo như thật tuệ tri: "Ðây là khổ", như
thật tuệ tri: "Ðây là khổ tập"; như thật tuệ tri: "Ðây là khổ diệt"; như
thật tuệ tri: "Ðây là con đường đưa đến khổ diệt"; Như vậy, này các
Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo bắn như chớp nhoáng.
5. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
Tỷ-kheo đâm thủng vật to lớn?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đâm thủng vô minh uẩn to lớn. Như
vậy, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo đâm thủng vật to lớn. Ðầy đủ ba đức
tánh này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đáng được cung kính, đáng được tôn
trọng, đáng được cúng dường, đáng được chắp tay, là ruộng phước vô
thượng ở đời.
132 .- Hội Chúng
- Này các Tỷ-kheo, có ba hội chúng này. Thế nào là ba?
Hội chúng điêu luyện về khoa trương, hội chúng điêu luyện về chất
vấn, hội chúng điêu luyện về tùy theo sở thích. Này các Tỷ-kheo, có ba
hội chúng này.
133.- Bạn
- Này các Tỷ-kheo, có đầy đủ ba đức tánh, một người bạn cần được thân
cận. Thế nào là ba?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo cho điều khó cho, làm điều khó làm,
nhẫn điều khó nhẫn. Này các Tỷ-kheo, đầy đủ ba đức tánh, một người bạn
cần được thân cận.
134.- Xuất Hiện
1. - Này các Tỷ-kheo, dầu các Như
Lai có xuất hiện hay không xuất hiện, vẫn được an trú là pháp trú tánh
của giới ấy, là pháp quyết định tánh, tức là: "Tất cả các hành là vô
thường". Vấn đề này, Như Lai chánh giác tri, chánh giác ngộ, sau khi
chánh giác tri, chánh giác ngộ, Như Lai tuyên bố, thuyết giảng, tuyên
thuyết, xác nhận, khai thị, phân biệt, hiển thị: "Tất cả các hành là vô
thường".
2. Này các Tỷ-kheo, dầu các Như Lai
có xuất hiện hay không xuất hiện, vẫn được an trú là pháp trú tánh của
giới ấy, là pháp quyết định tánh, tức là: "Tất cả các hành là khổ". Về
vấn đề này, Như Lai chánh giác tri, chánh giác ngộ, sau khi chánh giác
tri, chánh giác ngộ, Như Lai tuyên bố, thuyết giảng, tuyên thuyết, xác
nhận, khai thị, phân biệt, hiển thị: "Tất cả các hành là khổ".
3. Này các Tỷ-kheo, dầu các Như Lai
có xuất hiện hay không xuất hiện, vẫn được an trú là pháp trú tánh của
giới ấy, là pháp quyết định tánh, tức là: "Tất cả các pháp là vô ngã".
Về vấn đề này, Như Lai chánh giác tri, chánh giác ngộ. Sau khi chánh
giác tri, chánh giác ngộ, Như Lai tuyên bố, thuyết giảng, tuyên thuyết,
xác nhận, khai thị, phân biệt, hiển thị: "Tất cả các pháp là vô ngã".
135.- Mền Bằng Tóc.
1. - Ví như, này các Tỷ-kheo, trong
tất cả loại vải được dệt, mền được dệt bằng tóc được xem là hạ liệt
nhất. Mền được dệt bằng tóc, này các Tỷ-kheo, khi trời lạnh thì lạnh,
khi trời nóng thì nóng, xấu xí, có mùi hôi, xúc chạm khó chịu. Cũng vậy,
này các Tỷ-kheo, trong các chủ thuyết của các Sa-môn ngoại đạo tuyên
bố, chủ thuyết của Makkhali được xem là hèn hạ nhất. Này các Tỷ-kheo,
Makkhali, kẻ ngu si có thuyết như sau; có kiến như sau:"Không có nghiệp,
không có nghiệp quả, không có tinh tấn".
2. Này các Tỷ-kheo, những ai là các
vị A-la-hán trong thời quá khứ, các vị Chánh Ðẳng Giác, các bậc Thế Tôn;
các vị ấy đều chủ trương có nghiệp, đều chủ trương có nghiệp quả, đều
chủ trương có tinh tấn. Nhưng này các Tỷ-kheo, chỉ có Makkhali, kẻ ngu
si nói phản lại tất cả: "Không có nghiệp, không có nghiệp quả, không có
tinh tấn".
3. Này các Tỷ-kheo, những ai là các
vị A-la-hán trong thời vị lai, các vị Chánh Ðẳng Giác, các bậc Thế Tôn;
các vị ấy đều chủ trương có nghiệp, đều chủ trương có nghiệp quả, đều
chủ trương có tinh tấn. Nhưng này các Tỷ-kheo, chỉ có Makkhali, kẻ ngu
si nói phản lại tất cả: "Không có nghiệp, không có nghiệp quả, không có
tinh tấn".
Còn Ta, này các Tỷ-kheo, nay là bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác cũng
chủ trương có nghiệp, chủ trương có nghiệp quả, chủ trương có tinh tấn.
Nhưng này các Tỷ-kheo, chỉ có Makkhali, kẻ ngu si nói phản lại tất cả:
"Không có nghiệp, không có nghiệp quả, không có tinh tấn".
5. Ví như, này các Tỷ-kheo, tại cửa
sông, có người đặt một cái sập bẫy cá đem đến bất hạnh, đau khổ, tổn
hại, nguy hại cho các loại cá. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, Makkhali, kẻ
ngu si xuất hiện ở đời như cái bẫy sập người, đem lại bất hạnh, đau khổ,
tổn hại, nguy hại cho nhiều loài hữu tình.
136.- Thành Tựu Tăng Trưởng
- Này các Tỷ-kheo, có ba sự thành tựu này. Thế nào là ba?
Thành tựu về tín, thành tựu về giới, thành tựu về tuệ. Này các
Tỷ-kheo, các pháp này là ba sự thành tựu.
Này các Tỷ-kheo, có ba sự tăng trưởng. Thế nào là ba?
Tăng trưởng về tín, tăng trưởng về giới, tăng trưởng về tuệ. Này các
Tỷ-kheo, ba pháp này là ba tăng trưởng.
137.- Ngựa Chưa Ðược Ðiều Phục
1. - Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ giảng về
ba loại ngựa chưa được điều phục và Ta sẽ giảng về ba hạng người chưa
được điều phục. Hãy lắng nghe và khéo tác ý, Ta sẽ nói.
- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn, Thế Tôn nói như sau:
- Và này các Tỷ-kheo, thế nào là ba loại ngựa chưa được điều phục?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có loại ngựa chưa được điều phục, có tốc lực,
nhưng không có sắc đẹp, không có cân đối: bề cao, chu vi, bề ngoài.
Nhưng ở đây, này các Tỷ kheo, có loại ngựa chưa được điều phục, có tốc
lực, có sắc đẹp, nhưng không có cân đối. Nhưng ở đây, này các Tỷ-kheo,
có loại ngựa chưa được điều phục, có tốc lực, có sắc đẹp, và cân đối. Ba
loại này, này các Tỷ-kheo, là ba loại ngựa chưa được điều phục.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là ba hạng người chưa được điều phục?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng người chưa được điều phục, có tốc
lực, nhưng không có sắc đẹp, không có cân đối. Nhưng ở đây, có hạng
người chưa được điều phục, có tốc lực, có sắc đẹp, nhưng không có cân
đối. Nhưng ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng người chưa được điều phục, có
tốc lực, có sắc đẹp, và cân đối. Ba loại này, này các Tỷ-kheo, là ba
hạng người chưa được điều phục.
2. Thế nào, này các Tỷ-kheo, là hạng
người chưa được điều phục, có tốc lực, nhưng không có sắc đẹp, không có
cân đối?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo như thật rõ biết: "Ðây là khổ"; như
thật rõ biết: "Ðây là khổ tập"; như thật rõ biết: "Ðây là khổ diệt"; như
thật rõ biết: "Ðây là con đường đưa đến khổ diệt". Ðây Ta nói trong
nghĩa có tốc lực. Nhưng khi được hỏi về thắng pháp thắng luật, vị ấy lại
ngập ngừng không có trả lời. Ðây Ta nói trong nghĩa không có sắc đẹp.
Vị ấy không có nhận được các đồ tư dụng, như y áo, đồ ăn khất thực, sàng
tọa, dược phẩm trị bệnh. Ðây Ta nói trong nghĩa không có cân đối. Như
vậy, này các Tỷ-kheo, là người chưa có điều phục, có tốc lực, nhưng
không có sắc đẹp, không có cân đối.
3. Như thế nào, này các Tỷ-kheo, là
hạng người chưa được điều phục, có tốc lực, có sắc đẹp, nhưng không cân
đối?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo như thật rõ biết: "Ðây là khổ"; như
thật rõ biết: "Ðây là khổ tập"; như thật rõ biết: "Ðây là khổ diệt"; như
thật rõ biết: "Ðây là con đường đưa đến khổ diệt". Ðây Ta nói trong
nghĩa có tốc lực. Nhưng khi được hỏi về thắng pháp thắng luật, vị ấy trả
lời là không có ngập ngừng. Ðây Ta nói trong nghĩa có sắc đẹp. Vị ấy
không có nhận được các đồ tư dụng, như y áo, đồ ăn khất thực, sàng tọa,
dược phẩm trị bệnh. Ðây Ta nói trong nghĩa không có cân đối. Như vậy,
này các Tỷ-kheo, là người chưa có điều phục, có tốc lực, có sắc đẹp,
nhưng không có cân đối.
4. Như thế nào, này các Tỷ-kheo, là
hạng người chưa được điều phục, có tốc lực, có sắc đẹp, có cân đối?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo như thật rõ biết: "Ðây là khổ"; như
thật rõ biết: "Ðây là khổ tập"; như thật rõ biết: "Ðây là khổ diệt"; như
thật rõ biết: "Ðây là con đường đưa đến khổ diệt". Ðây Ta nói trong
nghĩa có tốc lực. Nhưng khi được hỏi về thắng pháp thắng luật, vị ấy
liền trả lời không có ngập ngừng. Ðây Ta nói trong nghĩa có sắc đẹp. Vị
ấy có nhận được các đồ tư dụng, như y áo, đồ ăn khất thực, sàng tọa,
dược phẩm trị bệnh. Ðây Ta nói trong nghĩa có cân đối. Như vậy, này các
Tỷ-kheo, là người chưa có điều phục, có tốc lực, có sắc đẹp, có cân đối.
Những hạng người này, này các Tỷ-kheo, là ba hạng người chưa có cân
đối.
138.- Ngựa Ðược Ðiều Phục
1. - Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ giảng về
ba loại ngựa được điều phục và Ta sẽ giảng về ba hạng người chưa được
điều phục. Hãy lắng nghe và khéo tác ý, Ta sẽ nói.
- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn, Thế Tôn nói như sau:
- Và này các Tỷ-kheo, thế nào là ba loại ngựa được điều phục?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có loại ngựa được điều phục, có tốc lực,
nhưng không có sắc đẹp, không có cân đối. Nhưng ở đây, này các Tỷ kheo,
có loại ngựa được điều phục, có tốc lực, có sắc đẹp, nhưng không có cân
đối. Nhưng ở đây, này các Tỷ-kheo, có loại ngựa được điều phục, có tốc
lực, có sắc đẹp, và cân đối. Ba loại này, này các Tỷ-kheo, là ba loại
ngựa được điều phục.
2. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là ba
hạng người được điều phục?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng người được điều phục, có tốc lực,
nhưng không có sắc đẹp, không có cân đối. Nhưng ở đây, này các Tỷ kheo,
có hạng người được điều phục, có tốc lực, có sắc đẹp, nhưng không có cân
đối. Nhưng ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng người được điều phục, có tốc
lực, có sắc đẹp, và cân đối. Ba loại này, này các Tỷ-kheo, là ba hạng
người chưa được điều phục.
3. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
hạng người được điều phục, có tốc lực, người không có sắc đẹp, không có
cân đối?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo do đoạn diệt năm hạ phần kiết sử,
được hóa sanh, tại đấy được nhập Niết-bàn, không còn phải trở lui đời ấy
nữa. Ðây Ta nói trong nghĩa có tốc lực. Nhưng khi được hỏi về thắng
pháp thắng luật, vị ấy ngập ngừng, vị ấy không có trả lời. Ðây Ta nói
trong nghĩa không có sắc đẹp. Vị ấy không nhận được các đồ tư dụng, như y
áo, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh. Ðây Ta nói trong
nghĩa không có cân đối. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là hạng người được
điều phục, có tốc lực, nhưng không có sắc đẹp, không có cân đối.
4. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
hạng người được điều phục, có tốc lực, có sắc đẹp, nhưng không có cân
đối?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo do đoạn diệt năm hạ phần kiết sử,
được hóa sanh, tại đấy được nhập Niết-bàn, không còn phải trở lui đời ấy
nữa. Ðây Ta nói trong nghĩa có tốc lực. Nhưng khi được hỏi về thắng
pháp thắng luật, vị ấy trả lời không có ngập ngừng. Ðây Ta nói trong
nghĩa có sắc đẹp. Vị ấy không nhận được các đồ tư dụng, như y áo, đồ ăn
khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh. Ðây Ta nói trong nghĩa không có
cân đối. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là hạng người được điều phục, có tốc
lực, có sắc đẹp, nhưng không có cân đối.
5. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
hạng người được điều phục, có tốc lực, có sắc đẹp, có cân đối?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo do đoạn diệt năm hạ phần kiết sử,
được hóa sanh, tại đấy được nhập Niết-bàn, không còn phải trở lui đời ấy
nữa. Ðây Ta nói trong nghĩa có tốc lực. Nhưng khi được hỏi về thắng
pháp thắng luật, vị ấy trả lời không có ngập ngừng. Ðây Ta nói trong
nghĩa có sắc đẹp. Vị ấy nhận được các đồ tư dụng, như y áo, đồ ăn khất
thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh. Ðây Ta nói trong nghĩa có cân đối.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, là hạng người được điều phục, có tốc lực, có
sắc đẹp, có cân đối.
Những hạng người này, này các Tỷ-kheo, là ba hạng người được điều
phục.
139. Các Loại Ngựa Thuần Thục.
1. - Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ thuyết
giảng về ba loại ngựa hiền thiện, thuần thục, ba hạng người hiền thiện,
thuần thục. Hãy nghe và khéo tác ý, Ta sẽ nói.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là ba loại ngựa hiền thiện, thuần thục?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có loại ngựa hiền thiện, thuần thục, có tốc
lực, nhưng không có sắc đẹp, không có cân đối. Ở đây, này các Tỷ-kheo,
thuần thục, có loại ngựa hiền thiện, thuần thục có tốc lực, có sắc đẹp,
nhưng không có cân đối. Ở đây, này các Tỷ-kheo, có loại ngựa hiền thiện,
có tốc lực, có sắc đẹp, có cân đối. Những loại này, này các Tỷ-kheo, là
ba loại ngựa hiền thiện, thuần thục.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là ba hạng người hiền thiện, thuần thục?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng người hiền thiện, thuần thục, có tốc
lực, nhưng không có sắc đẹp, không có cân đối. Ở đây, này các Tỷ-kheo,
có hạng người hiền thiện, thuần thục, có tốc lực, có sắc đẹp, nhưng
không có cân đối. Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng người hiền thiện,
thuần thục, có tốc lực, có sắc đẹp, có cân đối. Những hạng người này,
này các Tỷ-kheo, là ba hạng người hiền thiện, thuần thục.
2. Như thế nào, này các Tỷ-kheo, là
hạng người hiền thiện, thuần thục, có tốc lực, nhưng không có sắc đẹp,
không có cân đối?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo do đoạn diệt các lậu hoặc ngay trong
hiện tại, tự mình với thắng trí chứng ngộ, chứng đạt và an trú vô lậu
tâm giải thoát, tuệ giải thoát. Ðây Ta nói trong nghĩa có tốc lực. Khi
được hỏi về thắng pháp và thắng luật, vị ấy ngập ngừng không trả lời.
Ðây Ta nói trong nghĩa không có sắc đẹp. Vị ấy không nhận được các đồ tư
dụng, như y áo, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh. Ðây Ta
nói trong nghĩa không có cân đối. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là hạng
người hiền thiện, thần thục, có tốc lực, nhưng không có sắc đẹp, không
có cân đối.
3. Như thế nào, này các Tỷ-kheo, là
hạng người hiền thiện, thuần thục, có tốc lực, có sắc đẹp, nhưng không
có cân đối?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo do đoạn diệt các lậu hoặc ngay trong
hiện tại, tự mình với thắng trí chứng ngộ, chứng đạt và an trú vô lậu
tâm giải thoát, tuệ giải thoát. Ðây Ta nói trong nghĩa có tốc lực. Khi
được hỏi về thắng pháp và thắng luật, vị ấy liền trả lời không có ngập
ngừng. Ðây Ta nói trong nghĩa có sắc đẹp. Vị ấy không nhận được các đồ
tư dụng, như y áo, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh. Ðây Ta
nói trong nghĩa không có cân đối. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là hạng
người hiền thiện, thần thục, có tốc lực, có sắc đẹp, nhưng không có cân
đối.
4. Như thế nào, này các Tỷ-kheo, là
hạng người hiền thiện, thuần thục, có tốc lực, có sắc đẹp, có cân đối?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo do đoạn diệt các lậu hoặc ngay trong
hiện tại, tự mình với thắng trí chứng ngộ, chứng đạt và an trú vô lậu
tâm giải thoát, tuệ giải thoát. Ðây Ta nói trong nghĩa có tốc lực. Khi
được hỏi về thắng pháp và thắng luật, vị ấy trả lời không ngập ngừng.
Ðây Ta nói trong nghĩa có sắc đẹp. Vị ấy nhận được các đồ tư dụng, như y
áo, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh. Ðây Ta nói trong
nghĩa có cân đối. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là hạng người hiền thiện,
thần thục, có tốc lực, có sắc đẹp, có cân đối.
Ba hạng người này, này các Tỷ-kheo, là ba hạng người hiền thiện,
thuần thục.
140-
Morannivàpa
1. Một thời, Thế Tôn ở Ràjagaha tại
Moranivàpa. Tại đấy, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo:
- Này các Tỷ-kheo.
- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Các vị Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn, Thế Tôn nói như sau:
- Ðầy đủ ba pháp, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo đạt đến tột cùng tối
hảo, tột cùng an ổn khỏi các khổ ách, tột cùng Phạm hạnh, tột cùng cứu
cánh, tối thượng giữa chư Thiên và loài Người. Thế nào là ba? Với vô học
giới uẩn, với vô học định uẩn, với vô học tuệ uẩn, đầy đủ ba pháp này,
này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo là tột cùng tối hảo, tột cùng an ổn khỏi các
khổ ách, tột cùng Phạm hạnh, tột cùng cứu cánh, bậc tối thượng giữa chư
Thiên và loài Người.
2. Ðầy đủ với ba pháp này, này các
Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo là tột cùng tối hảo, tột cùng an ổn khỏi các khổ
ách, tột cùng Phạm hạnh, tột cùng cứu cánh, bậc tối thượng giữa chư
Thiên và loài Người. Thế nào là ba?
Với thần biến thần thông, với ký thuyết thần thông, với giáo giới
thần thông; đầy đủ với ba pháp này, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo là tột
cùng tối hảo, tột cùng an ổn khỏi các khổ ách, tột cùng Phạm hạnh, tột
cùng cứu cánh, bậc tối thượng giữa chư Thiên và loài Người
3. Ðầy đủ với ba pháp này, này các
Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo là tột cùng tối hảo, tột cùng an ổn khỏi các khổ
ách, tột cùng Phạm hạnh, tột cùng cứu cánh, bậc tối thượng giữa chư
Thiên và loài Người. Thế nào là ba?
Với chánh tri kiến, với chánh trí, với chánh giải thoát, đầy đủ với
ba pháp này, này các Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo là tột cùng tối hảo, tột cùng
an ổn khỏi các khổ ách, tột cùng Phạm hạnh, tột cùng cứu cánh, bậc tối
thượng giữa chư Thiên và loài Người.
XV. Phẩm Cát Tường
141.- Không Thiện
-
Ðầy đủ ba pháp này, này các Tỷ-kheo,
tương xứng như vậy, bị rơi vào địa ngục. Thế nào là ba?
Với thân làm không thiện, với lời nói không thiện, với ý nghĩ không
thiện, đầy đủ ba pháp này, này các Tỷ-kheo, tương xứng như vậy, bị rơi
vào địa ngục.
Ðầy đủ ba pháp, này các Tỷ-kheo, tương xứng như vậy, được sanh lên
cõi trời. Thế nào là ba?
Với thân làm thiện, với lời nói thiện, với ý nghĩ thiện, đầy đủ ba
pháp này, này các Tỷ-kheo, tương xứng như vậy, được sanh lên cõi trời.
142.- Có Phạm Tội
- Ðầy đủ ba pháp này, này các Tỷ-kheo, tương xứng như vậy, bị rơi vào
địa ngục. Thế nào là ba?
Với thân làm có tội, với lời nói có tội, với ý nghĩ có tội, đầy đủ ba
pháp này, này các Tỷ-kheo, tương xứng như vậy, bị rơi vào địa ngục.
Ðầy đủ ba pháp, này các Tỷ-kheo, tương xứng như vậy, được sanh lên
cõi trời. Thế nào là ba?
Với thân làm không có tội, với lời nói không có tội, với ý nghĩ không
có tội, đầy đủ ba pháp này, này các Tỷ-kheo, tương xứng như vậy, sanh
lên cõi Trời.
143.- Không Thăng Bằng
(Như kinh trên, chỉ khác là không thăng bằng và thăng bằng)
144.- Bất Tịnh
(Như kinh trên, chỉ khác là bất tịnh và tịnh)
145.- Mất Gốc (1)
- Ðầy đủ ba pháp này, này các Tỷ-kheo, kẻ ngu si, không thông minh,
không phải bậc Chân nhân, tự mình xử sự như kẻ mất gốc, bị thương tích,
có phạm tội, bị người trí quở trách, làm nhiều điều vô phước. Thế nào là
ba?
Với thân làm không thiện, với lời nói không thiện, với ý nghĩ không
thiện, đầy đủ ba pháp này, này các Tỷ-kheo, kẻ ngu si, không thông minh,
không phải bậc Chân nhân, tự mình xử sự như kẻ mất gốc, bị thương tích,
có phạm tội, bị người trí quở trách, làm nhiều điều vô phước.
Ðầy đủ ba pháp này, này các Tỷ-kheo, bậc Hiền sĩ thông minh, là bậc
Chân nhân, không tự mình xử sự như kẻ mất gốc, không bị thương tích,
không có phạm tội, không bị người trí quở trách, làm nhiều điều phước
lành. Thế nào là ba?
Với thân làm thiện, với lời nói thiện, với ý nghĩ thiện, đầy đủ ba
pháp này, này các Tỷ-kheo, bậc Hiền sĩ không thông minh, là bậc Chân
nhân, không tự mình xử sự như kẻ mất gốc, không bị thương tích, không có
phạm tội, không bị người trí quở trách, làm nhiều điều phước lành.
146.- Mất Gốc (2)
(Như kinh trên, chỉ khác là có phạm tội, không phạm tội) ...
147.- Mất Gốc (3)
(Như kinh trên, chỉ khác là có thăng bằng, không thăng bằng) ...
148.- Mất Gốc (4)
(Như kinh trên, chỉ khác là bất tịnh, và tịnh) ...
149.- Kính Lễ
- Này các Tỷ-kheo, có ba loại kính lễ này. Thế nào là ba?
Với thân, với lời nói, với ý, các pháp này, này các Tỷ-kheo, là ba
loại kính lễ.
150.- Buổi Sáng Tốt Ðẹp
- Các loại hữu tình nào, này các Tỷ-kheo, vào buổi sáng, thân làm
việc thiện, nói lời nói thiện, ý nghĩ điều thiện, các loài hữu tình ấy,
này các Tỷ-kheo, có một buổi sáng tốt đẹp. Các loại hữu tình nào, này
các Tỷ-kheo, vào buổi trưa, thân làm việc thiện, nói lời nói thiện, ý
nghĩ điều thiện, các loài hữu tình ấy, này các Tỷ-kheo, có một buổi trưa
tốt đẹp. Các loại hữu tình nào, này các Tỷ-kheo, vào buổi chiều, thân
làm việc thiện, nói lời nói thiện, ý nghĩ điều thiện, các loài hữu tình
ấy, này các Tỷ-kheo, có một buổi chiều tốt đẹp.
Vầng sao lành, điều lành
Rạng đông lành, dậy lành
Sát-na lành, thời lành
Cúng dường bậc Phạm hạnh
Thân nghiệp chánh, lời chánh
Ý nghiệp chánh, nguyện chánh
Làm các điều chơn chánh
Thì được lợi an lạc
Lớn mạnh trong Phật giáo
Hãy không bệnh an lạc
Cùng tất cả bà con.
XVI. Phẩm Lõa Thể
151.- Ðạo Lộ (1)
1.
- Này các Tỷ-kheo, có ba đạo lộ này. Thế
nào là ba? Thâm cố đạo lộ, kịch khổ đạo lộ, trung đạo lộ.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là thâm cố đạo lộ?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người nói như sau, thấy như sau: "Không có
tội lớn trong các dục vọng" và rơi vào say đắm trong các dục vọng. Này
các Tỷ-kheo, đây gọi là thâm cố đạo lộ.
2. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
kịch khổ đạo lộ?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người sống lõa thể, sống phóng túng, không
theo lễ nghi, liếm tay cho sạch, đi khất thực không chịu bước tới, đi
khất thực không chịu đứng lại, không nhận đồ ăn mang đến, không nhận đồ
ăn đặc biệt nấu cho mình, không nhận mời đi ăn, không nhận đồ ăn từ nơi
nồi chảo, không nhận đồ ăn từ ngưỡng cửa, không nhận đồ ăn đặt giữa
những cây gậy, không nhận đồ ăn đặt giữa những cối gĩa gạo, không nhận
đồ ăn từ hai người đang ăn, không nhận đồ ăn từ người đàn bà có thai,
không nhận đồ ăn từ người đàn bà đang cho con bú, không nhận đồ ăn từ
người đàn bà đang giao cấu, không nhận đồ ăn đi quyên, không nhận đồ ăn
tại chỗ có chó đứng, không nhận đồ ăn từ chỗ có ruồi bu, không ăn cá,
thịt, không uống rượu nấu, rượu men, cho đến không uống cháo. Vị ấy chỉ
nhận ăn tại một nhà, chỉ nhận ăn một miếng, hay vi ấy chỉ nhận ăn tại
hai nhà, chỉ nhận ăn hai miếng. Hay vị ấy chỉ nhận ăn tại bảy nhà, chỉ
nhận ăn bảy miếng.Vị ấy nuôi sống chỉ với một bát, nuôi sống chỉ với hai
bát, nuôi sống chỉ với bảy bát. Vị ấy chỉ ăn một ngày một bữa, hai ngày
một bữa, bảy ngày một bữa. Như vậy, vị ấy sống theo hạnh tiết chế ăn
uống, cho đến nửa tháng chỉ ăn một lần. Vị ấy ăn rau, ăn cây kê, ăn gạo
sống, ăn gạo rừng, ăn cây lau, ăn bột gạo, ăn bột gạo cháy, ăn bột vừng,
ăn cỏ, ăn phân bò, ăn trái cây, ăn rễ cây trong rừng, ăn trái cây rụng
để sống. Vị ấy mang vải gai thô, mặc vải gai thô lẫn với các vải khác,
mặc vải tẩm liệm quăng đi, mặc vải lượm từ đống rác, dùng vỏ cây làm áo,
mặc da con sơn dương đen, mặc áo bện từng mảnh da con sơn dương
đen, mặc vải từ cỏ Kusa bện lại, mặc áo bằng vỏ cây, mặc áo bằng tấm gỗ
nhỏ, mặc áo bằng tóc bện lại thành mền, mặc áo bằng đuôi ngựa bện lại,
mặc áo bằng lông cú. Vị ấy là người sống nhổ râu tóc, là người theo tập
tục sống nhổ râu tóc, là người theo hạnh thường đứng, không dùng chỗ
ngồi, là người ngồi chỏ hỏ, sống theo hạnh ngồi chỏ hỏ một cách tinh
tấn, là người dùng gai làm giường, thường ngủ nằm trên giường gai, sống
một đêm tắm ba lần, theo hạnh xuống nước tắm để gột sạch tội lỗi. Như
vậy, dưới nhiều hình thức, vị ấy sống thực hành các hạnh hành hạ, hành
khổ thân thể. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là kịch khổ đạo lộ.
3. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
trung đạo lộ?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo quán thân trên thân, nhiệt tâm,
tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục, tham ưu ở đời, quán thọ trên các cảm
thọ ... quán tâm trên tâm ... quán pháp trên các pháp, nhiệt tâm, tỉnh
giác, chánh niệm, nhiếp nhục tham ưu ở đời. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là
trung đạo lộ.
Ba pháp này, này các Tỷ-kheo, là ba đạo lộ.
152.- Ðạo Lộ (2)
- Này các Tỷ-kheo, có ba đạo lộ này. Thế nào là ba? thâm cố đạo lộ,
kịch khổ đạo lộ, trung đạo lộ.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là thâm cố đạo lộ? (... như kinh trên,
151.1).
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là kịch khổ đạo lộ (như kinh trên,
151.2).
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là trung đạo lộ?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo với mục đích khiến cho các ác, bất
thiện pháp từ trước chưa sanh, không cho sanh khởi, khởi lên ý muốn cố
gắng, tinh tấn, sách tâm, trì tâm; với mục đích khiến cho các ác, bất
thiện pháp đã sanh được trừ diệt, khởi lên ý muốn cố gắng, tinh tấn,
sách tâm, trì tâm; với mục đích khiến cho các thiện pháp từ trước chưa
sanh, nay cho sanh khởi, khởi lên ý muốn cố gắng, tinh tấn, sách tâm,
trì tâm; với mục đích khiến cho các thiện pháp đã được sanh có thể duy
trì, không có mù mờ, được tăng trưởng, được quảng đại, được tu tập, được
viên mãn, khởi lên ý muốn cố gắng, tinh tấn, sách tâm, trì tâm; vị ấy
tu tập thần túc thông câu hữu với dục định tinh cần hành, tu tập thần
túc thông câu hữu với tư duy định tinh cần hành; tu tập tín căn, tu tập
tấn căn, tu tập niệm căn, tu tập định căn, tu tập tuệ căn, tu tập tín
lực, tu tập tấn lực, tu tập niệm lực, tu tập định lực, tu tập tuệ lực,
tu tập niệm giác chi, tu tập trạch pháp giác chi, tu tập tinh tấn giác
chi, tu tập hỷ giác chi, tu tập khinh an giác chi, tu tập định giác chi,
tu tập xả giác chi, tu tập chánh tri kiến, tu tập chánh tư duy, tu tập
chánh ngữ, tu tập chánh nghiệp, tu tập chánh mạng, tu tập chánh tinh
tấn, tu tập chánh niệm, tu tập chánh định. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là
trung đạo lộ.
153.-
Sát Sanh
- Ðầy đủ ba pháp, này các Tỷ-kheo, tương xứng như vậy, bị rơi vào địa
ngục. Thế nào là ba?
Tự mình sát sanh, khích lệ người khác sát sanh, tùy hỷ sự sát sanh.
Ðầy đủ ba pháp này, này các Tỷ-kheo, tương xứng như vậy, bị rơi vào địa
ngục.
Ðầy đủ ba pháp này, này các Tỷ-kheo, tương xứng như vậy được sanh
thiên giới. Thế nào là ba?
Tự mình từ bỏ sát sanh, khích lệ người khác từ bỏ sát sanh, tùy hỷ sự
từ bỏ sát sanh. Ðầy đủ ba pháp này, này các Tỷ-kheo, tương xứng như
vậy, được sanh thiên giới.
154.- Lấy Của Không Cho
(Giống như kinh trên, chỉ khác đây là lấy của không cho)...
155.- Tà Hạnh Trong Dục Vọng
(Giống như kinh trên, chỉ khác đây là tà hạnh trong dục vọng)...
156-162. Tà ngữ
... (Giống như kinh trên, chỉ khác tuần tự các pháp sau này: nói láo,
nói hai lưỡi, nói lời độc ác, nói lời phù phiếm, tham, san, tà kiến
)...
163.- Ðịnh
- Ðể thắng tri tham ái, này các Tỷ-kheo, ba pháp cần phải tu tập. Thế
nào là ba?
Không định, vô tướng định, vô nguyện định. Ðể thắng tri tham ái, này
các Tỷ-kheo, ba pháp này cần phải tu tập.
Này các Tỷ-kheo, để biến tri, biến diệt, đoạn tận, diệt tận, trừ
diệt, ly tham, đoạn diệt, trừ khử, từ bỏ tham, ba pháp này, này các
Tỷ-kheo, cần phải tu tập.
Này các Tỷ-kheo, để biến tri, biến diệt, đoạn tận, diệt tận, trừ
diệt, ly tham, đoạn diệt, trừ khử, từ bỏ sân... từ bỏ si... từ bỏ phẫn
nộ... từ bỏ hận... từ bỏ giả dối... từ bỏ não hại... từ bỏ tật đố... từ
bỏ xan lẫn... từ bỏ man trá... từ bỏ phản bội... từ bỏ ngoan cố... từ bỏ
bồng bột nông nổi... từ bỏ mạn, từ bỏ tăng thượng mạn... từ bỏ kiêu...
từ bỏ phóng dật, ba pháp này, này các Tỷ-kheo, cần phải tu tập.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Các vị Tỷ kheo ấy hoan hỷ tín thọ lời
Thế Tôn dạy.
XVI. Phẩm Lõa Thể
151.- Ðạo Lộ (1)
1.
- Này các Tỷ-kheo, có ba đạo lộ này. Thế
nào là ba? Thâm cố đạo lộ, kịch khổ đạo lộ, trung đạo lộ.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là thâm cố đạo lộ?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người nói như sau, thấy như sau: "Không có
tội lớn trong các dục vọng" và rơi vào say đắm trong các dục vọng. Này
các Tỷ-kheo, đây gọi là thâm cố đạo lộ.
2. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
kịch khổ đạo lộ?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người sống lõa thể, sống phóng túng, không
theo lễ nghi, liếm tay cho sạch, đi khất thực không chịu bước tới, đi
khất thực không chịu đứng lại, không nhận đồ ăn mang đến, không nhận đồ
ăn đặc biệt nấu cho mình, không nhận mời đi ăn, không nhận đồ ăn từ nơi
nồi chảo, không nhận đồ ăn từ ngưỡng cửa, không nhận đồ ăn đặt giữa
những cây gậy, không nhận đồ ăn đặt giữa những cối gĩa gạo, không nhận
đồ ăn từ hai người đang ăn, không nhận đồ ăn từ người đàn bà có thai,
không nhận đồ ăn từ người đàn bà đang cho con bú, không nhận đồ ăn từ
người đàn bà đang giao cấu, không nhận đồ ăn đi quyên, không nhận đồ ăn
tại chỗ có chó đứng, không nhận đồ ăn từ chỗ có ruồi bu, không ăn cá,
thịt, không uống rượu nấu, rượu men, cho đến không uống cháo. Vị ấy chỉ
nhận ăn tại một nhà, chỉ nhận ăn một miếng, hay vi ấy chỉ nhận ăn tại
hai nhà, chỉ nhận ăn hai miếng. Hay vị ấy chỉ nhận ăn tại bảy nhà, chỉ
nhận ăn bảy miếng.Vị ấy nuôi sống chỉ với một bát, nuôi sống chỉ với hai
bát, nuôi sống chỉ với bảy bát. Vị ấy chỉ ăn một ngày một bữa, hai ngày
một bữa, bảy ngày một bữa. Như vậy, vị ấy sống theo hạnh tiết chế ăn
uống, cho đến nửa tháng chỉ ăn một lần. Vị ấy ăn rau, ăn cây kê, ăn gạo
sống, ăn gạo rừng, ăn cây lau, ăn bột gạo, ăn bột gạo cháy, ăn bột vừng,
ăn cỏ, ăn phân bò, ăn trái cây, ăn rễ cây trong rừng, ăn trái cây rụng
để sống. Vị ấy mang vải gai thô, mặc vải gai thô lẫn với các vải khác,
mặc vải tẩm liệm quăng đi, mặc vải lượm từ đống rác, dùng vỏ cây làm áo,
mặc da con sơn dương đen, mặc áo bện từng mảnh da con sơn dương
đen, mặc vải từ cỏ Kusa bện lại, mặc áo bằng vỏ cây, mặc áo bằng tấm gỗ
nhỏ, mặc áo bằng tóc bện lại thành mền, mặc áo bằng đuôi ngựa bện lại,
mặc áo bằng lông cú. Vị ấy là người sống nhổ râu tóc, là người theo tập
tục sống nhổ râu tóc, là người theo hạnh thường đứng, không dùng chỗ
ngồi, là người ngồi chỏ hỏ, sống theo hạnh ngồi chỏ hỏ một cách tinh
tấn, là người dùng gai làm giường, thường ngủ nằm trên giường gai, sống
một đêm tắm ba lần, theo hạnh xuống nước tắm để gột sạch tội lỗi. Như
vậy, dưới nhiều hình thức, vị ấy sống thực hành các hạnh hành hạ, hành
khổ thân thể. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là kịch khổ đạo lộ.
3. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
trung đạo lộ?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo quán thân trên thân, nhiệt tâm,
tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục, tham ưu ở đời, quán thọ trên các cảm
thọ ... quán tâm trên tâm ... quán pháp trên các pháp, nhiệt tâm, tỉnh
giác, chánh niệm, nhiếp nhục tham ưu ở đời. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là
trung đạo lộ.
Ba pháp này, này các Tỷ-kheo, là ba đạo lộ.
152.- Ðạo Lộ (2)
- Này các Tỷ-kheo, có ba đạo lộ này. Thế nào là ba? thâm cố đạo lộ,
kịch khổ đạo lộ, trung đạo lộ.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là thâm cố đạo lộ? (... như kinh trên,
151.1).
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là kịch khổ đạo lộ (như kinh trên,
151.2).
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là trung đạo lộ?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo với mục đích khiến cho các ác, bất
thiện pháp từ trước chưa sanh, không cho sanh khởi, khởi lên ý muốn cố
gắng, tinh tấn, sách tâm, trì tâm; với mục đích khiến cho các ác, bất
thiện pháp đã sanh được trừ diệt, khởi lên ý muốn cố gắng, tinh tấn,
sách tâm, trì tâm; với mục đích khiến cho các thiện pháp từ trước chưa
sanh, nay cho sanh khởi, khởi lên ý muốn cố gắng, tinh tấn, sách tâm,
trì tâm; với mục đích khiến cho các thiện pháp đã được sanh có thể duy
trì, không có mù mờ, được tăng trưởng, được quảng đại, được tu tập, được
viên mãn, khởi lên ý muốn cố gắng, tinh tấn, sách tâm, trì tâm; vị ấy
tu tập thần túc thông câu hữu với dục định tinh cần hành, tu tập thần
túc thông câu hữu với tư duy định tinh cần hành; tu tập tín căn, tu tập
tấn căn, tu tập niệm căn, tu tập định căn, tu tập tuệ căn, tu tập tín
lực, tu tập tấn lực, tu tập niệm lực, tu tập định lực, tu tập tuệ lực,
tu tập niệm giác chi, tu tập trạch pháp giác chi, tu tập tinh tấn giác
chi, tu tập hỷ giác chi, tu tập khinh an giác chi, tu tập định giác chi,
tu tập xả giác chi, tu tập chánh tri kiến, tu tập chánh tư duy, tu tập
chánh ngữ, tu tập chánh nghiệp, tu tập chánh mạng, tu tập chánh tinh
tấn, tu tập chánh niệm, tu tập chánh định. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là
trung đạo lộ.
153.-
Sát Sanh
- Ðầy đủ ba pháp, này các Tỷ-kheo, tương xứng như vậy, bị rơi vào địa
ngục. Thế nào là ba?
Tự mình sát sanh, khích lệ người khác sát sanh, tùy hỷ sự sát sanh.
Ðầy đủ ba pháp này, này các Tỷ-kheo, tương xứng như vậy, bị rơi vào địa
ngục.
Ðầy đủ ba pháp này, này các Tỷ-kheo, tương xứng như vậy được sanh
thiên giới. Thế nào là ba?
Tự mình từ bỏ sát sanh, khích lệ người khác từ bỏ sát sanh, tùy hỷ sự
từ bỏ sát sanh. Ðầy đủ ba pháp này, này các Tỷ-kheo, tương xứng như
vậy, được sanh thiên giới.
154.- Lấy Của Không Cho
(Giống như kinh trên, chỉ khác đây là lấy của không cho)...
155.- Tà Hạnh Trong Dục Vọng
(Giống như kinh trên, chỉ khác đây là tà hạnh trong dục vọng)...
156-162. Tà ngữ
... (Giống như kinh trên, chỉ khác tuần tự các pháp sau này: nói láo,
nói hai lưỡi, nói lời độc ác, nói lời phù phiếm, tham, san, tà kiến
)...
163.- Ðịnh
- Ðể thắng tri tham ái, này các Tỷ-kheo, ba pháp cần phải tu tập. Thế
nào là ba?
Không định, vô tướng định, vô nguyện định. Ðể thắng tri tham ái, này
các Tỷ-kheo, ba pháp này cần phải tu tập.
Này các Tỷ-kheo, để biến tri, biến diệt, đoạn tận, diệt tận, trừ
diệt, ly tham, đoạn diệt, trừ khử, từ bỏ tham, ba pháp này, này các
Tỷ-kheo, cần phải tu tập.
Này các Tỷ-kheo, để biến tri, biến diệt, đoạn tận, diệt tận, trừ
diệt, ly tham, đoạn diệt, trừ khử, từ bỏ sân... từ bỏ si... từ bỏ phẫn
nộ... từ bỏ hận... từ bỏ giả dối... từ bỏ não hại... từ bỏ tật đố... từ
bỏ xan lẫn... từ bỏ man trá... từ bỏ phản bội... từ bỏ ngoan cố... từ bỏ
bồng bột nông nổi... từ bỏ mạn, từ bỏ tăng thượng mạn... từ bỏ kiêu...
từ bỏ phóng dật, ba pháp này, này các Tỷ-kheo, cần phải tu tập.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Các vị Tỷ kheo ấy hoan hỷ tín thọ lời
Thế Tôn dạy.