CHƯƠNG TÁM
TÁM PHÁP
I. Phẩm Từ
(I) (1) Từ
1.
Như vầy tôi nghe:
Một thời, Thế Tôn trú ở Sàvavatthì, tại Jetavanna, khu vườn Ông
Anàthapindika. Tại đấy, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo: "Này các Tỷ-kheo".
"Thưa vâng, bạch Thế Tôn".
Các tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế tôn nói như sau:
2. - Với từ tâm giải thoát, này các
Tỷ-kheo, được sử dụng, được tu tập, được làm cho sung mãn, được làm như
cỗ xe, được làm như căn cứ địa, được tùy trú, được tích tập, được khéo
tác thành, thời chờ đợi là có tám lợi ích. Thế nào là tám?
3. Ngủ được an lạc, dậy được an lạc,
không thấy ác mộng, được người ái mộ, được phi nhân ái mộ, được chư
Thiên hộ trì, lửa hay thuốc độc hay kiếm không gia hại, nếu không thông
đạt thượng vị, đạt được Phạm Thiên giới. Với từ tâm giải thoát, này các
Tỷ-kheo, được sử dụng, được tu tập, được làm cho sung mãn, được làm như
cỗ xe, được làm như căn cứ địa, được tùy trú, được tích tập, được khéo
tác thành, thời chờ đợi là có tám lợi ích này.
Ai tu tập từ tâm
Vô lượng thường ức niệm
Các kiết sử yếu dần
Thấy được sanh y diệt
Với tâm không ác độc
Từ mẫn mọi chúng sanh
Do vậy, vị ấy thành
Bậc thuần nhất chí thiện
Với tâm ý từ mẫn
Ðối với mọi chúng sanh
Bậc Thánh khéo thực hiện
Nhiều công đức tốt lành
Sau khi đã chinh phục
Rất đông đảo loài người
Các ẩn sĩ vua chúa
Theo nghi lễ tế tự
Lễ tế ngựa tế người
Lễ uống nước thắng trận
Lễ ném cầu may rủi
Lễ rút lui khóa cửa
Không được phần mười sáu
Bậc khéo tu từ tâm
Như ánh sáng mặt trăng
Ðối với các quần sao
Không giết, không bảo giết
Không thắng, không bảo thắng
Từ tâm mọi chúng sanh
Không hận thù với ai.
(II) (2) Tuệ
1. - Này các Tỷ-kheo, có tám nhân
này, có tám duyên này, khiến căn bản Phạm hạnh chưa chứng được có thể
chứng được với trí tuệ, nếu chứng được thời đưa đến tăng trưởng, tăng
rộng, được tu tập, được viên mãn. Thế nào là tám?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
sống dựa trên bậc Ðạo sư hay bậc đồng Phạm hạnh đóng vai trò y chỉ sư, ở
đây được an trú tàm quý một cách sắc sảo, được ái mộ, được kính trọng.
Này các Tỷ-kheo, đây là nhân thứ nhất, duyên thứ nhất khiến căn bản Phạm
hạnh chưa chứng được có thể chứng được với trí tuệ, nếu chứng được thời
đưa đến tăng trưởng, tăng rộng, được tu tập, được viên mãn.
3. Vị ấy do sống dựa trên bậc Ðạo sư
hay bậc đồng Phạm hạnh đóng vai trò y chỉ sư, ở đây được an trú tàm quý
một cách sắc sảo, được ái mộ, được kính trọng, thường đi đến họ hỏi đi
hỏi lại: "Thưa Tôn giả, cái này là thế nào? Ý nghĩa cái này là gì? "Các
Tôn giả ấy mở rộng nhưng gì được mở rộng, phơi bày những gì không được
phơi bày, và đối với những pháp còn đang nghi vấn, họ giải tỏa những
nghi vấn. Này các Tỷ-kheo, đây là nhân thứ hai, duyên thứ hai khiến căn
bản Phạm hạnh chưa chứng được có thể chứng được với trí tuệ, nếu chứng
được thời đưa đến tăng trưởng, tăng rộng, được tu tập, được viên mãn.
4. Vị ấy sau khi nghe pháp, cố gắng
thành tựu hai sự an tịnh: Thân an tịnh và tâm an tịnh. Này các Tỷ-kheo,
đây là nhân thứ ba ... được viên mãn.
5. Vị ấy có giới đức, sống chế ngự
với sự chế ngự của giới bổn, đầy đủ uy nghi chánh hạnh, thấy sợ hãi
trong những lỗi nhỏ nhặt, chấp nhận và học tập các học pháp. Này các
Tỷ-kheo, đây là nhân thứ tư ... được viên mãn.
6. Vị ấy nghe nhiều, thọ trì điều đã
nghe, chất chứa điều đã nghe; những pháp ấy, sơ thiện, trung thiện, hậu
thiện, nghĩa lý văn cú tự túc đề cao đời sống Phạm hạnh đầy đủ thanh
tịnh; những pháp ấy, vị ất đã nghe nhiều, đã nắm giữ, đã ghi nhớ tụng
đọc nhiều lần, chuyên ý quán sát, khéo thể nhập chánh kiến. Này các
Tỷ-kheo, đây là nhân thứ năm ... được viên mãn.
7. Vị ấy tinh cần tinh tấn, để đoạn
tận các pháp bất thiện, đề làm sanh khởi các pháp thiện, nỗ lực kiên
trì, không bỏ rơi gánh nặng đối với các pháp thiện. Này các Tỷ-kheo, đây
là nhân thứ sáu... được viên mãn.
8. Vị ấy đi đến chư Tăng, không là
người nói nhiều, không nói chuyện phù phiếm, tự mình nói pháp hay mời
người khác nói, không khinh thường sự im lặng của bậc Thánh. Này các
Tỷ-kheo, đây là nhân thứ bảy ... được viên mãn.
9. Vị ấy sống tùy quán sanh diệt
trong năm thù uẩn: "Ðây là sắc, đây là sắc tập khởi; đây là sắc chấm
dứt; Ðây là thọ, đây là thọ tập khởi; đây là thọ chấm dứt; đây là tưởng
... đây là hành ... Ðây là thức, đây là thức tập khởi; đây là thức chấm
dứt". Này các Tỷ-kheo, đây là nhân thứ tám, duyên thứ tám, khiến căn bản
Phạm hạnh chưa chứng được có thể chứng được với trí tuệ, nếu chứng được
thời đưa đến tăng trưởng, tăng rộng, được tu tập, được viên mãn.
10. Các vị đồng Phạm hạnh quý mến vị
ấy như sau: "Tôn giả này sống nương tựa vào bậc Ðạo sư hay một vị đồng
Phạm hạnh đóng vai trò y chỉ sư, ở đây được an trú tàm quý một cách sắc
sảo, được ái mộ, được kính trọng. Thật vậy, Tôn giả này biết điều đáng
biết thấy điều đáng thấy". Ðây là pháp đưa đến được ái mộ, được cung
kính, được tu tập, đưa đếm Sa-môn hạnh, nhứt tâm thuần nhất.
11. Tôn giả này sống nương tựa vào
bậc Ðạo sư, hay bậc đồng Phạm hạnh đóng vai trò y chỉ sư, ở đây được an
trú tàm quý một cách sắc sảo, được ái mộ, được kính trọng ... (như số 3 ở
trên) ... họ giải tỏa những nghi vấn ấy. Ðây là pháp đưa đến được ái
mộ, được cung kính, được tu tập, đưa đếm Sa-môn hạnh, nhứt tâm thuần
nhất.
12. Tôn giả này sau khi nghe pháp
(như số 4 ở trên) ... tâm an tịnh. Ðây là pháp đưa đến được ái mộ, được
cung kính, được tu tập, đưa đếm Sa-môn hạnh, nhứt tâm thuần nhất.
13. Tôn giả này có giới đức ... (như
số 5 ở trên) ... học tập trong các học pháp. Này các Tỷ-kheo, đây là
pháp ... thuần nhất.
14. Tôn giả này nghe nhiều ... (như
số 6) ... khéo thành tựu chánh kiến. Ðây là pháp ... thuần nhất.
15. Tôn giả này sống tinh cần tinh
tấn ... (như số 7 ở trên) ... đối với các pháp thiện. Ðây là pháp ...
thuần nhất.
16. Tôn giả này đi đến Tăng chúng
... (như số 8 ở trên) ... sự im lặng của bậc Thánh. Ðây là pháp ...
thuần nhất.
17. Tôn giả này sống tùy quán sanh
diệt trong năm thù uẩn... (như số 9 ở trên) ... đây là thức chấm dứt,
đây là pháp đưa đến được ái mộ, được cung kính, được tu tập, đưa đến
Sa-môn hạnh, nhứt tâm thuần nhất.
Này các Tỷ-kheo, tám nhân này, tám duyên này khiến cho căn bản Phạm
hạnh chưa chứng được có thể chứng được với trí tuệ, nếu chứng được thời
đưa đến tăng trưởng, tăng rộng, được tu tập, được viên mãn.
(III) (3) Các Pháp Không Ðược Ái Mộ (1)
1. - Thành tựu tám pháp này, này các
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo không được các đồng Phạm hạnh ái mộ, thích ý, kính
trọng và bắt chước. Thế nào là tám?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
tán thán những người không được ái mộ, chỉ trích những người được ái mộ,
ưa lợi dưỡng, ưa được cung kính, không có lòng xấu hổ, không có sợ hãi,
ác dục và có tà kiến.
Thành tựu tám pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo không được các đồng
Phạm hạnh ái mộ, thích ý, kính trọng và bắt chước.
3. Thành tựu tám pháp này, này các
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo được các đồng Phạm hạnh ái mộ, thích ý, kính trọng và
bắt chước. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là tám?
4. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
không tán thán những người không được ái mộ, không chỉ trích những người
được ái mộ, không ưa lợi dưỡng, không ưa được cung kính, có lòng xấu
hổ, có sợ hãi, ít dục và có chánh kiến.
Thành tựu tám pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo được các đồng Phạm
hạnh ái mộ, thích ý, kính trọng và bắt chước.
(IV) (4) Các Pháp Không Ðược Ái Mộ (2)
1. - Thành tựu tám pháp này, này các
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo không được các đồng Phạm hạnh ái mộ, thích ý, cung
kính và bắt chước. Thế nào là tám?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
ưa lợi dưỡng, ưa cung kính, ưa được tán thán, không biết thời, không
biết vừa đủ, không trong sạch, nói nhiều, mắng nhiếc quở trách đối với
các đồng Phạm hạnh.
Thành tựu tám pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo không được các đồng
Phạm hạnh ái mộ, thích ý, cung kính và bắt chước.
3. Thành tựu tám pháp này, này các
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo được các đồng Phạm hạnh ái mộ, thích ý, và bắt chước.
Thế nào là tám?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo không ưa lợi dưỡng, không ưa cung
kính, không ưa được tán thán, biết thời, biết vừa đủ, trong sạch, không
nói nhiều, không mắng nhiếc quở trách đối với các đồng Phạm hạnh.
Thành tựu tám pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo được các đồng Phạm
hạnh ái mộ, thích ý, cung kính và bắt chước.
(V) (5) Tùy Chuyển Thế Giới (1)
1. - Tám pháp thế gian này, này các
Tỷ-kheo, tùy chuyển thế giới. Thế giới tùy chuyển theo tám pháp thế gian
này. Thế nào là tám?
2. Lợi dưỡng và không lợi dưỡng,
danh vọng và không danh vọng, chỉ trích và tán thán, lạc và khổ.
Tám pháp thế gian này, này các Tỷ-kheo, tùy chuyển thế giới. Thế giới
tùy chuyển theo tám pháp thế gian này.
Lợi dưỡng, không lợi dưỡng,
Danh vọng, không danh vọng
Chỉ trích và tán thán
An lạc và đau khổ
Những pháp này vô thường
Không thường hằng biến diệt
Biết chúng giữ chánh niệm
Bậc trí quán biến diệt
Pháp khả ái, không động
Không khả ái, không sân
Các pháp thuận hay nghịch
Ðược tiêu tan không còn
Sau khi biết con đường
Không trấn cấu không sầu
Chơn chánh biết sanh hữu
Ði đến bờ bên kia.
(VI) (6) Tùy Chuyẻn Thế Giới (2)
1.- Tám thế gian pháp này, này các
Tỷ-kheo, tùy chuyển thế giới. Thế giới tùy chuyển theo tám pháp thế gian
này. Thế nào là tám?
2. Lợi dưỡng và không lợi dưỡng,
danh vọng và không danh vọng, chỉ trích và tán thán, an lạc và đau khổ.
Tám pháp thế gian này, này các Tỷ-kheo, tùy chuyển thế giới. Thế giới
tùy chuyển theo tám pháp thế gian này.
3. Với kẻ phàm phu không nghe pháp,
này các Tỷ-kheo, sanh ra lợi dưỡng, không lợi dưỡng, danh vọng, chỉ
trích, tán thán, an lạc, đau khổ. Với vị Thánh đệ tử nghe pháp, cũng
sanh ra lợi dưỡng, không lợi dưỡng, danh vọng, chỉ trích, tán thán, an
lạc, đau khổ.
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có đặc thù gì, thù thắng gì, có sai khác gì
giữa vị Thánh có nghe pháp và kẻ phàm phu có không nghe pháp?
- Bạch Thế Tôn, các pháp lấy Thế Tôn làm căn bản, lấy Thế Tôn làm chỉ
đạo, lấy Thế Tôn làm chỗ nương tựa. Lành thay, bạch Thế Tôn, xin Thế
Tôn giảng cho ý nghĩa của lời nói này. Sau khi nghe Thế Tôn, các Tỷ-kheo
sẽ thọ trì.
- Vậy này các Tỷ-kheo, hãy lắng nghe và suy niệm kỹ, ta sẽ nói.
- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Các tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế tôn nói như sau:
4. - Với kẻ phàm phu không nghe
pháp, này các Tỷ-kheo, khởi lên lợi dưỡng. Vị ấy không có suy tư: "Lợi
dưỡng này khởi lên nơi ta, lợi dưỡng ấy vô thường, khổ, biến hoại". Vị
ấy không như thật rõ biết ... khởi lên không lợi dưỡng ... khởi lên danh
vọng ... khởi lên không danh vọng ... khởi lên chỉ trích ... khởi lên
tán thán ... khởi lên an lạc ... khởi lên khổ đau. Vị ấy không có suy
tư: "Khổ này khởi lên nơi ta, khổ ấy là vô thường khổ, biến hoại". Vị ấy
không như thật rõ biết, rằng lợi dưỡng xâm nhập tâm của người ấy và an
trú, không lợi dưỡng xâm nhập tâm của người ấy và an trú, danh vọng xâm
nhập tâm của người ấy và an trú, không danh vọng xâm nhập tâm của người
ấy và an trú, chỉ trích xâm nhập tâm của người ấy và an trú, tán thán
xâm nhập tâm của người ấy và an
trú, an lạc xâm nhập tâm của người ấy và an trú, đau khổ xâm nhập tâm
của người ấy và an trú". Người ấy thuận ứng với lợi dưỡng được khởi lên
và nghịch ứng với không lợi dưỡng; thuận ứng với danh vọng được khởi lên
và nghịch ứng với không danh vọng; thuận ứng với tán thán được khởi lên
và nghịch ứng với chỉ trích; thuận ứng với an lạc được khởi lên và
nghịch ứng với đau khổ; Người ấy đầy đủ thuận ứng, nghịch ứng như vậy,
không có giải thoát khỏi sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não. Ta nói
rằng, người ấy không thoát khỏi khổ.
5. Với vị Thánh đệ tử có nghe pháp,
này các Tỷ-kheo, khởi lên lợi dưỡng. Vị ấy có suy tư: "Lợi dưỡng này
khởi lên nơi ta, lợi dưỡng ấy vô thường, đau khổ, biến hoại". Vị ấy như
thật rõ biết ... khởi lên không lợi dưỡng ... khởi lên danh vọng ...
khởi lên không danh vọng ... khởi lên chỉ trích ... khởi lên tán thán
... khởi lên an lạc ... khởi lên khổ đau. Vị ấy có suy tư: "Ðau khổ này
khởi lên nơi ta, đau khổ ấy là vô thường, khổ, đau biến hoại". Vị ấy như
thật rõ biết, rằng lợi dưỡng này không xâm nhập tâm của vị ấy và an
trú, không lợi dưỡng ...., danh vọng....., không danh vọng .... chỉ
trích... tán thán....an lạc... đau khổ không xâm nhập tâm của vị ấy và
an trú. ". Vị ấy không thuận ứng với lợi dưỡng được khởi lên, không
nghịch ứng với không lợi dưỡng; không
thuận ứng với danh vọng được khởi lên , không nghịch ứng với không danh
vọng; không thuận ứng với tán thán được khởi lên , không nghịch ứng với
chỉ trích; không thuận ứng với an lạc được khởi lên, không nghịch ứng
với đau khổ; Vị ấy do đoạn tận thuận ứng, nghịch ứng như vậy, nên giải
thoát khỏi sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não. Ta nói rằng, vị ấy
thoát khỏi khổ.
Ðây là đặc thù, này các Tỷ-kheo, đây là thù thắng, đây là sai biệt
giữa vị Thánh đệ tử có nghe pháp và kẻ phàm phu không nghe pháp.
Lợi dưỡng, không lợi dưỡng,
Danh vọng, không danh vọng
Chỉ trích và tán thán
An lạc và đau khổ
Những pháp này vô thường
Không thường hằng biến diệt
Biết chúng giữ chánh niệm
Bậc trí quán biến diệt
Pháp khả ái, không động
Không khả ái, không sân
Các pháp thuận hay nghịch
Ðược tiêu tan không còn
Sau khi biết con đường
Không trấn cấu không sầu
Chơn chánh biết sanh hữu
Ði đến bờ bên kia.
(VII)
(7) Devadatta
1. Một thời, Thế Tôn trú ở Ràjagaha
(Vương Xá) trên núi Gijjhakùta (Linh Thứu) sau khi Devadatta bỏ đi không
bao lâu. Tại đấy, nhân việc Devadatta, Thế Tôn bảo các Tỷ-kheo:
2. - Lành thay, này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo thường thường quan sát sự vi phạm của mình. Lành thay, này các
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo thường thường quan sát sự vi phạm của người khác. Lành
thay, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo thường thường quan sát sự chứng đạt của
mình. Lành thay, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo thường thường quan sát sự
chứng đạt của người khác. Do bị tám phi diệu pháp chinh phục, tâm bị xâm
chiếm, này các Tỷ-kheo, Devadatta bị rơi vào đọa xứ, địa ngục, sống tại
đấy cả một kiếp, không được cứu khỏi. Thế nào là tám?
3. Này các Tỷ-kheo, bị lợi dưỡng
chinh phục, tâm bị xâm chiếm, Devadatta bị sanh vào đọa xứ, địa ngục
sống tại đấy cả một kiếp, không được cứu khỏi. Này các Tỷ-kheo, bị lợi
dưỡng chinh phục, ... bị danh vọng chinh phục ... bị không danh vọng
chinh phục ... bị cung kính chinh phục ... bị không cung kính chinh
phục... bị ác dục chinh phục ... bị ác bằng hữu chinh phục, tâm bị xâm
chiếm, Devadatta bị rơi vào đọa xứ, địa ngục, sống tại đấy cả một kiếp,
không được cứu khỏi.
Này các Tỷ kheo, bị tám phi diệu pháp này chinh phục, tâm bị xâm
chiếm, Devadatta bị sanh vào đoạ xứ, địa ngục, sống tại đây cả một kiếp,
không được cứu khỏi.
4. Lành thay, này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo sống chinh phục lợi dưỡng được sanh khởi ... không lợi dưỡng
được sanh khởi ... danh vọng được sanh khởi ... không danh vọng được
sanh khởi ... cung kính được sanh khởi ... không cung kính được ác dục
được sanh khởi ... ác bằng hữu được sanh khởi ... Và này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo do duyên mục đích gì cần phải sống chinh phục lợi dưỡng được
sanh khởi?
Này các Tỷ-kheo, do sống không chinh phục, lợi dưỡng được khởi lên,
các lậu hoặc tổn hại nhiệt não sanh khởi. Do sống chinh phục, lợi dưỡng
được khởi lên. Như vậycác lậu hoặc tổn hại nhiệt não ấy không có mặt.
Này các Tỷ-kheo, do sống không chinh phục không lợi dưỡng được khởi lên,
... danh vọng được khởi lên ... cung kính được khởi lên ... không cung
kính được khởi lên ... ác dục được khởi lên ... ác bằng hữu được khởi
lên, các lậu hoặc tổn hại nhiệt não sanh khởi. Do sống chinh phục ác
bằng hữu khởi lên, như vậy các lậu hoặc tổn hại nhiệt não ấy không có
mặt. Này các Tỷ-kheo, do duyên mục đích này, Tỷ-kheo sống chinh phục,
lợi dưỡng được khởi lên, ... danh vọng được khởi lên ... cung kính được
khởi lên ... không cung kính được khởi lên ... ác dục được khởi lên ...
ác bằng hữu được khởi lên. Do vậy, này các Tỷ-kheo, các Thầy cần phải
học tập như sau:
5. "Ta sẽ sống chinh phục lợi dưỡng
được khởi lên ... không lợi dưỡng được khởi lên ... danh vọng được khởi
lên ... không danh vọng được khởi lên ... cung kính được khởi lên ...
không cung kính được khởi lên ... ác dục được khởi lên ... ác bằng hữu
được khởi lên". Như vậy, này các Tỷ-kheo, các Thầy cần phải học tập.
(VIII) (8) Tôn Giả Uttara
1. Một thời, Thế Tôn trú ở
Mahisavatthu, trên núi Sankheyyaka, tại Dhavajàlikà. Lúc bấy giờ, Tôn
giả Uttara bảo các Tỷ-kheo:
2. - Lành thay, này chư hiền,
Tỷ-kheo thường thường quan sát sự vi phạm của mình. Lành thay, này chư
Hiền, Tỷ-kheo thường thường quan sát sự vi phạm của người khác. Lành
thay, này chư Hiền, Tỷ-kheo thường thường quan sát sự thành đạt của
mình. Lành thay, này chư Hiền, Tỷ-kheo thường thường quan sát sự thành
đạt của người khác.
3. Lúc bấy giờ, đại vương Vessavana
đang đi từ phương Bắc đến phương nam, vì một vài công việc, đại vương
Vessavana nghe Tôn giả Uttara trú ở Mahisavatthu, trên núi Sankheyyaka,
tại Dhavajàlikà thuyết pháp như vậy cho các Tỷ-kheo,: "Lành thay, này
chư Hiền, Tỷ-kheo thường thường quan sát ... sự thành đạt của người
khác".
4. Rồi đại vương Vessavana như người
lực sĩ duỗi cánh tay đang co lại, hay co lại cánh tay đang duỗi ra,
cũng vậy biến mất ở Mahisavatthu, trên núi Sankheyyaka, ở Dhavajàlikà và
hiện ra trước mặt chư Thiên ở cõi Ba mươi ba. Rồi đại vương Vessavana
đi đến Thiên chủ Sakka; sau khi đến nói với Thiên chủ Sakka:
- Ngài có biết chăng Tôn giả Uttara tại Mahisavatthu, trên núi
Sankheyyaka, tại Dhavajàlikà thuyết pháp cho các Tỷ-kheo như sau: "Lành
thay, này chư Hiền, Tỷ-kheo thường thường quan sát ... sự thành đạt của
người khác".
5. Rồi Thiên chủ Sakka như người lực
sĩ duỗi cánh tay đang co lại, hay co lại cánh tay đang duỗi ra, cũng
vậy biến mất trước chư Thiên cõi trời Ba mươi ba, hiện ra ở
Mahisavatthu, trên núi trên núi Sankheyyaka, ở Dhavajàlikà, trước mặt
Tôn giả Uttara. Rồi Thiên chủ Sakka đi đến Tôn giả Uttara; sau khi đến
đảnh lễ tôn giả Uttara rồi đứng một bên. Ðứng một bên, Thiên chủ Sakka
nói với Tôn giả Uttara:
- Thưa Tôn giả, có thật chăng, Tôn giả Uttara thuyết pháp cho các Tỷ
kheo như sau: "Lành thay , này chư Hiền, Tỷ kheo thường thường quan
sát... sự thành đạt của người khác"?
- Thưa có vậy, này Thiên chủ.
- Thưa Tôn giả, đây là Tôn giả Uttara tự nói hay là lời của Thế Tôn,
bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác?
6. - Vậy này Thiên chủ, ta sẽ làm
một ví dụ cho người. nhờ ví dụ ở đây, một số những người có trí hiểu rõ ý
nghĩa của lời nói. Ví như, này Thiên chủ, có một đống lúa lớn không xa
làng, hay thị trấn, và quần chúng từ nơi đống lúa ấy mang lúa đi, hoặc
trên đòn gánh, hoặc trong thùng, hoặc bên hông, hoặc với bàn tay. Này
Thiên chủ, nếu có ai đến đám quần chúng ấy và hỏi như sau: "Các người
mang lúa này từ đâu? "Này Thiên chủ, đám quần chúng ấy cần phải đáp như
thế nào để có thể đáp một cách chơn chánh?
- Thưa Tôn giả, đám quần chúng ấy muốn đáp một cách chơn chánh, cần
phải đáp như sau: "Thưa Tôn giả, chúng tôi mang lúa từ nơi đống lúa lớn
này".
- Cũng vậy, này Thiên chủ, điều gì khéo nói, tất cả là lời nói của
Thế Tôn ấy, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Chánh Giác. Dựa trên lời ấy, dựa
lên trên ấy, chúng tôi và các người khác nói lên.
7. - Thật vi diệu thay, thưa Tôn
giả! Thật hy hữu thay, thưa Tôn giả! Thật là khéo nói là lời nói này của
Tôn giả Uttara: "Tất cả là lời nói của Thế Tôn ấy, bậc A-la-hán, Chánh
Ðẳng Chánh Giác. Dựa lên trên ấy, dựa lên trên ấy, chúng tôi và các
người khác nói lên ". Một thời, thưa Tôn giả Uttara, Thế Tôn trú ở
Ràjagaha (Vương Xá) tại núi Gijjhakùta, sau khi Devadatta bỏ đi không
bao lâu. Tại đấy, Thế Tôn nhân việc Devadatta, bảo các Tỷ-kheo:
- Lành thay, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo thường thường quan sát sự vi
phạm của mình. Lành thay, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo thường thường quan
sát sự vi phạm của người khác. Lành thay, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
thường thường quan sát sự chứng đạt của mình. Lành thay, này các
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo thường thường quan sát sự chứng đạt của người khác. Do
bị tám phi diệu pháp chinh phục, tâm bị xâm chiếm, này các Tỷ-kheo,
Devadatta bị rơi vào đọa xứ, địa ngục, sống tại đấy cả một kiếp, không
được cứu khỏi. Thế nào là tám?
Này các Tỷ-kheo, bị lợi dưỡng chinh phục, tâm bị xâm chiếm, Devadatta
bị sanh vào đọa xứ, địa ngục sống tại đấy cả một kiếp, không được cứu
khỏi. Này các Tỷ-kheo, bị lợi dưỡng chinh phục, ... bị danh vọng chinh
phục ... bị không danh vọng chinh phục ... bị cung kính chinh phục ...
bị không cung kính chinh phục... bị ác dục chinh phục ... bị ác bằng hữu
chinh phục, tâm bị xâm chiếm, Devadatta bị rơi vào đọa xứ, địa ngục,
sống tại đấy cả một kiếp, không được cứu khỏi.
Này các Tỷ kheo, bị tám phi diệu pháp này chinh phục, tâm bị xâm
chiếm, Devadatta bị sanh vào đoạ xứ, địa ngục, sống tại đây cả một kiếp,
không được cứu khỏi.
"Lành thay, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo sống có thể chinh phục lợi dưỡng
được sanh khởi, ... không lợi dưỡng được sanh khởi ... danh vọng được
sanh khởi ... không danh vọng được sanh khởi ... cung kính được sanh
khởi ... không cung kính được sanh khởi ... ác dục được sanh khởi ... ác
bằng hữu được sanh khởi ... "
8. "Và này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo do
duyên mục đích gì phải sống chinh phục lợi dưỡng được khởi lên? Này các
Tỷ-kheo, do sống không chinh phục lợi dưỡng được khởi lên, các lậu hoặc,
các tổn hại, nhiệt não sanh khởi. Do sống chinh phục lợi dưỡng được
khởi lên, như vậy, các lậu hoặc, các tổn hại, nhiệt não ấy không có mặt.
Này các Tỷ-kheo, do sống chinh phục không lợi dưỡng được khởi lên ...
danh vọng được khởi lên ... không danh vọng được khởi lên cung kính được
khởi lên ... không cung kính được khởi lên ... ác dục được khởi lên ...
ác bằng hữu được khởi lên, các lậu hoặc, các tổn hại, nhiệt não khởi
lên, như vậy các lậu hoặc, các tổn hại, nhiệt não ấy không có mặt. Này
các Tỷ-kheo, do duyên mục đích này, Tỷ-kheo phải sống chinh phục lợi
dưỡng được khởi lên ... không
lợi dưỡng được khởi lên ... danh vọng được khởi lên ... không danh vọng
được khởi lên cung kính được khởi lên ... không cung kính được khởi lên
... ác dục được khởi lên ... ác bằng hữu được khởi lên. Do vậy, này các
Tỷ-kheo, các Thầy cần phải học tập như sau:
9. "Ta sẽ sống chinh phục lợi dưỡng
được khởi lên ... không lợi dưỡng được khởi lên ... danh vọng được khởi
lên ... không danh vọng được khởi lên ... cung kính được khởi lên ...
không cung kính được khởi lên ... ác dục được khởi lên ... ác bằng hữu
được khởi lên". Như vậy, này các Tỷ-kheo, các Thầy cần phải học tập.
10. Cho đến, thưa Tôn giả Uttara,
trong bốn hội chúng giữa loài người: Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-Ni, nam cư sĩ, nữ
cư sĩ, pháp môn này không được một ai thiết lập. Thưa Tôn giả, Tôn giả
Uttara hãy học pháp môn này. Thưa Tôn giả, Tôn giả Uttara hãy học thuộc
lòng pháp môn này. Thưa Tôn giả, Tôn giả Uttara hãy thọ trì pháp môn
này. Thưa Tôn giả, pháp môn này liên hệ đến mục đích, là căn bản Phạm
hạnh.
(XI) (9) Tôn Giả Nanda
1. - Này các Tỷ-kheo, nói một cách
chơn chánh về Nanda, có thể nói như sau: "Là Thiện nam tử". Này các
Tỷ-kheo, nói một cách chơn chánh về Nanda, có thể nói như sau: "Là vị có
sức mạnh". Này các Tỷ-kheo, nói một cách chơn chánh về Nanda, có thể
nói như sau: "Là vị có tịnh tín". Này các Tỷ-kheo, nói một cách chơn
chánh về Nanda, có thể nói như sau: "Là vị có ái dục sắc bén".
Ai khác ngoài Nanda, này các Tỷ-kheo, thành tựu chế ngự các căn, biết
tiết độ trong ăn uống, chú tâm cảnh giác, chánh niệm tỉnh giác? Nhờ
vậy, Nanda có thể hành Phạm hạnh đầy đủ thanh tịnh.
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, đây là sự
chế ngự các căn của Nanda.
Này các Tỷ-kheo, nếu Nanda phải nhìn về phương Ðông, tập trung tất cả
tâm, Nanda nhìn về hướng Ðông và suy nghĩ: "Như vậy, khi Ta đang nhìn
về hường Ðông, thời tham, ưu, các ác bất thiện pháp sẽ không có xâm
nhập". Như vậy, ở đây vị ấy tỉnh giác. Này các Tỷ-kheo, nếu Nanda phải
nhìn về phương Tây ... nhìn về phương Bắc ... về phương Nam ... ngước
nhìn lên Trên ... cúi nhìn về phương Dưới ... hay nhìn về hướng giữa các
phương chính, tập trung tất cả tâm, Nanda nhìn về hướng giữa các phương
chính và suy nghĩ: "Như vậy, khi ta đang nhìn về hướng giữa các phương
chính, thời tham, ưu, các ác bất thiện pháp sẽ không có xâm nhập ". Như
vậy, ở đây, vị ấy tỉnh giác.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Nanda chế ngự các căn.
3. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Nanda
tiết độ trong ăn uống.
Ở đây, này các Tỷ-kheo, Nanda với chánh tư duy thọ dụng các món ăn,
không phải để vui đùa, không phải để đam mê, không phải để trang sức,
không phải để tự làm đẹp mình, mà chỉ để thân này được an trú và được
bảo dưỡng, để thân này khỏi bị thương hại, để hỗ trợ Phạm hạnh, nghĩ
rằng: "Như vậy chúng ta diệt trừ các cảm thọ cũ và không cho khởi lên
các cảm thọ mới, và chúng ta sẽ không có lỗi lầm, sống được an ổn".
Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Nanda tiết độ trong ăn uống.
4. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Nanda chú
tâm cảnh giác.
Ở đây, này các Tỷ-kheo, Nanda ban ngày đi kinh hành hay trong khi
ngồi, Nanda tẩy sạch tâm tư khỏi các pháp chướng ngại. Ban đêm canh một
đi kinh hành, hay trong khi ngồi, Nanda tẩy sạch tâm tư khỏi các pháp
chướng ngại. Ban đêm, canh giữa, Nanda nằm dáng nằm con sư tử, bên hông
tay phải, một chân đặt trên chân kia, chánh niệm tỉnh giác, tâm nghĩ đến
thức dậy lại. Ban đêm, canh cuối thức dậy, đi kinh hành hay trong khi
ngồi, Nanda tẩy sạch tâm tư khỏi các pháp chướng ngại.
Này các Tỷ-kheo, như vậy Nanda chú tâm cảnh giác.
5. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Nanda
chánh niệm tỉnh giác.
Ở đây, này các Tỷ-kheo, Nanda rõ biết khi các thọ khởi lên, rõ biết
khi các thọ an trú, rõ biết khi các thọ chấm dứt ... rõ biết khi các
tưởng ... rõ biết khi các tầm nổi lên, rõ biết khi các tầm an trú, rõ
biết khi các tầm chấm dứt.
Này các Tỷ-kheo, đây là Nanda chánh niệm tỉnh giác.
Này các Tỷ-kheo, ai khác ngoài Nanda, thành tựu chế ngự các căn, biết
tiết độ trong ăn uống, chú tâm cảnh giác, chánh niệm tỉnh giác? Nhờ
vậy, Nanda có thể hành Phạm hạnh đầy đủ thanh tịnh.
(X) (10) Các Ðồ Rác
1. Một thời, Thế Tôn trú ở Campà,
trên bờ hồ Gaggarà. Lúc bấy giờ, các Tỷ-kheo buộc tội một Tỷ-kheo phạm
tội. Vị ấy bị các Tỷ-kheo buộc tội, tránh né vấn đề với một vấn đề khác,
hướng câu chuyện ra ngoài, và hiện tướng phẫn nộ, sân hận và bất mãn.
Rồi Thế Tôn bảo các Tỷ-kheo:
2. - Này các Tỷ-kheo, hãy đuổi người
này ra! Này các Tỷ-kheo, hãy tấn xuất người này ra! Này các Tỷ-kheo,
người này đáng bị khai trừ.
Ở đây, này các Tỷ-kheo, khi nào một người đi ra, đi vào, nhìn lên,
nhìn xung quanh, co tay, duỗi tay, mang y sanghàti, bát và y, như vậy,
như các Tỷ-kheo hiền thiện khác, cho đến khi các Tỷ-kheo không thấy phạm
tội. Nhưng khi các Tỷ-kheo thấy phạm tội, họ biết người này là như sau:
"Người này là Sa-môn ô uế, họ là Sa-môn rơm rạ, là Sa-môn rác rưởi. Khi
biết như vậy, họ đuổi người ấy ra ngoài. Vì sao? Chớ để cho người ấy
làm ô uế các Tỷ kheo hiền thiện khác.
3. Ví như, này các Tỷ-kheo, khi một
ruộng lúa mì đã đầy đủ cây lúa mì ô nhiễm, cây lúa mì rơm rạ, cây lúa mì
rác rưởi được mọc lên với rễ như vậy, giống như các cây lúa mì hiền
thiện khác. Với cành lá như vậy, giống như những cây lúa mì hiền thiện
khác; Với lá là như vậy, giống như những cây lúa mì hiền thiện khác, cho
đến khi nào đầu ngọn lúa chưa mọc ra. Khi đầu ngọn lúa mọc ra, họ biết:
"Ðây là cây lúa mì hoang, đây là cây lúa mì rơm rạ, cây lúa mì rác
rưởi". Sau khi biết như vậy, họ nhổ cây lúa mì ấy lên, luôn cả rễ, và
quăng cây lúa mì ấy ra khỏi ruộng lúa. Vì cớ sao? Họ nói: "Ðừng để cho
cây lúa mì làm uế nhiễm các cây lúa mì hiền thiện khác".
Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, ở đây, khi nào một người đi ra, đi vào,
nhìn lên, nhìn xung quanh, co tay, duỗi tay, mang y sanghàti, bát và y,
như vậy, như các Tỷ-kheo hiền thiện khác, cho đến không các Tỷ-kheo
không thấy người ấy phạm tội. Nhưng khi các Tỷ-kheo thấy người ấy phạm
tội, họ biết được: "Người này là Sa-môn giả hiệu, Sa-môn rơm, Sa-môn
rác". Sau khi biết người ấy là như vậy, họ đuổi người ấy ra ngoài. Vì cớ
sao? "Chớ để cho người ấy làm uế nhiễm các Tỷ kheo hiền thiện khác ".
4. Ví như, này các Tỷ-kheo, khi một
đống lúa lớn đang được sàng quạt, tại đấy, các hột lúa nào chắc cứng, có
hạt, chúng được chất thành đống một bên; còn những hạt lúa nào yếu kém,
chỉ là rơm, thời được gió thổi tạt qua một bên, và người chủ, với cây
chổi, quét chúng còn xa hơn nữa. Vì cớ sao? "Chớ để cho lúa ấy làm uế
nhiễm các hạt lúa hiền thiện khác ".
Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, ở đây, khi nào một người đi ra, đi vào,
nhìn lên, nhìn xung quanh, co tay, duỗi tay, mang y sanghàti, bát và y,
như vậy, như các Tỷ-kheo hiền thiện khác, cho đến khi nào các Tỷ-kheo
không thấy người ấy phạm tội. Nhưng khi các Tỷ-kheo thấy người ấy phạm
tội, họ biết được: "Người này là Sa-môn ô uế, Sa-môn rơm rạ, Sa-môn rác
rưởi". Sau khi biết người ấy là như vậy, họ đuổi người ấy ra ngoài. Vì
cớ sao? "Chớ để cho người ấy làm uế nhiễm các Tỷ kheo hiền thiện khác ".
5. Ví như, này các Tỷ-kheo, một
người cần một số ống nước, lấy một cây búa sắc bén và đi vào rừng, và
với cán cây búa ấy, gõ vào thân cây này hay thân cây khác. Ở đây, những
cây nào chắc cứng, có lõi, khi được cán búa gõ vào, tiếng vang dội được
tròn cứng. Còn những cây nào ở giữa bị mục nát, không có lõi (đầy ứ bất
tịnh) nhơ bẩn, khi được cán búa gõ vào, tiếng vang dội lép xẹp. Người ấy
chặt cây ấy, chặt gốc ; sau khi chặt gốc, người ấy chặt ngọn; sau khi
chặt ngọn, người ấy rửa phía trong của cây cho thật sạch; khi rửa phía
trong cho thật sạch rồi, người ấy nối liền các ống ấy lại.
Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, ở đây, khi nào một người đi ra, đi vào,
nhìn lên, nhìn xung quanh, co tay, duỗi tay, mang y sanghàti, bát và y,
như vậy, như các Tỷ-kheo hiền thiện khác, cho đến không các Tỷ-kheo
không thấy người ấy phạm tội. Nhưng khi các Tỷ-kheo thấy người ấy phạm
tội, họ biết được: "Người này là Sa-môn giả hiệu, Sa-môn rơm rạ, Sa-môn
rác rưởi". Sau khi biết người ấy là như vậy, họ đuổi người ấy ra ngoài.
Vì cớ sao? "Chớ để cho người ấy làm uế nhiễm các Tỷ kheo hiền thiện khác
".
Thầy có thể biết được
Người này Thầy chung sống
Ái dục và phẫn nộ
Dèm pha và ngoan cố
Não hại và tật đố
Xan tham và man trá
Nói nhu hòa giữa người
Nói như lời Sa-môn
Che giấu, làm việc ác
Ác kiến, thiếu kính trọng
Quanh co và nói láo
Biết vậy, người làm gì?
Tất cả phải đồng tình
Cùng tránh né người ấy
Hãy tẩn xuất rơm rác
Hãy tống cổ uế trược
Từ nay hãy đuổi xa
Kẻ nói nhiều vô ích
Không phải là Sa-môn
Nhưng hiện tướng Sa-môn
Tẩn xuất kẻ ác dục
Ác hạnh, ác uy nghi
Sống với người thanh tịnh
Sống trong sạch chánh niệm
Hòa hợp biết khôn khéo
Hãy chấm dứt khổ đau.
II. Phẩm Lớn
(I)
(11) Veranjà
1.
Như vầy tôi nghe:
Một thời, Thế Tôn trú ở Veranjà, dưới gốc cây Nalerupucimanda. Rồi
Bà-la-môn Veranjà đi đến Thế Tôn; sau khi đến, nói với Thế Tôn những lời
chào đón hỏi thăm; sau khi nói nên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu
rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Bà-la-môn Veranjà bạch Thế
Tôn:
- Thưa Tôn giả Gotama, tôi có nghe như sau: "Sa-môn Gotama không đảnh
lễ, không đứng dậy, hay không mời ghế ngồi các Bà-la-môn già yếu, tuổi
lớn trưởng lão, đời đã được trải qua, đã đến đoạn cuối cuộc đời". Thưa
Tôn giả Gotama, sự thể là như vậy: "Tôn giả Gotama không đảnh lễ, không
đứng dậy, hay không mời ghế ngồi các Bà-la-môn già yếu, tuổi lớn trưởng
lão, đời đã được trải qua, đã đến đoạn cuối cuộc đời". Như vậy, thưa Tôn
giả Gotama, thật là không đầy đủ.
- Này Bà-la-môn, Ta không thấy một ai trong thế giới chư Thiên, trong
thế giới Ác ma, trong thế giới Phạm thiên, trong quần chúng Sa-môn,
Bà-la-môn, chư Thiên và loài Người mà ta có thể đảnh lễ người ấy, đứng
dậy hay mời ghế ngồi. Này Bà-la-môn, nếu Như Lai đảnh lễ, hay đứng dậy,
hay mời ngồi ai, thời đầu người ấy bị bể tan.
2. - Tôn giả Gotama, thật thiếu ý
vị!
- Này Bà-la-môn, có pháp môn này, do pháp môn ấy, ai nói về ta một
cách chơn chánh có thể nói như sau: "Sa-môn Gotama thật thiếu ý vị ".
Này Bà-la-môn, các sắc vị, thanh vị, hương vị, vị vị, xúc vị, các vị ấy,
Như Lai đã đoạn tận chúng, chặt đứt từ gốc rễ, làm cho như thân cây
tàla, làm cho không thể tái sanh, làm cho không thể sanh khởi trong
tương lai. Này Bà-la-môn, đây là pháp môn, với pháp môn này, ai nói về
ta một cách chơn chánh có thể nói như sau: "Sa-môn Gotama thiếu ý vị ".
Nhưng Ông nói không phải với ý nghĩa này.
3. "Tôn giả Gotama thiếu tài sản
".Này Bà-la-môn, có pháp môn này, do pháp môn ấy, ai nói về ta một cách
chơn chánh có thể nói như sau: "Sa-môn Gotama thiếu tài sản ".Này
Bà-la-môn, các sắc tài sản, thanh tài sản, hương tài sản, vị tài sản,
xúc tài sản, các tài sản ấy, Như Lai đã đoạn tận chúng, chặt đứt từ gốc
rễ, làm cho như thân cây tala, làm cho không thể tái sanh, làm cho không
thể sanh khởi trong tương lai. Này Bà-la-môn, đây là pháp môn, với pháp
môn này, ai nói về ta một cách chơn chánh có thể nói như sau: "Sa-môn
Gotama thiếu tài sản". Nhưng Ông nói không phải với ý nghĩa này.
4. "Tôn giả Gotama chủ trương thuyết
không hành động". Này Bà-la-môn, có pháp môn này, do pháp môn ấy, ai
nói về ta một cách chơn chánh có thể nói như sau: "Sa-môn Gotama chủ
trương thuyết không hành động". Này Bà-la-môn, ta nói không hành động về
thân làm ác, về lời nói ác, về ý nghĩ ác. Ta nói không hành động về các
pháp ác, bất thiện. Này Bà-la-môn, đây là pháp môn, với pháp môn này,
ai nói về ta một cách chơn chánh có thể nói như sau: "Sa-môn Gotama chủ
trương thuyết không hành động". Nhưng Ông nói không phải với ý nghĩa
này.
5. "Tôn giả Gotama chủ trương thuyết
đoạn diệt ". Này Bà-la-môn, có pháp môn này, do pháp môn ấy, ai nói về
ta một cách chơn chánh có thể nói như sau: "Sa-môn Gotama chủ trương
thuyết đoạn diệt ". Này Bà-la-môn, Ta tuyên bố đoạn diệt tham, sân, si.
Ta tuyên bố đoạn diệt các ác, bất thiện pháp. Này Bà-la-môn, đây là pháp
môn, với pháp môn này, ai nói về ta một cách chơn chánh có thể nói như
sau: "Sa-môn Gotama chủ trương thuyết đoạn diệt ". Nhưng Ông nói không
phải với ý nghĩa này.
6. "Tôn giả Gotama là người nhàm
chán". Này Bà-la-môn, có pháp môn này, do pháp môn ấy, ai nói về ta một
cách chơn chánh có thể nói như sau: "Sa-môn Gotama là người nhàm chán".
Này Bà-la-môn, Ta nhàm chán thân làm ác, miệng nói ác, ý nghĩ ác. Ta
nhàm chán sự thành tựu các pháp ác, bất thiện. Này Bà-la-môn, đây là
pháp môn, với pháp môn này, ai nói về ta một cách chơn chánh có thể nói
như sau: "Sa-môn Gotama là người nhàm chán ". Nhưng Ông nói không phải
với ý nghĩa này.
7. "Tôn giả Gotama là người chủ
trương hư vô chủ nghĩa". Này Bà-la-môn, có pháp môn này, do pháp môn ấy,
ai nói về ta một cách chơn chánh có thể nói như sau: "Sa-môn Gotama là
người chủ trương hư vô". Này Bà-la-môn, Ta thuyết pháp để hư vô tham,
sân, si. Ta thuyết pháp để hư vô các pháp ác, bất thiện. Này Bà-la-môn,
đây là pháp môn, do pháp môn này, ai nói về ta một cách chơn chánh có
thể nói như sau: "Sa-môn Gotama là người chủ trương hư vô ". Nhưng Ông
nói không phải với ý nghĩa này.
8. "Tôn giả Gotama là người khổ
hạnh". Này Bà-la-môn, có pháp môn này, do pháp môn ấy, ai nói về ta một
cách chơn chánh có thể nói như sau: "Sa-môn Gotama là người khổ hạnh ".
Này Bà-la-môn, Ta tuyên bố rằng cần phải khổ hạnh các pháp ác, bất
thiện, thân làm ác, miệng nói ác, ý nghĩ ác. Này Bà-la-môn, với ai, các
pháp ác, bất thiện, thân làm ác, miệng nói ác, ý nghĩ ác được tu khổ
hạnh, được đoạn tận, được cắt đứt từ gốc rễ, được làm cho như thân cây
tala, được làm cho không thể tái sanh, được làm cho không thể sanh khởi
trong tương lai, Ta tuyên bố rằng người ấy là người khổ hạnh. Này
Bà-la-môn, với Như Lai, các pháp ác, bất thiện, thân làm ác, miệng nói
ác, ý nghĩ ác đã được tu khổ hạnh, được đoạn tận, được cắt đứt từ gốc
rễ, được làm cho như thân cây tala, được
làm cho không thể tái sanh, được làm cho không thể sanh khởi trong tương
lai. Này Bà-la-môn, đây là pháp môn, do pháp môn này, ai nói về ta một
cách chơn chánh có thể nói như sau: "Sa-môn Gotama là người khổ hạnh".
Nhưng Ông nói không phải với ý nghĩa này.
9. "Tôn giả Gotama chủ trương không
nhập thai". Này Bà-la-môn, có pháp môn này, do pháp môn ấy, ai nói về ta
một cách chơn chánh có thể nói như sau: "Sa-môn Gotama chủ trương không
nhập thai". Này Bà-la-môn, với ai mà khả năng nhập thai tái sanh trong
tương lai đã đoạn tận, chặt đứt từ gốc rễ, làm cho như thân cây tala,
làm cho không thể tái sanh, làm cho không thể sanh khởi trong tương lai,
Ta tuyên bố rằng người ấy chủ trương không nhập thai. Này Bà-la-môn,
Như Lai đã đoạn tận khả năng nhập thai tái sanh trong tương lai đã đoạn
tận, đã chặt đứt từ gốc rễ, đã làm cho như thân cây tala, đã làm cho
không thể tái sanh, đã làm cho không thể sanh khởi trong tương lai. Này
Bà-la-môn, đây là pháp môn, với pháp môn này, ai nói về ta một cách chơn
chánh có thể nói như sau:
"Sa-môn Gotama chủ trương không nhập thai". Nhưng Ông nói không phải với
ý nghĩa này.
Ví như, này Bà-la-môn, có tám, mười hay mười hai cái trứng của con gà
mái, được con gà mái khéo ấp nằm, ấp nóng và ấp dưỡng, và con gà nào
trong những con gà con ấy, đầu tiên hết, lấy chân, móng, đầu, miệng hay
mỏ phá vỡ vỏ trứng gà, ra ngoài một cách an toàn, con ấy được gọi là con
trưởng hay con trẻ nhất?
- Thưa Tôn giả Gotama, con ấy phải được gọi là con trưởng. Thật vậy,
thưa Tôn giả Gotama, con ấy là con trưởng trong tất cả các con gà ấy.
10. - Cũng vậy, này Bà-la-môn, khi
ta vì chúng sanh bị vô minh chi phối, như sanh ra từ trứng, bị bao trùm,
đã phá vỡ vỏ trứng vô minh, một mình chứng được vô thượng Chánh Ðẳng
Giác ở đời, này Bà-la-môn, thật sự Ta là vị đệ nhất, tối thắng ở đời.
Lại nữa, này Bà-la-môn, Ta tinh cần tinh tấn, không biếng nhác. Ta trú
niệm, không có thất niệm, thân được khinh an, không có tháo động, định
tĩnh, nhất tâm.
11. Này Bà-la-môn, ly dục, ly pháp
bất thiện, Ta đã chứng đạt và an trú sơ Thiền, một trạng thái hỷ lạc do
ly dục sanh, có tầm, có tứ. Làm cho tịnh chỉ tầm và tứ, Ta chứng đạt và
an trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm,
không tứ, nội tỉnh nhất tâm. Ly hỷ Ta trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân
cảm sự lạc thọ, mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú. Ta chứng đạt
và an trú Thiền thứ ba. Xả lạc, xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ từ trước,
Ta chứng đạt và an trú Thiền thứ tư, không khổ, không lạc, xả niệm,
thanh tịnh.
12. Với tâm định tĩnh, thuần tịnh,
trong sáng, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng,
vững chắc, không dao động, như vậy, Ta dẫn tâm, hướng tâm đến túc mạng
minh. Ta nhớ đến đời sống quá khứ, một đời, hai đời, ba đời, bốn đời,
năm đời, mười đời, hai mươi đời, ba mươi đời, bốn mươi đời, năm mươi
đời, một trăm đời, hai trăm đời, một ngàn đời, nhiều hoại kiếp, nhiều
thành kiếp, nhiều hoại và thành kiếp. Ta nhớ rằng: "Tại chỗ kia, Ta có
tên như thế này, dòng họ như thế này, giai cấp như thế này, thọ khổ lạc
như thế này, tuổi thọ đến mức như thế này. Sau khi chết tại chỗ kia, ta
được sanh ra tại chỗ nọ. Tại chỗ ấy, Ta có tên như thế này, dòng họ như
thế này, giai cấp như thế này, thọ khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến mức
như thế này. Sau khi chết tại
chỗ nọ, Ta được sanh ra ở đây". Như vậy, Ta nhớ đến nhiều đời sống quá
khứ cùng với các nét đại cương và các nét chi tiết.
Này Bà-la-môn, đây là trong canh một, Ta chứng được minh thứ nhất, vô
minh diệt, minh sanh, bóng tối diệt, ánh sáng sanh. Do Ta sống không
phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần. Này Bà-la-môn, đây là sự xuất sanh thứ
nhất của Ta, như con gà con ra khỏi vỏ trứng.
13. Với tâm định tĩnh, thuần tịnh,
trong sáng, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng,
vững chắc, không dao động, như vậy, Ta dẫn tâm, hướng tâm đến trí tuệ về
sanh tử của chúng sanh. Với thiên nhãn thuần tịnh siêu nhân, Ta thấy sự
sống và sự chết của chúng sanh. Ta biết rõ rằng chúng sanh, người hạ
liệt, kẻ cao sang, người đẹp đẽ, kẻ thô xấu, người may mắn, kẻ bất hạnh,
đều do hạnh nghiệp của họ; những hạng chúng sanh này thành tựu thân làm
ác, thành tựu miệng nói ác, thành tựu ý nghĩ ác; phỉ báng các bậc
Thánh, theo tà kiến, tạo các nghiệp theo tà kiến. Những người này, sau
khi thân hoại mạng chung, phải sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa
ngục. Còn những hạng chúng sanh nào, thành tựu thân làm lành, thành tựu
miệng nói lành, thành tựu ý nghĩ
lành, không phỉ báng các bậc Thánh, theo chánh kiến, tạo các nghiệp theo
chánh kiến. Những người này, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh
lên các thiện thú, Thiên giới, cõi đời này. Như vậy, với thiên nhãn
thuần tịnh siêu nhân, Ta thấy sự sống và sự chết của chúng sanh. Ta biết
rõ rằng chúng sanh, người hạ liệt, kẻ cao sang, người đẹp đẽ, kẻ thô
xấu, người may mắn, kẻ bất hạnh, đều do hạnh nghiệp của họ.
Này Bà-la-môn, đây là trong canh giữa, Ta chứng được minh thứ hai, vô
minh diệt, minh sanh, bóng tối diệt, ánh sáng sanh. Do Ta sống không
phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần. Này Bà-la-môn, đây là sự xuất sanh thứ
hai của Ta, như con gà con ra khỏi vỏ trứng.
14. Với tâm định tĩnh, thuần tịnh,
trong sáng, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng,
vững chắc, không dao động, như vậy, Ta dẫn tâm, hướng tâm đến lậu tận
trí. Ta biết như thật: "Ðây là khổ", biết như thật: "Ðây là khổ tập",
biết như thật: "Ðây là Khổ diệt", biết như thật: "Ðây là con đường đưa
đến Khổ diệt", biết như thật: "Ðây là những lậu hoặc", biết như thật:
"Ðây là nguyên nhân của lậu hoặc ", biết như thật: "Ðây là các lậu hoặc
diệt", biết như thật: "Ðây là con đường đưa đến lậu hoặc diệt". Do biết
như vậy, thấy như vậy, tâm của ta thoát khỏi dục lậu, thoát khỏi hữu
lậu, thoát khỏi vô minh lậu. Ðối với tự thân đã giải thoát như vậy, khởi
lên sự hiểu biết, ta đã giải thoát . Ta biết: "Sanh đã diệt, Phạm hạnh
đã thành, việc cần làm đã làm, sau
đời hiện tại, không có đời sống nào khác nữa". Này Bà-la-môn, đây là
trong canh cuối, Ta chứng được minh thứ ba, vô minh diệt, minh sanh,
bóng tối diệt, ánh sáng sanh. Do Ta sống không phóng dật, nhiệt tâm,
tinh cần. Này Bà-la-môn, đây là sự xuất sanh thứ ba của Ta, như con gà
ra khỏi vỏ trứng.
15. Ðược nghe nói như vậy, Bà-la-môn
Veranja bạch Thế Tôn:
- Ðệ nhất là Tôn giả Gotama! Tối thắng là Tôn giả Gotama! Thật vi
diệu thay, thưa Tôn giả Gotama! Thật vi diệu thay, thưa Tôn giả Gotama!
Thưa Tôn giả Gotama, như người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã
xuống, phơi bày ra những gì bị che kín, chỉ đường cho những người bị lạc
hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối, để những ai có mắt có thể thấy
sắc. Cũng vậy, Chánh pháp đã được Thế Tôn dùng nhiều phương tiện trình
bày giải thích. Con xin quy y Tôn giả Gotama, quy y pháp, quy y chúng
Tỷ-kheo. Mong Tôn giả Gotama nhận con làm đệ tử cư sĩ, từ nay cho đến
mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng.
(II) (12) Tướng Quân Sìha
1. Một thời, Thế Tôn trú ở Vesàli
(Tỳ-xá-ly), tại Mahàvana (Ðại Lâm), ở Kùtàgàrasàla (ngôi nhà có nóc
nhọn). Lúc bấy giờ rất nhiều vị Licchavi là các bậc có danh tiếng, có
danh tiếng, ngồi tụ họp ở hội trường, dùng nhiều phương tiện tán thán
Phật, tán thán pháp, tán thán chúng Tăng.
2. Lúc bấy giờ tướng quân Sìha là đệ
tử của Niganthà ngồi trong hội chúng ấy. Rồi tướng quân Sìha suy nghĩ
như sau: "Không nghi ngờ gì nữa, Thế Tôn ấy là bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng
Giác, vì rằng nhiều vị Licchavi này có danh tiếng, có danh tiếng ngồi tụ
họp ở hội trường, dùng nhiều phương tiện tán thán Phật, tán thán pháp,
tán thán chúng Tăng. Vậy ta hãy đi đến yết kiến vị Thế Tôn ấy, bậc
A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác.
3. Rồi tướng quân Sìha đi đến
Niganthà, Nàtaputta, sau khi đến, thưa với Niganthà Nàtaputta:
- Thưa Tôn giả, tôi muốn đi đến yết kiến Sa-môn Gotama.
- Này Sìha, sao Ông chủ trương hành động lại đi đến yết kiến Sa-môn
Gotama, người chủ trương không hành động? Này Sìha, Sa-môn Gotama chủ
trương không hành động, thuyết pháp không hành động và huấn luyện các đệ
tử như vậy. Rồi tướng quân Sìha, ý muốn đi đến yết kiến Thế Tôn bị dập
tắt.
4. Lần thứ hai, rất nhiều vị
Licchavi có danh tiếng, có danh tiếng, ngồi tụ họp ở hội trường, dùng
nhiều phương tiện tán thán Phật, tán thán pháp, tán thán chúng Tăng. Lần
thứ hai, tướng quân Sìha suy nghĩ như sau: "Không nghi ngờ gì nữa, Thế
Tôn ấy là bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, vì rằng nhiều vị Licchavi này
có danh tiếng, có danh tiếng ngồi tụ họp ở hội trường, dùng nhiều phương
tiện tán thán Phật, tán thán pháp, tán thán chúng Tăng. Vậy ta hãy đi
đến yết kiến vị Thế Tôn ấy, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác.
Rồi tướng quân Sìha đi đến Niganthà, Nàtaputta, sau khi đến, thưa với
Niganthà Nàtaputta:
- Thưa Tôn giả, tôi muốn đi đến yết kiến Sa-môn Gotama.
- Này Sìha, sao Ông chủ trương hành động lại đi đến yết kiến Sa-môn
Gotama, người chủ trương không hành động? Này Sìha, Sa-môn Gotama chủ
trương không hành động, thuyết pháp không hành động và huấn luyện các đệ
tử như vậy.
Rồi tướng quân Sìha, lần thứ hai, ý muốn đi đến yết kiến Thế Tôn bị
dập tắt.
5. Lần thứ ba, rất nhiều vị Licchavi
là có danh tiếng, có danh tiếng, ngồi tụ họp ở hội trường, dùng nhiều
phương tiện tán thán Phật, tán thán pháp, tán thán chúng Tăng. Lần thứ
ba, tướng quân Sìha suy nghĩ như sau: "Không nghi ngờ gì nữa, Thế Tôn ấy
là bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, vì rằng nhiều vị Licchavi này có danh
tiếng, có danh tiếng ngồi tụ họp ở hội trường, dùng nhiều phương tiện
tán thán Phật, tán thán pháp, tán thán chúng Tăng. Các Niganthà sẽ làm
gì được cho ta, nếu họ được hỏi ý kiến hay không hỏi ý kiến. Vậy ta hãy
không hỏi ý kiến Niganthà, đi đến yết kiến vị Thế Tôn ấy, bậc A-la-hán,
Chánh Ðẳng Giác".
Rồi tướng quân Sìha, vào giữa trưa với khoảng năm trăm cỗ xe, đi khỏi
Vesàli để yết kiến Thế Tôn. Ði xe cho đến đoạn đất còn đi xe được, rồi
xuống xe đi bộ vào trong khu vườn. Rồi tướng quân Sìha đi đến Thế Tôn;
sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn, rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên,
tướng quân Sìha bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, con có được nghe: "Sa-môn Gotama chủ trương không
hành động, thuyết pháp về không hành động và huấn luyện các đệ tử như
vậy". Bạch Thế Tôn, họ nói như sau: "Sa-môn Gotama chủ trương không hành
động, thuyết pháp về không hành động và huấn luyện các đệ tử như vậy".
Bạch Thế Tôn, họ nói về Thế Tôn như vậy, họ có xuyên tạc Thế Tôn với
điều không thật chăng? Và họ trả lời có thuận pháp với pháp không, và
những ai như pháp thuyết đúng pháp không có lý do để chỉ trích? Bạch Thế
Tôn, chúng con không muốn xuyên tạc Thế Tôn.
6. - Này Sìha, có pháp môn, do pháp
môn ấy, nếu nói một cách chơn chánh về Ta, có thể nói: "Sa-môn Gotama
chủ trương không hành động, thuyết pháp về không hành động và huấn luyện
các đệ tử như vậy".
Này Sìha, có pháp môn, do pháp môn ấy, nếu nói một cách chơn chánh về
Ta, có thể nói: "Sa-môn Gotama chủ trương hành động, thuyết pháp về
hành động và huấn luyện các đệ tử như vậy".
Này Sìha, có pháp môn, do pháp môn ấy, nếu nói một cách chơn chánh về
Ta, có thể nói: "Sa-môn Gotama chủ trương đoạn diệt, thuyết pháp về
đoạn diệt và huấn luyện các đệ tử như vậy".
Này Sìha, có pháp môn, do pháp môn ấy, nếu nói một cách chơn chánh về
Ta, có thể nói: "Sa-môn Gotama là người nhàm chán, thuyết pháp về nhàm
chán và huấn luyện các đệ tử như vậy".
Này Sìha, có pháp môn, do pháp môn ấy, nếu nói một cách chơn chánh về
Ta, có thể nói: "Sa-môn Gotama là người chủ trương hư vô, thuyết pháp
về hư vô và huấn luyện các đệ tử như vậy".
Này Sìha, có pháp môn, do pháp môn ấy, nếu nói một cách chơn chánh về
Ta, có thể nói: "Sa-môn Gotama là người khổ hạnh, thuyết pháp về khổ
hạnh và huấn luyện các đệ tử như vậy".
Này Sìha, có pháp môn, do pháp môn ấy, nếu nói một cách chơn chánh về
Ta, có thể nói: "Sa-môn Gotama là người chủ trương không nhập thai,
thuyết pháp về không nhập thai và huấn luyện các đệ tử như vậy".
Này Sìha, có pháp môn, do pháp môn ấy, nếu nói một cách chơn chánh về
Ta, có thể nói: "Sa-môn Gotama là người an ủi, thuyết pháp về an ủi và
huấn luyện các đệ tử như vậy".
7. Và này Sìha, thế nào là pháp môn,
do pháp môn ấy, nói một cách chơn chánh về Ta, có thể nói: "Sa-môn
Gotama chủ trương không hành động, thuyết pháp về không hành động và
huấn luyện các đệ tử như vậy"?
Này Sìha, ta tuyên bố về không hành động đối với thân làm ác, miệng
nói ác, và ý nghĩ ác. Ta tuyên bố về không hành động đối với các pháp
ác, bất thiện.
Này Sìha, đây là pháp môn, do pháp môn ấy, nếu nói một cách chơn
chánh về Ta, có thể nói: "Sa-môn Gotama chủ trương không hành động,
thuyết pháp về không hành động và huấn luyện các đệ tử như vậy".
Này Sìha, thế nào là pháp môn, do pháp môn ấy, nếu nói một cách chơn
chánh về Ta, có thể nói: "Sa-môn Gotama chủ trương hành động, thuyết
pháp về hành động và huấn luyện các đệ tử như vậy"?
Này Sìha, ta tuyên bố về hành động đối với thân làm lành, miệng nói
lành, và ý nghĩ lành. Ta tuyên bố về hành động đối với các thiện pháp.
Và này Sìha, đây là pháp môn, do pháp môn ấy, nếu nói một cách chơn
chánh về Ta, có thể nói: "Sa-môn Gotama chủ trương hành động, thuyết
pháp về hành động và huấn luyện các đệ tử như vậy".
Và này Sìha, thế nào là pháp môn, do pháp môn ấy, nếu nói một cách
chơn chánh về Ta, có thể nói: "Sa-môn Gotama chủ trương đoạn diệt,
thuyết pháp về đoạn diệt và huấn luyện các đệ tử như vậy".
Này Sìha, ta tuyên bố về đoạn diệt tham, sân, si. Ta tuyên bố về đoạn
diệt đối với các pháp ác, bất thiện. Và này Sìha, đây là pháp môn, với
pháp môn ấy nếu nói một cách chơn chánh về Ta, có thể nói: "Sa-môn
Gotama chủ trương đoạn diệt, thuyết pháp về đoạn diệt và huấn luyện các
đệ tử như vậy".
Và này Sìhà, thế nào là pháp môn, do pháp môn ấy, nếu nói một cách
chơn chánh về Ta, có thể nói: "Sa-môn Gotama là người nhàn chán, thuyết
pháp về nhàm chán và huấn luyện các đệ tử như vậy"?
Này Sìha, ta nhàm chán đối với thân làm ác, miệng nói ác, và ý nghĩ
ác. Ta nhàm chán đối với sự thành tựu các pháp ác, bất thiện.
Này Sìhà, đây là pháp môn, do pháp môn ấy, nếu nói một cách chơn
chánh về Ta, có thể nói: "Sa-môn Gotama là người nhàm chán, thuyết pháp
về nhàm chán và huấn luyện các đệ tử như vậy".
Và này Sìhà, thế nào là pháp môn do pháp môn ấy, nếu nói một cách
chơn chánh về Ta, có thể nói: "Sa-môn Gotama là người chủ trương hư vô,
thuyết pháp về hư vô và huấn luyện các đệ tử như vậy"?
Này Sìha, ta thuyết pháp để hư vô tham, sân, si. Ta thuyết pháp để hư
vô các pháp ác bất thiện.
Này Sìha, đây là pháp môn, do pháp môn ấy, nếu nói một cách chơn
chánh về Ta, có thể nói: "Sa-môn Gotama là người hư vô, thuyết pháp về
hư vô và huấn luyện các đệ tử như vậy".
Và này Sìhà, thế nào là pháp môn, do pháp môn ấy, nếu có ai nói một
cách chơn chánh về Ta, có thể nói: "Sa-môn Gotama là người khổ hạnh,
thuyết pháp khổ hạnh và huấn luyện các đệ tử như vậy"?
Này Sìha, Ta tuyên bố cần phải khổ hạnh các pháp ác bất thiện, kể cả
thân làm ác, miệng nói ác, ý nghĩ ác. Này Sìha, với ai, pháp ác bất
thiện, thân làm ác, miệng nói ác, ý nghĩ ác, được tu khổ hạnh, được đoạn
tận, được chắt đứt từ gốc rễ, được làm cho như thân cây tala, được làm
cho không thể tái sanh, được làm cho không thể sanh khởi trong tương
lai, Ta tuyên bố rằng người ấy là người khổ hạnh.
Này Sìha, đối với Như Lai, các pháp ác, bất thiện cần phải khổ hạnh
này đã được đoạn tận chúng, chặt đứt từ gốc rễ, làm cho như thân cây
tala, làm cho không thể tái sanh, làm cho không thể sanh khởi trong
tương lai. Này Sìha, đây là pháp môn, do pháp môn ấy, nếu nói một cách
chơn chánh về Ta, có thể nói: "Sa-môn Gotama là người khổ hạnh, thuyết
pháp về khổ hạnh và huấn luyện các đệ tử như vậy".
Và này Sìha, thế nào là pháp môn, do pháp môn ấy, nếu nói một cách
chơn chánh về Ta, có thể nói: "Sa-môn Gotama là người chủ trương không
nhập thai, thuyết pháp về không nhập thai và huấn luyện các đệ tử như
vậy"?
Này Sìha, với ai đã đoạn tận sự nhập thai trong tương lai, sự tái
sanh, cắt đứt tận gốc rễ, làm cho như thân cây tala, làm cho không thể
tái sanh, làm cho không thể sanh khởi trong tương lai. Ta tuyên bố người
ấy là người chủ trương không nhập thai. Này Sìha, Như Lai đã đoạn tận
sự nhập thai trong tương lai, sự tái sanh, cắt đứt tận gốc rễ, làm cho
như thân cây tala, làm cho không thể tái sanh, làm cho không thể sanh
khởi trong tương lai.
Này Sìha, đây là pháp môn, do pháp môn ấy, nếu nói một cách chơn
chánh về Ta, có thể nói: "Sa-môn Gotama là người chủ trương không nhập
thai, thuyết pháp về không nhập thai và huấn luyện các đệ tử như vậy".
Và này Sìha, thế nào là pháp môn, do pháp môn ấy, nếu nói một cách
chơn chánh về Ta, có thể nói: "Sa-môn Gotama là người an ủi, thuyết pháp
an ủi và huấn luyện các đệ tử như vậy"?
Này Sìha, Ta là người an ủi với tối thượng an ủi, Ta thuyết pháp về
an ủi, Ta huấn luyện các đệ tử như vậy. Này Sìha, đây là pháp môn, với
pháp môn ấy, nếu nói một cách chơn chánh về ta, có thể nói: "Sa-môn
Gotama là người an ủi, thuyết pháp an ủi và huấn luyện các đệ tử như
vậy".
8. Khi được nói như vậy, tướng quân
Sìha bạch Thế Tôn:
- Thật vi diệu thay! Bạch Thế Tôn! Thật vi diệu thay! Bạch Thế Tôn,
như người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, phơi bày ra những
gì bị che kín, chỉ đường cho kẻ bị lạc hướng, đem đèn sáng vào trong
bóng tối để những ai có mắt có thể thấy sắc. Cũng vậy, Chánh pháp đã
được Tôn giả Gotama dùng nhiều phương tiện trình bày, giải thích. Vậy
nay con xin quy y Thế Tôn, quy y pháp, quy y chúng Tỷ-kheo Tăng. Mong
Thế Tôn nhận con làm đệ tử cư sĩ, từ nay cho đến mạng chung, con trọn
đời quy ngưỡng.
- Này Sìha, hãy chín chắn suy tư, hãy chín chắn suy tư là tốt đẹp với
những người trứ danh như Ông.
- Bạch Thế Tôn, con càng bội phần hoan hỷ, bội phần thỏa mãn với
những lời Thế Tôn nói với con: "Này Sìha, hãy chín chắn suy tư, hãy chín
chắn suy tư là tốt đẹp với những người trứ danh như Ông". Bạch Thế Tôn,
nếu các ngoại đạo được con làm đệ tử, họ sẽ trương cờ lên và tuyên bố:
"Tướng quân Sìha đã trở thành đệ tử của chúng tôi". Nhưng Thế Tôn lại
nói với con: "Này Sìha, hãy chín chắn suy tư, hãy chín chắn suy tư là
tốt đẹp với những người trứ danh như Ông. Bạch Thế Tôn, lần thứ hai con
xin quy y Thế Tôn, quy y pháp, quy y chúng Tỷ-kheo Tăng. Mong Thế Tôn
nhận con làm đệ tử cư sĩ, từ nay cho đến mạng chung, con trọn đời quy
ngưỡng.
- Này Sìha, đã từ lâu gia đình Ông như là giếng nước mưa nguồn cho
các người Niganthà. hãy cúng dường những món ăn cho những ai đến với
Ông.
- Bạch Thế Tôn, con lại bội phần hoan hỷ, bội phần thỏa mãn với những
lời Thế Tôn nói với con: "Này Sìha, đã từ lâu gia đình Ông như là giếng
nước mưa nguồn cho các người Niganthà. hãy cúng dường những món ăn cho
những ai đến với Ông". Bạch Thế Tôn, con không nghe như sau, Sa-môn
Gotama nói: "Chỉ bố thí cho Ta, chớ bố thí cho các người khác. Chỉ bố
thí cho các đệ tử Ta, chớ bố thí cho đệ tử các người khác. Chỉ bố thí
cho Ta mới có phước lớn, bố thí cho những người khác không có phước lớn.
Chỉ bố thí cho đệ tử Ta mới có phước lớn, bố thí cho đệ tử những người
khác không có phước lớn". Nhưng Thế Tôn lại khuyến khích con bố thí cho
Niganthà.
Bạch Thế Tôn, và chúng con ở đây sẽ biết thời nên làm. Bạch Thế Tôn,
lần thứ ba con xin quy y Thế Tôn, quy y pháp, quy y chúng Tỷ-kheo Tăng.
Mong Thế Tôn nhận con làm đệ tử cư sĩ, từ nay cho đến mạng chung, con
trọn đời quy ngưỡng.
9. Rồi Thế Tôn thuận thứ thuyết pháp
cho tướng quân Sìha, tức là thuyết về bố thí, thuyết về giới, thuyết về
các cõi Trời, trình bày sự nguy hiểm, sự hạ liệt, sự nhiễm ô của các
dục, những lợi ích của xuất ly. Khi Thế Tôn biết tướng quân Sìha, tâm đã
sẵn sàng, tâm đã nhu thuận, tâm không triền cái, tâm được phần khởi,
tâm được hoan hỷ, Ngài mới thuyết những pháp được chư Phật tán dương đề
cao: "Khổ, Tập, Diệt, Ðạo". Cũng như một tấm vải thuần bạch, các chấm
đen được gột rửa, rất dễ thấm màu nhuộm. Cũng vậy, chính tại chỗ ngồi
ấy, pháp nhãn xa tràn ly cấu khởi lên, tất cả pháp ấy đều bị tiêu diệt.
10. Rồi tướng quân Sìha thấy pháp,
chứng pháp, biết pháp, thể nhập vào pháp, nghi ngờ vượt qua, do sự trừ
diệt, đạt được vô sở úy, không y cứ người khác đối với các pháp của bậc
Ðạo sư. (Tướng quân Sìha) bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, Thế Tôn hãy nhận lời mời của con, ngày mai tới dùng
cơm với chúng Tỷ-kheo.
Thế Tôn im lặng nhận lời. Rồi tướng quân Sìha biết được Thế Tôn đã
nhận lời, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Thế Tôn, thân bên hữu hướng về
Ngài rồi đi ra. Rồi tướng quân cho gọi một người: Này người kia, hãy tìm
cho thịt tươi.
Rồi tướng quân Sìha, sau đêm ấy tại trú xứ của mình, cho soạn các món
ăn thượng vị, loại cứng và mềm, rồi cho người tới báo tin với Thế Tôn:
"Bạch Thế Tôn, nay đã đến thời. Tại trú xứ của tướng quân Sìha, món ăn
đã sẵng sàng".
11. Rồi Thế Tôn, vào buổi sáng, đắp
y, cầm y bát, đến trú xứ của tướng quân Sìha; sau khi đến, ngồi xuống
trên chỗ đã soạn sẵn, với chúng Tỷ-kheo. Lúc bấy giờ nhiều người
Niganthà ở Vesàli, từ đường lớn này đến đường lớn khác, từ đường hẻm này
đến đường hẻm khác, múa tay la lớn: "Hôm nay, tướng quân Sìha đã giết
một con thú lớn, và một bữa cơm được soạn cho Sa-môn Gotama, và Sa-môn
tuy biết vậy, vẫn ăn món thịt được sửa soạn, do duyên vì mình được sửa
soạn ra". Rồi một người đi đến tướng quân Sìha, sau khi đến, nói nhỏ vào
tai tướng quân Sìha,: "Thưa Tôn giả, Tôn giả có biết chăng? Nhiều
Niganthà ở Vesàli, từ đường lớn này đến đường lớn khác, từ đường hẻm này
đến đường hẻm khác, múa tay la lớn: "Hôm nay, tướng quân Sìha đã giết
một con thú lớn, và một bữa cơm đã được
soạn cho Sa-môn Gotama, và Sa-môn tuy biết vậy, vẫn ăn món thịt được sửa
soạn, do duyên vì mình được sửa soạn ra". -Thôi vừa rồi, này bạn. Ðã
lâu rồi, các Tôn giả ấy muốn chỉ trích Phật, muốn chỉ trích Pháp, muốn
chỉ trích các chúng Tăng. Nhưng các Tôn giả ấy không làm hại gì được Thế
Tôn với những lời xuyên tạc không có thật, trống rỗng, láo khoét. Và
chúng ta không vì sinh mạng lại cố ý sát hại sinh mạng của loài hữu
tình.
12. Rồi tướng quân Sìha tự tay mình
hầu hạ và làm cho thỏa mãn chúng Tỷ-kheo với Đức Phật và người cầm đầu
các món ăn thượng vị, loại cứng và mềm. Rồi tướng quân Sìha, sau khi
biết Thế Tôn ăn đã xong, bàn tay đã rời khỏi bát, liền ngồi xuống một
bên, và Thế Tôn với bài pháp thoại thuyết giảng cho tướng quân Sìha,
khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ, rồi từ chỗ ngồi đứng dậy
ra đi.
(III) (13) Con Ngựa Thuần Thục
1. - Ðầy đủ với tám đức tánh, này
các Tỷ-kheo, một con ngựa của vua hiền thiện, thuần thục, xứng đáng để
vua dùng, thuộc quyền sở sữu của vua, và được xem như là biểu tượng của
vua. Thế nào là tám?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, một con
ngựa của vua hiền thiện, thuần thục, khéo sanh cả hai từ mẫu hệ và phụ
hệ, tại phương hướng nào, các con ngựa hiền thiện, thần thục không sanh
trưởng, tại phương hướng ấy, con ngựa ấy được sanh; họ cho ăn các món ấn
gì, ướt hay khô, con ngựa ấy ăn một cách cẩn thận, không có làm rơi
rớt. Con ngựa ấy nhàm chán khi phải đứng hay nằm gần phân hay nước tiểu;
con ngựa ấy sống hoan hỷ và dễ dàng sống chung với các con ngựa khác,
và không làm các con ngựa khác hoảng sợ. Phàm có những gian dối, giả
dối, xảo trá, quanh co gì, nó nêu rõ như thật cho người đánh xe biết, và
người đánh xe cố gắng nhiếp phục nó. Khi đang kéo xe, nó nghĩ: "Hãy để
cho các con ngựa khác muốn hay không muốn kéo, còn ta, ta sẽ kéo". Khi
đi, nó đi con đường thẳng. Kiên
trì, nó kiên trì cho đến khi mạng sống chấm dứt.
Thành tựu tám pháp này, này các Tỷ-kheo, một con ngựa của vua hiền
thiện, thuần thục, xứng đáng để vua dùng, thuộc quyền sở sữu của vua, và
được xem như là biểu tượng của vua.
3. Như vậy, này các Tỷ-kheo, thành
tựu tám pháp này, Tỷ-kheo xứng đáng được cung kính ... là ruộng phương
vô thượng ở đời. Thế nào là tám?
4. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
giữ giới, sống chế ngự với sự chế ngự của giới bổn, đầy đủ uy nghi chánh
hạnh, thấy sợ hãi trong các lỗi nhỏ nhặt, chấp nhận và học tập trong
các học pháp. Phàm nhận các món đồ ăn gì, thô hay tế, vị ấy ăn một cách
cẩn thận, không có oán thán gì, vị ấy có nhàm chán, nhàm chán thân làm
ác, miệng nói ác, ý nghĩ ác, nhàm chán sự thành tựu các pháp ác bất
thiện. Vị ấy hoan hỷ và dễ dàng sống chung với các Tỷ-kheo khác, và
không làm các Tỷ-kheo khác hoảng sợ. Phàm có những gian dối, giả dối,
xảo trá, quanh co gì, nêu rõ như thật cho vị Ðạo sư hay các đồng Phạm
hạnh có trí cố gắng để nhiếp phục. Trong khi học tập, vị ấy khởi lên ý
nghĩ: "Hãy để cho các Tỷ-kheo khác học tập, hay không học tập, còn ta,
ta sẽ học tập ở đây ". Khi đi, vị ấy đi
con đường thẳng, tại đây, con đường thẳng này tức là Chánh tri kiến,
Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh
niệm, Chánh định. Vị ấy sống tinh cần, nghĩ rằng: "Dầu chỉ có da, gân
hay xương còn lại, dầu thịt và máu có khô cạn trong thân, điều mà sự
kiên của con người, sự tinh tấn của con người, sự nỗ lực có thể đạt
được, nếu chưa đạt được thời tinh tấn không có chấm dứt.
Thành tựu tám pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đáng được cung kính,
đáng được tôn trọng, đáng được cúng dường, đáng được chắp tay, là ruộng
phước vô thượng ở đời.
(IV) (14) Ngựa Chưa Ðiều Phục
1. - Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ giảng về
tám loại ngựa chưa điều phục, tám tánh xấu của con ngựa, tám hạng người
chưa điều phục, tám tánh xấu của con người. Hãy lắng nghe và uy niệm,
ta sẽ nói.
- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Các tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế tôn nói như sau:
2. - Này các Tỷ-kheo, thế nào là tám
loại ngựa chư được điều phục? Thế nào là tám tánh xấu của ngựa?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có loại ngựa chưa được điều phục, khi bảo đi,
bị gậy thúc, bị người đánh xe la và thúc đẩy, nó đi lùi, và với lưng,
làm chiếc xe chạy vòng lại. Như vậy, này các Tỷ-kheo, đây là loại ngựa
chưa được điều phục. Này các Tỷ-kheo, đây là tánh xấu thứ nhất của con
ngựa.
3. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, ở đây
có loại ngựa chưa được điều phục, khi baỏ đi, bị gậy thúc hay bị người
đánh xe la, nó nhảy lùi, đạp vào thành xe, làm gãy gọng xe. Như vậy, này
các Tỷ-kheo, đây là loại ngựa chưa được điều phục. Này các Tỷ-kheo, đây
là tánh xấu thứ hai của con ngựa.
4. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, ở đây
có loại ngựa chưa được điều phục, khi bảo đi, bị gậy thúc hay bị người
đánh xe la, rút bắp vế ra khỏi gọng xe và dẫm nát gọng xe. Như vậy, này
các Tỷ-kheo, đây là loại ngựa chưa được điều phục. Này các Tỷ-kheo, đây
là tánh xấu thứ ba của con ngựa.
5. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, ở đây
có loại ngựa chưa được điều phục, khi bảo đi, bị gậy thúc hay bị người
đánh xe la, liền đi con đường xấu và làm cho xe bị lạc hướng. Như vậy,
này các Tỷ-kheo, đây là loại ngựa chưa được điều phục. Này các Tỷ-kheo,
đây là tánh xấu thứ tư của con ngựa.
6. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, ở đây
có loại ngựa chưa được điều phục, khi bảo đi, bị gậy thúc hay bị người
đánh xe la, nó trường đứng phía chân trước và đạp lên không trung với
chân trước. Như vậy, này các Tỷ-kheo, đây là loại ngựa chưa được điều
phục. Này các Tỷ-kheo, đây là tánh xấu thứ năm của con ngựa.
7. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, ở đây
có loại ngựa chưa được điều phục, khi bảo đi, bị gậy thúc hay bị người
đánh xe la, không để ý đến người đánh xe la, không để ý đến cây gậy thúc
ngựa, lấy răng nghiền hàm thiết (khớp ngựa) ngựa và đi chỗ nào nó muốn.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, đây là loại ngựa chưa được điều phục. Này các
Tỷ-kheo, đây là tánh xấu thứ sáu của con ngựa.
8. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, ở đây
có loại ngựa chưa được điều phục, khi bảo đi, bị gậy thúc hay bị người
đánh xe la, không đi tới, không đi lui, đứng lại tại chỗ như một cột
trụ. Như vậy, này các Tỷ-kheo, đây là loại ngựa chưa được điều phục. Này
các Tỷ-kheo, đây là tánh xấu thứ bảy của con ngựa.
9. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, ở đây
có loại ngựa chưa được điều phục, khi bảo đi, bị gậy thúc hay bị người
đánh xe la, liền tréo hai chân trước, tréo lại hai chân sau, và quỵ
xuống bốn chân tại đấy. Như vậy, này các Tỷ-kheo, đây là loại ngựa chưa
được điều phục. Này các Tỷ-kheo, đây là tánh xấu thứ tám của con ngựa.
Này các Tỷ-kheo, đây là tám loại ngựa chưa được điều phục và tám tánh
xấu của con ngựa.
10. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
tám hạng người chưa được điều phục và tám tánh xấu của con người?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, các Tỷ-kheo buộc tội một Tỷ-kheo phạm tội.
Tỷ-kheo ấy bị các Tỷ-kheo buộc tội, tránh né (vấn đề) như là không nhớ,
nói rằng: "Tôi không nhớ, tôi không nhớ ". Ví như, này các Tỷ-kheo, con
ngựa chưa được điều phục ấy, khi bảo đi, bị gậy thúc, hay bị người đánh
xe la, nó đi lùi với cái lưng làm cho cái xe chạy vòng lại. Này các
Tỷ-kheo, Ta nói rằng, người này giống như ví dụ ấy. Như vậy, này các
Tỷ-kheo, đây là hạng người chưa được điều phục. Này các Tỷ-kheo, đây là
tánh xấu thứ nhất của con người.
11. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, các
Tỷ-kheo buộc tội một Tỷ-kheo phạm tội. Tỷ-kheo ấy bị các Tỷ-kheo buộc
tội, phát ra lời chất vấn Tỷ-kheo buộc tội: "Thầy lấy quyền gì mà nói,
này kẻ ngu Sìha không thông minh? Tại sao Thầy nghĩ rằng Thầy phải nói?
"Ví như, này các Tỷ-kheo, con ngựa chưa được điều phục ấy, khi bảo đi,
bị gậy thúc, hay bị người đánh xe la, nó nhảy lùi lại, đạp vào thành xe,
làm gãy gọng xe. Này các Tỷ-kheo, Ta nói rằng, người này giống như ví
dụ ấy. Như vậy, này các Tỷ-kheo, ở đây là hạng người chưa được điều
phục. Này các Tỷ-kheo, đây là tánh xấu hai của con người.
12. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, các
Tỷ-kheo buộc tội một Tỷ-kheo phạm tội. Tỷ-kheo ấy bị các Tỷ-kheo buộc
tội, liền cật nạn Tỷ-kheo buộc tội: "Thầy cũng phạm tội tên là như vậy.
Vậy Thầy hãy phát lộ trước". Ví như, này các Tỷ-kheo, con ngựa chưa được
điều phục ấy, khi bảo đi, bị gậy thúc, hay bị người đánh xe la, rút bắp
vế ra khỏi xe và dẫm nát gọng xe. Này các Tỷ-kheo, Ta nói rằng, người
này giống như ví dụ ấy. Như vậy, Ở đây là hạng người chưa được điều
phục. Này các Tỷ-kheo, đây là tánh xấu ba của con người.
13. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, các
Tỷ-kheo buộc tội một Tỷ-kheo phạm tội. Tỷ-kheo ấy bị các Tỷ-kheo buộc
tội, liền tránh né vấn đề với một vấn đề khác, hướng dẫn câu chuyện ra
ngoài và biểu lộ phẫn nộ, sân hận, bất mãn. Ví như, này các Tỷ-kheo, con
ngựa chưa được điều phục ấy, khi bảo đi, bị gậy thúc, hay bị người đánh
xe la, liền đi vào con đường xấu và làm cho xe bị lạc hướng. Này các
Tỷ-kheo, Ta nói rằng, người này giống như ví dụ ấy. Như vậy, này các
Tỷ-kheo, ở đây là hạng người chưa được điều phục. Này các Tỷ-kheo, đây
là tánh xấu thứ tư của con người.
14. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, các
Tỷ-kheo buộc tội một Tỷ-kheo phạm tội. Tỷ-kheo ấy bị các Tỷ-kheo buộc
tội, liền nói ba hoa, khua tay múa chân. Này các Tỷ-kheo, ví như con
ngựa chưa được điều phục ấy, khi bảo đi, bị gậy thúc, hay bị người đánh
xe la, liền trườn đứng phía thân trước và đạp lên không với chân trước.
Này các Tỷ-kheo, Ta nói rằng, người này giống như ví dụ ấy. Như vậy, này
các Tỷ-kheo, ở đây là hạng người chưa được điều phục. Này các Tỷ-kheo,
đây là tánh xấu thứ năm của con người.
15. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, các
Tỷ-kheo buộc tội một Tỷ-kheo phạm tội. Tỷ-kheo ấy bị các Tỷ-kheo buộc
tội, không để ý đến chúng Tăng, không để ý đến các Tỷ-kheo buộc tội, với
tội phạm và như một người bị xúc phạm, vị ấy đi chỗ nào vị ấy muốn. Này
các Tỷ-kheo, ví như con ngựa chưa được điều phục ấy, khi bảo đi, bị gậy
thúc, hay bị người đánh xe la, không để ý đến người đánh xe, không để ý
đến cây roi, lấy răng nghiến hàm thiết ngựa, và đi chỗ nào nó muốn. Này
các Tỷ-kheo, Ta nói rằng, người này giống như ví dụ ấy. Như vậy, này
các Tỷ-kheo, ở đây là hạng người chưa được điều phục. Này các Tỷ-kheo,
đây là tánh xấu thứ sáu của con người.
16. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, các
Tỷ-kheo buộc tội một Tỷ-kheo phạm tội. Tỷ-kheo ấy bị các Tỷ-kheo buộc
tội, liền nói: "Tôi không phạm tội, tôi không có phạm tội" và vị ấy làm
chúng Tăng bực mình với sự im lặng. Này các Tỷ-kheo, ví như con ngựa
chưa được điều phục ấy, khi bảo đi, bị gậy thúc, hay bị người đánh xe
la, không đi tới, không đi lui, đứng lại tại chỗ như một cột trụ. Này
các Tỷ-kheo, Ta nói rằng, người này giống như ví dụ ấy. Như vậy, này các
Tỷ-kheo, đây là hạng người chưa được điều phục. Này các Tỷ-kheo, đây là
tánh xấu thứ bảy của con người.
17. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, các
Tỷ-kheo buộc tội một Tỷ-kheo phạm tội. Tỷ-kheo ấy bị các Tỷ-kheo buộc
tội, nói như sau: "Tại sao các Tôn giả lại quá lo cho tôi. Bắt đầu từ
nay, tôi sẽ từ bỏ học pháp và hoàn tục". Rồi vị ấy sau khi từ bỏ học
pháp và hoàn tục nói như sau: "Nay các Tôn giả ấy được hoan hỷ". Này các
Tỷ-kheo, ví như con ngựa chưa được điều phục ấy, khi bảo đi, bị gậy
thúc, hay bị người đánh xe la, liền tréo lại hai chân trước, tréo lại
hai chân sau và nằm xuống bốn chân tại đấy. Này các Tỷ-kheo, Ta nói
rằng, người này giống như ví dụ ấy. Như vậy, này các Tỷ-kheo, đây là
hạng người chưa được điều phục. Này các Tỷ-kheo, đây là tánh xấu thứ tám
của con người.
Này các Tỷ-kheo, đây là tám hạng người chưa được điều phục và tám
tánh xấu của con người.
(V) (15) Các Cấu Uế
1. - Này các Tỷ-kheo, có tám tâm cấu
uế này, thế nào là tám?
2. Này các Tỷ-kheo, không đọc tụng
là cấu uế của Thánh điển; này các Tỷ-kheo, không thức dậy là cấu uế của
nhà; này các Tỷ-kheo, biếng nhác là cấu uế của dung sắc; này các
Tỷ-kheo, phóng dật là cấu uế của phòng hộ; này các Tỷ-kheo, ác hạnh là
cấu uế của đàn bà; này các Tỷ-kheo, xan tham là cấu uế của bố thí; các
pháp ác, bất thiện, là cấu uế của đời này và đời sau. Nhưng này các
Tỷ-kheo, còn có cấu uế lớn hơn các cấu uế. Vô minh là cấu uế lớn nhất.
Này các Tỷ-kheo, đây là tám loại cấu uế.
Không tụng làm nhớp kinh
Không dậy làm nhớp nhà
Biếng nhác làm nhớp dung sắc
Phóng dật làm nhớp phòng hộ
Ác hạnh nhớp mỹ nhân
Xan tham nhớp bố thí
Các pháp ác làm nhớp
Ðời này và đời sau
Nhưng có loại cấu uế
Hơn tất cả cấu uế
Ðấy chính là vô minh
Là cấu uế lớn nhất.
(VI) (16) Sứ Giả
1. - Thành tựu tám pháp này, này các
Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo xứng đáng đi làm sứ giả. Thế nào là tám?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
là người nghe, khiến người khác nghe, học và khiến người khác thọ trì,
biết và khiến người khác biết, thiện xảo trong vấn đề thích hợp và không
thích hợp (hay vấn đề kinh điển hay không kinh điển), không phải là
người ưa cãi nhau.
Thành tựu tám pháp này, này các Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo xứng đáng đi làm
sứ giả.
3. Thành tựu tám pháp này, này các
Tỷ-kheo, Sàriputta (Xá-lợi-phất) xứng đáng đi làm sứ giả. Thế nào là
tám?
4. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Sàriputta
là người nghe, và khiến người khác nghe, học và khiến người khác thọ
trì, biết và khiến người khác biết, thiện xảo trong vấn đề thích hợp và
không thích hợp, không phải là người ưa cãi nhau.
Thành tựu tám pháp này, này các Tỷ-kheo, Sàriputta xứng đáng đi làm
sứ giả:
Với ai không run sợ,
Ðến hội chúng bạo ngôn
Không quên lời đã học
Không che giấu giáo pháp
Không nói lời nghi hoặc
Ðược hỏi không phẫn nộ
Vị Tỷ-kheo như vậy,
Xứng đáng đi sứ giả.
(VII) (17) Sự Trói Buộc Của Nữ Nhân
1. - Với tám hình tướng, này các
Tỷ-kheo, nữ nhân trói buộc nam nhân. Thế nào là tám?
2. Này các Tỷ-kheo, nữ nhân trói
buộc nam nhân với sắc; này các Tỷ-kheo nữ nhân trói buộc nam nhân với
tiếng cười; này các Tỷ-kheo, nữ nhân trói buộc nam nhân với lời nói; này
các Tỷ-kheo, nữ nhân trói buộc nam nhân với lời ca; này các Tỷ-kheo, nữ
nhân trói buộc nam nhân với nước mắt; này các Tỷ-kheo, nữ nhân trói
buộc nam nhân với áo quần; này các Tỷ-kheo, nữ nhân trói buộc nam nhân
với vật tặng; này các Tỷ-kheo, nữ nhân trói buộc nam nhân với xúc chạm.
Với tám hình tướng, này các Tỷ-kheo, nữ nhân trói buộc nam nhân. Các
loài hữu tình bị khéo trói buộc bởi các hình tướng ấy, giống như trói
buộc bởi bẫy sập.
(VIII) (18) Nam Nhân Trói Buộc
1. - Với tám hình tướng, này các
Tỷ-kheo, nam nhân trói buộc nữ nhân. Thế nào là tám?
2. Này các Tỷ-kheo, nam nhân trói
buộc nữ nhân với sắc; này các Tỷ-kheo nam nhân trói buộc nữ nhân với
tiếng cười; này các Tỷ-kheo, nam nhân trói buộc nữ nhân với lời nói; này
các Tỷ-kheo, nam nhân trói buộc nữ nhân với lời ca; này các Tỷ-kheo,
nam nhân trói buộc nữ nhân với nước mắt; này các Tỷ-kheo, nam nhân trói
buộc nữ nhân với áo quần; này các Tỷ-kheo, nam nhân trói buộc nữ nhân
với vật tặng; này các Tỷ-kheo, nam nhân trói buộc nữ nhân với xúc chạm.
Với tám hình tướng, này các Tỷ-kheo, nam nhân trói buộc nữ nhân. Các
loài hữu tình bị khéo trói buộc bởi các hình tướng ấy, giống như trói
buộc bởi bẫy sập.
(IX)
(19) A-Tu-La Pahàràda
1. Một thời, Thế Tôn trú ở Veranjà,
dưới gốc cây Nalerupucimanda. Rồi vua A-tu-la Pahàràda đi đến Thế Tôn,
sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn, rồi đứng một bên. Thế Tôn nói với vua
A-tu-la Pahàràda đang đứng một bên:
- Này Pahàràda, có phải các A-tu-la thích thú biển lớn?
- Bạch Thế Tôn, các A-tu-la thích thú biển lớn.
- Này Paràhàda, có bao nhiêu sự vi diệu chưa từng có trong biển lớn
mà do thấy chúng , các A-tu-la thích thú biển lớn?
- Bạch Thế Tôn, có tám vi diệu chưa từng có trong biển lớn mà do thấy
chúng, các A-tu-la thích thú biển lớn. Thế nào là tám?
2. Bạch Thế Tôn, biển lớn tuần tự
thuận xuôi, tuần tự thuận hướng, tuần tự sâu dần, không có thình lình
như một vực thẳm. Vì rằng bạch Thế Tôn, vì rằng biển lớn tuần tự thuận
xuôi, tuần tự thuận hướng, tuần tự sâu dần, không có thình lình như một
vực thẳm, nên bạch Thế Tôn, đây là vi diệu chưa từng có thứ nhất, do
thấy vậy, thấy vậy, các A-tu-la thích thú biển lớn.
3. Lại nữa, bạch Thế Tôn, biển lớn
đứng một chỗ, không có vượt qua bờ. Vì rằng bạch Thế Tôn, biển lớn đứng
một chỗ, không có vượt qua bờ, bạch Thế Tôn, đây là vi diệu chưa từng có
thứ hai, do thấy vậy, thấy vậy, các A-tu-la thích thú biển lớn.
4. Lại nữa, bạch Thế Tôn, biển lớn
không có chấp chứa xác chết. Nếu có xác chết trong biển lớn, lập tức bị
quăng lên bờ hay vất lên đất liền. Vì rằng bạch Thế Tôn, biển lớn không
có chấp chứa xác chết. Nếu có xác chết trong biển lớn, lập tức bị quăng
lên bờ hay vất lên đất liền . Nên Bạch Thế Tôn đây là vi diệu chưa từng
có thứ ba, do thấy vậy, thấy vậy, các A-tu-la thích thú biển lớn.
5. Lại nữa, bạch Thế Tôn, phàm có
các con sông lớn nào, ví như sông hằng, sông Yamunà, sông Aciravatì,
sông Sarabhù, Sông Mahì, các con sông ấy khi chảy đến biển, liền bỏ tên
họ cũ trở thành biển lớn. Vì rằng, phàm có các con sông lớn nào, ví như
sông Hằng ... trở thành biển lớn, nên bạch Thế Tôn, đây là vi diệu chưa
từng có thứ tư, do thấy vậy, thấy vậy, các A-tu-la thích thú biển lớn.
6. Lại nữa, bạch Thế Tôn, phàm có
những dòng nước gì ở đời chảy vào biển lớn, phàm có những nước mưa từ
trời rơi xuống, nhưng không vì vậy biển lớn được thấy có vơi có đầy.
Bạch Thế Tôn, vì rằng, phàm có những dòng nước gì ở đời chảy vào biển
lớn, phàm có những nước mưa từ trời rơi xuống, nhưng không vì vậy biển
lớn được thấy có vơi có đầy, bạch Thế Tôn, đây là vi diệu chưa từng có
thứ năm, do thấy vậy, thấy vậy, các A-tu-la thích thú biển lớn.
7. Lại nữa, bạch Thế Tôn, biển lớn
chỉ có một vị là vị mặn. Vì rằng, bạch Thế Tôn, biển lớn chỉ có một vị
là vị mặn, nên bạch Thế Tôn, đây là vi diệu chưa từng có thứ sáu do thấy
vậy, thấy vậy, các A-tu-la thích thú biển lớn.
8. Lại nữa, bạch Thế Tôn, biển lớn
có nhiều châu báu, nhiều loại châu báu, ở đây có những châu báu này, như
chân trâu, ma-ni châu, lưu-ly, xa-cừ, ngọc bích, san hô, bạc, vàng,
ngọc đỏ, mã não. Vì rằng, Bạch Thế Tôn , biển lớn có nhiều châu báu,
nhiều loại châu báu, ở đây có những châu báu này, như chân trâu, ma-ni
châu, lưu-ly, xa-cừ, ngọc bích, san hô, bạc, vàng, ngọc đỏ, mã não. Bạch
Thế Tôn đây là vi diệu chưa từng có thứ bảy, do thấy vậy, thấy vậy, các
A-tu-la thích thú biển lớn.
9. Lại nữa, bạch Thế Tôn, biển lớn
là trú xứ các loại chúng sanh lớn, tại đấy, có những chúng sanh như các
con Timi, Timingalà, Timiramingalà, những loại Asurà (A-tu-la), các loại
Nàgà, các loại Gandhabbà. Trong biển có những loài hữu tình có tự ngã
dài một trăm do tuần, hai trăm, ba trăm, bốn trăm, năm trăm do tuần. Vì
rằng, bạch Thế Tôn, biển lớn là trú xứ các loài chúng sanh lớn ... năm
trăm do tuần, nên bạch Thế Tôn, đây là vi diệu chưa từng có thứ tám, do
thấy vậy, thấy vậy, các A-tu-la thích thú biển lớn. Nhưng bạch Thế Tôn,
các Tỷ-kheo có thích thú trong Pháp và Luật này?
- Này Pahàràda, Tỷ-kheo có thích thú trong Pháp và Luật này.
- Bạch Thế Tôn, trong Pháp và Luật này có bao nhiêu pháp vi diệu chưa
từng có mà do thấy chúng, thấy chúng các Tỷ-kheo thích thú trong pháp
và luật này?
10. - Này Pahàràda, có tám pháp vi
diệu này chưa từng có trong Pháp và Luật mà do thấy chúng, thấy chúng
các Tỷ-kheo thích thú trong pháp và luật này. Thế nào là tám?
11. Ví như, này Pahàràda, biển lớn
tuần tự thuận xuôi, tuần tự thuận hướng, tuần tự sâu dần, không có thình
lình như một vực thẳm. Cũng vậy, này Pahàràda, trong Pháp và Luật này,
các học pháp là tuần tự, các quả dị thục là tuần tự, các con đường là
tuần tự, không có sự thể chấp chánh trí thình lình. Này Pahàràda, vì
rằng trong pháp và luật này, các học pháp là tuần tự, các quả dị thục là
tuần tự, các con đường là tuần tự, không có sự thể chấp chánh trí thình
lình, nên này Pahàràda, đây là vi diệu chưa từng có thứ nhất mà do thấy
vậy, thấy vậy, các Tỷ-kheo thích thú trong Pháp và Luật này.
12. Ví như, này Pahàràda, biển lớn
đứng một chỗ, không có vượt qua bờ. Cũng vậy, này Pahàràda, khi các học
pháp được ta sửa soạn cho các đệ tử, các đệ tử của ta, dầu cho vì nhân
sinh mạng, cũng không vượt qua,. Vì rằng này Pahàràda các học pháp được
ta sửa soạn cho các đệ tử, các đệ tử của ta, dầu cho vì nhân sinh mạng,
cũng không vượt qua,. Nên này Pahàràda, trong Pháp và Luật này, đây là
vi diệu chưa từng có thứ hai do mà do thấy vậy, thấy vậy, các Tỷ-kheo
thích thú trong Pháp và Luật này.
13. Ví như, này Pahàràda, biển lớn
không có chấp chứa xác chết. Nếu có xác chết trong biển lớn, lập tức bị
quăng lên bờ hay vất lên đất liền. Cũng vậy, này Pahàràda, người nào là
ác giới, theo ác pháp, sở hành bất tịnh đáng nghi ngờ, có những hành vi
che đậy, không phải là Sa-môn, nhưng tự nhận là Sa-môn, không phải sống
Phạm hạnh nhưng tự nhận có Phạm hạnh, nội tâm hôi hám, ứ đầy tham dục,
tánh tình bất tịnh. Chúng Tăng không sống chung với người ấy, lập tức
hội họp lại và đuổi người ấy ra khỏi. Dầu cho người ấy có ngồi giữa
chúng Tỷ-kheo Tăng, nhưng người ấy sống xa chúng Tăng và chúng Tăng sống
xa người ấy. Vì rằng, này Pahàràda, người ấy là ác giới, theo ác pháp,
... tánh tình bất tịnh ... và chúng Tăng sống xa vị ấy, nên này
Pahàràda, trong pháp và luật này, đây
là pháp vi diệu chưa từng có thứ ba mà do thấy vậy, thấy vậy, các
Tỷ-kheo thích thú trong Pháp và Luật này.
14. Ví như, này Pahàràda, phàm có
các con sông lớn nào, ví như sông hằng, sông Yamunà, sông Aciravatì,
sông Sarabhù, Sông Mahì, các con sông ấy khi chảy đến biển, liền bỏ tên
họ cũ trở thành biển lớn. Cũng vậy, này Pahàràda, có bốn giai cấp:
Sát-đế-lỵ, Bà-la-môn, Phệ-xá, Thủ-đà, sau khi từ bỏ gia đình, sống không
gia đình, xuất gia trong Pháp và Luật được Như Lai tuyên bố, họ từ bỏ
tên và họ của họ từ trước, và họ trở thành những Sa-môn Thích tử. Này
Pahàràda, trong Pháp và Luật này, đây là pháp vi diệu chưa từng có thứ
tư mà do thấy vậy, thấy vậy, các Tỷ-kheo thích thú trong Pháp và Luật
này.
15. Ví như, này Pahàràda, phàm có
những dòng nước gì ở đời chảy vào biển lớn, phàm có những nước mưa từ
trời rơi xuống, nhưng không vì vậy biển lớn được thấy có vơi có đầy.
Cũng vậy, này Pahàràda, nếu có nhiều Tỷ-kheo nhập vào Niết-bàn giới
không có dư y, Niết-bàn giới cũng không vì vậy được thấy có vơi có đầy.
Này Pahàràda, nếu có nhiều vị Tỷ-kheo nhập vào Niết-bàn giới không có dư
y, Niết-bàn giới cũng không vì vậy được thấy có vơi có đầy. Này
Pahàràda, trong Pháp và Luật này, đây là pháp vi diệu chưa từng có thứ
năm mà do thấy vậy, thấy vậy, các Tỷ-kheo thích thú trong Pháp và Luật
này.
16. Ví như, này Pahàràda, biển lớn
chỉ có một vị mặn. Cũng vậy, này Pahàràda, Pháp và Luật cũng chỉ có một
vị là vị giải thoát. Này Pahàràda, trong Pháp và Luật này, đây là pháp
vi diệu chưa từng có thứ sáu mà do thấy vậy, thấy vậy, các Tỷ-kheo thích
thú trong Pháp và Luật này.
17. Ví như, này Pahàràda, biển lớn
có nhiều châu báu, có nhiều loại châu báu, ở đây có những châu báu này,
như chân trâu, ma-ni châu, lưu-ly, xa-cừ, ngọc bích, san hô, bạc, vàng,
ngọc đỏ, mã não. Cũng vậy, này Pahàràda, Pháp và Luật này có nhiều châu
báu, nhiều loại châu báu, ở đấy có những châu báu này, như Bốn niệm xứ,
Bốn chánh cần, Bốn như ý túc, Năm cần, Năm lực, Bảy giác chi, Thánh đạo
tám ngành. Này Pahàràda, vì rằng Pháp và Luật này có nhiều châu báu,
nhiều loại châu báu, ở đấy có những châu báu này, như Bốn niệm xứ ...
Thánh đạo tám ngành, nên này Pahàràdan, trong Pháp và Luật này, đây là
pháp vi diệu chưa từng có thứ bảy mà do thấy vậy, thấy vậy, các Tỷ-kheo
thích thú trong Pháp và Luật này.
18. Ví như, này Pahàràda, biển lớn
là trú xứ các loại chúng sanh lớn, tại đấy, có những chúng sanh như các
con Timi, Timingalà, Timiramingalà, những loại Asurà (A-tu-la), các loại
Nàgà, các loại Gandhabbà. Trong biển có những loài hữu tình với tự ngã
dài một trăm do tuần, hai trăm, ba trăm, bốn trăm, năm trăm do tuần.
Cũng vậy, này Pahàràda, Pháp và Luật là trú xứ của các loài chúng sanh
lớn. Ở đấy có những loại chúng sanh này: bậc Dự lưu, bậc đã hướng đến
chứng ngộ Dự lưu quả, bậc Nhất Lai, bậc đã hướng đến chứng ngộ Nhất lai
quả, bậc Bất lai, bậc đã hướng đến chứng ngộ Bất lai quả, bậc A-la-hán,
bậc đã hướng đến chứng ngộ quả A-la-hán. Này Pahàràda, vì rằng Pháp và
Luật này là trú xứ của các loại chúng sanh lớn. Ở đấy có những chúng
sanh này ... quả A-la-hán. Này
Pahàràda, trong Pháp và Luật này, đây là pháp vi diệu chưa từng có thứ
tám mà do thấy vậy, thấy vậy, các Tỷ-kheo thích thú trong Pháp và Luật
này.
Này Pahàràda, đây là tám pháp vi diệu, chưa từng có trong pháp và
luật và do thấy vậy, do thấy vậy, các Tỷ-kheo thích thú trong Pháp và
Luật này.
(X) (20) Ngày Trai Giới
1. Như vầy tôi nghe:
Một thời, Thế Tôn trú ở Sàvavatthì, tại Ðông viên, chỗ lâu đài mẹ
Migàra. Lúc bấy giờ Thế Tôn, nhân ngày trai giới, đang ngồi, có chúng
Tăng đoanh vây. Rồi Tôn giả Ananda, khi đêm đã gần mãn, và canh một đã
qua, từ chỗ ngồi, đứng dậy, đắp thượng y vào một bên vai, chắp tay vái
chào Thế Tôn và bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, đêm đã gần mãn, canh một đã qua, chúng Tỷ-kheo đã
ngồi lâu, bạch Thế Tôn, Thế Tôn hãy đọc giới bổn cho các Tỷ-kheo.
Khi được nói vậy, Thế Tôn giữ im lặng.
2. Lần thứ hai, Tôn giả Ananda, khi
đêm đã gần mãn, và canh giữa đã qua, từ chỗ ngồi, đứng dậy, đắp thượng y
vào một bên vai, chắp tay vái chào Thế Tôn và bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, đêm đã gần mãn, canh cuối đã qua, chúng Tỷ-kheo đã
ngồi lâu, bạch Thế Tôn, Thế Tôn hãy đọc giới bổn cho các Tỷ-kheo.
3. Lần thứ ba, Tôn giả Ananda, khi
đêm đã gần mãn, và canh cuối đã qua, rạng đông đã khởi, mặt đêm đã sáng
rõ, từ chỗ ngồi, đứng dậy, đắp thượng y vào một bên vai, chắp tay vái
chào Thế Tôn và bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, đêm đã gần mãn, canh cuối đã qua, rạng đông đã khởi,
mặt đêm đã sáng tỏ, chúng Tỷ-kheo đã ngồi lâu, bạch Thế Tôn, Thế Tôn hãy
đọc giới bổn cho các Tỷ-kheo.
- Này Ananda, hội chúng không được thanh tịnh.
4. Rồi Tôn giả Mahàmoggallàna suy
nghĩ như sau: "Ðề cập đến người nào, Thế Tôn đã nói: "Này Ananda, hội
chúng không được thanh tịnh "? Rồi Tôn giả Mahàmoggallàna, với tâm của
mình, chú tâm tác ý đến toàn thể chúng Tỷ-kheo Tăng, Tôn giả thấy một
người ấy là ác giới, theo ác pháp, sở hành bất tịnh, đáng nghi ngờ, có
những hành vi che đậy, không phải là Sa-môn nhưng tự nhận là Sa-môn,
không sống Phạm hạnh nhưng tự nhận là sống Phạm hạnh, nội tâm hôi hám, ứ
đầy tham dục, tánh tình bất tịnh, đang ngồi giữa chúng Tỷ-kheo; thấy
vậy, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đi đến người ấy, sau khi đến, nói với
người ấy:
- Này Hiền giả, hãy đứng dậy. Thế Tôn đã thấy Ông. Ðối với Hiền giả,
không thể chung sống với các Tỷ-kheo.
- Ðược nói như vậy, người ấy im lặng. Lần thứ hai, Tôn giả
Mahàmoggallàna nói với người ấy:
- Này Hiền giả, hãy đứng dậy. Thế Tôn đã thấy Ông. Ðối với Hiền giả,
không thể chung sống với các Tỷ-kheo.
Lần thứ hai, người ấy im lặng. Lần thứ ba, Tôn giả Mahàmoggallàna nói
với người ấy:
- Này Hiền giả, hãy đứng dậy. Thế Tôn đã thấy Ông. Ðối với Hiền giả,
không thể chung sống với các Tỷ-kheo.
Lần thứ ba, người ấy im lặng.
5. Rồi Tôn giả Mahàmoggallàna nắm
lấy cánh tay người ấy, đẩy ra khỏi cửa, đóng chốt cửa lại, rồi đi đến
Thế Tôn, sau khi đến, bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, người ấy đã bị con đuổi ra khỏi. Hội chúng đã thanh
tịnh. Bạch Thế Tôn, hãy thuyết giới bổn cho chúng Tỷ-kheo.
- Thật vi diệu thay, này Mahàmoggallàna! Thật hy hữu thay, này
Mahàmoggallàna! Cho đến khi bị nắm tay, kẻ ngu sĩ kia mới đi.
Rồi Thế Tôn bảo các Tỷ-kheo:
- Này các Tỷ-kheo, các Thầy hãy hành trì Uposatha (Bố-tát), hãy đọc
giới bổn. Bắt đầu từ nay, này các Tỷ-kheo, Ta sẽ không đọc giới bổn. Này
các Tỷ-kheo, không có sự kiện, không có cơ hội rằng Như Lai có thể đọc
giới bổn trong một hội chúng không thanh tịnh.
7. Này các Tỷ-kheo, trong biển lớn
có tám pháp vi diệu chưa từng có này mà do thấy vậy, thấy vậy, các Asurà
(A-tu-la) thích thú biển lớn. Thế nào là tám?
Này các Tỷ-kheo, biển lớn tuần tự xuôi, tuần tự thuận hướng ... (như
trên, Kinh số 19, từ đoạn số 2 đến số 9) ... Này các Tỷ-kheo, đây
là vi diệu chưa từng có thứ tám mà do thấy vậy, thấy vậy, các Asurà
(A-tu-la) thích thú biển lớn.
Này các Tỷ-kheo, trong biển lớn có tám pháp vi diệu chưa từng có này
mà do thấy vậy, thấy vậy, các Asurà thích thú biển lớn.
8. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, trong
Pháp và Luật này có tám pháp vi diệu chưa từng có này mà do thấy vậy,
thấy vậy, các Asurà thích thú Pháp và Luật này. Thế nào là tám?
Ví như, này các Tỷ-kheo, biển lớn tuần tự thuận xuôi, tuần tự thuận
hướng ... (như trên 19, đoạn số 11 với những thay đổi cần thiết )
... Này các Tỷ-kheo, trong Pháp và Luật này, đây là vi diệu chưa từng
có thứ tám mà do thấy vậy, thấy vậy, các Tỷ-kheo hoan hỷ trong Pháp và
Luật này.
Này các Tỷ-kheo, trong Pháp và Luật này, có tám pháp vi diệu, chưa
từng có này mà do thấy vậy, thấy vậy, các Tỷ-kheo hoan hỷ trong Pháp và
Luật này.
III. Phẩm Gia Chủ
(I) (21) Ugga Ở Vesali
1.
Một thời, Thế Tôn trú ở Vesàli, tại Ðại
Lâm, ở ngôi nhà có nóc nhọn. Tại đấy, Thế Tôn bảo các Tỷ-kheo:
- "Này các Tỷ-kheo! ". - "Bạch Thế Tôn ".
Các tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế tôn nói như sau:
2. - Này các Tỷ-kheo, gia chủ Ugga,
người Vesàli, thành tựu tám pháp vi diệu chưa từng có. Các Thầy hãy thọ
trì như vậy.
Thế Tôn nói như vậy. Nói như vậy xong, bậc Thiện Thệ từ chỗ ngồi đứng
dậy đi vào tịnh xá.
3. Rồi một Tỷ-kheo đắp y vào buổi
sáng, cầm bát y, đi đến trú xá của gia chủ Ugga người Vesàli; sau khi
đến, liền ngồi xuống trên chỗ đã soạn sẵn. Rồi gia chủ Ugga người
Vesàli, đi đến Tỷ-kheo ấy, sau khi đến, đảnh lễ Tỷ-kheo ấy rồi ngồi
xuống một bên. Tỷ-kheo ấy nói với gia chủ Ugga, người Vesàli, đang ngồi
xuống một bên:
4. - Này gia chủ, Thế Tôn có nói
rằng: "Gia chủ Ugga người Vesàli này, thành tựu tám pháp vi diệu chưa
từng có". Này gia chủ, thế nào là tám pháp vi diệu chưa từng có ấy, mà
Thế Tôn nói gia chủ là người được thành tựu?
- Thưa Tôn giả, tôi không biết Thế Tôn đã nói tôi thành tựu tám pháp
vi diệu chưa từng có là gì. Nhưng thưa Tôn giả, tôi có tám pháp vi diệu
chưa từng có này, hãy lắng nghe và khéo tác ý, tôi sẽ nói:
- Vâng, này gia chủ.
Tỷ-kheo ấy vâng đáp gia chủ Ugga người Vesàli. Gia chủ Ugga người
Vesàli nói như sau:
5. - Thưa Tôn giả, khi tôi lần đầu
tiên chỉ từ xa thấy Thế Tôn thôi, thưa Tôn giả, chỉ thấy Thế Tôn thôi,
tâm tôi được tịnh tín. Thưa Tôn giả, đây là pháp vi diệu thứ nhất, được
có ở nơi tôi. Rồi thưa Tôn giả, với tâm tịnh tín ấy, tôi hầu hạ Thế Tôn.
Thế Tôn thuyết pháp thuận thứ cho tôi, như thuyết về bố thí, thuyết về
giới, thuyết về cõi Trời, nói đến sự nguy hại, hạ liệt, nhiễm ô của các
dục và sự lợi ích của viễn ly.
6. Khi Thế Tôn biết tôi tâm đã sẵn
sàng, tâm đã nhu thuận, tâm không triền cái, tâm được phấn khởi, tâm
được hoan hỷ, Thế Tôn mới thuyết những pháp được chư Phật tán dương đề
cao: "Khổ, Tập, Diệt, Ðạo". Cũng như một tấm vải thuần bạch, các chấm
đen được gột rửa, rất dễ thấm màu nhuộm. Cũng vậy, chính tại chỗ ngồi
ấy, pháp nhãn xa trần ly cấu khởi lên nơi tôi: "Phàm pháp gì được tập
khởi, tất cả Pháp ấy đều bị đoạn diệt". Rồi thưa Tôn giả, khi tôi thấy
pháp, đạt pháp, biết pháp, thể nhập vào pháp, nghi ngờ được vượt qua, do
dự trù diệt, đạt được vô sở úy, không ý cứ người khác đối với pháp bậc
Ðạo sư. Tại đấy, tôi quy y Phật, quy y Pháp và chúng Tăng, tôi thọ lãnh
năm học pháp về Phạm hạnh. Thưa Tôn giả, đây là pháp vi diệu chưa từng
có thứ hai, được có ở nơi tôi.
7. Thưa Tôn giả, tôi có bốn vợ đều
còn trẻ tuổi. Rồi tôi đi đến các người vợ ấy; sau khi đến, tôi nói với
các người vợ ấy như sau: "Này các vị, tôi đã thọ lãnh năm học pháp về
Phạm hạnh. Ai muốn, hãy hưởng thọ tài sản ở chỗ này, hay làm các công
đức, hay đi đến gia đình bà con của mình, hay ai có ưng ý người đàn ông
nào, tôi sẽ cho các vị". Ðược nói như vậy, thưa Tôn giả, người vợ lớn
của tôi nói với tôi: "Thưa gia chủ Ugga, hãy cho tôi người đàn ông tên
này". Rồi thưa Tôn giả, tôi cho mời người ấy lại, với tay trái tôi cầm
người vợ, với tay phải tôi cầm bình nước, rồi tôi rửa sạch người ấy.
Thưa Tôn giả, từ khi bỏ người vợ trẻ, tâm tôi không có một chút đổi
khác. Thưa Tôn giả, đây là pháp vi diệu, chưa từng có thứ ba, được có ở
nới tôi.
8. Thưa Tôn giả, có những tài sản ở
trong gia đình tôi, chúng được phân chia giữa những người có giới và
những người tốt lành. Thưa Tôn giả, đây là pháp vi diệu, chưa từng có
thứ tư, được có ở với tôi.
9. Khi tôi hầu hạ một Tỷ-kheo, tôi
hầu hạ rất cẩn thận, không phải không cẩn thận. Thưa Tôn giả, đây là
pháp vi diệu, chưa từng có thứ năm, được có ở với tôi.
10. Thưa Tôn giả, nếu Tôn giả ấy
thuyết pháp cho tôi, tôi nghe hết sức cẩn thận, không phải không cẩn
thận. Nếu Tôn giả ấy không thuyết pháp cho tôi, thời tôi thuyết pháp cho
vị ấy. Thưa Tôn giả, đây là pháp vi diệu, chưa từng có thứ sáu, được có
ở nơi tôi.
11. Thật không phải là vi diệu, thưa
Tôn giả, chư Thiên sau khi đến, bảo tôi: "Này gia chủ, Pháp được Thế
Tôn khéo thuyết giảng! ". Khi được nói vậy, thưa Tôn giả, tôi nói với
chư Thiên ấy như sau: "Dầu cho chư Thiên các người có nói như vậy hay
không nói như vậy, pháp được Thế Tôn khéo thuyết giảng ". Thưa Tôn giả,
tuy vậy tâm tôi không có tự hào về nhân duyên ấy, nghĩa là: "Chư Thiên
đến với ta, ta cùng nói chuyện với chư Thiên". Thưa Tôn giả, đây là pháp
vi diệu, chưa từng có thứ bảy, được có ở nơi tôi.
12. Thưa Tôn giả, năm hạ phần kiết
sử này được Thế Tôn thuyết giảng, tôi thấy rõ không có một pháp nào
không được đoạn tận ở nơi tôi. Thưa Tôn giả, đây là pháp vi diệu, chưa
từng có thứ tám, được có ở nơi tôi.
Thưa Tôn giả, tám pháp vi diệu chưa từng có này có mặt. Nhưng tôi
không biết Thế Tôn đã nói tôi thành tựu tám pháp vi diệu chưa từng có
nào?
13. Rồi Tỷ-kheo ấy, sau khi nhận đồ
ăn khất thực tại trú xứ của gia chủ Ugga, người Vesàli, từ chỗ ngồi đứng
dậy và ra đi. Rồi Tỷ-kheo ấy, sau khi ăn xong, trên con đường khất thực
trở về, đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một
bên. Ngồi xuống một bên, Tỷ-kheo ấy đem tất cả câu chuyện nói với gia
chủ Ugga người Vesàli thuật lại với Thế Tôn.
14. - Lành thay, lành thay! này
Tỷ-kheo, gia chủ Ugga người Vesàli nếu có trả lời một cách chơn chánh,
có thể trả lời như vậy. Này Tỷ-kheo, ta đã nói gia chủ Ugga người Vesàli
thành tựu tám pháp vi diệu chưa từng có này. Này Tỷ-kheo, hãy thọ trì
rằng gia chủ Ugga, người Vesàli, được thành tựu tám pháp vi diệu chưa
từng có này.
(II) (22) Ugga Người Hatthigama
1. Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân
chúng Vajji, tại làng Hatthi. Tại đấy, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo ... (như
kinh 21.1) ... Thế Tôn nói như sau:
2. - Này các Tỷ-kheo, gia chủ Ugga,
người Hatthigama, thành tựu tám pháp vi diệu chưa từng có. Các Thầy hãy
thọ trì như vậy.
Thế Tôn nói như vậy. Nói như vậy xong, bậc Thiện Thệ từ chỗ ngồi đứng
dậy đi vào tịnh xá.
3-4.
... (như kinh 21.3-4 ở trên, với các sửa đổi cần thiết ) ...
5. - Thưa Tôn giả, khi tôi còn vui
chơi ở rừng Nàga, lần đầu tiên, tôi thấy Thế Tôn từ đằng xa. Chỉ thấy
Thế Tôn thôi, thưa Tôn giả, tâm tôi được tịnh tín, và say rượu được đoạn
tận. Thưa Tôn giả, đây là pháp vi diệu, chưa từng có thứ nhất, được có ở
nơi tôi. Rồi thưa Tôn giả, với tâm tịnh tín ấy, tôi hầu hạ Thế Tôn. Rồi
Thế Tôn thuyết pháp thuận thứ cho tôi như thuyết pháp về bố thí, thuyết
về giới, thuyết về cõi trời, nói lên sự nguy hại, sự hạ liệt, nhiễm ô
của các dục và sự lợi ích của viễn ly.
6
- 8. (Pháp vi diệu thứ hai, thứ ba, thứ tư giống như kinh 21.6-8
với những thay đổi cần thiết) ... chưa từng có thứ tư, được có ở nơi
tôi.
9. Khi tôi hầu hạ một Tỷ-kheo, tôi
hầu hạ rất cản thận, không phải không cản thận. Thưa Tôn giả, nếu Tôn
giả ấy thuyết pháp cho tôi, tôi nghe hết sức cẩn thận, không phải không
cẩn thận. Nếu Tôn giả ấy không thuyết pháp cho tôi, thời tôi thuyết pháp
cho vị ấy. Thưa Tôn giả, đây là pháp vi diệu, chưa từng có thứ năm,
được có ở tôi.
10. Thật không phải là vi diệu, thưa
Tôn giả, khi tôi mời chúng Tăng, chư Thiên đến và bảo tôi: "Này gia
chủ, Tỷ-kheo này là vị câu phần giải thoát; Tỷ-kheo này là vị Tuệ giải
thoát; Tỷ-kheo này là vị Thân chứng; Tỷ-kheo này là vị Kiến chí; Tỷ-kheo
này là vị Tín giải thoát; Tỷ-kheo này là vị Tùy pháp hành; Tỷ-kheo này
là vị Tùy tín hành; vị này giữ giới, theo thiện pháp; vị này phá giới,
theo ác pháp ". Nhưng khi tôi cúng dường chúng Tăng, tôi không cảm thấy
có tâm như vậy khởi lên: "Vị này tôi cúng ít" hay "Vị này tôi cúng
nhiều". Nhưng thưa Tôn giả, tôi cúng với tâm bình đẳng. Thưa Tôn giả,
đây là pháp vi diệu, chưa từng có thứ sáu, được có ở tôi.
11. Thật không phải là vi diệu, thưa
Tôn giả, chư Thiên sau khi đến, bảo tôi: "Này gia chủ, Pháp được Thế
Tôn khéo thuyết giảng!". Khi được nói vậy, thưa Tôn giả, tôi nói với chư
Thiên ấy như sau: "Dầu cho chư Thiên các người có nói như vậy hay không
nói như vậy, pháp được Thế Tôn khéo thuyết giảng ". Thưa Tôn giả, tuy
vậy tâm tôi không có tự hào về nhân duyên ấy, nghĩa là: "Chư Thiên đến
với ta, ta cùng nói chuyện với chư Thiên". Thưa Tôn giả, đây là pháp vi
diệu, chưa từng có thứ bảy, được có ở nơi tôi.
12. Thưa Tôn giả, nếu tôi mệnh chung
trước Thế Tôn, đây không có gì là vi diệu, nếu Thế Tôn nói về tôi như
sau: "Không có một kiết sử nào, do kiết sử ấy, gia chủ Ugga người làng
Hatthigàma có thể trở lui lại đời này". Thưa Tôn giả, đây là pháp vi
diệu chưa từng có thứ tám được có ở nơi tôi.
Thưa Tôn giả, tám pháp vi diệu chưa từng có này có mặt. Và tôi không
biết Thế Tôn đã nói tôi thành tựu tám pháp vi diệu chưa từng có nào.
13. Rồi Tỷ-kheo ấy, sau khi nhận đồ
ăn khất thực tại trú xứ của gia chủ Ugga, người làng Hatthigàma, từ chỗ
ngồi đứng dậy và ra đi. Rồi Tỷ-kheo ấy, sau khi ăn xong, trên con đường
khất thực trở về, đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi
xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Tỷ-kheo ấy đem tất cả câu chuyện nói
với gia chủ Ugga người Hatthigàma thuật lại với Thế Tôn.
14. - Lành thay, lành thay! này
Tỷ-kheo, gia chủ Ugga người Hatthigàma nếu có trả lời một cách chơn
chánh, có thể trả lời như vậy. Này Tỷ-kheo, gia chủ Ugga người
Hatthigàma thành tựu tám pháp vi diệu chưa từng có này. Như ta đã nói,
Này Tỷ-kheo, hãy thọ trì rằng gia chủ Ugga, người Hatthigàma, được thành
tựu tám pháp vi diệu chưa từng có này.
(III) (23) Hatthaka , Người Alavì (1)
1. Một thời, Thế Tôn trú ở Alavì,
tại điện Phật Aggàlava. Tại đấy, Thế Tôn bảo các Tỷ-kheo:
2. - Này các Tỷ-kheo, Hatthaka,
người xứ Alavì thành tựu bảy pháp vi diệu chưa từng có. Hãy thọ trì như
vậy. Thế nào là bảy?
3. Có lòng tin, này các Tỷ kheo, là
Hatthaka người xứ Alavì; có giới, này các Tỷ-kheo, là Hatthaka người xứ
Alavì; có lòng xấu hổ, này các Tỷ-kheo, là Hatthaka người xứ Alavì; có
lòng sợ hãi, này các Tỷ-kheo, là Hatthaka người xứ Alavì; nghe nhiều,
này các Tỷ-kheo, là Hatthaka người xứ Alavì; có bố thí, này các Tỷ-kheo,
là Hatthaka người xứ Alavì; có trí tuệ, này các Tỷ-kheo, là Hatthaka
người xứ Alavì.
Thành tựu bảy pháp vi diệu chưa từng có này, này các Tỷ-kheo, là
Hatthaka người xứ Alavì. Hãy thọ trì như vậy. Thế Tôn nói như vậy. Nói
như vậy xong, bậc Thiên Thệ từ chỗ ngồi đứng dậy đi vào tịnh xá.
4. Rồi một Tỷ-kheo đắp y vào buổi
sáng, cầm bát y, đi đến trú xá của gia chủ Hatthaka người Alavì; sau khi
đến, liền ngồi xuống trên chỗ đã soạn sẵn. Rồi gia chủ Hatthaka người
Alavì, đi đến Tỷ-kheo ấy, sau khi đến, đảnh lễ Tỷ-kheo ấy rồi ngồi xuống
một bên. Tỷ-kheo ấy nói với Hatthaka, người xứ Alavì, đang ngồi xuống
một bên:
- Thưa Hiền giả, Thế Tôn đã nói Hiền giả thành tựu bảy pháp vi diệu
chưa từng có. Thế nào là bảy? "Có lòng tin, này các Tỷ-kheo là Hatthaka,
người xứ Alavì ... có giữ giới ... có lòng xấu hổ ... có lòng sợ hãi
... nghe nhiều ... có bố thí ... có trí tuệ, này các Tỷ-kheo, là
Hatthaka, người xứ Alavì ". Thưa Hiền giả, Hiền giả thành tựu bảy pháp
vi diệu chưa từng có này như Thế Tôn đã nói.
- Thưa Tôn giả, ở đây không có người gia chủ bận áo trắng?
- Thưa Hiền giả, ở đây không có người gia chủ bận áo trắng.
- Lành thay, ở đây không có người gia chủ bận áo trắng.
5. Rồi Tỷ-kheo ấy, sau khi nhận đồ
ăn khất thực tại trú xứ của Hatthaka, người xứ Alavì, từ chỗ ngồi đứng
dậy và ra đi. Rồi Tỷ-kheo ấy, sau buổi ăn, trên con đường khất thực trở
về, đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên.
Ngồi xuống một bên, Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn:
- Ở đây, bạch Thế Tôn, con vào buổi sáng đắp y, cầm y bát đi đến trú
xứ của Hatthaka, người Alavì; sau khi đến, con ngồi xuống trên chỗ đã
soạn sẵn, Bạch Thế Tôn, rồi con nói với Hatthaka, người xứ Alavì đang
ngồi một bên: - "- Thưa Hiền giả, Thế Tôn đã nói Hiền giả thành tựu bảy
pháp vi diệu chưa từng có này. Thế nào là bảy? "Có lòng tin, này các
Tỷ-kheo là Hatthaka, người xứ Alavì ... có giữ giới ... có lòng xấu hổ
... có lòng sợ hãi ... nghe nhiều ... có bố thí ... có trí tuệ, này các
Tỷ-kheo, là Hatthaka, người xứ Alavì ". Hiền giả thành tựu bảy pháp này,
thưa Hiền giả, như Thế Tôn đã nói! ". Khi nghe nói như vậy, bạch Thế
Tôn, Hatthaka người xứ Alavì nói với con:
- "Thưa Tôn giả, ở đây không có người gia chủ bận áo trắng? "
- Thưa Hiền giả, ở đây không có người gia chủ bận áo trắng.
- Lành thay, ở đây không có người gia chủ bận áo trắng.
6. - Lành thay, lành thay, này
Tỷ-kheo! Này Tỷ-kheo, thiện nam tử này là ít dục. Vị ấy không muốn các
thiện pháp của mình được người khác biết đến. Do vậy, này Tỷ-kheo, hãy
thọ trì rằng, Hatthaka người xứ Alavì, có thành tựu bảy pháp vi diệu
chưa từng có này, tức là ít dục.
(IV) (24) Hatthaka, Người Xứ ALavì (2)
1. Một thời, Thế Tôn trú ở Alavì,
tại điện Phật Aggàlava. Rồi Hatthaka, người xứ Alavì cùng với năm trăm
nam cư sĩ đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn, rồi ngồi xuống
một bên. Thế Tôn nói với Hatthaka, người xứ Alavì, đang ngồi xuống một
bên:
2. - Này Hatthaka, hội chúng này
thật lớn. Làm sao, này Hatthaka, Ông thâu nhiếp được hội chúng này?
- Bạch Thế Tôn, có bốn nhiếp pháp này được Thế Tôn thuyết giảng. Con
thâu nhiếp hội chúng này với những nhiếp pháp ấy. Bạch Thế Tôn, khi con
biết rằng: "Người này cần phải thâu nhiếp nhờ bố thí", thời con thâu
nhiếp người ấy với bố thí. Khi con biết rằng: "Người này cần phải thâu
nhiếp nhờ ái ngữ", thời con thâu nhiếp người ấy với ái ngữ. Khi con biết
rằng: "Người này cần phải thâu nhiếp nhờ lợi hành", thời con thâu nhiếp
người ấy với lợi hành. Khi con biết rằng: "Người này cần phải thâu
nhiếp nhờ đồng sự", thời con thâu nhiếp người ấy với đồng sự. Vả lại,
bạch Thế Tôn, trong gia đình con có tài sản, họ nghĩ rằng như vậy không
thể được nghe như là một người bần cùng.
3. - Lành thay, lành thay, này
Hatthaka! Ðây là nguyên lý đế thân nhiếp đại chúng! Này Hatthaka, những
ai trong quá khứ đã thâu nhiếp đại chúng, tất cả đều thâu nhiếp đại
chúng với bốn nhiếp pháp này. Này Hatthaka, những ai trong tương lai sẽ
thâu nhiếp đại chúng, tất cả sẽ thâu nhiếp đại chúng với bốn nhiếp pháp
này. Này Hatthaka, những ai trong hiện tại thâu nhiếp đại chúng, tất cả
họ đều thâu nhiếp đại chúng với bốn nhiếp pháp này.
4. Rồi Hatthaka, người xứ Alavì,
được Thế Tôn với pháp thoại, giảng dạy, khích lệ, làm cho phấn khởi, làm
cho hoan hỷ, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Thế Tôn, thân bên hữu hướng
về Ngài, rồi ra đi. Thế Tôn, sau khi Hatthaka, người xứ Alavì ra đi
không bao lâu, bèn gọi các Tỷ-kheo:
5. - Này các Tỷ-kheo, hãy thọ trì
rằng Hatthaka, người xứ Alavì thành tựu được tám pháp vi diệu chưa từng
có này. Thế nào là tám pháp?
6. Có lòng tin, này các Tỷ kheo, là
Hatthaka người xứ Alavì, có giữ giới; này các Tỷ-kheo, là Hatthaka người
xứ Alavì; có lòng xấu hổ, này các Tỷ-kheo, là Hatthaka người xứ Alavì;
có lòng sợ hãi, này các Tỷ-kheo, là Hatthaka người xứ Alavì; nghe nhiều,
này các Tỷ-kheo, là Hatthaka người xứ Alavì; có bố thí, này các
Tỷ-kheo, là Hatthaka người xứ Alavì; có trí tuệ, này các Tỷ-kheo, là
Hatthaka người xứ Alavì; ít dục, này các Tỷ-kheo, là Hatthaka người xứ
Alavì!
Này các Tỷ-kheo, hãy thọ trì rằng Hatthaka, người xứ Alavì thành tựu
tám pháp vi diệu chưa từng có này.
(V) (25) Thích Tử Mahanama
1. Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân
chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha. Rồi Thích tử
Mahànàma đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một
bên. Ngồi xuống một bên, Thích tử Mahànàma bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, cho đến như thế nào là người nam cư sĩ?
- Này Mahànàma, khi nào quy y Phật, quy y Pháp, quy y chúng Tăng, cho
đến như vậy, này Mahànàma, là người nam cư sĩ.
2. - Cho đến như thế nào, bạch Thế
Tôn, là người nam cư sĩ giữ giới?
- Này, Mahànàma, khi nào người nam cư sĩ từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy
của không cho, từ bỏ tà hạnh trong các dục, từ bỏ nói láo, từ bỏ đắm say
rượu men, rượu nấu, cho đến như vậy, là người nam cư sĩ giữ giới.
3. - Cho đến như thế nào, bạch Thế
Tôn, là người nam cư sĩ thực hành, vì tư lợi chứ không vì lợi tha?
- Này Mahànàma, khi nào nam cư sĩ thành tựu lòng tin cho mình, không
có khích lệ người khác thành tựu lòng tin; thành tựu giữ giới cho mình,
không có khích lệ người khác thành tựu giữ giới, thành tựu bố thí cho
mình, không khích lệ người khác thành tựu bố thí; muốn tự mình đi đến
yết kiến các Tỷ-kheo, không có khích lệ người khác đi đến yết kiến các
Tỷ kheo; chỉ tự mình muốn nghe diệu pháp, không khích lệ người khác nghe
diệu pháp; tự mình thọ trì những pháp đã được nghe, không khích lệ
người khác thọ trì những pháp đã được nghe; tự mình suy nghĩ đến ý nghĩa
các pháp đã thọ trì, không khích lệ người khác suy nghĩ đến ý nghĩa các
pháp đã thọ trì; sau khi tự mình biết nghĩa, biết pháp, thực hiện tùy
pháp, đúng Chánh pháp, không khích lệ người khác thực hiện tùy pháp,
đúng Chánh pháp. Cho đến như vậy, này Mahànàma, là nam cư sĩ thực hành
vì tự lợi, không phải vì lợi tha.
4. - Cho đến như thế nào, bạch Thế
Tôn, là nam cư sĩ thực hành vừa tự lợi, vừa lợi tha?
- Này Mahànàma, khi nào nam cư sĩ tự mình thành tựu lòng tin và khích
lệ người khác thành tựu lòng tin; khi nào tự mình giữ giới và khích lệ
người khác giữ giới; khi nào tự mình bố thí và khích lệ người khác bố
thí; khi nào tự mình muốn đi đến yết kiến các Tỷ-kheo và khích lệ người
khác đi đến yết kiến các Tỷ-kheo; khi nào tự mình muốn nghe diệu pháp và
khích lệ người khác nghe diệu pháp; khi nào tự mình thọ trì những pháp
đã được nghe và khích lệ người khác thọ trì những pháp đã được nghe; khi
nào tự mình suy nghĩ đến ý nghĩa các pháp đã thọ trì và khích lệ người
khác suy nghĩ đế ý nghĩa các pháp đã thọ trì; sau khi tự mình biết
nghĩa, biết pháp, thực hiện pháp đúng Chánh pháp, khích lệ người khác
sau khi biết nghĩa biết pháp, thực hiện pháp đúng Chánh pháp. Cho đến
như vậy, này Mahànàma, là nam cư sĩ thực hành vì tự lợi và lợi tha.
(VI)
(26) Jìvaka Komàrabhacca
1. Một thời, Thế Tôn trú ở Ràjagaha
(Vương xá), tại rừng xoài Jìvaka. Rồi Jìvaka Komàrabhacca đi đến Thế
Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một
bên, Jìvaka Komàrabhacca bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, cho đến như thế nào là người nam cư sĩ?
-
... (giống như kinh trước 25, chỉ khác là Thích tử Mahànàma, nay là
Jìvaka Komàrabhacca) .
(VII) (27) Sức Mạnh (1)
1.- Này các Tỷ-kheo, có tám sức mạnh
này. Thế nào là tám?
2. Này các Tỷ-kheo, sức mạnh của con
nít là khóc; sức mạnh của đàn bà là phẫn nộ; sức mạnh của người ăn trộm
là vũ khí; sức mạnh của các vua chúa là uy quyền; sức mạnh của kẻ ngu
là áp đảo; sức mạnh của bậc Hiền trí là cảm hóa; sức mạnh của vị nghe
nhiều là thẩm sát; sức mạnh của Sa-môn, Bà-la-môn là nhẫn nhục.
Này các Tỷ-kheo, đây là tám sức mạnh.
(VIII) (28) Sức Mạnh (2)
1. Rồi Tôn giả Sàriputta đi đến Thế
Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn, rồi ngồi xuống một bên. Thế Tôn nói
với Tôn giả Sàriputta đang ngồi xuống một bên:
- Này Sàriputta, có bao nhiêu sức mạnh của Tỷ-kheo đã đoạn trừ các
lậu hoặc? Thành tựu với những sức mạnh gì, Tỷ-kheo đã đoạn trừ các lậu
hoặc, tự nhận mình đã đoạn diệt các lậu hoặc: "Các lậu hoặc đã được ta
đoạn tận "?
2. - Bạch Thế Tôn, có tám sức mạnh
của Tỷ-kheo đã đoạn tận các lậu hoặc. Thành tựu với những sức mạnh gì,
Tỷ-kheo đã đoạn trừ các lậu hoặc, tự nhận mình đã đoạn diệt các lậu
hoặc: "Các lậu hoặc đã được ta đoạn tận ". Thế nào là tám?
3. Ở đây, bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo đã
đoạn tận các lậu hoặc khéo thấy như thật với chánh trí tuệ rằng tất cả
các hành là vô thường. Vì rằng, bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo đã đoạn tận các
lậu hoặc, khéo thấy như thật với chánh trí tuệ rằng tất cả các hành là
vô thường. Bạch Thế Tôn, đây là sức mạnh của Tỷ-kheo đã đoạn tận các lậu
hoặc. Do sức mạnh này, Tỷ-kheo đã đoạn tận các lậu hoặc, tự nhận mình
đã đoạn diệt các lậu hoặc: "Các lậu hoặc đã được ta đoạn tận ".
4. Lại nữa, bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo đã
đoạn tận các lậu hoặc khéo thấy như thật với chánh trí tuệ rằng các dục
ví như hố than hừng. Vì rằng, bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo đã đoạn tận các lậu
hoặc khéo thấy như thật với chánh trí tuệ rằng các dục ví như hố than
hừng. Bạch Thế Tôn, đây là sức mạnh của Tỷ-kheo đã đoạn tận các lậu
hoặc. Do sức mạnh này, Tỷ-kheo đã đoạn tận các lậu hoặc, tự nhận mình đã
đoạn diệt các lậu hoặc: "Các lậu hoặc đã được ta đoạn tận ".
5. Lại nữa, Bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo đã
đoạn tận các lậu hoặc, với tâm thuận xuôi về viễn ly, hướng về viễn ly,
thiên về viễn ly, trú ở viễn ly, hoan hỷ về xuất ly, đoạn tận hoàn toàn
tất cả pháp có thể làm trú xứ cho lậu hoặc. Bạch Thế Tôn, đây là sức
mạnh của Tỷ-kheo đã đoạn tận các lậu hoặc. Do sức mạnh này, Tỷ-kheo đã
đoạn tận các lậu hoặc, tự nhận mình đã đoạn diệt các lậu hoặc: "Các lậu
hoặc đã được ta đoạn tận ".
6. Lại nữa, bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo đã
đoạn tận các lậu hoặc, Bốn niệm xứ được tu tập, được khéo tu tập. Bạch
Thế Tôn, vì rằng Tỷ-kheo đã đoạn tận các lậu hoặc, Bốn niệm xứ được tu
tập, được khéo tu tập. Bạch Thế Tôn, đây là sức mạnh của vị Tỷ-kheo ...
"Các lậu hoặc đã được ta đoạn tận ".
7. Lại nữa, bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo đã
đoạn tận các lậu hoặc, Bốn như ý túc được tu tập, được khéo tu tập...
Năm căn được tu tập, được khéo tu tập ... Năm lực được tu tập, được khéo
tu tập ... Bảy giác chi được tu tập, được khéo tu tập ...Thánh đạo tám
ngành được tu tập, được khéo tu tập ... Ðây là sức mạnh của vị Tỷ-kheo
... "Các lậu hoặc đã được ta đoạn tận ".
Bạch Thế Tôn, đây là tám sức mạnh của Tỷ-kheo đã đoạn tận các lậu
hoặc, thành tựu với tám sức mạnh này, Tỷ-kheo đã đoạn tận các lậu hoặc.
Do sức mạnh này, Tỷ-kheo đã đoạn tận các lậu hoặc, tự nhận mình đã đoạn
diệt các lậu hoặc: "Các lậu hoặc đã được ta đoạn tận ".
(IX) (29) Không Phải Thời
1. - "Làm việc đúng thời là thế
giới, làm việc đúng thời là thế giới ", này các Tỷ-kheo, kẻ vô văn phàm
phu nói như vậy, nhưng vị ấy không biết đúng thời và phi thời. Này các
Tỷ-kheo, có tám phi thời, phi thời tiết cho đời sống Phạm hạnh. Thế nào
là tám?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Như Lai
xuất hiện ở đời, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện
Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân sư,
Phật, Thế Tôn. Và pháp được giảng đưa đến an tịnh, đưa đến tịch tịnh,
đưa đến giác ngộ, được bậc Thiện Thệ tuyên bố. Và người này lại bị sanh
vào địa ngục. Này các Tỷ-kheo, đây là phi thời, phi thời tiết thứ nhất
cho đời sống Phạm hạnh.
3. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Như Lai
xuất hiện ở đời, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác ... Phật, Thế Tôn và
pháp được giảng đưa đến an tịnh, đưa đến tịch tịnh, đưa đến giác ngộ,
được bậc Thiện Thệ tuyên bố. Và người này lại bị sanh vào loại bàng sanh
... người này lại bị sanh vào cõi ngạ quỷ ... người này lại bị sanh vào
giữa chư Thiên giới có thọ mạng lâu dài ... người này lại bị sanh vào
các biên địa, giữa những kẻ vô trí mọi rợ, tại đây, không có hướng đi
cho các Tỷ-kheo, cho các Tỷ-kheo -Ni, cho nam cư sĩ, nữ cư sĩ ... và
người này được sanh vào chánh địa, nhưng lại có tà kiến, có tri kiến đảo
ngược: "Không có bố thí, không có lễ hy sinh, không có tế tự, không có
quả dị thục, các nghiệp thiện ác, không có đời này, không có đời khác,
không có mẹ, không có cha, không
có loại hóa sanh, ở đời không có những Sa-môn, những Bà-la-môn chánh
hướng chánh hạnh, đã tự mình chứng tri giác ngộ ở đời này, đời khác và
truyền dạy lại ... "và người này được sanh vào đây chánh địa, nhưng
người ấy lại ác tuệ, si mê, câm điếc, không có thể hiểu rõ ý nghĩa của
một lời nói khéo, nói hay, nói dở. Này các Tỷ-kheo, đây là phi thời, phi
thời tiết thứ tám cho đời sống Phạm hạnh.
4. Này các Tỷ-kheo, có tám phi thời,
phi thời tiết này cho đời sống Phạm hạnh.
5. Này các Tỷ-kheo, chỉ có một chánh
thời, một chánh thời tiết này cho đời sống Phạm hạnh. Thế nào là một?
6. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Thế Tôn
xuất hiện ở đời, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện
Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân sư,
Phật, Thế Tôn. Và pháp được giảng đưa đến an tịnh, đưa đến tịch tịnh,
đưa đến giác ngộ, được bậc Thiện Thệ tuyên bố. Và người này được sanh
vào chánh địa, vị ấy có trí tuệ, không si mê, không câm điếc, có thể
hiểu rõ ý nghĩa của một lời nói khéo, nói hay, nói dở. Này các Tỷ-kheo,
đây là chánh thời, chánh thời tiết độc nhất cho đời sống Phạm hạnh.
Ai được sanh làm người
Khi diệu pháp được giảng
Lại không nắm được thời
Họ vượt qua khỏi thời
Nhiều phi thời được nói
Làm chướng ngại con người
Chỉ năm khi mười họa
Như Lai hiện ở đời
Ðược giáp mặt với Ngài
Rất khó được ở đời
Ðược sanh ra làm người
Và diệu pháp được giảng
Vừa đủ để tinh tấn
Với ai muốn lợi ích
So biết rõ diệu pháp
Lại để thời vượt qua!
Kẻ để thời gian qua
Sầu muộn tại địa ngục
Ở đây ai bỏ rơi
Quyết định tánh diệu pháp
Như kẻ buôn mất của
Sẽ sầu não lâu ngày
Người vô minh bao phủ
Vi phạm đến diệu pháp
Phải chịu đựng lâu ngày
Lưu chuyển trong sanh tử
Ai được sanh làm người
Trong thời pháp khéo giảng
Quá khứ, hiện, vị lai
Làm theo lời Ðạo sư
Nắm được thời ở đời
Cho vô thượng Phạm hạnh
Ai đã bước con đường
Do Như Lai thuyết giảng
Những ai sống chế ngự
Do bậc pháp nhãn dạy
Như đã được thuyết giảng
Bậc Bà con mặt trời
Hãy sống thường chánh niệm
Hộ trì không tham dục
Chặt đứt mọi tùy miên
Không chạy theo ma giới
Các vị ấy ở đời
Ðến được bờ bên kia
Và họ cũng đạt được
Các lậu hoặc đoạn tận.
(X) (30) Tôn Giả Anuruddha
1. Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân
chúng Bhagga, tại núi Sumsumàra, rừng Bhesakala, vườn Lộc Uyển. Lúc bấy
giờ, Tôn giả Anuruddha (A-nậu-lâu-đà) sống giữa dân chúng Celì, tại
Pàcìnavamsadàya, Rồi Tôn giả Anuruddha, trong khi sống độc cư ... Thiền
tịnh, tâm tư khởi lên như sau: "Pháp này để cho người ít dục, pháp này
không phải để cho người nhiều dục; Pháp này để cho người biết đủ, pháp
này không phải để cho người không biết đủ; Pháp này để cho người sống
thanh vắng, pháp này không phải để cho người ưa hội chúng; Pháp này để
cho người tinh cần tinh tấn, pháp này không phải để cho người biếng
nhác; Pháp này để cho người trú niệm, pháp này không phải để cho người
thất niệm; Pháp này để cho người Thiền định, pháp này không phải để cho
người không Thiền định; Pháp này để
cho người có trí tuệ, pháp này không phải để cho người ác tuệ".
2. Rồi Thế Tôn với tâm của mình rõ
biết tâm tư của Tôn giả Anuruddha, ví như người lực sĩ duỗi bàn tay đang
co lại; hay co lại bàn tay đang duỗi ra; cũng vậy, Thế Tôn biến mất ở
giữa dân chúng Bhagga, tại núi Sumsumàra, rừng Bhesakalà, vườn Lộc Uyển,
và hiện ra giữa dân chúng Celì, tại Pàcìnavamsadàya, trước mặt Tôn giả
Anuruddha. Thế Tôn ngồi xuống trên chỗ đã soạn sẵn. Rồi Thế Tôn nói với
Tôn giả Anuruddha đang ngồi một bên:
3. - Lành thay, lành thay, này
Anuruddha! Lành thay, này Anuruddha, Thầy đã suy nghĩ đến bảy niệm của
bậc Ðại nhân: "Pháp này để cho người ít dục, pháp này không phải để cho
người nhiều dục; Pháp này để cho người biết đủ, pháp này không phải để
cho người không biết đủ; Pháp này để cho người sống thanh vắng, pháp này
không phải để cho người ưa hội chúng; Pháp này để cho người tinh cần
tinh tấn, pháp này không phải để cho người biếng nhác; Pháp này để cho
người trú niệm, pháp này không phải để cho người thất niệm; Pháp này để
cho người Thiền định, pháp này không phải để cho người không Thiền định;
Pháp này để cho người có trí tuệ, pháp này không phải để cho người ác
tuệ".
Do vậy, này Anuruddha, hãy suy nghĩ đến niệm thứ tám này của bậc Ðại
nhân: "Pháp này để cho người không ưa hý luận, không thích hý luận, Pháp
này không phải để cho người ưa hý luận, thích hý luận ".
4. Khi nào, này Anuruddha, Thầy sẽ
suy nghĩ đến tám tư niệm này của bậc Ðại nhân, thời nếu Thầy muốn, Thầy
sẽ chứng đạt và an trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục
sanh, có tầm có tứ.
5. Khi nào, này Anuruddha, Thầy sẽ
suy nghĩ đến tám tư niệm này của bậc Ðại nhân, thời nếu Thầy muốn, diệt
tầm diệt tứ, Thầy sẽ chứng đạt và an trú Thiền thứ hai, một trạng thái
hỷ lạc do định sanh, không tầm không tứ, nội tĩnh nhất tâm.
6. Khi nào, này Anuruddha, khi nào
Thầy sẽ suy nghĩ đến tám tư niệm này của bậc Ðại nhân, thời nếu Thầy
muốn, Thầy sẽ ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà
các bậc Thánh gọi là "xả niệm lạc trú", chứng và an trú Thiền thứ ba.
7. Khi nào, này Anuruddha, Thầy sẽ
suy nghĩ đến tám tư niệm này của bậc Ðại nhân, thời nếu Thầy muốn, Thầy
sẽ xả lạc xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng và an trú Thiền thứ
tư, không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh.
8. Khi nào, này Anuruddha, Thầy sẽ
suy nghĩ đến tám tư niệm này của bậc Ðại nhân, khi nào bốn Thiền này
thuộc tăng thượng tâm, hiện tại lạc trú, chứng được không khó khăn,
chứng được không mệt nhọc, chứng được không phí sức, thời này Anuruddha,
tấm y lượm từ đống rác lên của Thầy sẽ giống như tủ áo đầy những vả có
nhiều màu sắc của người gia chủ hay con người gia chủ, để được sống biết
đủ, ưa thích, không có lo âu, được lạc trú, được bước vào Niết-bàn.
9. Khi nào, này Anuruddha, Thầy sẽ
suy nghĩ đến tám tư niệm này của bậc Ðại nhân, thời nếu Thầy muốn, khi
nào bốn Thiền này thuộc tăng thượng tâm, hiện tại lạc trú, chứng được
không khó khăn, chứng được không mệt nhọc, chứng được không phí sức,
thời này Anuruddha, các món ăn từng miếng Thầy khất thực được sẽ giống
như món cơm bằng gạo trắng, các hạt đen đã được lượm sạch, với nhiều
loại súp, với nhiều loại đồ ăn của người gia chủ, hay của con người gia
chủ, để được sống biết đủ, ưa thích, không có lo âu, được lạc trú, được
bước vào Niết-bàn.
10. Khi nào, này Anuruddha, Thầy sẽ
suy nghĩ đến tám tư niệm này của bậc Ðại nhân, khi nào bốn Thiền này
thuộc tăng thượng tâm, hiện tại lạc trú, chứng được không khó khăn,
chứng được không mệt nhọc, chứng được không phí sức, thời này Anuruddha,
chỗ nằm dưới gốc cây thầy sẽ giống như nhà có nóc nhọn, có trét hồ
trong ngoài, cửa được cài then, cửa sổ được đóng lại ngăn chặn gió của
người gia chủ, hay của con người gia chủ, để được sống biết đủ, ưa
thích, không có lo âu, được lạc trú, được bước vào Niết-bàn.
11. Khi nào, này Anuruddha, Thầy sẽ
suy nghĩ đến tám tư niệm này của bậc Ðại nhân, khi nào bốn Thiền này
thuộc tăng thượng tâm, hiện tại lạc trú, chứng được không khó khăn,
chứng được không mệt nhọc, chứng được không phí sức, thời này Anuruddha,
giường nằm và chỗ ngồi trải với đệm cỏ của Thầy sẽ giống như ghế dài,
nệm trải giường nằm bằng len, chăn len trắng, chăn len thêu bông, nệm
bằng da con sơn dương gọi là kadali, tấm thảm với đầu che phía trên, ghế
dài có đầu gối chân màu đỏ của các người gia chủ, hay của con người gia
chủ, để được sống biết đủ, ưa thích, không có lo âu, được lạc trú, được
bước vào Niết-bàn.
12. Khi nào, này Anuruddha, Thầy sẽ
suy nghĩ đến tám tư niệm này của bậc Ðại nhân, khi nào bốn Thiền này
thuộc tăng thượng tâm, hiện tại lạc trú, chứng được không khó khăn,
chứng được không mệt nhọc, chứng được không phí sức, thời này Anuruddha,
dược phẩm nước tiểu hôi của Thầy sẽ giống như các loại dược phẩm của
các người gia chủ, hay của con người gia chủ, như thục tô, sanh tô, dầu,
mật, đường bánh, để được sống biết đủ, ưa thích, không có lo âu, được
lạc trú, được bước vào Niết-bàn.
13. Vậy này Anuruddha, nhân kỳ an cư
mùa mưa sắp đến, hãy trú giữa dân chúng Cetì ở Pàcìnavamsadàya.
- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Tôn giả Anuruddha vâng đáp Thế Tôn. Rồi Thế Tôn sau khi khuyến giáo
Tôn giả Anuruddha với lời khuyến giáo này, như người lực sĩ duỗi cánh
tay đang co lại, hay co lại cánh tay đang duỗi ra; cũng vậy, Ngài biến
mất giữa dân chúng Cetì ở Pàcìnavamsadàya và hiện ra giữa dân chúng
Bhagga, trên núi Sumsumàra trong rừng Bhesakalà, vườn Lộc Uyển. Thế Tôn
ngồi xuống trên chỗ đã soạn sẵn, sau khi ngồi xuống, Thế Tôn bảo các
Tỷ-kheo:
14. - Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ thuyết
tám tư niệm của bậc Ðại nhân co các Thầy. Hãy lắng nghe và khéo tư niệm,
Ta sẽ giảng:
- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Các tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế tôn nói như sau:
- Này các Tỷ-kheo, thế nào là tám tư niệm của bậc Ðại nhân?
15. Này các Tỷ-kheo, Pháp này để cho
người ít dục, Pháp này không phải để cho người nhiều dục; Này các Tỷ
kheo,Pháp này để cho người biết đủ, pháp này không phải để cho người
không biết đủ; Này các Tỷ kheo, Pháp này để cho người sống thanh vắng,
pháp này không phải để cho người ưa hội chúng; Này các Tỷ kheo,Pháp này
để cho người tinh cần tinh tấn, pháp này không phải để cho người biếng
nhác; Này các Tỷ kheo, Pháp này để cho người trú niệm, pháp này không
phải để cho người nhất niệm; Này các Tỷ kheo,Pháp này để cho người Thiền
định, pháp này không phải để cho người không Thiền định; Này các Tỷ
kheo, Pháp này để cho người có trí tuệ, Pháp này không phải để cho người
ác tuệ; Này các Tỷ-kheo, Pháp này để cho người không ưa lý luận, không
thích luận hý, Pháp này không
phải để cho người ưa lý luận, thích luận hý.
16. Này các Tỷ-kheo, Pháp này để cho
người ít dục, Pháp này không để cho người có dục lớn", như vậy đã được
nói đến. Do duyên gì được nói như vậy?
17. Này các Tỷ-kheo, ở đây, Tỷ-kheo
ít dục không muốn: "Mong người ta biết tôi là ít dục"; biết đủ, không
muốn: "Mong người ta biết tôi là biết đủ"; sống viễn ly, không muốn:
"Mong người ta biết tôi sống viễn ly";, tinh cần tinh tấn, không muốn:
"Mong người ta biết tôi sống tinh cần tinh tấn"; trú niệm, không muốn: "
Mong người ta biết tôi trú niệm"; có định, không muốn: "Mong người ta
biết tôi có định"; có tuệ, không muốn: "Mong người ta biết tôilà người
có tuệ "; không thích hý luận, không muốn: "Mong người ta biết tôi không
thích hý luận". Này các Tỷ-kheo, Pháp này để cho người ít dục, Pháp này
không để cho người có dục lớn", đã được nói đến như vậy. Do duyên này
được nói như vậy.
18. Này các Tỷ-kheo, Pháp này để cho
người biết đủ, Pháp này không để cho người không biết đủ ", như vậy đã
được nói đến. Do duyên gì được nói như vậy?
19. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
biết đủ với bất cứ vật dụng gì như y áo, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược
phẩm trị bệnh. Này các Tỷ-kheo, Pháp này để cho người biết đủ, Pháp này
không phải để cho người không biết đủ ", đã được nói đến như vậy. Do
duyên này được nói như vậy.
20, Này các Tỷ-kheo, Pháp này để cho người sống viễn ly, Pháp này
không phải để cho người ưa thích hội chúng", như vậy đã được nói đến. Do
duyên gì được nói như vậy?
21. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Với
Tỷ-kheo sống viễn ly, có nhiều người đến thăm như Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-Ni,
nam cư sĩ, nữ cư sĩ, vua chúa, đại thần, các ngoại đạo sư, đệ tử của các
ngoại đạo sư. Ở đây, Tỷ-kheo với tâm thuận về viễn ly, hướng về viễn
ly, nhập vào viễn ly, trú vào viễn ly, thích thú xuất ly, nói lời hoàn
toàn liên hệ đến lánh xa. Này các Tỷ-kheo, Pháp này để cho người viễn
ly, Pháp này không phải để cho người không ưa hội chúng", đã được nói
đến như vậy. Do duyên này được nói như vậy.
22. Này các Tỷ-kheo, Pháp này để cho
người tinh cần tinh tấn, Pháp này không phải để cho người biếng nhác",
như vậy đã được nói đến. Do duyên gì được nói như vậy?
23. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
sống tinh cần tinh tấn, đoạn tận các pháp bất thiện, thành tựu các Pháp
thiện, nỗ lực kiên trì, không từ bỏ gánh nặng đối với các thiện pháp.
Này các Tỷ-kheo, Pháp này để cho người tinh cần tinh tấn, Pháp này không
phải để cho người biếng nhác", đã được nói đến như vậy. Do duyên này
được nói như vậy.
24. Này các Tỷ-kheo, Pháp này để cho
người trú niệm, Pháp này không phải để cho người thất niệm", như vậy đã
được nói đến. Do duyên gì được nói như vậy?
25. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
đầy đủ niệm, thành tựu niệm tuệ tối thắng, ức nhớ tùy niệm những điều đã
làm, nói đã lâu. Này các Tỷ-kheo, Pháp này để cho người trú niệm, Pháp
này không phải để cho người thất niệm", đã được nói đến như vậy. Do
duyên này được nói như vậy.
26. Này các Tỷ-kheo, Pháp này để cho
người thiền định, Pháp này không phải để cho người không thiền định",
như vậy đã được nói đến. Do duyên gì được nói như vậy?
27. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
ly dục, ly ác pháp ... chứng đạt và an trú Thiền thứ tư. Này các
Tỷ-kheo, Pháp này để cho người thiền định, Pháp này không phải để cho
người không thiền định", đã được nói đến như vậy. Do duyên này được nói
như vậy.
28. Này các Tỷ-kheo, Pháp này để cho
người có trí tuệ, Pháp này không phải để cho người không trí tuệ", như
vậy đã được nói đến. Do duyên gì được nói như vậy?
29. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
có trí tuệ, có trí tuệ về sanh diệt, thành tựu Thánh thể nhập (quyết
trạch), đưa đến chơn chánh đoạn diệt khổ đau. Này các Tỷ-kheo, Pháp này
để cho người có trí tuệ, Pháp này không phải để cho người không trí
tuệ", đã được nói đến như vậy. Do duyên này được nói như vậy
30. Này các Tỷ-kheo, Pháp này để cho
người không ưa hý luận, không thích hý luận, Pháp này không phải để cho
người ưa hý luận, thích hý luận", như vậy đã được nói đến. Do duyên gì
được nói như vậy?
31. Này các Tỷ-kheo, ở đây, Tỷ-kheo
đối với đoạn diệt hý luận, tâm được phấn chấn, tịnh tín, an trú, hướng
đến. Này các Tỷ-kheo, Pháp này để cho người không ưa hý luận, không
thích hý luận, Pháp này không phải để cho người ưa hý luận, thích hý
luận", đã được nói đến như vậy. Do duyên này được nói như vậy.
32. Rồi Tôn giả Anuruddha, mùa mưa
an cư đến, đến trú ở giữa dân chúng Cetì, tại Pacìnavamsadàya. Rồi Tôn
giả Anuruddha sống một mình, an tịnh, không phóng dật, nhiệt tâm, tinh
cần, không bao lâu, do mục đích gì, các Thiện nam tử chơn chánh xuất
gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, tức là vô thượng cứu cánh Phạm
hạnh ngay trong hiện tại, vị ấy tự mình nói thắng trí, chứng ngộ, chứng
nhập và an trú. Vị ấy chứng rõ: "Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những
gì nên làm đã làm, không có trở lui lại trạng thái này nữa" và Tôn giả
Anuruddha trở thành một vị A-la-hán nữa. Rồi Tôn Giả Anuruđha chứng được
A-la-hán ngay trong thời gian ấy, nói lên những bài kệ này:
Thế gian vô thượng sư
Rõ biết tư tưởng ta
Với thân do ý tạo
Thần thông đến với ta
Tùy theo ta nghĩ gì
Ngài thuyết rõ tất cả
Phật không ưa hý luận
Ngài thuyết, không hý luận
Ngộ pháp, ta hoan hỷ
Trú trong giáo pháp ngài
Ba minh đã đạt được
Giáo pháp Phật làm xong.
IV. Phẩm Bố Thí
(I) (31) Bố Thí (1)
1.
- Này các Tỷ-kheo, có tám bố thí này.
Thế nào là tám?
2. Vì có người đến, nên bố thí; Vì
sợ hãi, nên bố thí; Vì nghĩ rằng: "Người ấy đã cho ta, nên bố thí; Vì
nghĩ rằng: "Người ấy sẽ cho ta, nên bố thí; Vì nghĩ rằng: "Bố thí là
tốt", nên bố thí; Vì nghĩ rằng: "Ta nấu, những người này không nấu. Thật
Ta không xứng đáng là người nấu lại không cho người không nấu" nên bố
thí; Vì nghĩ rằng: "Do ta cho bố thí này, nên tiếng tốt được truyền đi"
nên bố thí; Vì trang nghiêm tâm, trang bị tâm, nên bố thí.
Này các Tỷ-kheo, có tám bố thí này.
(II) (32) Bố Thí (2)
Tín, tàm và thiện thí
Những pháp thiện sĩ cầu
Ðường này gọi Thiện đạo
Ðường này đi Thiên giới
(III) (33) Căn Bản Ðể Bố Thí
1. - Này các Tỷ-kheo, có tám căn bản
để bố thí. Thế nào là tám?
2. Vì lòng dục nên bố thí; vì sân
hận nên bố thí; vì ngu si nên bố thí; vì sợ hãi nên bố thí; vì nghĩ
rằng: "Trước tổ tiên đã bố thí, trước đã làm. Ta không xứng đáng là
người để truyền thống này bị bỏ phế" nên bố thí; vì nghĩ rằng: "Sau khi
cho bố thí này, khi thân hoại mạng chung, sẽ được sanh lên thiện phú,
Thiên giới, cõi đời này "nên bố thí. Vì nghĩ rằng: "Khi ta bố thí này,
tâm được tịnh tín, do hân hoan, hỷ được sanh" nên bố thí. Ðể trang
nghiêm tâm, trang bị tâm, nên bố thí.
Này các Tỷ-kheo, có tám căn bản để bố thí này.
(IV) (34) Thửa Ruộng
1.- Này các Tỷ-kheo, hột giống được
gieo vào thửa ruộng thành tựu tám chi phần được xem là không quả lớn,
không vị ngọt lớn, không phải địa điểm tăng thịnh. Thế nào là thành tựu
tám chi phần?
2. Này các Tỷ-kheo, ở đây thửa ruộng
lồi lên lõm xuống, đầy đá và sạn, đất mặn, không có bề sâu, không có
chỗ nước chảy ra, không có chỗ nước chảy vào, không có nước chảy, không
có bờ đê. Như vậy, này các Tỷ-kheo, hột giống được gieo vào thửa ruộng
thành tựu được tám chi phần được xem là không quả lớn, không vị ngọt
lớn, không phải địa điểm tăng thịnh. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, bố thí
giữa những Sa-môn, Bà-la-môn thành tựu tám chi phần, không có quả lớn,
không lợi ích lớn, không có rung cảm lớn. Thế nào là thành tựu tám chi
phần?
3. Ở đây, này các Tỷ-kheo, các
Sa-môn, các Bà-la-môn có tà kiến, tà tư duy, tà ngữ, tà nghiệp, tà mạng,
tà tinh tấn, tà niệm, tà định. Như vậy, này các Tỷ-kheo, bố thí giữa
những Sa-môn, Bà-la-môn thành tựu tám chi phần, không có quả lớn, không
lợi ích lớn, không có rung cảm lớn.
4. Này các Tỷ-kheo, hột giống được
gieo vào thửa ruộng thành tựu tám chi phần được xem là có quả lớn, có vị
ngọt lớn, là địa điểm tăng thịnh. Thế nào là thành tựu tám chi phần?
5. Này các Tỷ-kheo, ở đây thửa ruộng
không lồi lên lõm xuống, không có đầy đá và sạn, không có đất mặn, có
bề sâu, có chỗ nước chảy ra, có chỗ nước chảy vào, có nước chảy, có bờ
đê. Như vậy, này các Tỷ-kheo, hột giống được gieo vào thửa ruộng thành
tựu tám chi phần được xem là có quả lớn, có vị ngọt lớn, là địa điểm
tăng thịnh. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, bố thí giữa những Sa-môn,
Bà-la-môn thành tựu tám chi phần, có quả lớn, lợi ích lớn, có rực rỡ
lớn, có rung cảm lớn. Thế nào là thành tựu tám chi phần?
6. Ở đây, này các Tỷ-kheo, các
Sa-môn, các Bà-la-môn có chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh
nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định. Như vậy, này
các Tỷ-kheo, bố thí giữa những Sa-môn, Bà-la-môn thành tựu tám chi
phần, có quả lớn, lợi ích lớn, có rực rỡ lớn, có rung cảm lớn.
Khi ruộng được đầy đủ
Hột giống gieo đầy đủ
Khi mưa xuống đầy đủ
Lúa gặt được đầy đủ
Tai họa không có mặt
Tăng trưởng được đầy đủ
Rộng lớn được đầy đủ
Kết quả được đầy đủ
Cũng vậy, sự bố thí
Giữa những người đủ giới
Và vật liệu bố thí
Cũng được sắm đầy đủ
Ðưa đến sự đầy đủ
Vì sở hành đầy đủ
Vậy ai muốn đầy đủ
Phải tự mình đầy đủ
Phục vụ người đủ tuệ
Như vậy thành công đủ
Ðầy đủ trí và đức
Với tâm được đầy đủ
Làm nghiệp được đầy đủ
Lợi ích được đầy đủ
Như thật biết cuộc đời
Ðạt được kiến đầy đủ
Ðường đầy đủ đi đến
Tiến đến ý đầy đủ
Vất bỏ mọi cấu uế
Ðạt Niết-bàn cụ túc
Giải thoát mọi khổ đau
Tức đầy đủ vẹn toàn.
(V) (35) Thọ Sanh Do Bố Thí
1. - Này các Tỷ-kheo, có tám thọ
sanh do bố thí. Thế nào là tám?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người
bố thí cho Sa-môn hay Bà-la-môn với đồ ăn, đồ uống, vải mặc, xe cộ, vòng
hoa, hương, dầu thoa, đồ nằm, trú xứ, đèn đuốc. Người ấy bố thí và mong
hưởng quả. Thấy các Sát-đế-lỵ đại phú hay các Bà-la-môn đại phú, hay
các gia chủ đại phú, sung túc, đầy đủ, thọ hưởng năm dục trưởng dưỡng,
người ấy suy nghĩ như sau: "Mong rằng, sau khi thân hoại mạng chung,
được sanh cọng trú với Sát-đế-lỵ đại phú, hay với Bà-la-môn đại phú, hay
với gia chủ đại phú ". Người ấy móng tâm như vậy, trú tâm như vậy, tu
tâm như vậy, tâm người ấy hướng đến hạ liệt, không tu tập hướng thượng,
sau khi thân hoại mạng chung, được sanh cọng trú với Sát-đế-lỵ đại phú,
hay với Bà-la-môn đại phú, hay với gia chủ đại phú. Ta nói rằng: "Người
ấy là người giữ giới, không
phải là người ác giới". Này các Tỷ-kheo, người giữ giới thành công, vì
tâm hướng đến thanh tịnh.
3-4. Ở đây, này các Tỷ-kheo, có
người bố thí cho Sa-môn hay Bà-la-môn với đồ ăn, đồ uống, vải mặc, xe
cộ, vòng hoa, hương, dầu thoa, đồ nằm, trú xứ, đèn đuốc. Người ấy bố thí
và mong hưởng qua. Nghe rằng: "Bốn Thiên vương thiên sống lâu, có dung
sắc, được nhiều an lạc", người ấy suy nghĩ như sau: "Mong rằng khi thân
hoại mạng chung, được sanh cọng trú với chư Thiên ở Bốn Thiên vương ...
với chư Thiên ở cõi trời Ba mươi ba ... với chư Thiên ở cõi Trời Dạ-ma
... với chư Thiên ở cõi Trời Ðâu-xuất ... với chư Thiên ở cõi Trời Hóa
lạc thiên... với chư Thiên ở cõi Trời Tha hóa Tự tại thiên ... "Người ấy
móng tâm như vậy, trú tâm như vậy, tu tâm như vậy, tâm người ấy hướng
đến hạ liệt, không tu tập hướng thượng, sau khi thân hoại mạng chung,
được sanh cọng trú với chư Thiên
ở cõi Bốn thiên vương ... ở cõi Tha hóa Tự tại thiên, hay với Bà-la-môn
đại phú, hay với gia chủ đại phú. Ta nói rằng: "Người ấy là người giữ
giới, không phải là người ác giới". Này các Tỷ-kheo, người giữ giới
thành công, vì tâm hướng đến thanh tịnh.
5. Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người
bố thí cho Sa-môn, Bà-la-môn với đồ ăn, đồ uống... Nghe rằng: ": "Chư
Thiên ở Phạm chúng thiên sống lâu, có dung sắc, được nhiều an lạc",
người ấy suy nghĩ như sau: "Mong rằng.." ....hay với gia chủ đại phú. Ta
nói rằng: "Người ấy là người không giữ giới, không phải là người ác
giới, là người ly tham, không phải là người có tham". Này các Tỷ-kheo,
người giữ giới thành công, vì tâm hướng đến thanh tịnh. Này các Tỷ-kheo,
người giữ giới thành công, vì tâm hướng đến ly tham. Này các Tỷ-kheo,
tám pháp này là tám pháp thọ sanh do bố thí.
(VI) (36) Phước Nghiệp Sự
1.- Này các Tỷ-kheo, có ba căn bản
làm phước. Thế nào là ba?
2. Căn bản làm phước do bố thí, căn
bản làm phước do giới đức, căn bản làm phước do tu tập.
3. Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng
người căn bản làm phước do bố thí trên một quy mô nhỏ, căn bản làm phước
do giới đức trên một quy mô nhỏ, căn bản làm phước do tu tập trên một
quy mô nhỏ. Người ấy, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh làm người
không may mắn.
4. Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng
người căn bản làm phước do bố thí trên một quy mô vừa, căn bản làm phước
do giới đức trên một quy vừa, không đạt được căn bản làm phước do tu
tập. Người ấy, sau khi thân hoại mạng chung được sanh làm người có may
mắn.
5. Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng
người căn bản làm phước do bố thí trên một quy mô to lớn, căn bản làm
phước do giới đức trên một quy mô to lớn, nhưng không đạt được căn bản
làm phước do tu tập. Người ấy, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh
cọng trú với chư Thiên ở Tam thập Tam thiên. Tại đây, này các Tỷ-kheo,
Thiên chủ Sakka sau khi làm thật nhiều căn bản phước nghiệp do bố thí,
sau khi làm thật nhiều căn bản phước nghiệp do giới đức, vượt qua Bốn
thiên vương trên mười điểm: tuổi thọ chư Thiên, dung sắc chư Thiên, an
lạc chư Thiên, danh tiếng chư Thiên, Tăng thượng lực chư Thiên, thiên
sắc, thiên hương, thiên vị, thiên xúc.
6. Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng
người căn bản làm phước do bố thí trên một quy mô to lớn, căn bản làm
phước do giới đức trên một quy mô to lớn, nhưng không đạt được căn bản
làm phước do tu tập. Người ấy, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh
cọng trú với chư Thiên ở Tam thập Tam thiên. Tại đây, này các Tỷ-kheo,
Thiên chủ Sakka sau khi làm thật nhiều căn bản phước nghiệp do bố thí,
sau khi làm thật nhiều căn bản phước nghiệp do giới đức, vượt qua chư
Thiên ở Tàvatimsa trên mười điểm: tuổi thọ chư Thiên, dung sắc chư
Thiên, an lạc chư Thiên, danh tiếng chư Thiên, Tăng thượng lực chư
Thiên, thiên sắc, thiên hương, thiên vị, thiên xúc.
7. Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng
người căn bản làm phước do bố thí trên một quy mô to lớn, căn bản làm
phước do giới đức trên một quy mô to lớn, nhưng không đạt được căn bản
làm phước do tu tập. Người ấy, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh
cọng trú với chư Thiên ở Yàma thiên. Tại đây, này các Tỷ-kheo, Thiên tử
Suyàma sau khi làm thật nhiều căn bản phước nghiệp do bố thí, sau khi
làm thật nhiều căn bản phước nghiệp do giới đức, vượt qua chư Thiên ở
Yàma trên mười điểm: tuổi thọ chư Thiên, ... thiên vị, thiên xúc.
8. Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng
người căn bản làm phước do bố thí trên một quy mô to lớn, căn bản làm
phước do giới đức trên một quy mô to lớn, nhưng không đạt được căn bản
làm phước do tu tập. Người ấy, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh
cọng trú với chư Thiên ở Tusità thiên. Tại đây, này các Tỷ-kheo, Thiên
tử Santusità, sau khi làm thật nhiều căn bản phước nghiệp do bố thí, sau
khi làm thật nhiều căn bản phước nghiệp do giới đức, vượt qua chư Thiên
ở Tusità trên mười điểm: tuổi thọ chư Thiên, ... thiên vị, thiên xúc.
9. Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng
người căn bản làm phước do bố thí trên một quy mô to lớn, căn bản làm
phước do giới đức trên một quy mô to lớn, nhưng không đạt được căn bản
làm phước do tu tập. Người ấy, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh
cọng trú với chư Thiên ở Hóa lạc thiên. Tại đây, này các Tỷ-kheo, Thiên
tử Sunimmita, sau khi làm thật nhiều căn bản phước nghiệp do bố thí, sau
khi làm thật nhiều căn bản phước nghiệp do giới đức, vượt qua chư Thiên
ở Hóa lạc thiên trên mười điểm: tuổi thọ chư Thiên, ... thiên vị, thiên
xúc.
10. Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng
người căn bản làm phước do bố thí trên một quy mô to lớn, căn bản làm
phước do giới đức trên một quy mô to lớn, nhưng không đạt được căn bản
làm phước do tu tập. Người ấy, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh
cọng trú với chư Thiên ở Tha hóa tự tại thiên. Tại đây, này các Tỷ-kheo,
Thiên tử Vasavattì, sau khi làm thật nhiều căn bản phước nghiệp do bố
thí, sau khi làm thật nhiều căn bản phước nghiệp do giới đức, vượt qua
chư Thiên ở Tha hóa Tự tại thiên trên mười điểm: tuổi thọ chư Thiên, ...
thiên vị, thiên xúc.
Này các Tỷ-kheo, có ba căn bản phước nghiệp này.
(VII) (37) Người Chân Nhân (1)
1. - Này các Tỷ-kheo, có tám bố thí
này của bậc chân nhân. Thế nào là tám?
2. Cho vật trong sạch; cho vật thù
diệu; cho đúng thời; cho vật thích ứng; cho với sự cẩn thận; cho luôn
luôn; tâm cho được tịnh tín; sau khi cho được hoan hỷ.
Này các Tỷ-kheo, có tám bố thí này của bậc chân nhân:
Trong sạch và thù diệu
Ðúng thời và thích ứng
Ðồ uống và đồ ăn
Luôn luôn làm bố thí
Trong các ruộng tốt lành
Sống theo đời Phạm hạnh
Không có gì hối tiếc
Bố thí nhiều tài vật
Những bố thí như vậy
Ðược bậc trí tán thán
Bậc Trí thí như vậy
Với tâm tín, giải thoát
Không hại, tâm an lạc
Bậc trí sanh ở đời.
(VIII) (38) Người Chân Nhân (2)
1. - Này các Tỷ-kheo, bậc chân nhân
sinh ra trong gia đình nào, đem lại lợi ích, hạnh phúc, an lạc cho nhiều
người; đem lại lợi ích, hạnh phúc, an lạc cho cha mẹ; đem lại lợi ích,
hạnh phúc, an lạc cho vợ con; đem lại lợi ích, hạnh phúc, an lạc cho
người phục vụ, người làm công; đem lại lợi ích, hạnh phúc, an lạc cho
bạn bè thân hữu; đem lại lợi ích, hạnh phúc, an lạc cho các hương linh
đã mất; đem lại lợi ích, hạnh phúc, an lạc cho vua chúa; đem lại lợi
ích, hạnh phúc, an lạc cho chư Thiên; đem lại lợi ích, hạnh phúc, an lạc
cho Sa-môn, Bà-la-môn.
2. Ví như, này các Tỷ-kheo, một cơn
mưa lớn làm cho các loại mùa màng đều thành tựu đầy đủ, đem lại lợi ích,
hạnh phúc, an lạc cho nhiều người. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, bậc Chân
nhân sinh ra trong gia đình nào, đem lại lợi ích, hạnh phúc, an lạc cho
nhiều người; đem lại lợi ích, hạnh phúc, an lạc cho cha mẹ; đem lại lợi
ích, hạnh phúc, an lạc cho vợ con; đem lại lợi ích, hạnh phúc, an lạc
cho người phục vụ, người làm công; đem lại lợi ích, hạnh phúc, an lạc
cho bạn bè thân hữu; đem lại lợi ích, hạnh phúc, an lạc cho các hương
linh đã mất; đem lại lợi ích, hạnh phúc, an lạc cho vua chúa; đem lại
lợi ích, hạnh phúc, an lạc cho chư Thiên; đem lại lợi ích, hạnh phúc, an
lạc cho Sa-môn, Bà-la-môn.
Vì lợi ích nhiều người
Bậc trí sống gia đình
Không mệt mỏi ngày đêm
Cúng dường thật đúng pháp
Mẹ cha và tổ tiên
Nhớ ngày trước đã làm
Ðối xuất gia, không nhà
Kính lễ bậc Phạm hạnh
Tin vững trú, cúng dường
Biến pháp, khéo xử sự
Là người đem lợi ích
Cho vua, cho chư Thiên
Là người đem lợi ích
Cho bà con, bè bạn
Là người đem lợi ích
Cho tất cả mọi người
Khéo an trú diệu pháp
Nhiếp xan tham cấu uế
Hưởng cuộc đời hạnh phúc.
(IX) (39) Nguồn Nước Công Ðức
1.- Này các Tỷ-kheo, có tám nguồn
nước công đức này, là nguồn nước thiện, món ăn cho an lạc làm nhơn sanh
Thiên, quả dị thục an lạc, đưa đến cõi trời, dẫn đến khả ái, khả hỷ, khả
ý, hạnh phúc, an lạc. Thế nào là tám?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Thánh đệ
tử quy y Phật. Này các Tỷ-kheo, đây là nguồn nước công đức thứ nhất, là
nguồn nước thiện ... hạnh phúc, an lạc.
3. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Thánh
đệ tử quy y Pháp. Này các Tỷ-kheo, đây là nguồn nước công đức thứ hai,
là nguồn nước thiện ... hạnh phúc, an lạc.
4. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Thánh
đệ tử quy y Tăng. Này các Tỷ-kheo, đây là nguồn nước công đức thứ ba, là
nguồn nước thiện ... hạnh phúc, an lạc.
5. Này các Tỷ-kheo, có năm bố thí
này, là đại bố thí, được biết là tối sơ, được biết là lâu ngày, được
biết là truyền thống cổ xưa, trước không tạp loạn, hiện tại không tạp
loạn, tương lai không tạp loạn, không bị những Sa-môn, những Bà-la-môn
có trí khinh thường. Thế nào là năm?
6. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Thánh đệ
tử đoạn tận sát sanh, từ bỏ sát sanh, Này các Tỷ Kheo vị Thánh đệ tử từ
bỏ sát sanh, đem cho không sợ hãi cho vô lượng chúng sanh, đem cho không
hận thù cho vô lượng chúng sanh, đem cho không hại cho vô lượng chúng
sanh; sau khi cho vô lượng chúng sanh, không sợ hãi, không hận thù,
không hại, vị ấy sẽ được san sẽ vô lượng không sợ hãi, không hận thù,
không hại. Này các Tỷ-kheo, đây là bố thí thứ nhất, là đại bố thí, được
biết là tối sơ, được biết là lâu ngày ... không bị những Sa-môn, những
Bà-la-môn có trí khinh thường. Này các Tỷ-kheo, đây là nguồn nước công
đức thứ tư, là nguồn nước thiện ... dẫn đến khả ái, khả hỷ, khả ý, hạnh
phúc, an lạc.
7. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Thánh
đệ tử đoạn tận lấy của không cho, từ bỏ lấy của không cho ... đoạn tận
tà hạnh trong các dục, từ bỏ tà hạnh trong các dục ... đoạn tận nói láo,
từ bỏ nói láo ... đoạn tận đắm say rượu men, rượu nấu,từ bỏ đắm say
rượu mem rượu nấu. Này các Tỷ kheo Thành Ðệ Tử đoạn tận đắm say rượu
men, rượu nấu,từ bỏ đắm say rượu mem rượu nấu, đem cho không sợ hãi cho
vô lượng chúng sanh, đem cho không hận thù cho vô lượng chúng sanh, đem
cho không hại cho vô lượng chúng sanh; sau khi cho vô lượng chúng sanh,
không sợ hãi, không hận thù, không hại, vị ấy được san sẽ vô lượng không
sợ hãi, không hận thù, không hại. Này các Tỷ-kheo, đây là bố thí thứ
năm, là đại bố thí, được biết là tối sơ, được biết là lâu ngày ... không
bị những Sa-môn, những
Bà-la-môn có trí khinh thường. Này các Tỷ-kheo, đây là nguồn nước công
đức thứ tàm, là nguồn nước thiện ... dẫn đến khả ái, khả hỷ, khả ý, hạnh
phúc, an lạc.
Này các Tỷ-kheo, có tám nguồn nước công đức này, là nguồn nước thiện,
món ăn cho an lạc làm nhơn sanh Thiên, quả dị thục an lạc, đưa đến cõi
trời, dẫn đến khả ái, khả hỷ, khả ý, hạnh phúc, an lạc.
(X) (40) Rất Là Nhẹ
1.- Này các Tỷ-kheo, sát sanh được
thực hiện, được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến địa ngục, đưa đến
loại bàng sanh, đưa đến cõi ngạ quỷ. Quả dị thục hết sức nhẹ của sát
sanh là được làm người với tuổi thọ ngắn.
2. Này các Tỷ-kheo, lấy của không
cho được thực hiện, được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến địa
ngục, đưa đến loại bàng sanh, đưa đến cõi ngạ quỷ. Quả dị thục hết sức
nhẹ của lấy của không cho là được làm người với sự tổn hại tài sản.
3. Này các Tỷ-kheo, tà hạnh trong
các dục được thực hiện, được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến địa
ngục, đưa đến loại bàng sanh, đưa đến cõi ngạ quỷ. Quả dị thục hết sức
nhẹ của tà hạnh trong các dục là được làm người với sự oán thù của kẻ
địch.
4. Này các Tỷ-kheo, nói láo được
thực hiện, được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến địa ngục, đưa đến
loại bàng sanh, đưa đến cõi ngạ quỷ. Quả dị thục hết sức nhẹ của nói
láo là được làm người bị vu cáo không đúng sự thật.
5. Này các Tỷ-kheo, nói hai lưỡi
được thực hiện, được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến địa ngục,
đưa đến loại bàng sanh, đưa đến cõi ngạ quỷ. Quả dị thục hết sức nhẹ của
nói hai lưỡi là được làm người với bạn bè bị đổ vỡ.
6. Này các Tỷ-kheo, nói ác khẩu được
thực hiện, được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến địa ngục, đưa
đến loại bàng sanh, đưa đến cõi ngạ quỷ. Quả dị thục hết sức nhẹ của nói
ác khẩu là được làm người và được nghe những tiếng không khả ý.
7. Này các Tỷ-kheo, nói lời phù
phiếm được thực hiện, được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến địa
ngục, đưa đến loại bàng sanh, đưa đến cõi ngạ quỷ. Quả dị thục hết sức
nhẹ của nói lời phù phiếm là được làm người và được nghe những lời khó
chấp nhận.
8. Này các Tỷ-kheo, uống men rượu,
rượu nấu, được thực hiện, được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến
địa ngục, đưa đến loại bàng sanh, đưa đến cõi ngạ quỷ. Quả dị thục hết
sức nhẹ của uống rượu mem rượu nấu là được làm người với tâm điên loạn.
V. Phẩm Ngày Trai Giới
(I) (41) Các Trai Giới
1.
Như vầy tôi nghe:
Một thời, Thế Tôn trú ở Sàvavatthì tại Jetanava, khu vườn ông
Anàthapindika, ở đấy Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo: "Này các Tỷ-kheo", - "Bạch
Thế Tôn"
Các tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế tôn nói như sau:
2. - Này các Tỷ-kheo, ngày trai giới
thành tựu tám chi phần, được thực hành thời có được quả lớn, có lợi ích
lớn, có rực rỡ lớn; có biến mãn lớn. Như thế nào, này các Tỷ-kheo, là
ngày trai giới thành tựu tám chi phần, được thực hành thời có được quả
lớn, có lợi ích lớn, có rực rỡ lớn; có biến mãn lớn?
3. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Thánh đệ
tử suy nghĩ như sau: "Cho đến trọn đời, các vị A-la-hán đoạn tận sát
sanh, từ bỏ sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống
thương xót đến hạnh phúc tất cả chúng sanh và loài hữu tình. Hôm nay,
đêm này và ngày nay, ta cũng đoạn tận sát sanh, từ bỏ sát sanh, bỏ
trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót đến hạnh phúc
tất cả chúng sanh và loài hữu tình. Với chi phần này, Ta theo gương vị
A-la-hán, ta sẽ thực hành trai giới ". Ðây là chi phần thứ nhất được
thành tựu.
4. "Cho đến trọn đời, các vị
A-la-hán đoạn tận lấy của không cho, chỉ lấy những vật đã cho, chỉ mong
những vật đã cho, tự sống thanh tịnh, không có trộm cướp. Hôm nay, đêm
này và ngày nay, ta cũng đoạn tận lấy của không cho, chỉ lấy những vật
đã cho, chỉ mong những vật đã cho, tự sống thanh tịnh, không có trộm
cướp. Với chi phần này, Ta theo gương vị A-la-hán, ta sẽ thực hành ngày
trai giới ". Ðây là chi phần thứ hai được thành tựu.
5. "Cho đến trọn đời, các vị
A-la-hán đoạn tận phi Phạm hạnh, hành Phạm hạnh, sống xa lánh, từ bỏ dâm
dục hèn hạ. Hôm nay, đêm này và ngày nay, ta cũng đoạn tận phi Phạm
hạnh, hành Phạm hạnh, sống xa lánh, từ bỏ dâm dục hèn hạ. Với chi phần
này, Ta theo gương vị A-la-hán, ta sẽ thực hành ngày trai giới ". Ðây là
chi phần thứ ba được thành tựu.
6. "Cho đến trọn đời, các vị
A-la-hán đoạn tận nói láo, từ bỏ nói láo, nói những lời chân thật, y chỉ
sự thật, chắc chắn, đáng tin cậy, không lường gạt đời. Hôm nay, đêm này
và ngày nay, ta cũng đoạn tận nói láo, từ bỏ nói láo, nói những lời
chân thật, y chỉ sự thật, chắc chắn, đáng tin cậy, không lường gạt đời.
Với chi phần này, Ta theo gương vị A-la-hán, ta sẽ thực hành ngày trai
giới ". Ðây là chi phần thứ tư được thành tựu.
7. "Cho đến trọn đời, các vị
A-la-hán đoạn tận đắm say men rượu men, rượu nấu, từ bỏ đắm say rượu
men, rượu nấu. Hôm nay, đêm này và ngày nay, ta cũng đoạn tận đắm say
men rượu men, rượu nấu, từ bỏ đắm say rượu men, rượu nấu. Với chi phần
này, Ta theo gương vị A-la-hán, ta sẽ thực hành ngàytrai giới ". Ðây là
chi phần thứ năm được thành tựu.
8. "Cho đến trọn đời, các vị
A-la-hán dùng mỗi ngày một bữa, không ăn ban đêm, từ bỏ không ăn ban
đêm, từ bỏ ăn phí thời. Hôm nay, đêm này và ngày nay, ta cũng dùng mỗi
ngày một bữa, không ăn ban đêm, từ bỏ không ăn ban đêm, từ bỏ ăn phí
thời. Với chi phần này, Ta theo gương vị A-la-hán, ta sẽ thực hành ngày
trai giới ". Ðây là chi phần thứ sáu được thành tựu.
9. "Cho đến trọn đời, các vị
A-la-hán từ bỏ không đi xem múa, hát, nhạc diễn kịch, không trang sức
bằng vòng hoa, hương liệu, dầu thoa và các thời trang. Hôm nay, đêm này
và ngày nay, ta cũng từ bỏ không đi xem múa, hát, nhạc diễn kịch, không
trang sức bằng vòng hoa, hương liệu, dầu thoa và các thời trang. Với chi
phần này, Ta theo gương vị A-la-hán, ta sẽ thực hành ngày trai giới ".
Ðây là chi phần thứ bảy được thành tựu.
10. "Cho đến trọn đời, các vị
A-la-hán đoạn tận, không dùng các giường cao, giường lớn, từ bỏ không
dùng các giường cao, giường lớn. Hôm nay, đêm này và ngày nay, ta cũng
đoạn tận, không dùng các giường cao, giường lớn, từ bỏ không dùng các
giường cao, giường lớn. Với chi phần này, Ta theo gương vị A-la-hán, ta
sẽ thực hành ngày trai giới ". Ðây là chi phần thứ tám được thành tựu.
Này các Tỷ-kheo, ngày trai giới thành tựu tám chi phần được thực hành
như vậy, thời có được quả lớn, có lợi ích lớn, có rực rỡ lớn, có biến
mãn lớn.
(II) (42) Ngày Trai Giới
1. - Này các Tỷ-kheo, ngày trai giới
thành tựu tám chi phần, được thực hành thời có được quả lớn, có lợi ích
lớn, có rực rỡ lớn; có biến mãn lớn. Như thế nào, này các Tỷ-kheo, là
ngày trai giới thành tựu tám chi phần, được thực hành thời có được quả
lớn, có lợi ích lớn, có rực rỡ lớn; có biến mãn lớn?
2-3.
... (giống như kinh 41 trên, từ đoạn số 22 đến 10) ... (Ðây là
chi phần thứ tám được thành tựu )
- Này các Tỷ-kheo, ngày trai giới thành tựu tám chi phần, được thực
hành thời có được quả lớn, có lợi ích lớn, có rực rỡ lớn; có biến mãn
lớn. Ðến như thế nào là quả lớn? Ðến như thế nào là lợi ích lớn? Ðến như
thế nào là rực rỡ lớn? Ðến như thế nào là biến mãn lớn?
4. Ví như, này các Tỷ-kheo, có người
áp đặt chủ quyền cai trị trên mười sáu quốc độ lớn này tràn đầy bay
báu, như Anga, Magadha, Kàsìkosala, Vajjì, Cetì, Vamsà, Kurù, Pancàlà,
Macchà, Sùrasenà, Asska, Avantì, Gandhàrà, Kambojà. Nhưng chủ quyền ấy
không bằng một phần mười sáu của một ngày trai giới thành tựu tám chi
phần. Vì cớ sao? Nhỏ nhoi, này các Tỷ-kheo, là quyền của loài người, so
sánh với hạnh phúc chư Thiên.
5. Năm mươi năm của một đời người,
này các Tỷ-kheo, bằng một đêm một ngày của chư Thiên Bốn thiên vương. Ba
mươi đêm của đêm ấy làm thành một tháng, mười hai tháng của tháng ấy
làm thành một năm. Năm mươi năm chư Thiên của năm ấy làm thành thọ mạng
của chư Thiên Bốn thiên vương. Sự kiện này có xảy ra, này các Tỷ-kheo:
"Ở đây, có người đàn bà hay đàn ông, sau khi thực hành trai giới thành
tựu tám chi phần, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh cọng trú với
chư Thiên Bốn thiên vương". Do vậy, Ta nói: "Nhỏ nhoi thay, này các
Tỷ-kheo, là quyền của loài người, so sánh với hạnh phúc chư Thiên ".
6. Một trăm năm của một đời người,
này các Tỷ-kheo, bằng một đêm một ngày của chư Thiên cõi trời Ba mươi
ba. Ba mươi đêm của đêm ấy làm thành một tháng, mười hai tháng của tháng
ấy làm thành một năm. Một ngàn năm chư Thiên của năm ấy làm thành thọ
mạng của chư Thiên cõi trời Ba mươi ba. Sự kiện này có xảy ra, này các
Tỷ-kheo: "Ở đây, có người đàn bà hay đàn ông, sau khi thực hành ngàytrai
giới thành tựu tám chi phần, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh
cọng trú với chư Thiên cõi trời Ba mươi ba". Do vậy, Ta nói: "Nhỏ nhoi
thay, này các Tỷ-kheo, là quyền của loài người, so sánh với hạnh phúc
chư Thiên ".
7. Hai trăm năm của một đời người,
này các Tỷ-kheo, bằng một đêm một ngày của chư Thiên cõi trời Yàma. Ba
mươi đêm của đêm ấy làm thành một tháng, mười hai tháng của tháng ấy làm
thành một năm. Hai ngàn năm chư Thiên của năm ấy làm thành thọ mạng của
chư Thiên cõi trời Yàma. Sự kiện này có xảy ra, này các Tỷ-kheo: "Ở
đây, có người đàn bà hay đàn ông, sau khi thực hành ngày trai giới thành
tựu tám chi phần, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh cọng trú với
chư Thiên cõi trời Yàma". Do vậy, Ta nói: "Nhỏ nhoi thay, này các
Tỷ-kheo, là quyền của loài người, so sánh với hạnh phúc chư Thiên".
Bốn trăm năm của một đời người, này các Tỷ-kheo, bằng một đêm một
ngày của chư Thiên cõi trời Tusità (Ðâu-Xuất). Ba mươi đêm của đêm ấy
làm thành một tháng, mười hai tháng của tháng ấy làm thành một năm. Bốn
ngàn năm chư Thiên của năm ấy làm thành thọ mạng của chư Thiên cõi trời
Tusità. Sự kiện này có xảy ra, này các Tỷ-kheo: "Ở đây, có người đàn bà
hay đàn ông, sau khi thực hành ngày trai giới thành tựu tám chi phần,
sau khi thân hoại mạng chung, được sanh cọng trú với chư Thiên cõi trời
Tusità". Do vậy, Ta nói: "Nhỏ nhoi thay, này các Tỷ-kheo, là quyền của
loài người, so sánh với hạnh phúc chư Thiên ".
Tám trăm năm của một đời người, này các Tỷ-kheo, bằng một đêm một
ngày của chư Thiên cõi trời Hóa lạc. Tám ngàn năm chư Thiên của năm ấy
làm thành thọ mạng của chư Thiên cõi trời Hóa lạc. Sự kiện này có xảy
ra, ... với hạnh phúc chư Thiên ".
Mười sáu trăm năm của một đời người, này các Tỷ-kheo, bằng một đêm
một ngày của chư Thiên cõi trời Tha hóa Tự tại. Ba mươi đêm của đêm ấy
làm thành một tháng, mười hai tháng của tháng ấy làm thành một năm. Mười
sáu ngàn năm chư Thiên của năm ấy làm thành thọ mạng của chư Thiên cõi
trời Tha hóa Tự tại. Sự kiện này có xảy ra, này các Tỷ-kheo: "Ở đây, có
người đàn bà hay đàn ông, sau khi thực hành ngày trai giới thành tựu tám
chi phần, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh cọng trú với chư
Thiên cõi trời Tha hóa Tự tại. Do vậy, Ta nói: "Nhỏ nhoi thay, này các
Tỷ-kheo, là quyền của loài người, so sánh với hạnh phúc chư Thiên ".
Chớ giết hại loại sanh
Chớ lấy của không cho
Chớ nói lời nói láo
Chớ uống thứ rượu say
Từ bỏ phi Phạm hạnh
Từ bỏ không dâm dục
Không ăn vào ban đêm
Tránh không ăn phi thời
Không mang các vòng hoa
Không dùng các hương liệu
Hãy nằm trên tấm thảm
Trải dài đất làm giường
Chính hạnh trai giới này
Ðược gọi có tám phần
Do Đức Phật nói lên
Ðưa đến đoạn tận khổ
Mặt trăng và mặt trời
Cả hai thấy lành tốt
Chỗ nào chúng đi tới,
Chúng chói sáng hào quang
Chúng làm mây sáng chói
Giữa hư không chúng đi
Trên trời chúng chói sáng
Sáng rực mọi phương hướng
Trong khoảng không gian ấy
Tài sản được tìm thấy
Trân châu và ngọc báu
Lưu ly đá cầu may
Vàng cục trong lòng đất
Hay loại Kancana
Cùng loại vàng sáng chói
Ðược gọi Hataka
Tuy vậy chúng giá trị
Chỉ một phần mười sáu
Với hạnh giữa trai giới
Ðầy đủ cả tám mặt
Kể cả ánh sáng trăng
Với cả vòm trời sao
Vậy người nữ, người nam
Giữ gìn theo tịnh giới
Hành Bồ-tát trai giới
Ðầy đủ cả tám mặt
Làm các thiện công đức
Ðem lại nhiều an lạc
Ðược sanh lên cõi trời
Không bị người cười chê.
(III)
(43) Visàkhà
1. Một thời, Thế Tôn trú ở
Sàvavatthì, tại Ðông Viên, lâu đài mẹ của Migàrà. Rồi Visàkhà, mẹ của
Migàrà đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một
bên. Thế Tôn nói với Visàkhà, mẹ của Migàrà đang ngồi một bên:
2. - Này Visàkhà, ngày trai giới đầy
đủ tám chi phần được thực hành, thời có được quả lớn, có lợi ích lớn,
có rực rỡ lớn, có biến mãn lớn ... (giống như kinh 42 với cả bài kệ,
với những thay đổi cần thiết ).
(IV)
(44) Vàsettha
1. Một thời, Thế Tôn trú ở Vesàli,
tại Mahàvana, ngôi nhà có nóc nhọn, rồi nam cư sĩ Vàsettha đi đến Thế
Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Thế Tôn nói
với nam cư sĩ đang ngồi một bên: ... (Ðức Phật nói lại như kinh 4,2
kể cả bài kệ, với những thay đổi cần thiết) ...
2. Khi được nói như vậy, nam cư sĩ
Vàsettha bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, nếu người bà con huyết thống thân mến của con thực
hành ngày trai giới, với đầy đủ tám chi phần này, như vậy, các bà con
huyết thống thân mến của con được hạnh phúc an lạc lâu dài. Bạch Thế
Tôn, nếu tất cả các Sát-đế-lỵ thực hành ngày trai giới, với đầy đủ tám
chi phần, tất cả các được hạnh phúc an lạc lâu dài. Bạch Thế Tôn, nếu
tất cả Bà-la-môn ... các Phệ-Xá ... các Thủ-đà thực hành ngày trai giới
với đầy đủ tám chi phần, tất cả các Thủ-đà được hạnh phúc an lạc lâu
dài.
3. - Như vậy là phải, này Vàsettha!
Này Vàsettha, nếu tất cả các Sát-đế-lỵ thực hành ngày trai giới, với đầy
đủ tám chi phần, tất cả các Sát Ðế Lỵ được hạnh phúc an lạc lâu dài.
Này Vàsettha, nếu tất cả Bà-la-môn ... các Phệ-Xá ... các Thủ-đà thực
hành ngày trai giới với đầy đủ tám chi phần, tất cả các Thủ-đà sẽ được
hạnh phúc an lạc lâu dài. Này Vàsettha, nếu thế giới chư Thiên, với các
ác ma, các phạm thiên, hay quần chúng Sa-môn, Bà-la-môn thực hành ngày
trai giới, với đầy đủ tám chi phần, như vậy, thế giới chư Thiên, các ác
ma, các Phạm thiên, hay quần chúng Sa-môn, Bà-la-môn, sẽ được hạnh phúc
an lạc lâu dài. Này Vàsettha, nếu các cây sàlà lớn này có thể thực hành
ngày trai giới với đầy đủ tám chi phần, sẽ được hạnh phúc an lạc lâu
dài, nếu chúng có tư duy, nói
gì đến loài người.
(V)
(45) Bojjhà
1. Một thời, Thế Tôn trú ở
Sàvavatthì, tại Jetanava, khu vườn ông Anàthapindika. Rồi nữ cư sĩ
Bojjhà đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một
bên. Thế Tôn nói với cư sĩ Bojjhà đang ngồi xuống một bên:
2.
... (Thế Tôn nói lại kinh 42, kể cả bài kệ, với những thay đổi cần
thiết)...
(VI) (46) Tôn Gỉả Anuruddha
1. Một thời, Thế Tôn trú ở Kosambi,
tại khu vườn Ghosita. Lúc bấy giờ Tôn giả Anuruddha, đang đi nghỉ ban
ngày, ngồi Thiền tịnh. Rồi rất nhiều Thiên nữ với thân khả ái đi đến Tôn
giả Anuruddha, sau khi đến, đảnh lễ Tôn giả Anuruddha rồi đứng một bên.
Ðứng một bên, các Thiên nữ ấy thưa với Tôn giả:
- Chúng tôi là những thiên nữ với thân khả ái. Trên ba địa hạt, chúng
tôi có quyền lực và có tự tại! Thưa Tôn giả, chúng tôi muốn có hình sắc
như thế nào, chúng tôi liền được hình sắc ấy ngay lập tức. Chúng tội
muốn được tiếng như thế nào, chúng tôi liển được tiếng như thế ấy ngay
lập tức. Chúng tôi muốn được lạc thọ như thế nào, chúng tôi liền được
lạc ấy ngay lập tức. Thưa Tôn giả Anurudha, chúng tôi là những thiên nữ
với thân khả ái. Trên ba địa hạt, chúng tôi có quyền lực và có tự tại.
2. Rồi Tôn giả Anuruddha suy nghĩ:
"Mong rằng các Thiên nữ này tất cả trở thành xanh, dung sắc xanh, y áo
xanh, trang điểm xanh". Rồi các Thiên nữ ấy, biết được tâm của Tôn giả
Anuruddha, tất cả đều trở thành xanh, dung sắc xanh, y áo xanh, trang
điểm xanh. Rồi Tôn giả Anuruddha suy nghĩ như sau: "Mong rằng các Thiên
nữ này tất cả trở thành vàng ... tất cả trở thành đỏ ... tất cả trở
thành trắng, dung sắc trắng, y áo trắng, trang sức trắng. Rồi các Thiên
nữ ấy, biết được tâm của Tôn giả Anuruddha, tất cả đều trở thành trắng,
dung sắc trắng, y áo trắng, trang sức trắng. Rồi các Thiên nữ ấy, một
người hát, một người múa, một người vỗ tay. Ví như năm loại nhạc khí,
khéo hòa điệu, khéo chơi, khéo đánh bởi người thiện xảo, thời tiếng phát
ra được đáng ưa, khả lạc, khả
dục, khả ái, mê ly. Cũng vậy, là nhạc của các Thiên nữ khéo trang điểm
ấy, tiếng phát ra được đáng ưa, khả lạc, khả dục, khả ái, mê ly. Nhưng
Tôn giả Anuruddha giữ các căn nhiếp phục. Các Thiên nữ ấy nghĩ rằng:
"Tôn giả Anuruddha không có thưởng thức", liền biến mất tại chỗ.
3. Rồi Tôn giả Anuruddha, vào buổi
chiều, từ Thiền định đứng dậy đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế
Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Tôn giả Anuruddha bạch
Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, ở đây, con đang đi nghỉ ban ngày, ngồi Thiền tịnh.
Rồi rất nhiều Thiên nữ với thân khả ái đi đến con, sau khi đến, đảnh lễ
con rồi đứng một bên. Ðứng một bên, các Thiên nữ ấy thưa với con:
- Chúng tôi là những thiên nữ với thân khả ái. Trên ba địa hạt, chúng
tôi có quyền lực và có tự tại! Thưa Tôn giả, chúng tôi muốn có hình sắc
như thế nào, chúng tôi liền được hình sắc ấy ngay lập tức. Chúng tội
muốn có tiếng như thế nào, chúng tôi liển được tiếng như thế ấy ngay lập
tức. Chúng tôi muốn được lạc thọ như thế nào, chúng tôi liền được lạc
thọ ấy ngay lập tức. Thưa Tôn giả, Anurudha chúng tôi là những thiên nữ
với thân hình khả ái. Trên ba địa hạt, chúng tôi có quyền lực và có tự
tại.
2. Bạch Thế Tôn. Con suy nghĩ như
sau: "Mong rằng các Thiên nữ này tất cả trở thành xanh, dung sắc xanh, y
áo xanh, trang điểm xanh". Rồi các Thiên nữ ấy, biết được tâm của con,
tất cả đều trở thành xanh, dung sắc xanh, y áo xanh, trang điểm xanh.
Rồi bạch Thế Tôn, con suy nghĩ như sau: "Mong rằng các Thiên nữ này tất
cả trở thành vàng ... tất cả trở thành đỏ ... tất cả trở thành trắng,
dung sắc trắng, y áo trắng, trang sức trắng. Rồi bạch Thế Tôn, các Thiên
nữ ấy, biết được tâm của con, tất cả đều trở thành trắng, dung sắc
trắng, y áo trắng, trang sức trắng. Rồi bạch Thế Tôn, các Thiên nữ ấy,
một người hát, một người múa, một người vỗ tay. Ví như năm loại nhạc
khí, khéo hòa điệu, khéo chơi, khéo đánh bởi người thiện xảo, thời tiếng
phát ra được đáng ưa, khả lạc, khả
dục, khả ái, mê ly. Cũng vậy, là nhạc của các Thiên nữ khéo trang điểm
ấy, tiếng phát ra được dịu ngọt, đáng ưa, khả lạc, khả dục, khả ái, mê
ly. Nhưng bạch Thế Tôn, con giữ các căn nhiếp phục. Các Thiên nữ ấy nghĩ
rằng: "Con không có thưởng thức", liền biến mất tại chỗ.
Bạch Thế Tôn, thành tựu bao nhiêu pháp, nữ nhân sau khi thân hoại
mạng chung, được sanh cộng trú với các Thiên nữ ấy với thân khả ái?
4. - Này, Anuruddha, đầy đủ tám
pháp, nữ nhân sau khi thân hoại mạng chung, được sanh cộng trú với các
Thiên nữ ấy với thân khả ái. Thế nào là tám?
5. Ở đây, này Anuruddha, nữ nhân đối
với người chồng nào mẹ cha gả cho, vì muốn lợi ích, vì tìm hạnh phúc,
vì lòng thương tưởng, vì lòng từ mẫn khởi lên đối với người ấy, nữ nhân
dậy trước, đi ngủ sau cùng, vui lòng nhận mọi công việc, xử sự đẹp lòng,
lời nói dễ thương. Những ai có người chồng kính trọng Sa-môn, Bà-la-môn
như cha mẹ, nữ nhân ấy cung kính tôn trọng, đảnh lễ, cúng dường, và khi
họ đến, sẽ dâng hiến chỗ ngồi và nước. Phàm có những việc trong nhà,
thuộc về len hay vải bông, ở đây, nữ nhân ấy thông thạo, không biếng
nhác, tự tìm phương pháp làm, vừa đủ để tự mình làm, vừa đủ để sắp đặt
người làm. Trong nhà người chồng, phàm có nô tỳ nào, hay người đưa tin,
hay người công thợ, nữ nhân biết công việc của họ với công việc đã làm,
biết sự thiếu xót của họ với
công việc không làm; biết sức mạnh hay sức không mạnh của những người
đau bệnh; biết chia các đồ ăn, loại cứng và loại mềm, mỗi người tùy theo
từng phần của mình. Phàm có tiền bạc, lúa gạo, bạc và vàng người chồng
đem về, nữ nhân ấy bảo vệ, phòng hộ chúng, giữ gìn để khỏi ăn trộm, ăn
cắp, kẻ uống rượu, kẻ phá hoại. Nữ cư sĩ quy y Phật, quy y Pháp, Quy y
Tăng. Nữ cư sĩ giữ giới, từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho, từ bỏ
tà hạnh trong các dục, từ bỏ nói láo, từ bỏ đắm say rượu men, rượu nấu.
Nữ cư sĩ bố thí, sống ở gia đình với tâm tư từ bỏ uế của xan tham, bố
thí rộng rãi, với bàn tay cởi mở, vui thích từ bỏ, sẵn sàng đáp ứng các
yêu cầu, vui thích chia xẻ các vật dụng bố thí. Thành tựu tám pháp này,
nữ nhân sau khi thân hoại mạng chung, được sanh cộng trú với các
chư Thiên ấy với thân khả ái.
Hãy thường yêu thương chồng
Luôn nỗ lực cố gắng
Người đem lại lạc thú
Chớ khinh thường người chồng
Chớ làm chồng không vui
Chớ làm chồng tức tối
Với những người ganh tị
Chồng cung kính những ai
Hãy đảnh lễ tất cả
Vì nàng người có trí
Hoạt động thật nhanh nhẹn
Giữa các người làm việc
Xử sự thật khả ái
Biết giữ tài sản chồng
Người vợ xử như vậy
Làm thỏa mãn ước vọng,
Ưa thích của người chồng,
Sẽ được sanh tại chỗ
Các chư Thiên khả ái.
(VII)
(47) Visàkhà
1. Một thời, Thế Tôn trú ở
Sàvavatthì, tại Ðông viên, lâu đài mẹ của Migàrà. Rồi Visàkhà, mẹ của
Migàrà đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một
bên. Thế Tôn nói với Visàkhà, mẹ của Migàrà đang ngồi một bên:
2.
... (Thế Tôn thuyết như kinh số 46 và bài kệ, với những thay đổi
cần thiết).
(VIII)
(48) Nakulamàtà
1. Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân
chúng Bhagga, tại núi Summuràma, rừng Bhesakala, tại vườn Lộc Uyển. Rồi
nữ dân chúng Nakulamàtà đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi
ngồi xuống một bên. Rồi Thế Tôn nói với nữ gia chủ Nakulamàtà đang ngồi
một bên:
2.
... (Thế Tôn thuyết như kinh số 46 và bài kệ, với những thay đổi
cần thiết)
.
(IX) (49) Ở Ðời Này
1. Một thời, Thế Tôn trú ở
Sàvavatthì, tại Ðông viên, lâu đài mẹ của Migàrà. Rồi Visàkhà, mẹ của
Migàrà đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một
bên. Thế Tôn nói với Visàkhà, mẹ của Migàrà đang ngồi một bên:
2. - Này Visàkhà, đầy đủ bốn pháp,
nữ nhân thành tựu sự chiến thắng ở đời này. Ðời này rơi vào tầm tay của
nàng. Thế nào là bốn?
3. Ở đây, này Visàkhà, nữ nhân có
khả năng khéo làm các công việc, biết thâu nhiếp các người phục vụ, sở
hành vừa ý chồng, biết giữ gìn tài sản cất chứa. Này Visàkhà, thế nào là
nữ nhân có khả năng khéo làm các công việc?
4. Ở đây, này Visàkhà, nữ nhân phàm
có những công việc trong nhà, thuộc về len hay vải bông, ở đây, nữ nhân
ấy thông thạo, không biếng nhác, tự tìm phương pháp làm, vừa đủ để tự
mình làm, vừa đủ để sắp đặt người làm. Như vậy, này Visàkhà, là nữ nhân
có khả năng khéo làm những công việc. Và này Visàkhà, thế nào là nữ nhân
biết thâu nhiếp các người phục vụ?
5. Ở đây, này Visàkhà, trong nhà
người chồng, phàm có nô tỳ nào, hay người đưa tin, hay người công thợ,
nữ nhân biết công việc của họ với công việc đã làm, biết sự thiếu xót
của họ với công việc không làm; biết sức mạnh hay sức không mạnh của
những người đau bệnh; biết chia các đồ ăn, loại cứng và loại mềm, mỗi
người tùy theo từng phần của mình. Như vậy, này Visàkhà, là nữ nhân biết
thâu nhiếp những người phục vụ. Và này Visàkhà, thế nào là nữ nhân sở
hành vừa ý chồng?
6. Ở đây, này Visàkhà, nữ nhân,
những gì người chồng không vừa ý, dầu cho có vì sanh mạng, nàng cũng
không làm. Như vậy, này Visàkhà, là nữ nhân sở hành vừa ý chồng. Và này
Visàkhà, thế nào là nữ nhân biết giữ gìn tài sản thâu hoạch được?
7. Ở đây, này Visàkhà, Phàm có tiền
bạc, lúa gạo, bạc và vàng người chồng đem về, nữ nhân áy bảo vệ, phòng
hộ chúng, giữ gìn để khỏi bọn ăn trộm, ăn cắp, kẻ uống rượu, kẻ phá
hoại. Như vậy, là nữ nhân biết giữ gìn tài sản thâu hoạch được.
Thành tựu bốn pháp này, này Visàkhà, nữ nhân thành tựu với sự chiến
thắng ở đời. Ðời nay rơi vào trong tầm tay của nàng.
8. Này Visàkhà, đầy đủ bốn pháp, nữ
nhân thành tựu sự chiến thắng ở đời sau. Ðời sau rơi vào tầm tay của
nàng. Thế nào là bốn?
9. Ở đây, này Visàkhà, nữ nhân đầy
đủ lòng tin, đầy đủ giới đức, đầy đủ bố thí, đầy đủ trí tuệ. Và này
Visàkhà, thế nào là nữ nhân đầy đủ lòng tin?
10. Ở đây, này Visàkhà, nữ nhân có
lòng tin, tin tưởng ở sự giác ngộ của Như Lai: "Ðây là Thế Tôn, bậc
A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô
Thượng Sĩ, Ðiều ngự Trượng phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn ". Như vậy,
này Visàkhà, là nữ nhân đầy đủ lòng tin. Và này Visàkhà, thế nào là nữ
nhân đầy đủ giới đức?
11. Ở đây, này Visàkhà, từ bỏ sát
sanh, từ bỏ lấy của không cho, từ bỏ tà hạnh trong các dục, từ bỏ nói
láo, từ bỏ đắm say rượu men, rượu nấu. Như vậy, này Visàkhà, là nữ nhân
đầy đủ giới đức. Và này Visàkhà, thế nào là nữ nhân đầy đủ bố thí?
12. Ở đây, này Visàkhà, nữ nhân sống
ở gia đình với tâm tư từ bỏ cấu uế của xan tham, bố thí rộng rãi, với
bàn tay cởi mở, vui thích từ bỏ, sẵn sàng đáp ứng các yêu cầu, vui thích
chia xẻ các vật dụng bố thí. Như vậy, này Visàkhà, là nữ nhân đầy đủ bố
thí. Và này Visàkhà, thế nào là nữ nhân đầy đủ trí tuệ?
13. Ở đây, này Visàkhà, nữ nhân có
trí tuệ, thành tựu trí tuệ về sanh diệt, với Thánh thể nhập đưa đến chơn
chánh đoạn diệt khổ đau. Như vậy, này Visàkhà, là nữ nhân đầy đủ trí
tuệ.
Thành tựu bốn pháp này, này Visàkhà, nữ nhân thành tựu sự chiến thắng
ở đời sau. Ðời sau rơi vào trong tầm tay của nàng.
Khéo làm các công việc
Thâu nhiếp người phục vụ
Sở hành vừa ý chồng
Giữ gìn của cất chứa
Ðầy đủ tín và giới
Bố thí, không xan tham
Rửa sạch đường thượng đạo
Ðến đời sau an lành
Như vậy là tám pháp
Nữ nhân có đầy đủ
Ðược gọi bậc có giới
Trú pháp, nói chân thật
Ðủ mười sáu hành tướng
Thành tựu tám chi phần
Nữ cư sĩ như vậy
Với giới hạnh đầy đủ
Sanh làm vị Thiên nữ
Với thân thật khả ái.
(X) (50) Ðời Này
...
(Thế Tôn nói lại kinh 49 và cả bài kệ cho các Tỷ-kheo).
VI. Phẩm Gotamì
(I)
(51) Mahàpajàpatì Gotamì
1.
Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng
Sakka, tại Kapilavatthu, khu vườn Nigrodha. Rồi Mahàpajàpatì Gotamì đi
đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi đứng một bên. Ðứng một
bên, Mahàpajàpatì Gotamì bạch Thế Tôn:
- Lành thay, bạch Thế Tôn, nếu nữ nhân được xuất gia, từ bỏ gia đình,
sống không gia đình trong Pháp và Luật do Như Lai thuyết giảng.
- Thôi vừa rồi, này Gotamì, chớ có ưa thích nữ nhân được xuất gia, từ
bỏ gia đình, sống không gia đình trong Pháp và Luật do Như Lai thuyết
giảng.
2. Lần thứ hai, Mahàpajàpatì Gotamì
bạch Thế Tôn:
- Lành thay, bạch Thế Tôn, nếu nữ nhân được xuất gia, từ bỏ gia đình,
sống không gia đình trong Pháp và Luật do Như Lai thuyết giảng.
- Thôi vừa rồi, này Gotamì, chớ có ưa thích nữ nhân được xuất gia, từ
bỏ gia đình, sống không gia đình trong Pháp và Luật do Như Lai thuyết
giảng.
3. Lần thứ ba, Mahàpajàpatì Gotamì
bạch Thế Tôn:
- Lành thay, bạch Thế Tôn, nếu nữ nhân được xuất gia, từ bỏ gia đình,
sống không gia đình trong Pháp và Luật do Như Lai thuyết giảng.
- Thôi vừa rồi, này Gotamì, chớ có ưa thích nữ nhân được xuất gia, từ
bỏ gia đình, sống không gia đình trong Pháp và Luật do Như Lai thuyết
giảng.
Rồi Mahàpajàpatì Gotamì biết được: "Thế Tôn không chấp nhận cho nữ
nhân được xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình trong Pháp và
Luật do Như Lai thuyết giảng", liền khổ đau, sầu muộn, nước mắt đầy mặt,
khóc than, đảnh lễ Thế Tôn, thân bên hữu hướng về Ngài rồi ra đi.
4. Rồi Thế Tôn, sau khi ở
Kapilavatthu cho đến khi vừa ý, rồi ra đi đến Vesàli, tiếp tục bộ hành
rồi đến Vesàli.
Ở đấy, Thế Tôn ở Vesàli, tại Ðại Lâm, ở ngôi nhà có nóc nhọn. Rồi
Mahàpajàpatì Gotamì, với tóc cạo sạch, đắp áp cà-sa, cùng với nhiều nữ
nhân Sàkya ra đi đến Vesàli, tiếp tục bộ hành và đến Vesàli, tại Ðại
Lâm, ở ngôi nhà có nóc nhọn. Rồi Mahàpajàpatì Gotamì, với chân bị sưng,
tay chân lấm bụi khổ đau, sầu muộn, nước mắt đầy mặt, khóc than, đứng
ngoài cửa chính. Tôn giả Ananda thấy Mahàpajàpatì Gotamì với chân bị
sưng, tay chân lấm bụi khổ đau, sầu muộn, nước mắt đầy mặt, khóc than,
đứng ngoài cửa chính, thấy vậy liền nói với Mahàpajàpatì Gotamì:
- Thưa Gotamì, vì sao lại đứng ở cửa với chân bị sưng, tay chân lấm
bụi khổ đau, sầu muộn, nước mắt đầy mặt, khóc than như vậy?
- Thưa Tôn giả Ananda, vì rằng Thế Tôn không chấp nhận cho nữ nhân
xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình trong Pháp và Luật do Như
Lai tuyên thuyết.
- Vậy thưa Gotamì, hãy đứng chờ ở đây, chờ cho đến khi tôi xin phép
Thế Tôn; để nữ nhân được xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình
trong Pháp và Luật do Như Lai thuyết giảng.
5. Rồi Tôn giả Ananda đi đến Thế
Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một
bên, Tôn giả Ananda bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, có Mahàpajàpatì Gotamì với chân bị sưng, tay chân lấm
bụi khổ đau, sầu muộn, nước mắt đầy mặt, khóc than đứng ở ngoài cửa nói
rằng: "Thế Tôn cho phép nhận cho nữ nhân xuất gia, từ bỏ gia đình, sống
không gia đình trong Pháp và Luật do Như Lai thuyết giảng". Lành thay!
Bạch Thế Tôn, nếu nữ nhân được xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia
đình trong Pháp và Luật do Như Lai thuyết giảng.
- Thôi vừa rồi, này Gotamì, chớ có ưa thích nữ nhân được xuất gia, từ
bỏ gia đình, sống không gia đình trong Pháp và Luật do Thế Tôn thuyết
giảng.
Lần thứ hai ... Lần thứ ba, Tôn giả Ananda bạch Thế Tôn:
- Lành thay! Bạch Thế Tôn, nếu Thế Tôn cho phép nữ nhân được xuất
gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình trong Pháp và Luật do Thế Tôn
thuyết giảng.
- Thôi vừa rồi, này Gotamì, chớ có ưa thích nữ nhân được xuất gia, từ
bỏ gia đình, sống không gia đình trong Pháp và Luật do Thế Tôn thuyết
giảng.
6. Rồi Tôn giả suy nghĩ như sau:
"Thế Tôn không chấp nhận cho nữ nhân được xuất gia, từ bỏ gia đình, sống
không gia đình trong Pháp và Luật do Như Lai thuyết giảng. Vậy ta hay
dùng phương pháp khác để xin Thế Tôn cho phép nữ nhân được xuất gia, từ
bỏ gia đình, sống không gia đình ".
Rồi Tôn giả Ananda bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, không biết nữ nhân sau khi xuất gia, từ bỏ gia đình,
sống không gia đình trong Pháp và Luật do Như Lai thuyết giảng, có thể
chứng được Dự lưu quả, Nhất lai quả, Bất lai quả hay A-la-hán quả không?
- Này Ananda, sau khi xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình
trong Pháp và Luật do Như Lai thuyết giảng, nữ nhân có thể chứng được Dự
lưu quả, Nhất lai quả, Bất lai quả hay A-la-hán quả.
- Bạch Thế Tôn, sau khi xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình
trong Pháp và Luật do Như Lai thuyết giảng, nữ nhân có thể chứng được
Dự lưu quả, Nhất lai quả, Bất lai quả hay A-la-hán quả. Lại nữa, bạch
Thế Tôn, Mahàpajàpatì đã giúp đỡ Thế Tôn rất nhiều trong vai người dì,
người vú, người kế mẫu, khi mẹ của Thế Tôn mệnh chung, lại cho Thế Tôn
bú sữa. Lành thay, bạch Thế Tôn, nếu nữ nhân được xuất gia, từ bỏ gia
đình, sống không gia đình trong Pháp và Luật do Như Lai thuyết giảng.
7. - Này Ananda, nếu Mahàpajàpatì
Gotamì chấp nhận tám kính pháp, thời Gotamì có thể được thọ cụ túc giới:
Dầu cho thọ đại giới một trăm năm, một Tỷ-kheo ni đối với một Tỷ-kheo
mới thọ đại giới trong một ngày cũng phải đảnh lễ, đứng dậy, chắp tay,
xử sự đúng pháp. Pháp này sau khi cung kính, tông trọng, đảnh lễ, cúng
dường, cho đến trọn đời không được vượt qua. Tỳ kheo ni không có thể an
cư mùa mưa tại chỗ không có Tỷ kheo. Pháp này sau khi cung kính, tông
trọng, đảnh lễ, cúng dường, cho đến trọn đời không được vượt qua . Nửa
tháng một lần, Tỷ-kheo-ni cần phải thỉnh chúng Tỷ-kheo hỏi ngày trai
giới và đến để thuyết giới. Pháp này, sau khi cung kính, tông trọng,
đảnh lễ, cúng dường, cho đến trọn đời không được vượt qua. Sau khi an cư
mùa mưa xong, Tỷ-kheo-ni cần phải
làm lễ Tự trước hai Tăng chúng về ba vấn đề được thấy, được nghe và
nghi. Pháp này, sau khi cung kính, tông trọng, đảnh lễ, cúng dường, cho
đến trọn đời không được vượt qua. Tỷ-kheo-ni phạm trọng tội phải hành
pháp pakkhamànattam (man-na-đọa) cho đến nửa tháng. Pháp này, sau khi
cung kính, tông trọng, đảnh lễ, cúng dường, cho đến trọn đời không được
vượt qua. Sau khi học tập sáu pháp trong hai năm, phải đến xin thọ cụ
túc giới trước hai Tăng chúng. Pháp này, sau khi cung kính, tông trọng,
đảnh lễ, cúng dường, cho đến trọn đời không được vượt qua. Không vì
duyên cớ gì, một Tỷ-kheo-ni có thể mắng nhiếc, chỉ trích một Tỷ-kheo.
Pháp này, sau khi cung kính, tông trọng, đảnh lễ, cúng dường, cho đến
trọn đời không được vượt qua. Này Ananda, bắt đầu từ hôm nay, có sự giáo
giới
phê bình giữa các Tỷ-kheo về Tỷ-kheo-Ni, không có sự giáo giới phê bình
giữa các Tỷ-kheo-ni về các Tỷ-kheo. Pháp này, sau khi cung kính, tông
trọng, đảnh lễ, cúng dường, cho đến trọn đời không được vượt qua. Này
Ananda, nếu Mahàpajàpatì Gotamì chấp nhận tám kính pháp này, thời cho
phép Mahàpajàpatì Gotamì được thọ cụ túc giới.
8. Rồi Tôn giả Ananda, sau khi học
từ Thế Tôn tám trọng pháp này, rồi đi đến Mahàpajàpatì Gotamì, sau khi
đến, nói với Mahàpajàpatì Gotamì:
- Nếu Mahàpajàpatì Gotamì chấp nhận tám kính pháp này, thời Gotamì sẽ
được thọ cụ túc giới: "Dầu cho thọ đại giới một trăm năm, một
Tỷ-kheo-ni ... không có sự giáo giới phê bình giữa các Tỷ-kheo-ni về các
Tỷ-kheo. Pháp này, sau khi cung kính, tông trọng, đảnh lễ, cúng dường,
cho đến trọn đời không được vượt qua". Nếu Gotamì chấp nhận tám trọng
pháp này, thời Gotamì sẽ được thọ cụ túc giới.
- Thưa Tôn giả Ananda, ví như một người đàn bà hay một người đàn ông,
còn đang tuổi trẻ, tánh ưa trang sức, sau khi gội đầu xong, sau khi
được một vòng hoa sen xanh hay một vòng vũ quý hoa, hay một vòng thiên
tư hoa (hay cự thắng hoa) dùng hai tay cầm lấy vòng hoa ấy và đặt lên
đỉnh đầu. Cũng vậy, thưa Tôn giả, tôi xin chấp nhận tám kính pháp này,
cho đến trọn đời không có vượt qua.
9. Rồi Tôn giả Ananda đi đến Thế
Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Sau khi đến,
đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Tôn giả Ananda bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, Mahàpajàpatì Gotamì đã chấp nhận tám kính pháp này,
cho đến trọn đời không có vượt qua.
- Này Ananda, nếu nữ nhân không được xuất gia, từ bỏ gia đình, sống
không gia đình trong Pháp và Luật do Như Lai thuyết giảng, thời này
Ananda, Phạm hạnh được an trú lâu dài, và diệu pháp được tồn tại đến một
ngàn năm. Vì rằng, này Ananda, nữ nhân được xuất gia, từ bỏ gia đình,
sống không gia đình trong Pháp và Luật này, nay này Ananda, Phạm hạnh sẽ
không được an trú lâu dài, thời này Ananda, diệu pháp được tồn tại năm
trăm năm. Ví như, này Ananda, những gia đình nào có nhiều phụ nữ, ít đàn
ông, thời những gia đình ấy rất dễ bị các đạo tặc, trộm ắp não hại.
Cũng vậy, này Ananda, nữ nhân được xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không
gia đình trong Pháp và Luật này, nên Phạm hạnh sẽ không được an trú lâu
dài. Ví như, này Ananda, khi nào một chứng bệnh được tên là "trắng
như xương" rơi vào một ruộng lúa đã chín, thời ruộng lúa ấy không có an
trú lâu dài. Cũng vậy, này Ananda, khi nào nữ nhân được xuất gia, từ bỏ
gia đình, sống không gia đình trong Pháp và Luật này, thời Phạm hạnh này
không có an trú lâu dài. Ví như, này Ananda, khi nào một chứng bệnh
được tên là "đỏ sét" rơi vào một ruộng mía đã chín, thời ruộng mía ấy
không có an trú lâu dài. Cũng vậy, này Ananda, khi nào nữ nhân được xuất
gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình trong Pháp và Luật này, thời
Phạm hạnh này không được an trú lâu dài. Ví như, này Ananda, một người
vì nghĩ đến tương lai xây dựng bờ đê cho một hồ nước lớn để nước không
thể chảy qua, cũng vậy, này Ananda, vì nghĩ đến tương lai, Ta mới ban
hành kính tám pháp này, cho các Tỷ-kheo-ni cho đến trọn đời không vượt
qua.
(II) (52) Ai Giáo Giới?
1. Một thời, Thế Tôn trú ở Vesàli,
tại Ðại Lâm, ở ngôi nhà có nóc nhọn. Rồi Tôn giả Ananda đi đến Thế Tôn;
sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên.. Ngồi xuống một
bên, Tôn giả Ananda bạch Thế Tôn:
- Thành tựu bao nhiêu pháp, bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo nên được chấp nhận
là vị giáo giới cho các Tỷ-kheo-ni?
- Này Ananda, thành tựu tám pháp, Tỷ-kheo nên được chấp nhận là vị
giáo giới cho các Tỷ-kheo-ni. Thế nào là tám?
2. Ở đây, này Ananda, Tỷ-kheo có
giới đức, sống được chế ngự với sự chế ngự của giới bổn, đầy đủ uy nghi
chánh hạnh, thấy sợ hãi trong những lỗi nhỏ nhặt, chấp nhận và học tập
trong các pháp. Vị ấy nghe nhiều, thọ trì điều đã được nghe, chất chứa
điều đã được nghe; những pháp ấy, sơ thiện, trung thiện, hậu thiện,
nghĩa lý văn cú cụ túc, đề cao đời sống Phạm hạnh hoàn toàn đầy đủ thanh
tịnh; những pháp ấy, vị ấy đã được nghe nhiều, đã nắm giữ, đã ghi nhớ
tụng đọc nhiều lần, chuyên ý quan sát, khéo thể nhập chánh kiến. Ðối với
vị ấy, hai giới bổn Pàtimokkha được khéo trao truyền lại một cách rộng
rãi, khéo phân tích, khéo thông hiểu, khéo quyết định thành sutta (ngôn
ngữ) và thành âm vận. Vị ấy có một giọng nói dễ nghe, phát âm tốt, lời
nói tao nhã, phát ngôn không bập
bẹ, giải thích nghĩa lý minh xác. Vị ấy có khả năng thuyết giảng pháp
thoại cho chúng Tỷ-kheo-ni, khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan
hỷ, được phần lớn các Tỷ-kheo-ni ái mộ, thích ý. Trước khi y chỉ Thế
Tôn, xuất gia, đắp áo cà-sa, vị ấy không có phạm trọng tội nào, được hai
mươi tuổi an cư hay hơn hai mươi tuổi an cư.
Thành tựu tám pháp này, này Ananda, vị Tỷ-kheo được chấp nhận là vị
giáo giới cho các Tỷ-kheo-ni.
(III) (53) Pháp Tóm Tắt
1. Một thời, Thế Tôn trú ở Vesàli,
tại Mahàvana, ở ngôi nhà có nóc nhọn. Rồi Mahàpajàpatì Gotamì đi đến Thế
Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi đứng một bên. Ðứng một bên,
Mahàpajàpatì Gotamì bạch Thế Tôn:
- Lành thay, bạch Thế Tôn! Thế Tôn hãy thuyết pháp vắn tắt cho con,
sau khi Thế Tôn thuyết pháp, con sẽ sống một mình, an tịnh, không phóng
dật, nhiệt tâm, tinh cần.
2. - Này Gotamì, những pháp nào bà
biết: "Những pháp này đưa đến tham dục, không phải ly tham; đưa đến hệ
phước, không đưa đến ly hệ phước; đưa đến tích tập, không đưa đến không
tích tập; đưa đến dục lớn, không đưa đến ít dục; đưa đến không biết đủ,
không đưa đến biết đủ; đưa đến tụ hội, không đưa đến nhàn tịnh; đưa đến
biếng nhác, không đưa đến tinh tấn; đưa đến khó nuôi dưỡng, không đưa
đến dễ nuôi dưỡng". Này Gotamì, hãy thọ trì nhứt hướng rằng: "Ðó là
không phải Pháp, đó là không phải Luật, đó là không phải lời dạy của bậc
Ðạo sư".
3. Và này Gotamì, những pháp nào bà
biết: "Những pháp đưa đến ly tham, không đưa đến tham dục; đưa đến ly hệ
phước, không đưa đến hệ phước; đưa đến không tích tập, không đưa đến
tích tập; đưa đến ít dục, không đưa đến dục lớn; đưa đến biết đủ, không
đưa đến không biết đủ; đưa đến nhàn tịnh, không đưa đến tụ hội; đưa đến
tinh tấn, không đưa đến biếng nhác; đưa đến khó dễ nuôi dưỡng, không đưa
đến khó nuôi dưỡng". Này Gotamì, hãy thọ trì nhứt hướng rằng: "Ðó là
phải Pháp, đó là phải Luật, đó là lời dạy của bậc Ðạo sư".
(IV) (54) Dìghajanu, Người Koliya
1. Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân
chúng Koliya, tại một thị trấn của dân chúng Koliya tên là Kakkarapatta.
Rồi Koliya tử Dìghajànu (đầu gối dài) đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh
lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Koliya tử
Dìghajànu bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, chúng con là những người gia chủ thọ hưởng những dục
vọng, sống hệ phược với vợ con, dùng các hương chiên-đàn ở Kàsi đeo, và
dùng các vòng hoa, hương liệu, phấn sáp, thọ lãnh vàng và bạc; bạch Thế
Tôn, Thế Tôn hãy thuyết pháp cho những người như chúng con, thuyết như
thế nào để những pháp ấy đem đến cho chúng con hạnh phúc an lạc ngay
trong hiện tại, và hạnh phúc an lạc trong tương lai.
2. - Này Byagghapajja (chân cọp), có
các pháp này đưa đến hạnh phúc hiện tại, an lạc hiện tại cho thiện nam
tử. Thế nào là bốn?
3. Ðầy đủ sự tháo vát, đầy đủ phòng
hộ, làm bạn với thiện, sống thăng bằng điều hòa. Này Byagghapajja, thế
nào là sống thăng bằng điều hòa?
4. Ở đây, này Byagghapajja, thiện
nam tử làm nghề gì để sống, hoặc nghề nông, hoặc đi buôn, hoặc nuôi bò,
hoặc làm người bắn cung, hoặc làm việc cho vua, hoặc bất cứ nghề gì,
trong các nghề ấy, người ấy thiện xảo, không biết mệt, biết suy tư hiểu
phương tiện vừa đủ để tự làm và điều khiển người khác làm; này
Byagghapajja, đây gọi là đầy đủ sự tháo vát. Và này Byagghapajja, thế
nào là đầy đủ phòng hộ?
5. Ở đây, này Byagghapajja, những
tài sản của thiện nam tử do tháo vát tinh tấn thâu hoạch được, do sức
mạnh bàn tay cất chứa được, do mồ hôi đổ ra đúng pháp, thâu hoạch được
đúng pháp, vị ấy giữ gìn chúng, phòng hộ và bảo vệ: "Làm thế nào các tài
sản này của ta không bị vua mang đi, không bị trộm cướp mang đi, không
bị lửa đốt, không bị nước cuốn trôi, không bị các người con thừa tự
không khả ái cướp đoạt". Này Byagghapajja, đây gọi là đầy đủ sự phòng
hộ. Và này Byagghapajja, thế nào là làm bạn với thiện?
6. Ở đây, này Byagghapajja, thiện
nam tử sống tại làng hay tại thị trấn. Tại đấy có! gia chủ hay con người
gia chủ, những trẻ được nuôi lớn trong giới đức, hay những người lớn
tuổi được lớn lên trong giới đức, đầy đủ lòng tin, đầy đủ giới đức, đầy
đủ bố thí, đầy đủ trí tuệ, vị ấy làm quen, nói chuyện, thảo luận. Với
những người đầy đủ lòng tin, vị ấy học tập với đầy đủ lòng tin. Với
những người đầy đủ giới đức, vị ấy học tập với đầy đủ giới đức. Với
những người đầy đủ bố thí, vị ấy học tập với đầy đủ bố thí. Với những
người đầy đủ trí tuệ, vị ấy học tập với đầy đủ trí tuệ. Này
Byagghapajja, đây gọi là làm bạn với thiện. Và này Byagghapajja, thế nào
là sống thăng bằng, điều hòa?
7. Ở đây, này Byagghapajja, thiện
nam tử sau khi biết tài sản nhập, và sau khi biết tài sản xuất, sinh
sống một cách điều hòa, không quá phung phí, không quá bỏn xẻn. Vị ấy
suy nghĩ: "Ðây là tiền nhập của ta, sau khi trừ đi tiền xuất, còn lại
như vậy; không phải đây là tiền xuất của ta, sau khi trừ đi tiền nhập,
còn lại như vậy". Ví như, này Byagghapajja, người cầm cân hay đệ tử
người cầm cân, sau khi cầm cân biết rằng: "Với chừng ấy, cân nặng xuống,
hay với chừng ấy, cân bổng lên". Cũng vậy, này Byagghapajja, thiện nam
tử sau khi biết tài sản nhập, và sau khi biết tài sản xuất, sinh sống
một cách điều hòa, không quá phung phí, không quá bỏn xẻn. Vị ấy suy
nghĩ: "Ðây là tiền nhập của ta, sau khi trừ đi tiền xuất, còn lại như
vậy; không phải đây là tiền xuất của ta,
sau khi trừ đi tiền nhập, còn lại như vậy". Này Byagghapajja, nếu thiện
nam tử này tiền nhập vào ít, nhưng sống nếp sống rộng rãi, hoang phí,
thời người ta nói về người ấy như sau: "Người thiện nam tử này ăn tài
sản của vị ấy như ăn trái cây sung". Này Byagghapajja, nếu người thiện
nam tử này có tiền nhập lớn, nhưng sống nếp sống cơ cực, thời người ta
sẽ nói về vị ấy như sau: "Người thiện nam tử này sẽ chết như người chết
đói". Khi nào, này Byagghapajja, thiện nam tử này, sau khi biết tài sản
nhập, và sau khi biết tài sản xuất, sống nép sống thăng bằng đìều hoà,
không quá phung phí, không quá bỏn xẻn. Vị ấy suy nghĩ: "Ðây là tiền
nhập của ta, sau khi trừ đi tiền xuất, còn lại như vậy; không phải đây
là tiền xuất của ta, sau khi trừ đi tiền nhập, còn lại như vậy". Này
Byagghapajja, đây gọi là nếp sống thăng bằng điều hòa.
8. Như vậy, này Byagghapajja, có bốn
cửa xuất để tiêu phí tài sản thâu nhập: "Ðam mê đàn bà, đam mê rượu
chè, đam mê cờ bạc; bạn bè kẻ ác, thân hữu kẻ ác, giao du kẻ ác". Ví
như, này Byagghapajja, một hồ nước lớn, có bốn cửa nước chảy vào, có bốn
cửa nước chảy ra, có người đóng lại các cửa nước chảy vào, mở ra các
cửa nước chảy ra, trời lại không mưa đúng lúc, như vậy, này
Byagghapajja, chờ đợi là hồ nước ấy bị giảm thiểu, không có tăng trưởng.
Cũng vậy, này Byagghapajja, có bốn cửa xuất để tiêu phí tài sản được
thâu nhập: ": "Ðam mê đàn bà, đam mê rượu chè, đam mê cờ bạc; bạn bè kẻ
ác, thân hữu kẻ ác, giao du kẻ ác".
9. Như vậy, Này Byagghapajja, có bốn
cửa vào để tài sản được hưng khởi: ": "Không say đắm đàn bà, không say
đắm rượu chè, không say đắm cờ bạc; bạn bè với thiện, thân hữu với
thiện, giao du với thiện". Ví như, này Byagghapajja, một hồ nước lớn, có
bốn cửa nước chảy vào, có bốn cửa nước chảy ra, có người đóng lại các
cửa nước chảy ra, mở ra các cửa nước chảy vào, và trời lại mưa đúng lúc,
như vậy, này Byagghapajja, chờ đợi là hồ nước ấy tăng trưởng, không có
giảm thiểu. Cũng vậy, này Byagghapajja, có bốn cửa vào để tài sản được
hưng khởi: "Không say đắm đàn bà, không say đắm rượu chè, không say đắm
cờ bạc; bạn bè với thiện, thân hữu với thiện, giao du với thiện".
Bốn pháp này, này Byagghapajja, đưa đến hạnh phúc hiện tại, an lạc
hiện tại cho các thiện nam tử.
10. Có bốn pháp này, này
Byagghapajja, đưa đến hạnh phúc tương lai, an lạc tương lai cho thiện
nam tử. Thế nào là bốn?
11. Ðầy đủ lòng tin, đầy đủ giới
đức, đầy đủ bố thí, đầy đủ trí tuệ. Và này Byagghapajja, thế nào là đầy
đủ lòng tin?
12. Ở đây, này Byagghapajja, thiện
nam tử có lòng in, tin tưởng ở sự giác ngộ của Như Lai: "Ðây là Thế Tôn
... bậc Thiên Nhân sư, Phật, Thế Tôn ". Này Byagghapajja, đây gọi là đầy
đủ lòng in. Và này Byagghapajja, thế nào là đầy đủ giới đức?
13. Ở đây, này Byagghapajja, thiện
nam tử từ bỏ sát sanh ... từ bỏ đắm say rượu men, rượu nấu. Này
Byagghapajja, đây gọi là đầy đủ giới đức. Và này Byagghapajja, thế nào
là đầy đủ bố thí?
14. Ở đây, này Byagghapajja, thiện
nam tử sống ở gia đình, với tâm không bị cấu uế, xan tham chi phối, bố
thí rộng rãi, với bàn tay mở rộng, vui thích từ bỏ, sẵn sàng để được yêu
cầu, vui thích chia xẻ vật bố thí. Này Byagghapajja, đây gọi là đầy đủ
bố thí. Và này Byagghapajja, thế nào là đầy đủ trí tuệ?
15. Ở đây, này Byagghapajja, thiện
nam tử có trí tuệ, thành tựu trí tuệ về sanh diệt, với thánh thể nhập
(quyết trạch), chơn chánh chấm dứt khổ đau. Này Byagghapajja, đây gọi là
đầy đủ trí tuệ.
Tháo vát trong công việc
Không phóng dật, nhanh nhẹn
Sống đời sống thăng bằng
Giữ tài sản thâu được
Có tin, đầy đủ giới
Bố thí, không xan tham
Rửa sạch đường thượng đạo
An toàn trong tương lai
Ðây chính là tám pháp
Bậc tín chủ tìm cầu
Bậc chân thật tuyên bố
Ðưa đến lạc hai đời
Hạnh phúc cho hiện tại
Và an lạc tương lai
Ðây trú xứ gia chủ
Bố thí, tăng công đức.
(V
) (55) Bà-La-Môn Ujjaya
1. Rồi Bà-la-môn Ujjaya đi đến Thế
Tôn; sau khi đến, nói lên với Thế Tôn những lời chào đón hỏi thăm; sau
khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu liền ngồi xuống một
bên. Ngồi xuống một bên, Bà-la-môn Ujjaya bạch Thế Tôn:
- Chúng con muốn đi nước ngoài, Tôn giả Gotama hãy thuyết pháp cho
những người như chúng con, thuyết pháp như thế nào để những pháp ấy đem
lại cho chúng con hạnh phú hiện tại, an lạc hiện tại, hạnh phúc tương
lai, an lạc tương lai.
2.
... (như bài kinh 54 kể cả bài kệ, với những thay đổi cần thiết ).
(VI) (56) Sợ Hãi
1.- Sợ hãi, này các Tỷ-kheo, là đồng
nghĩa với các dục. Ðau khổ, này các Tỷ-kheo, là đồng nghĩa với các dục.
Bệnh tật, này các Tỷ-kheo, là đồng nghĩa với các dục. Cục bướu, này các
Tỷ-kheo, là đồng nghĩa với các dục. Mũi tên, này các Tỷ-kheo, là đồng
nghĩa với các dục. Trói buộc, này các Tỷ-kheo, là đồng nghĩa với các
dục. Bùn, này các Tỷ-kheo, là đồng nghĩa với các dục. Thai tạng, này các
Tỷ-kheo, là đồng nghĩa với các dục.
2. Như thế nào, này các Tỷ-kheo, sợ
hãi là đồng nghĩa với các dục?
Vì rằng, những ai bị dục ái nhiễm, những ai bị dục tham trói buộc,
không được giải thoát khỏi sợ hãi hiện tại, không được giải thoát khỏi
sợ hãi trong tương lai; do vậy, sợ hãi là đồng nghĩa với các dục.
3. Vì rằng, này các Tỷ-kheo, khổ ...
bệnh ... cục bướu ... mũi tên ... trói buộc ... bùn ... Như thế nào
thai tạng là đồng nghĩa với các dục?
Vì rằng, những ai bị dục ái nhiễm, những ai bị dục tham trói buộc,
không được giải thoát khỏi sợ hãi hiện tại, không được giải thoát khỏi
sợ hãi trong tương lai; do vậy, sợ hãi là đồng nghĩa với các dục.
Sợ hãi, khổ và bệnh
Cục bướu và mũi tên
Trói buộc và bùn lầy
Cả hai cùng thai tạng
Chúng được gọi tình dục
Chỗ phàm phu ái nhiễm
Chìm đắm trong sắc đẹp
Chúng lại vào thai tạng
Khi Tỷ-kheo nhiệt tình
Không thả lỏng tỉnh giác
Vượt đường hiểm nạn này
Con đường khó vượt qua
Vị ấy nhìn chúng sanh
Ðang sống trong sợ hãi
Vì bị sanh và già
Ám ảnh và chinh phục.
(VII) (57) Xứng Ðáng Ðược Cúng Dường (1)
1.- Thành tựu tám pháp này, này các
Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo đáng được cung kính, đáng được tôn trọng, đáng được
chắp tay, là ruộng phước vô thượng ở đời. Thế nào là tám?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị
Tỷ-kheo giữ giới ... chấp nhận và học tập trong các học pháp; nghe
nhiều, khéo thể nhập trong chánh tri kiến; làm bạn với thiện, thân hữu
với thiện, giao du với thiện; có chánh tri kiến, thành tựu chánh kiến;
chứng được bốn Thiền thuộc tăng thượng tâm, hiện tại lạc trú, chứng được
không khó khăn, chứng được không mệt nhọc, chứng được không phí sức;
nhớ được nhiều đời trước, như một đời, hai đời ... nhớ được nhiều đời
trước với các tướng trạng với các chi tiết; với thiên nhãn thanh tịnh
siêu nhân ... rõ biết các chúng sanh, tùy theo hạnh nghiệp của chúng; do
đoạn diệt các lậu hoặc ... chứng ngộ, chứng đạt và an trú.
Thành tựu tám pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đáng được cung kính
... là ruộng phước vô thượng ở đời.
(VIII) (58) Xứng Ðáng Ðược Cúng Dường (2)
1.- Thành tựu tám pháp này, này các
Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo đáng được cung kính, đáng được tôn trọng, đáng được
chắp tay, là ruộng phước vô thượng ở đời. Thế nào là tám?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị
Tỷ-kheo giữ giới ... chấp nhận và học tập trong các học pháp; nghe
nhiều, khéo thể nhập trong chánh tri kiến; sống tinh cần tinh tấn, nỗ
lực kiên trì, không bỏ rơi gánh nặng trong các thiện pháp; sống tại rừng
núi, tại các trú xứ xa vắng, chịu đựng lạc và bất lạc, luôn luôn nhiếp
phục bất lạc nổi lên; chịu đựng sợ hãi và khiếp đảm, luôn luôn nhiếp
phục sợ hãi và khiếp đảm nổi lên; chứng được bốn Thiền thuộc tăng thượng
tâm, hiện tại lạc trú, chứng được không khó khăn, chứng được không mệt
nhọc, chứng được không phí sức; do đoạn diệt các lậu hoặc ... chứng ngộ,
chứng đạt và an trú.
Thành tựu tám pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đáng được cung kính
... là ruộng phước vô thượng ở đời.
(IX) (59) Tám Hạng Người (1)
1. - Có tám hạng người này, này các
Tỷ-kheo, đáng được cung kính, đáng được tôn trọng, đáng được chắp tay,
là ruộng phước vô thượng ở đời. Thế nào là tám?
2. Bậc Dự lưu, bậc đã hướng đến sự
chứng ngộ quả Dự lưu; Bậc Nhất lai, bậc đã hướng đến sự chứng ngộ quả
Nhất lai; Bậc Bất lai, bậc đã hướng đến sự chứng ngộ quả bất lai; Bậc
A-la-hán, bậc đã hướng đến sự chứng ngộ quả A-la-hán.
Tám hạng người này, này các Tỷ-kheo, đáng được cung kính ... là ruộng
phước vô thượng ở đời.
Bốn vị đã trú quả
Tăng chúng này chánh trực
Trí tuệ, giới, Thiền định
Loài Người cúng thí vật
Chúng sanh cầu phước đức
Làm công đức tái sanh
Tăng chúng tăng quả lớn.
(X) (60) Tám Hạng Người (2)
1-2.
... (giống như đoạn 1, 2 của kinh trên, chỉ có bài kệ hơi khác)
...
Bốn vị đã hướng đến
Bốn vị đã trú quả
Tăng chúng này tối thắng
Tám người giữa chúng sanh
Loài Người cúng thí vật
Chúng sanh cầu phước đức
Làm công đức tái sanh
Tăng chúng tăng quả lớn.
VII. Phẩm Ðất Rung Ðộng
(I) (61) Dục
1.
- Này các Tỷ-kheo, có tám hạng người này
có mặt, hiện hữu ở đời. Thế nào là tám?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
trong khi sống nhàn tịnh, không có tinh tấn khởi lên ước muốn có lợi
dưỡng. Vị ấy hăng hái, phấn chấn tinh tấn để được lợi dưỡng. Dầu cho
hăng hái, phấn chấn, tinh tấn để được lợi dưỡng, nhưng lợi dưỡng không
khởi lên. Do không thấy được lợi dưỡng ấy, vị ấy sầu muộn, than van,
khóc lóc, đập ngực, rơi vào bất tỉnh. Này các Tỷ-kheo, vị ấy được gọi là
Tỷ-kheo sống muốn lợi dưỡng, hăng hái, phấn chấn, tinh tấn để được lợi
dưỡng. Do không thấy được lợi dưỡng ấy, vị ấy sầu muộn, than van, khóc
lóc, bỏ rơi diệu pháp.
3. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
trong khi sống nhàn tịnh, không có tinh tấn khởi lên ước muốn có lợi
dưỡng. Vị ấy hăng hái, phấn chấn tinh tấn để được lợi dưỡng. Dầu cho
hăng hái, phấn chấn, tinh tấn để được lợi dưỡng. Do hăng hái, phấn chấn,
tinh tấn để được lợi dưỡng, lợi dưỡng khởi lên. Với lợi dưỡng ấy, vị ấy
đắm say, phóng dật, rơi vào trạng thái đắm say, phóng dật. Ðây gọi là
Tỷ-kheo sống muốn lợi dưỡng, hăng hái, phấn chấn, tinh tấn để được lợi
dưỡng; được lợi dưỡng, trở thành đắm say, phóng dật, và bỏ rơi diệu
pháp.
4. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Có vị
Tỷ-kheo trong khi sống nhàn tịnh, không có tinh tấn khởi lên ước muốn có
lợi dưỡng. Vị ấy không hăng hái, không phấn chấn, không tinh tấn để
được lợi dưỡng. Do vị ấy không hăng hái, không phấn chấn, không tinh tấn
để được lợi dưỡng, lợi dưỡng không khởi lên. Vị ấy do không được lợi
dưỡng, nên sầu muộn, than van, khóc lóc, đập ngực, rơi vào bất tỉnh. Ðây
gọi là Tỷ-kheo sống ham muốn lợi dưỡng, không hăng hái, không phấn
chấn, không tinh tấn để được lợi dưỡng; không được lợi dưỡng, vị ấy sầu
muộn, than van, khóc lóc, bỏ rơi diệu pháp.
5. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
trong khi sống nhàn tịnh, không có tinh tấn khởi lên ước muốn có lợi
dưỡng. Vị ấy không hăng hái, không phấn chấn không tinh tấn để được lợi
dưỡng. Dầu vị ấy không hăng hái, không phấn chấn, không tinh tấn để được
lợi dưỡng, lợi dưỡng khởi lên. Do không thấy được lợi dưỡng ấy, vị ấy
sầu muộn, than van, khóc lóc, đập ngực, rơi vào bất tỉnh. Này các
Tỷ-kheo, vị ấy được gọi là Tỷ-kheo sống lợi dưỡng, hăng hái, phấn chấn,
tinh tấn để được lợi dưỡng. Do không thấy được lợi dưỡng ấy, vị ấy sầu
muộn, than van, khóc lóc, bỏ rơi diệu pháp. Với lợi dưỡng ấy, vị ấy đắm
say, phóng dật, rơi vào trạng thái đắm say, phóng dật. Ðây gọi là
Tỷ-kheo sống muốn lợi dưỡng, không hăng hái, không phấn chấn, không tinh
tấn để được lợi dưỡng; được lợi dưỡng,
trở thành đắm say, phóng dật, và bỏ rơi diệu pháp.
6. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
trong khi sống nhàn tịnh, không có tinh tấn khởi lên ước muốn có lợi
dưỡng. Vị ấy hăng hái, phấn chấn, tinh tấn để được lợi dưỡng. Dầu cho vị
ấy hăng hái, phấn chấn, tinh tấn để được lợi dưỡng, lợi dưỡng không
khởi lên. Vị ấy, do không được lợi dưỡng, không có sầu muộn, không có
than van, không có khóc lóc, không có đập ngực, không có rơi vào bất
tỉnh. Này các Tỷ-kheo, đây được gọi là Tỷ-kheo sống muốn lợi dưỡng, hăng
hái, phấn chấn, tinh tấn để được lợi dưỡng; không được lợi dưỡng, không
có sầu muộn, không có than van, và không bỏ rơi diệu pháp.
7. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
trong khi sống nhàn tịnh, không có tinh tấn khởi lên ước muốn có lợi
dưỡng. Vị ấy hăng hái, phấn chấn, tinh tấn để được lợi dưỡng. Do vị ấy
hăng hái, phấn chấn, tinh tấn để được lợi dưỡng, lợi dưỡng khởi lên. Với
lợi dưỡng ấy, vị ấy không đắm say, không phóng dật, không có rơi vào
trạng thái đắm say. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là Tỷ-kheo sống muốn lợi
dưỡng, hăng hái, phấn chấn, tinh tấn để được lợi dưỡng; được lợi dưỡng,
không đắm say, không phóng dật, và không bỏ rơi diệu pháp.
8. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
trong khi sống nhàn tịnh, không có tinh tấn khởi lên ước muốn có lợi
dưỡng. Vị ấy không hăng hái, không phấn chấn, không tinh tấn để được lợi
dưỡng. Do vị ấy không hăng hái, không phấn chấn, không tinh tấn để được
lợi dưỡng, lợi dưỡng không khởi lên. Vị ấy được lợi dưỡng, không có sầu
muộn, không có than van, không có khóc lóc, không có đập ngực, không có
rơi vào bất tỉnh. Ðây gọi là Tỷ-kheo sống muốn lợi dưỡng, không hăng
hái, không phấn chấn, không tinh tấn để được lợi dưỡng; không được lợi
dưỡng, vị ấy không sầu muộn, không than van, không khóc lóc, và không bỏ
rơi diệu pháp.
9. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Có
Tỷ-kheo trong khi sống nhàn tịnh, không có tinh tấn khởi lên ước muốn có
lợi dưỡng. Vị ấy không hăng hái, không phấn chấn, không tinh tấn để
được lợi dưỡng. Dầu cho vị ấy không hăng hái, không phấn chấn, không
tinh tấn để được lợi dưỡng, lợi dưỡng khởi lên. Với lợi dưỡng ấy, vị ấy
không đắm say, không phóng dật, không có rơi vào trạng thái đắm say. Này
các Tỷ-kheo, đây gọi là Tỷ-kheo sống muốn lợi dưỡng, không hăng hái,
không phấn chấn, không tinh tấn để được lợi dưỡng; được lợi dưỡng, không
đắm say, không phóng dật, và không bỏ rơi diệu pháp.
Này các Tỷ-kheo, có tám hạng người này sống có mặt, hiện hữu ở đời.
(II) (62) Vừa Ðủ
1.- Thành tựu sáu pháp này, này các
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo vừa đủ cho tự mình, vừa đủ cho các người khác. Thế nào
là sáu?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
nhanh nhẹn nắm được ý nghĩa trong các thiện pháp; là người thọ trì những
pháp đã được nghe; là người suy tư ý nghĩa các pháp đã được thọ trì;
sau khi hiểu nghĩa, sau khi hiểu pháp, thực hành pháp, tùy pháp; giọng
nói dễ nghe, phát âm tốt, lời nói tao nhã, phân minh, phát ngôn không
bập bẹ, giải thích nghĩa lý xác minh; có khả năng thuyết giảng, khích
lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ các đồng Phạm hạnh. Thành tựu sáu
pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo vừa đủ cho tự mình, vừa đủ cho các
người khác.
3. Thành tựu năm pháp này, này các
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo vừa đủ cho tự mình, vừa đủ cho các người khác. Thế nào
là năm?
4. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
không nhanh nhẹn nắm được ý nghĩa trong các thiện pháp; là người thọ trì
những pháp đã được nghe; là người suy tư ý nghĩa các pháp đã được thọ
trì; sau khi hiểu nghĩa, sau khi hiểu pháp, thực hành pháp, tùy pháp;
giọng nói dễ nghe, phát âm tốt, lời nói tao nhã, phân minh, phát ngôn
không bập bẹ, giải thích nghĩa lý xác minh; có khả năng thuyết giảng,
khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ các đồng Phạm hạnh.
Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo vừa đủ cho tự mình,
vừa đủ cho các người khác.
5. Thành tựu bốn pháp này, này các
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo vừa đủ cho tự mình, không vừa đủ cho các người khác.
Thế nào là bốn?
6. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
nhanh nhẹn nắm được ý nghĩa trong các thiện pháp; là người thọ trì những
pháp đã được nghe; là người suy tư ý nghĩa các pháp đã được thọ trì;
sau khi hiểu nghĩa, sau khi hiểu pháp, thực hành pháp, tùy pháp; giọng
nói không dễ nghe, phát âm không tốt, lời nói không tao nhã, không phân
minh, phát ngôn bập bẹ, giải thích nghĩa lý không xác minh; không có khả
năng thuyết giảng, khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ các
đồng Phạm hạnh.
Thành tựu bốn pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo vừa đủ cho tự mình,
không vừa đủ cho các người khác.
7. Thành tựu bốn pháp này, này các
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo không vừa đủ cho tự mình, vừa đủ cho các người khác.
Thế nào là bốn?
8. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
nhanh nhẹn nắm được ý nghĩa trong các thiện pháp; là người thọ trì những
pháp đã được nghe; không là người suy tư ý nghĩa các pháp đã được thọ
trì; không có sau khi hiểu nghĩa, sau khi hiểu pháp, thực hành pháp, tùy
pháp; giọng nói dễ nghe, phát âm tốt, lời nói tao nhã, phân minh, phát
ngôn không bập bẹ, giải thích nghĩa lý xác minh; có khả năng thuyết
giảng, khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ các đồng Phạm hạnh.
Thành tựu bốn pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo không vừa đủ cho tự
mình, vừa đủ cho các người khác.
9. Thành tựu ba pháp này, này các
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo vừa đủ cho tự mình, không vừa đủ cho các người khác.
Thế nào là ba?
10. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
không nhanh nhẹn nắm được ý nghĩa trong các thiện pháp; là người thọ trì
những pháp đã được nghe; là người suy tư ý nghĩa các pháp đã được thọ
trì; sau khi biết ý nghĩa, sau khi biết pháp, thực hành pháp, tùy pháp;
giọng nói không dễ nghe, phát âm không tốt, lời nói không tao nhã, không
phân minh, phát ngôn bập bẹ, giải thích nghĩa lý không xác minh; không
có khả năng thuyết giảng, không khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho
hoan hỷ các đồng Phạm hạnh.
Thành tựu ba pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo vừa đủ cho tự mình,
không vừa đủ cho các người khác. Thế nào là ba?
11. Thành tựu ba pháp này, này các
Tỷ-kheo, vừa đủ cho các người khác, Tỷ-kheo không vừa đủ cho tự mình,.
Thế nào là ba?
12. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
không nhanh nhẹn nắm được ý nghĩa trong các thiện pháp; là người thọ trì
những pháp đã được nghe; không là người suy tư ý nghĩa các pháp đã được
thọ trì; không là người sau khi hiểu nghĩa, sau khi hiểu pháp, thực
hành pháp, tùy pháp; giọng nói dễ nghe, giải thích nghĩa lý xác minh; có
khả năng thuyết giảng, làm cho hoan hỷ các đồng Phạm hạnh.
Thành tựu ba pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỳ kheo là vừa đủ cho các
người khác, Tỷ-kheo không vừa đủ cho tự mình.
13. Thành tựu hai pháp này, này các
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo vừa đủ cho tự mình, không vừa đủ cho các người khác.
Thế nào là hai?
14. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
không nhanh nhẹn nắm được ý nghĩa trong các thiện pháp; là người không
thọ trì những pháp đã được nghe; là người suy tư ý nghĩa các pháp đã
được thọ trì; là người sau khi hiểu nghĩa, sau khi hiểu pháp, thực hành
pháp, tùy pháp; giọng nói không dễ nghe, giải thích nghĩa lý không xác
minh; không có khả năng thuyết giảng, Ẩ, làm cho hoan hỷ các đồng Phạm
hạnh.
Thành tựu hai pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo vừa đủ cho tự mình,
không vừa đủ cho các người khác.
15. Thành tựu hai pháp này, này các
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo vừa đủ cho các người khác, không vừa đủ cho tự mình.
Thế nào là hai?
16. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
không nhanh nhẹn nắm được ý nghĩa trong các thiện pháp; là người không
thọ trì những pháp đã được nghe; không suy tư ý nghĩa các pháp đã được
thọ trì; không có sau khi hiểu nghĩa, sau khi hiểu pháp, thực hành pháp,
tùy pháp; giọng nói dễ nghe, phát âm tốt, lời nói tao nhã, phân minh,
phát ngôn không bập bẹ, giải thích nghĩa lý xác minh; có khả năng thuyết
giảng pháp thoại, khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ các đồng
Phạm hạnh.
Thành tựu hai pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo lả vừa đủ cho các
người khác, không vừa đủ cho tự mình,.
(III) (63) Pháp Lược Thuyết
1. Rồi một Tỷ-kheo đi đến Thế Tôn;
sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên,
Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn:
- Lành thay! bạch Thế Tôn, xin Thế Tôn hãy thuyết pháp vắn tắt cho
con, sau khi nghe pháp của Thế Tôn, con sẽ sống một mình, an tịnh, không
phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần.
- Như vậy, ở đây, một số người ngu si, thỉnh cầu Ta, sau khi pháp
được giảng, họ nghĩ Ta là người họ cần phải đi theo.
- Bạch Thế Tôn, Thế Tôn hãy thuyết pháp vắn tắt cho con, Thiện Thệ
hãy thuyết pháp vắn tắt. Con có thể hiểu được ý nghĩa lời của Thế Tôn
thuyết giảng. Con có thể trở thành kẻ thừa tự lời Thế Tôn thuyết giảng.
2.- Vậy này Tỷ-kheo, Thầy cần phải
học tập như sau:
"Nội tâm ta sẽ an trú, khéo vững trú. Các pháp ác, bất thiện khởi
không có xâm chiếm tâm và không có chân đứng". Như vậy, này Tỷ-kheo,
Thầy cần phải học tập.
3. Này Tỷ-kheo, khi nào nội tâm của
Thầy được an trú, khéo vững trú, các pháp ác, bất thiện sanh khởi xâm
chiếm tâm và có chân đứng, khi ấy, này Tỷ-kheo, Thầy cần phải học tập
như sau:
"Từ tâm giải thoát sẽ được ta tu tập, làm cho sung mãn, làm thành cỗ
xe, làm thành căn cứ địa, được làm cho kiên trì, được làm cho tích tập,
được khéo tinh cần thực hành". Như vậy, này Tỷ-kheo, Thầy cần phải học
tập.
4. Này Tỷ-kheo, khi nào định này của
Thầy được tu tập, được làm cho sung mãn như vậy, khi ấy, này Tỷ-kheo,
Thầy cần phải tu tập định này với tầm với tứ; cần phải tu tập không tầm,
chỉ với tứ; cần phải tu tập không tầm không tứ; cần phải tu tập có hỷ,
cần phải tu tập không hỷ; cần phải tu tập câu hữu với lạc; cần phải tu
tập câu hữu với xả. Này Tỷ-kheo, khi nào định này của Thầy được tu tập,
được làm cho sung mãn như vậy, khi ấy này Tỷ-kheo, Thầy cần phải học tập
như sau:
"Bi tâm giải thoát sẽ được Thầy tu tập ... Hỷ tâm giải thoát sẽ được
Thầy tu tập ... Xả tâm giải thoát sẽ được Thầy tu tập, làm cho sung mãn,
làm thành cỗ xe, làm thành căn cứ địa, được làm cho kiên trì, được làm
cho tích tập, được khéo tinh cần thực hành". Như vậy, này Tỷ-kheo, Thầy
cần phải học tập.
5. Này Tỷ-kheo, khi nào định này của
Thầy được tu tập, được làm cho sung mãn như vậy, khi ấy, này Tỷ-kheo,
Thầy cần phải tu tập định này với tầm với tứ; cần phải tu tập không tầm,
chỉ với tứ; cần phải tu tập không tầm không tứ; cần phải tu tập có hỷ,
cần phải tu tập không hỷ; cần phải tu tập câu hữu với lạc; cần phải tu
tập câu hữu với xả. Này Tỷ-kheo, khi nào định này của Thầy được tu tập,
được làm cho sung mãn như vậy, khi ấy này Tỷ-kheo, Thầy cần phải học tập
như sau:
"Ta sẽ sống quán thân trên thân, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm,
nhiếp phục tham ưu ở đời". Như vậy, này Tỷ-kheo, Thầy cần phải học tập.
6. Này Tỷ-kheo, khi nào định này của
Thầy được tu tập, được làm cho sung mãn như vậy, khi ấy, này Tỷ-kheo,
Thầy cần phải tu tập định này với tầm với tứ; cần phải tu tập không tầm,
với tứ; cần phải tu tập không tầm, không tứ; cần phải tu tập có hỷ, cần
phải tu tập không hỷ; cần phải tu tập câu hữu với lạc; cần phải tu tập
câu hữu với xả. Này Tỷ-kheo, khi nào định này của Thầy được tu tập, được
làm cho sung mãn như vậy, khi ấy này Tỷ-kheo, Thầy cần phải học tập như
sau:
"Ta sẽ sống quán thọ trên các cảm thọ ... quán tâm trên các tâm ...
quán pháp trên các pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục
tham ưu ở đời". Như vậy, này Tỷ-kheo, Thầy cần phải học tập.
7. Này Tỷ-kheo, khi nào định này của
Thầy được tu tập, được làm cho sung mãn như vậy, khi ấy, này Tỷ-kheo,
Thầy cần phải tu tập định này với tầm với tứ; cần phải tu tập không tầm,
với tứ; cần phải tu tập không tầm, không tứ; cần phải tu tập có hỷ, cần
phải tu tập không hỷ; cần phải tu tập câu hữu với lạc; cần phải tu tập
câu hữu với xả. Này Tỷ-kheo, khi nào định này của Thầy được tu tập, được
làm cho sung mãn như vậy, khi ấy này Tỷ-kheo, chỗ nào, chỗ nào Thầy đi,
chỗ ấy Thầy đi được an ổn; chỗ nào, chỗ nào Thầy sẽ đứng, chỗ ấy Thầy
đứng được an ổn; chỗ nào, chỗ nào sẽ Thầy ngồi, chỗ ấy Thầy ngồi được an
ổn; chỗ nào, chỗ nào Thầy sẽ nằm, chỗ ấy Thầy sẽ nằm được an ổn.
8. Tỷ-kheo ấy, được Thế Tôn giáo
giới với bài giáo giới này, từ chỗ ngồi, đứng dậy, đảnh lễ Thế Tôn, thân
bên hữu hướng về Ngài rồi ra đi. Tỷ-kheo ấy sống một mình, thanh tịnh,
không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, không bao lâu chứng đạt được mục
đích mà các thiện nam tử xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình.
Ðây là vô thượng cứu cánh Phạm hạnh, ngay trong hiện tại, tự mình chứng
tri với thắng trí, chứng ngộ, chứng đạt và an trú. Vị ấy rõ biết: "Sanh
đã tận, Phạm hạnh đã thành. Những việc nên làm đã làm, không còn trở lui
trạng thái này nữa". Tỷ-kheo ấy trở thành một vị A-la-hán.
(VI)
(64) Tagayà
1. Một thời, Thế Tôn trú ở Gayasisa.
Ở đây, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo: "Này các Tỷ-kheo" - "Thưa vâng, bạch
Thế Tôn. ".
Các tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế tôn nói như sau:
2.- Này các Tỷ-kheo, trước khi Ta
giác ngộ, chưa thành Chánh Ðẳng Giác, Ta còn làm Bồ Tát, Ta tưởng tri
ánh sáng, Ta không thấy sắc. Này các Tỷ-kheo, rồi Ta suy nghĩ: "Nếu Ta
có thể tưởng tri ánh sáng và Ta có thể thấy được màu sắc, như vậy tri
kiến của Ta được thanh tịnh hơn lên". Rồi này các Tỷ-kheo, sau một thời
gian Ta sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, Ta tưởng tri ánh sáng
và thấy được các sắc, nhưng Ta không giao thiệp với chư Thiên ấy, không
nói chuyện, không thảo luận".
3. Rồi này các Tỷ-kheo, Ta suy nghĩ
như sau: "Nếu Ta có thể tưởng tri ánh sáng có thể thấy được các sắc, có
thể giao thiệp với chư Thiên ấy, có thể nói chuyện, có thể thảo luận,
như vậy, tri kiến này của Ta được thanh tịnh hơn lên". Và này các
Tỷ-kheo, sau một thời gian Ta sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần,
tưởng tri ánh sáng và thấy được các sắc, và cùng chư Thiên ấy giao
thiệp, nói chuyện và thảo luận. Nhưng Ta không biết về các chư Thiên ấy:
"Chư Thiên này thuộc về Thiên chúng này, thuộc về Thiên chúng này".
4. Rồi này các Tỷ-kheo, Ta suy nghĩ
như sau: "Nếu Ta tưởng tri ánh sáng, thấy được các sắc, giao thiệp với
chư Thiên ấy, nói chuyện, thảo luận với chư Thiên ấy và biết được về chư
Thiên ấy: "Chư Thiên này thuộc về Thiên chúng này, thuộc về Thiên chúng
này", như vậy, tri kiến này của Ta được thanh tịnh hơn ". Rồi này các
Tỷ-kheo, sau một thời gian Ta sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần,
tưởng tri ánh sáng và thấy được các sắc, và cùng chư Thiên ấy giao
thiệp, nói chuyện, thảo luận với chư Thiên ấy, biết được: "Chư Thiên này
thuộc về Thiên chúng này, Thiên chúng này", nhưng Ta không biết được:
"Chư Thiên này do quả dị thục của nghiệp này, chết từ đây sanh ra tại
chỗ ấy"; Ta biết được chư Thiên ấy: "Chư Thiên này do quả dị thục của
nghiệp này, chết từ đây sanh ra
tại chỗ ấy"; nhưng Ta không biết được: "Chư Thiên này, do đồ ăn như thế
này, cảm thọ khổ lạc như thế này"; Ta biết được: "Chư Thiên này, do đồ
ăn như thế này, cảm thọ khổ lạc như thế này"; nhưng Ta không biết được
chư Thiên ấy: "Chư Thiên này, tuổi thọ dài như thế này, tồn tại lâu dài
như thế này", Ta biết được: "Chư Thiên này, tuổi thọ dài như thế này,
tồn tại lâu dài như thế này"; nhưng Ta không biết chư Thiên ấy: "Trước
đây Ta có cùng ở với chư Thiên này, hay trước đây Ta không cùng ở với
chư Thiên này? "
5. Rồi này các Tỷ-kheo, Ta suy nghĩ
như sau: "Nếu ta nhận thức được ánh sáng, thấy được các sắc, cùng với
chư Thiên ấy giao thiệp, nói chuyện, thảo luận, Ta có thể biết được chư
Thiên ấy: "Chư Thiên này thuộc Thiên chúng này, thuộc Thiên chúng này".
Ta có thể biết được chư Thiên ấy: "Chư Thiên này, do quả dị thục của
nghiệp này, chết tại chỗ này, sanh tại chỗ ấy". Ta có thể biết được chư
Thiên ấy: "Chư Thiên này, do ăn đồ ăn như thế này, cảm thọ khổ lạc như
thế này"; Ta có thể biết được chư Thiên ấy: "Chư Thiên này, tuổi thọ dài
như thế này, tồn tại lâu dài như thế này"; Ta có thể biết được chư
Thiên ấy: "Chư Thiên này, trước đây Ta có cùng ở với chư Thiên này, hay
trước đây Ta có cùng ở với chư Thiên này"; như vậy, tri kiến của Ta được
thanh tịnh hơn trước". Này các
Tỷ-kheo, sau một thời gian sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, Ta
tưởng tri ánh sáng, thấy được các sắc, Ta giao thiệp, nói chuyện, thảo
luận với các chư Thiên ấy: Ta biết được chư Thiên ấy ," Chư Thiên này
thuộc Thiên chúng này, thuộc Thiên chúng này". Ta biết được chư Thiên
ấy: "Chư Thiên này, do quả dị thục của nghiệp này, chết tại chỗ này,
sanh tại chỗ ấy". Ta biết được chư Thiên ấy: "Chư Thiên này, do ăn đồ ăn
như thế này, cảm thọ khổ lạc như thế này"; Ta biết được chư Thiên ấy:
"Chư Thiên này, tuổi thọ dài như thế này, tồn tại lâu dài như thế này";
Ta biết được chư Thiên ấy: "Chư Thiên này, trước đây Ta có cùng ở với
chư Thiên này, hay trước đây Ta không có ở cùng với chư Thiên này".
6. Này các Tỷ-kheo, cho đến khi nào
tri kiến gồm có tám diễn tiến và thuộc thượng giới Thiên này không được
khéo thanh tịnh nơi ta, thời Ta không có xác chứng trong thế giới chư
Thiên với Ma giới, Phạm Thiên giới, với quần chúng Sa-môn, Bà-la-môn,
chư Thiên và loài Người, rằng Ta đã chứng ngộ Vô Thượng Chánh Ðẳng Giác.
Này các Tỷ-kheo, cho đến khi nào tri kiến gồm có tám diễn tiến và thuộc
thượng giới Thiên này được khéo thanh tịnh nơi ta, thời Ta có xác chứng
trong thế giới chư Thiên với Ma giới, Phạm Thiên giới, với quần chúng
Sa-môn, Bà-la-môn, chư Thiên và loài Người, rằng Ta đã chứng ngộ Vô
Thượng Chánh Ðẳng Giác. Tri kiến khởi lên nơi Ta: "Bất động là tâm giải
thoát của Ta. Ðây là đời sống cuối cùng, không còn tái sanh nữa".
(V) (65) Thắng Xứ
1.- Này các Tỷ-kheo, có tám thắng xứ
này. Thế nào là tám?
2. Một vị tưởng tri nội sắc, thấy
các loại ngoại sắc, có hạn lượng đẹp xấu. Vị ấy tưởng tri rằng: "Sau khi
nhiếp thắng chúng, ta biết, ta thấy. Ðó là thắng xứ thứ nhất.
3. Một vị tưởng tri nội sắc, thấy
các loại ngoại sắc, không có hạn lượng đẹp xấu. Vị ấy tưởng tri rằng:
"Sau khi nhiếp thắng chúng, ta biết, ta thấy. Ðó là thắng xứ thứ hai.
4. Một vị tưởng tri vô sắc ở nội
tâm, thấy các loại ngoại sắc hạn lượng đẹp xấu. Vị ấy tưởng tri rằng:
"Sau khi nhiếp thắng chúng, ta biết, ta thấy. Ðó là thắng xứ thứ ba.
5. Một vị tưởng tri vô sắc ở nội
tâm, thấy các loại ngoại sắc vô lượng đẹp xấu. Vị ấy tưởng tri rằng:
"Sau khi nhiếp thắng chúng, ta biết, ta thấy. Ðó là thắng xứ thứ tư.
6. Một vị tưởng tri vô sắc ở nội
tâm, thấy các loại ngoại sắc màu xanh, sắc màu xanh, tướng sắc xanh,
hình sắc xanh, ánh sáng xanh. Vị ấy tưởng tri rằng: "Sau khi nhiếp thắng
chúng, ta biết, ta thấy. Ðó là thắng xứ thứ năm.
7. Một vị tưởng tri vô sắc ở nội
tâm, thấy các loại ngoại sắc màu vàng, sắc màu vàng, tướng sắc vàng,
hình sắc vàng, ánh sáng vàng. Vị ấy tưởng tri rằng: "Sau khi nhiếp thắng
chúng, ta biết, ta thấy. Ðó là thắng xứ thứ sáu.
8. Một vị tưởng tri vô sắc ở nội
tâm, thấy các loại ngoại sắc màu đỏ, sắc màu đỏ, tướng sắc đỏ, hình sắc
đỏ, ánh sáng đỏ. Vị ấy tưởng tri rằng: "Sau khi nhiếp thắng chúng, ta
biết, ta thấy. Ðó là thắng xứ thứ bảy.
9. Một vị tưởng tri vô sắc ở nội
tâm, thấy các loại ngoại sắc màu trắng, sắc màu trắng, tướng sắc trắng,
hình sắc trắng, ánh sáng trắng. Vị ấy tưởng tri rằng: "Sau khi nhiếp
thắng chúng, ta biết, ta thấy. Ðó là thắng xứ thứ năm.
Này các Tỷ-kheo, những pháp này là tám thắng xứ.
(VI) (66) Các Giải Thoát
1.- Này các Tỷ-kheo, có tám giải
thoát này. Thế nào là tám?
2. "Tự mình có sắc, thấy các sắc".
Ðó là giải thoát thứ nhất.
3. "Tưởng tri nội sắc là vô sắc,
thấy các ngoại sắc". Ðó là giải thoát thứ hai.
4. "Chú tâm trên suy tưởng (sắc là)
tịnh". Ðó là giải thoát thứ ba.
5. "Vượt khỏi hoàn toàn sắc tướng,
chấm dứt các tưởng đối ngại, không tác ý đến các tưởng khác biệt, với
suy tư: "Hư không là vô biên", chứng và trú Không vô biên xứ. Ðó là giải
thoát thứ tư.
6. "Vượt khỏi hoàn toàn Hư không vô
biên xứ, với suy tư: "Thức là vô biên", chứng và trú Thức vô biên xứ ".
Ðó là giải thoát thứ năm.
7. "Vượt khỏi hoàn toàn Thức vô biên
xứ, với suy tư: "Không có vật gì", chứng và trú Vô sở hữu xứ". Ðó là
giải thoát thứ sáu.
8. "Vượt khỏi hoàn toàn Vô sở hữu
xứ, chứng và trú Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Ðó là giải thoát thứ bảy.
9. "Vượt khỏi hoàn toàn Phi tưởng
phi phi tưởng xứ, chứng và trú Diệt thọ tưởng. Ðó là giải thoát thứ tám.
Này các Tỷ-kheo, có tám giải thoát này.
(VIII)
(67) Phi Thánh Ngôn
1. - Này các Tỷ-kheo, có tám phi
thánh ngôn này. Thế nào là tám?
2. Không thấy nói thấy, không nghe
nói nghe, không nghĩ nói nghĩ, không biết nói biết, thấy nói không thấy,
nghe nói không nghe, nghĩ nói không nghĩ, biết nói không biết.
Này các Tỷ-kheo, đây là tám phi Thánh ngôn.
(VIII)
(68) Thánh Ngôn
1. - Này các Tỷ-kheo, có tám thánh
ngôn này. Thế nào là tám?
2. Không thấy nói không thấy, không
nghe nói không nghe, không nghĩ nói không nghĩ, không biết nói không
biết, thấy nói thấy, nghe nói nghe, nghĩ nói nghĩ, biết nói biết.
Này các Tỷ-kheo, đây là tám Thánh ngôn.
(IX) (69) Các Hội Chúng
1. - Này các Tỷ-kheo, có tám hội
chúng này. Thế nào là tám?
2. Hội chúng Sát-đế-lỵ, hội chúng
Bà-la-môn, hội chúng gia chủ, hội chúng Sa-môn, hội chúng Bốn Thiên
vương, hội chúng cõi trời Ba mươi ba, hội chúng Màra, hội chúng Phạm
thiên.
3. Này các Tỷ-kheo, Ta nhớ rằng Ta
đã đi đến hàng trăm hội chúng Sát-đế-lỵ. Tại đấy, Ta lúc trước có hội
họp, lúc trước có nói chuyện, lúc trước có thảo luận; Tại đấy, dung sắc
của họ như thế nào, dung sắc của Ta trở thành như của họ; giọng nói của
họ như thế nào, giọng nói của Ta trở thành như của họ. Và Ta, với pháp
thoại, thuyết giảng, khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ. Khi
Ta nói, họ không biết Ta là ai. Họ nói: "Người nói này là ai, Thiên nhân
hay loài Người? ". Sau khi thuyết giảng với pháp thoại, thuyết giảng,
khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ, Ta biến mất. Khi ta biến
mất, họ không biết Ta là ai. Họ nói: "Người biến mất này là ai, Thiên
nhân hay loài Người? "
4. Này các Tỷ-kheo, Ta nhớ rằng Ta
đã đi đến hàng trăm hội họ Bà-la-môn, ... hàng trăm hội chúng Gia chủ,
... hàng trăm hội chúng Sa-môn, ... hàng trăm hội chúng Bốn Thiên vương,
... hàng trăm hội chúng cõi Trời Ba mươi ba,... hàng trăm hội chúng
Màra.... hàng trăm hội chúng Phạm thiên. Tại đấy, Ta lúc trước có hội
họp, lúc trước có nói chuyện, lúc trước có thảo luận; tại đấy dung sắc
của họ như thế nào, dung sắc của Ta trở thành như của họ; giọng nói của
họ như thế nào, giọng nói của Ta trở thành như của họ. Và Ta, với pháp
thoại, thuyết giảng, khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ. Khi
Ta nói, họ không biết Ta là ai. Họ nói: "Người nói này là ai, Thiên nhân
hay loài Người? ". Sau khi thuyết giảng với pháp thoại, khích lệ, làm
cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ,
Ta biến mất. Khi ta biến mất, họ không biết Ta là ai. Họ nói: "Người
biến mất này là ai, Thiên nhân hay loài Người? "
Này các Tỷ-kheo, đây là tám hội chúng.
(X) (70) Ðộng Ðất
1. Một thời, Thế Tôn trú ở Vesàli,
tại Ðại Lâm, ở ngôi nhà có nóc nhọn. Rồi Thế Tôn vào buổi sáng đắp y,
đem theo y và bát, vào Vesàli để khất thực. Sau khi đi khất thực, ăn
xong và trên đường khất thực trở về, Ngài nói với Tôn giả Ananda:
2. - Này Ananda, hãy lấy tọa cụ,
chúng ta sẽ đi đến Càpàla để nghỉ trưa.
- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Tôn giả Ananda vâng đáp Thế Tôn, lấy tọa cụ và đi theo sau lưng Thế
Tôn.
3. Thế Tôn đi đến đền Càpàla, sau
khi đến, Ngài ngồi trên chỗ đã soạn sẵn. Sau khi ngồi, Thế Tôn nói với
Tôn giả Ananda:
4. - Này Ananda, khả ái thay Vesàli!
Khả ái thay đền Udena! Khả ái thay đền Gotamaka! Khả ái thay đền
Bahuputtaka! Khả ái thay đền Sattamba! Khả ái thay đền Sàrandada! Khả ái
thay đền Càpàla! Này Ananda, những ai đã tu tập bốn thần túc, làm cho
sung mãn, làm thành cỗ xe, làm thành căn cứ địa, kiên trì, tích tập,
khéo thực hành, nếu muốn, này Ananda, người ấy có thể sống một kiếp hay
một phần kiếp còn lại. Này Ananda, nay Như Lai đã tu tập bốn thần túc,
làm cho sung mãn, làm thành cỗ xe, làm thành căn cứ địa, kiên trì, tích
tập, khéo thực hành. Này Ananda, nếu muốn Như Lai có thể sống một kiếp
hay một phần kiếp còn lại.
Như vậy, Tôn giả Ananda không thể nhận hiểu sự gợi ý quá rõ ràng của
Thế Tôn, sự hiện tướng quá rõ ràng của Thế Tôn, Tôn giả không thỉnh cầu
Thế Tôn: "Bạch Thế Tôn, Thế Tôn hãy ở lại cho đến trọn kiếp, Thiện thệ
hãy ở lại cho đến trọn kiếp vì lợi ích cho chúng sanh, vì hạnh phúc cho
chúng sanh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì
an lạc cho chư Thiên và loài người ", vì tâm của Tôn giả bị Ma vương ám
ảnh.
5. Lần thứ hai Thế Tôn ... lần thứ
ba, Thế Tôn nói vời Tôn giả Ananda:
6. - Này Ananda, khả ái thay Vesàli!
Khả ái thay đền Udena! Khả ái thay đền Gotamaka! Khả ái thay đền
Bahuputtaka! Khả ái thay đền Sattamba! Khả ái thay đền Sàrandada! Khả ái
thay đền Càpàla! Này Ananda, những ai đã tu tập bốn thần túc, làm cho
sung mãn, làm thành cỗ xe, làm thành căn cứ địa, kiên trì, tích tập,
khéo thực hành, nếu muốn, này Ananda, người ấy có thể sống đến một kiếp
hay một phần kiếp còn lại. Này Ananda, Như Lai đã tu tập bốn thần túc,
làm cho sung mãn, làm thành cỗ xe, làm thành căn cứ địa, kiên trì, tích
tập, khéo thực hành. Này Ananda, nếu muốn Như Lai có thể sống một kiếp
hay một phần kiếp còn lại.
Như vậy, Tôn giả Ananda không thể nhận hiểu sự gợi ý quá rõ ràng của
Thế Tôn, sự hiện tướng quá rõ ràng của Thế Tôn, Tôn giả không thỉnh cầu
Thế Tôn: "Bạch Thế Tôn, Thế Tôn hãy ở lại cho đến trọn kiếp, Thiện thệ
hãy ở lại cho đến trọn kiếp vì lợi ích cho chúng sanh, vì hạnh phúc cho
chúng sanh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì
an lạc cho chư Thiên và loài người ", vì tâm của Tôn giả bị Ác Ma ám
ảnh.
7. Rồi Thế Tôn nói với Tôn giả
Ananda:
- Này Ananda, hãy đi và làm những gì Thầy nghĩ là phải thời.
- Xin vâng, bạch Thế Tôn.
Tôn giả Ananda vâng lời Thế Tôn, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Ngài,
thân bên hữu hướng về Thế Tôn rồi ra đi, ngồi xuống một gốc cây, không
xa Thế Tôn.
8. Rồi Tôn giả Ananda ra đi chưa bao
lâu, Ác ma nói với Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, nay Thế Tôn hãy diệt độ. Thiện Thệ hãy diệt độ. Bạch
Thế Tôn, nay đã đến thời Thế Tôn diệt độ. Bạch Thế Tôn, đây là lời Thế
Tôn đã nói: "Này Ác ma, Ta sẽ không diệt độ cho đến khi nào những
Tỷ-kheo của Ta chưa trở thành những đệ tử tinh thông, có huấn luyện, có
tin tưởng, đạt được an ổn khỏi khổ ách, nghe nhiều, thọ trì pháp, thực
hành pháp và tùy pháp, sở hành chơn chánh, hành trì theo pháp; sau khi
học hỏi như bậc Sư trưởng của mình, chưa tuyên bố, thuyết giảng trình
bày xác định, khai minh, phân tích, và giải thích rõ ràng chánh pháp;
khi có tà đạo khởi lên, chưa có thể bác bỏ, hàng phục với chánh pháp,
chưa có thể thuyết pháp thần diệu".
Bạch Thế Tôn, nay những Tỷ-kheo của Thế Tôn đã trở thành những đệ tử
tinh thông, có huấn luyện, có tin tưởng, đạt được an ổn khỏi khổ ách,
nghe nhiều, thọ trì pháp, thực hành pháp và tùy pháp, sở hành chơn
chánh, hành trì theo pháp; sau khi học hỏi như bậc Sư trưởng của mình,
chưa tuyên bố, thuyết giảng trình bày xác định, khai minh, phân tích, và
giải thích rõ ràng chánh pháp; khi có tà đạo khởi lên, đã có thể bác
bỏ, hàng phục với chánh pháp, có thể thuyết pháp thần diệu". Bạch Thế
Tôn Thế Tôn, nay Thế Tôn hãy diệt độ. Bạch Thế Tôn, Thiện Thệ hãy diệt
độ. Bac5h Thế Tôn, đây là lời Thế Tôn đã nói: "Này Ác ma, Ta sẽ không
diệt độ cho đến khi nào những Tỷ-kheo của Ta chưa trở thành những đệ tử
tinh thông, có huấn luyện, có tin tưởng ... khi nào những nam cư sĩ của
Ta
chưa trở thành, ... khi nào những nữ cư sĩ của Ta chưa trở thành những
đệ tử tinh thông, có huấn luyện, có tin tưởng, đạt được an ổn khỏi khổ
ách, nghe nhiều, thọ trì pháp, thực hành pháp và tùy pháp, sở hành chơn
chánh, hành trì theo pháp; sau khi học hỏi như bậc Sư trưởng của mình,
chưa tuyên bố, thuyết giảng trình bày xác định, khai minh, phân tích, và
giải thích rõ ràng chánh pháp; khi nào có tà đạo khởi lên, chưa có thể
bác bỏ, hàng phục với chánh pháp, chưa có thể thuyết pháp thần diệu".
Bạch Thế Tôn, nay những cư sĩ của Thế Tôn đã trở thành đệ tử tinh
thông, có huấn luyện, có tin tưởng, đạt được an ổn khỏi khổ ách, nghe
nhiều, thọ trì pháp, thực hành pháp và tùy pháp, sở hành chơn chánh,
hành trì theo pháp; sau khi học hỏi giáo lý đã có thể tuyên bố, thuyết
giảng trình bày xác định, khai minh, phân tích, và giải thích rõ ràng
Chánh pháp; khi có tà đạo khởi lên, đã có thể bác bỏ, hàng phục với
chánh pháp, có thể thuyết pháp thần diệu".
Bạch Thế Tôn, nay Thế Tôn hãy diệt độ! Thiện Thệ hãy diệt độ! Bạch
Thế Tôn, nay đã đến thời Thế Tôn diệt độ! Bạch Thế Tôn, đây là lời Thế
Tôn đã nói: "Này Ác ma, Ta sẽ không diệt độ khi nào Phạm hạnh Ta giảng
dạy chưa thịnh đạt, phát triển, quảng bá, biến mãn, phổ biến, khéo
thuyết giảng cho chư Thiên và loài Người ".
Nay bạch Thế Tôn, Phạm hạnh Thế Tôn giảng dạy được thịnh đạt, phát
triển, quảng bá, biến mãn, phổ biến, khéo thuyết giảng cho chư Thiên và
loài Người. Nay Thế Tôn hãy diệt độ! Thiện Thệ hãy diệt độ. Bạch Thế
Tôn, nay đã đến thời Thế Tôn diệt độ!
- Này Ác ma hãy yên tâm, không bao lâu Như Lai sẽ diệt độ. Sau ba
tháng bắt đầu từ hôm nay, Như Lai sẽ diệt độ!
9. Và tại đền Càpàla, Thế Tôn chánh
niệm, tỉnh giác, từ bỏ thọ hành (không duy trì mạng sống lâu hơn nữa).
Khi Thế Tôn từ bỏ thọ hành, thời đại địa chấn động ghê rợn, tóc lông
dựng ngược, sấm trời vang dậy. Lúc bấy giờ, Thế Tôn hiểu ý nghĩa sự kiện
này, liền thốt ra lời cảm hứng như sau:
Mạng sống có hạn hay vô hạn
Tu sĩ từ bỏ không kéo dài
Nội tâm an lạc, trú Thiền định
Như thoát áo giáp tự ngã mang.
10. Lúc bấy giờ, Tôn giả Ananda suy
nghĩ: "Thật là lớn, đất chấn động này. Thật là to lớn, đất chấn động
này, đại địa chấn động ghê rợn, tóc lông dựng ngược và sấm trời vang
dậy. Do nhân gì, do duyên gì, đại địa chấn động hiển lộ như vậy? "
Rồi Tôn giả Ananda đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi
ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, bạch Thế Tôn:
- Thật là lớn, đất chấn động này. Thật là to lớn, đất chấn động này,
đại địa chấn động ghê rợn, tóc lông dựng ngược và sấm trời vang dậy.
Bạch Thế Tôn, do nhân gì, do duyên gì, đại địa chấn động hiển lộ như
vậy?
11. - Này Ananda, có tám nhân, có
tám duyên, khiến đại địa chấn động. Thế nào là tám?
12. Này Ananda, đại địa này thiết
lập trên nước, nước ở trên gió và gió ở trên hư không. Này Ananda, đến
thời gió lớn khởi lên, khi gió lớn thổi lên nước rung động, và khi nước
rung động thì quả đất rung động. Ðó là nhân thứ nhất, duyên thứ nhất,
đại địa chấn động.
13. Lại nữa, này Ananda, có Sa-môn
hay Bà-la-môn có thần thông, tâm được tự tại, hay hàng chư Thiên có đại
thần thông, có đại uy lực; những vị này tu tập địa tưởng có hạn, thủy
tưởng vô lượng, vị ấy có thể khiến quả đất này rung động, chuyển động,
chấn động mạnh. Này Ananda, đó là nhân thứ hai, duyên thứ hai, khiến đại
địa chấn động.
14. Lại nữa, này Ananda, khi Bồ-tát
từ bỏ thân chư Thiên Tusità (Ðâu-xuất), chánh niệm, tỉnh giác, nhập vào
mẫu thai, khi ấy quả đất này rung động, chuyển động, chấn động mạnh. Này
Ananda, đó là nhân thứ ba, duyên thứ ba, khiến đại địa chấn động.
15. Lại nữa, này Ananda, khi Bồ-tát,
chánh niệm, tỉnh giác, ra khỏi mẫu thai; khi ấy quả đất này rung động,
chuyển động, chấn động mạnh. Này Ananda, đó là nhân thứ tư, duyên thứ
tư, khiến đại địa chấn động.
16. Lại nữa, này Ananda, khi Như Lai
chứng ngộ Vô thượng Chánh Ðẳng Giác; khi ấy quả đất này rung động,
chuyển động, chấn động mạnh. Này Ananda, đó là nhân thứ năm, duyên thứ
năm, khiến đại địa chấn động.
17. Lại nữa, này Ananda, khi Như Lai
chuyển bánh xe Pháp; khi ấy quả đất này rung động, chuyển động, chấn
động mạnh. Này Ananda, đó là nhân thứ sáu, duyên thứ sáu, khiến đại địa
chấn động.
18. Lại nữa, này Ananda, khi Như Lai
chánh niệm, tỉnh giác, từ bỏ không duy trì mạng sống (thọ hành); khi ấy
quả đất này rung động, chuyển động, chấn động mạnh. Này Ananda, đó là
nhân thứ bảy, duyên thứ bảy, khiến đại địa chấn động.
19. Lại nữa, này Ananda, khi Như Lai
nhập Vô dư Niết-bàn; khi ấy quả đất này rung động, chuyển động, chấn
động mạnh. Này Ananda, đó là nhân thứ tám, duyên thứ tám, khiến đại địa
chấn động.
Này Ananda, có tám nhân này, tám duyên này khiến đại địa chấn động.
VIII. Phẩm Song Ðôi
(I)
(71) Lòng Tin (1)
1.
- Này các Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo có lòng
tin nhưng có giới; như vậy, vị ấy không đày đủ chi phần này. Do vậy, cần
làm đầy đủ chi phần ấy: "Làm thế nào để ta được đầy đủ cả lòng tin và
giới?". Và này các Tỷ-kheo, khi nào Tỷ-kheo có lòng tin và giới, như
vậy, chi phần ấy được đầy đủ.
2. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo có lòng
tin, có giới, nhưng không nghe nhiều; như vậy, vị ấy không đầy đủ chi
phần này. Do vậy, cần phải làm đầy đủ chi phần ấy: "Làm thế nào để ta
được đầy đủ cả lòng tin, giới và nghe nhiều?" Và này các Tỷ-kheo, khi
nào Tỷ-kheo có lòng tin, có giới và có nghe nhiều; như vậy chi phần ấy
đã được đầy đủ.
3. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo có lòng
tin, có giới, có nghe nhiều, nhưng không thuyết pháp... có thuyết pháp
nhưng không sống với hội chúng... sống với hội chúng nhưng không vô úy
thuyết pháp cho hội chúng... vô úy thuyết pháp cho hội chúng, nhưng với
bốn Thiền thuộc tăng thượng tâm, hiện tại lạc trú, chứng được có khó
khăn, chứng được có mệt nhọc, chứng được có phí sức...; với bốn Thiền
thuộc tăng thượng tâm, hiện tại lạc trú, chứng được không khó khăn,
chứng được không mệt nhọc, chứng được không phí sức, nhưng không đoạn
diệt các lậu hoặc, ngay trong hiện tại, tự mình với thắng trí chứng ngộ,
chứng đạt và an trú vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát; như vậy, vị
ấy không đầy đủ chi phần này. Do vậy cần phải làm cho đầy đủ chi phần
ấy: "Làm thế nào để ta được đầy đủ
lòng tin, có giới, có nghe nhiều, có thuyết pháp, có sống với hội chứng,
có vô úy thuyết pháp cho hội chúng, với bốn Thiền thuộc tăng thượng
tâm, hiện tại lạc trú, chứng được không khó khăn, chứng được không mệt
nhọc, chứng được không phí sức, do đoạn diệt các lậu hoặc, ngay trong
hiện tại, tự mình với thắng trí chứng ngộ, chứng đạt và an trú vô lậu
tâm giải thoát, tuệ giải thoát?" Khi nào, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo có
lòng tin, có giới, có nghe nhiều, có thuyết pháp có sống với hội chúng
có vô úy thuyết pháp cho hội chúng, với bốn Thiền thuộc tăng thượng tâm,
hiện tại lạc trú, chứng được không khó khăn, chứng được không mệt nhọc,
chứng được không phí sức; do diệt tận các lậu hoặc, ngay trong hiện
tại, với thắng trí tự mình chứng ngộ, chứng đạt và an trú vô lậu tâm
giải
thoát, tuệ giải thoát; như vậy, vị ấy được đầy đủ chi phần ấy.
Thành tựu tám pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo được tịnh tín hoàn
toàn và được viên mãn về mọi phương diện.
(II)
(72) Lòng Tin (2)
1. - Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo có
lòng tin, nhưng không có giới; như vậy, vị ấy không đầy đủ chi phần này.
Do vậy, cần phải làm cho đầy đủ chi phần ấy: "Làm thế nào để ta có lòng
tin và có giới?" Và này các Tỷ-kheo, khi nào Tỷ-kheo có lòng tin và có
giới; như vậy chi phần ấy đã được đầy đủ.
2. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo có lòng
tin, có giới, nhưng không nghe nhiều... có nghe nhiều nhưng không thuyết
pháp... có thuyết pháp nhưng không sống với hội chúng... sống với hội
chúng nhưng không vô úy thuyết pháp cho hội chúng... vô úy thuyết pháp
cho hội chúng, nhưng đối với các tịch tịnh giải thoát, vượt qua các sắc
thuộc vô sắc ấy, sống với thân thấm nhuần...; Ðối với các tịch tịnh giải
thoát vượt qua các sắc thuộc vô sắc ấy, sống với thân thấm nhuần; nhưng
không đoạn diệt các lậu hoặc, ngay trong hiện tại, tự mình chứng ngộ
với thắng trí, chứng đạt và an trú vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải
thoát; như vậy, vị ấy không đầy đủ chi phần này. Do vậy, cần phải làm
cho đầy đủ chi phần ấy: "Làm thế nào để ta có được lòng tin, có giới, có
nghe nhiều, là vị thuyết pháp
sống với hội chúng, vô úy thuyết pháp cho hội chúng, với các tịch tịnh
giải thoát vượt qua các sắc thuộc vô sắc ấy, sống với thân thấm nhuần,
do đoạn diệt các lậu hoặc,... chứng ngộ, chứng đạt và an trú?" Cho đến
khi nào, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo có lòng tin, có giới, nghe nhiều,
thuyết pháp, sống với hội chúng, vô úy thuyết pháp cho hội chúng, đối
với các tịch tịnh giải thoát vượt qua các sắc thuộc vô sắc ấy, sống với
thân thấm nhuần, do đoạn diệt các lậu hoặc, ... chứng ngộ, chứng đạt và
an trú; như vậy, vị ấy được đầy đủ chi phần ấy.
Thành tựu tám chi phần này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo được tịnh tín
hoàn toàn và được viên mãn về mọi phương diện.
(III) (73) Niệm Chết (1)
1. Một thời, Thế Tôn trú ở Nàtika,
tại Ginjakàvasatha. Tại đấy, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo: "Này các Tỷ-kheo".
"Thưa vâng, bạch Thế Tôn".
Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau:
2. - Niệm chết, này các Tỷ-kheo,
được tu tập, được làm sung mãn, có quả lớn, có lợi ích lớn, nhập vào bất
tử, cứu cánh là bất tử. Này các Tỷ-kheo, các Thầy hãy tu tập niệm chết.
3. Ðược nói như vậy, một Tỷ-kheo
bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, con có tu tập niệm chết.
- Này các Tỷ-kheo, Thầy tu tập niệm chết như thế nào?
- Ở đây, bạch Thế Tôn, con suy nghĩ như sau: "Mong rằng ta sống ngày
và đêm tác ý đến lời dạy của Thế Tôn". Con đã làm nhiều như vậy. Như
vậy, bạch Thế Tôn, con tu tập niệm chết.
4. Một Tỷ-kheo khác bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, con cũng tu tập niệm chết.
- Này các Tỷ-kheo, Thầy tu tập niệm chết như thế nào?
- Ở đây, bạch Thế Tôn, con suy nghĩ như sau: "Mong rằng ta sống trọn
ngày, tác ý đến lời dạy của Thế Tôn". Con đã làm nhiều như vậy. Như vậy,
bạch Thế Tôn, con tu tập niệm chết.
5. Một Tỷ-kheo khác bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, con cũng tu tập niệm chết.
- Này Tỷ-kheo, Thầy tu tập niệm chết như thế nào?
- Ở đây, bạch Thế Tôn, con suy nghĩ như sau: "Mong rằng ta sống trọn
nửa ngày tác ý đến lời dạy của Thế Tôn". Con đã làm nhiều như vậy. Như
vậy, bạch Thế Tôn, con tu tập niệm chết.
6. Một Tỷ-kheo khác bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, con cũng tu tập niệm chết.
- Này Tỷ-kheo, Thầy tu tập niệm chết như thế nào?
- Ở đây, bạch Thế Tôn, con suy nghĩ như sau: "Mong rằng, cho đến khi
nào ta còn ăn một phần đồ ăn khất thực, cho đến khi ấy, ta tác ý đến lời
dạy của Thế Tôn". Con đã làm nhiều như vậy. Như vậy, bạch Thế Tôn, con
tu tập niệm chết.
7. Một Tỷ-kheo khác bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, con cũng tu tập niệm chết.
- Này Tỷ-kheo, Thầy tu tập niệm chết như thế nào?
- Ở đây, bạch Thế Tôn, con suy nghĩ như sau: "Mong rằng, cho đến khi
nào ta còn ăn nửa phần đồ ăn khất thực, cho đến khi ấy, ta tác ý đến lời
dạy của Thế Tôn". Con đã làm nhiều như vậy. Như vậy, bạch Thế Tôn, con
tu tập niệm chết.
8. Một Tỷ-kheo khác bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, con cũng tu tập niệm chết.
- Này Tỷ-kheo, Thầy tu tập niệm chết như thế nào?
- Ở đây, bạch Thế Tôn, con suy nghĩ như sau: "Mong rằng, cho đến khi
nào ta còn ăn và nuốt bốn, năm miếng đồ ăn, cho đến khi ấy, ta tác ý đến
lời dạy của Thế Tôn". Con đã làm nhiều như vậy. Như vậy, bạch Thế Tôn,
con tu tập niệm chết.
9. Một Tỷ-kheo khác bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, con cũng tu tập niệm chết.
- Này Tỷ-kheo, Thầy tu tập niệm chết như thế nào?
- Ở đây, bạch Thế Tôn, con suy nghĩ như sau: "Mong rằng, cho đến khi
nào ta còn ăn và nuốt một miếng đồ ăn, cho đến khi ấy, ta tác ý đến lời
dạy của Thế Tôn". Con đã làm nhiều như vậy. Như vậy, bạch Thế Tôn, con
tu tập niệm chết.
10. Một Tỷ-kheo khác bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, con cũng tu tập niệm chết.
- Này Tỷ-kheo, Thầy tu tập niệm chết như thế nào?
- Ở đây, bạch Thế Tôn, con suy nghĩ như sau: "Cho đến khi nào sau khi
thở vào, ta thở ra, hay sau khi thở ra, ta thở vào, cho đến khi ấy, ta
tác ý đến lời dạy của Thế Tôn". Con đã làm nhiều như vậy. Như vậy, bạch
Thế Tôn, con tu tập niệm chết.
11. Ðược nghe nói như vậy, Thế Tôn
nói với các Tỷ-kheo ấy:
- Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo này tu tập niệm chết như sau: "Mong rằng
ta sống ngày và đêm, tác ý đến lời dạy của Thế Tôn. Ta đã làm nhiều như
vậy".
- Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo này tu tập niệm chết như sau: "Mong rằng
ta sống trọn ngày tác ý đến lời dạy của Thế Tôn, ta đã làm nhiều như
vậy. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo này tu tập niệm chết như sau: "Mong rằng
ta sống trọn nửa ngày tác ý đến lời dạy của Thế Tôn, ta đã làm nhiều như
vậy". Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo này tu tập niệm chết như sau: "Mong rằng
ta sống trọn nửa ngày tác ý đến lời dạy của Thế Tôn, ta đã làm nhiều
như vậy". Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo này tu tập niệm chết như sau: "Mong
rằng cho đến khi nào ta còn ăn phần đồ ăn khất thực, cho đến khi ấy, ta
tác ý đến lời dạy của Thế Tôn. Ta đã làm nhiều như vậy". Này các
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo này tu tập niệm chết như sau: "Mong rằng cho đến khi
nào ta còn ăn nửa phần đồ ăn khất thực, cho đến khi ấy, ta tác ý đến lời
dạy
của Thế Tôn. Ta đã làm nhiều như vậy". Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo này tu
tập niệm chết như sau: "Mong rằng cho đến khi nào ta còn ăn và nuốt bốn,
năm miếng đồ ăn, cho đến khi ấy, ta tác ý đến lời dạy của Thế Tôn. Ta
đã làm nhiều như vậy"... Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo này tu tập niệm chết
như sau: "Mong rằng cho đến khi nào khi thở vào, ta thở ra, hay sau khi
thở ra, ta thở vào, cho đến khi ấy, ta tác ý đến lời dạy của Thế Tôn. Ta
đã làm nhiều như vậy". Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy được gọi là những vị
sống không phóng dật, tu tập rất sắc sảo niệm chết để đoạn diệt các lậu
hoặc. Do vậy, này các Tỷ-kheo, cần phải tu học như sau: "Hãy sống không
phóng dật. Ta sẽ tu tập một cách sắc sảo niệm chết, để đoạn diệt các
lậu hoặc".
Như vậy, này các Tỷ-kheo, các Thầy cần phải học tập.
(IV) (74) Niệm Chết (2)
1. Một thời, Thế Tôn trú ở Nàtika,
tại Ginjakàvasatha. Tại đấy, Thế Tôn nói với các Tỷ-kheo:
- Niệm chết, này các Tỷ-kheo, được tu tập, được làm cho sung mãn, có
quả lớn, có lợi ích lớn, nhập vào bất tử, cứu cánh là bất tử. Vậy tu tập
niệm chết như thế nào, làm cho sung mãn niệm chết như thế nào để đưa
đến quả lớn, lợi ích lớn, nhập vào bất tử, cứu cánh bất tử?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
khi ngày vừa tàn và đêm vừa an trú, suy tư như sau: "Các nhân duyên đem
đến cái chết cho ta rất nhiều: con rắn có thể cắn ta; con bò cạp có thể
cắn ta; hay con rít có thể cắn ta. Do vậy, ta có thể mệnh chung; như vậy
sẽ chướng ngại cho ta. Ta có thể vấp ngã và té xuống. Cơm ta ăn có thể
làm ta mắc bệnh khi ăn. hay mật có thể khuấy động ta, đàm có thể khuấy
động ta. Các gió như kiếm có thể khuấy động ta. Người có thể công kích
ta, hay phi nhân có thể công kích ta, do vậy có thể làm ta mệnh chung.
Như vậy sẽ là chướng ngại cho ta". Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy cần phải
suy xét như sau: "Nếu ta còn có những pháp ác, bất thiện chưa được đoạn
tận, nếu ta lỡ mệnh chung đêm nay, chúng có thể là chướng ngại cho ta".
Này các Tỷ-kheo, nếu
Tỷ-kheo trong khi suy xét như vậy, biết được như sau: "Ta có những pháp
ác, bất thiện chưa được đoạn tận, nếu ta lỡ mệnh chung đêm nay, chúng có
thể là chướng ngại cho ta", thời này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy, để đoạn
tận các pháp ác, bất thiện ấy, cần phải tận lực tác động ước muốn, tinh
tấn, tinh cần, nỗ lực, không có thối chuyển chánh niệm và tỉnh giác. Ví
như, này các Tỳ Kheo, áo bị cháy hay đầu bị cháy, thời để dập tằt áo ấy
hay đầu ấy, cần phải tận lực tác động ước muốn, tinh tấn tinh cần nỗ
lực, không có thối chuyển, chánh niệm và tỉnh giác. Cũng vậy, này các
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy, để đoạn tận các ác, bất thiện pháp ấy, cần phải tận
lực tác động ước muốn, tinh tấn, tinh cần, nỗ lực, không có thối
chuyển, chánh niệm, và tỉnh giác. Nếu Tỷ-kheo ấy, trong khi suy xét,
biết được như sau: "Ta không có những pháp ác, bất thiện chưa đoạn tận,
nếu ta lỡ mệnh chung đêm nay, chúng có thể là chướng ngại cho ta". Này
các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy cần phải sống hoan hỷ hân hoan, ngày đêm cần
phải học tập trong các thiện pháp.
3. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
khi đêm vừa tàn và ngày vừa an trú, suy tư như sau: "Các nhân duyên đem
đến cái chết cho ta rất nhiều: con rắn có thể cắn ta; con bò cạp có thể
cắn ta; hay con rít có thể cắn ta. Do vậy, ta có thể mệnh chung. Như vậy
sẽ là chướng ngại cho ta. Ta có thể vấp ngã và té xuống. Cơm ta ăn có
thể làm ta mắc bệnh khi ăn. hay mật có thể khuấy động ta, hay đàm có thể
khuấy động ta. Các gió như kiếm có thể khuấy động ta. Người hay phi
nhân có thể công kích ta. Và như vậy có thể làm ta mệnh chung. Như vậy
sẽ là chướng ngại cho ta."
Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy cần phải suy xét như sau: "Nếu ta còn
những pháp ác, bất thiện chưa được đoạn tận, nếu ta lỡ mệnh chung trong
ngày, chúng có thể là chướng ngại cho ta". Này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo
trong khi suy xét như vậy biết được như sau: "Ta có những pháp ác, bất
thiện chưa được đoạn tận, nếu ta lỡ mệnh chung ngày hôm nay, chúng có
thể là chướng ngại cho ta". Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy, để đoạn tận các
pháp ác, bất thiện ấy, cần phải tận lực tác động ước muốn, tinh cần,
tinh tấn, nỗ lực không có thối chuyển, chánh niệm và tỉnh giác. Cũng
vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy để đoạn tận các ác, bất thiện pháp ấy,
cần phải tận lực tác động ước muốn, tinh tấn, tinh cần, nỗ lực, không có
thối chuyển, chánh niệm và tỉnh giác. Nếu vị Tỷ-kheo ấy, trong khi suy
xét biết được như sau: "Ta không có những pháp ác, bất thiện chưa được
đoạn tận, nếu ta lỡ mệnh chung ngày hôm nay, chúng có thể là chướng ngại
cho ta". Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy cần phải sống hoan hỷ, hân hoan,
ngày đêm cần phải học tập trong các thiện pháp.
Này các Tỷ-kheo, niệm về chết tu tập như vậy làm cho sung mãn như
vậy, được quả lớn, được lợi ích lớn, thể nhập vào bất tử, cứu cánh là
bất tử.
(V) (75) Ðầy Ðủ (1)
1. - Này các Tỷ-kheo, có tám đầy đủ
này. Thế nào là tám?
2. Ðầy đủ tháo vát, đầy đủ phòng hộ,
làm bạn với thiện, sống thăng bằng điều hòa, đầy đủ lòng tin, đầy đủ
giới, đầy đủ bố thí, đầy đủ trí tuệ.
Này các Tỷ-kheo, có tám đầy đủ này.
Tháo vát trong công việc,
Không phóng dật nhanh nhẹn,
Sống đời sống thăng bằng,
Giữ tài sản thâu được,
Có tín, đầy đủ giới,
Bố thí, không xan tham,
Rửa sạch đường thượng đạo,
An toàn trong tương lai,
Ðây chính là tám pháp,
Bậc tín chủ tầm cầu,
Bậc chân thật tuyên bố,
Ðưa đến lạc hai đời,
Hạnh phúc cho hiện tại,
Và an lạc tương lai,
Ðây trú xứ gia chủ,
Bố thí tăng công đức.
(VI) (76) Ðầy Ðủ (2)
1. - Này các Tỷ-kheo, có tám đầy đủ
này. Thế nào là tám?
2. Ðầy đủ tháo vát, đầy đủ phòng hộ,
làm bạn với thiện, sống thăng bằng điều hòa, đầy đủ lòng tin, đầy đủ
giới, đầy đủ bố thí, đầy đủ trí tuệ. Này các Tỷ-kheo, có tám đầy đủ này.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là đầy đủ về tháo vát?
3. Ở đây, này các Tỷ-kheo, thiện nam
tử phàm làm nghề gì để sinh sống, hoặc nghề nông, hoặc đi buôn, hoặc
nuôi bò, hoặc làm người bắn cung, hoặc làm việc cho vua, hoặc bất cứ
nghề gì, trong nghề ấy, người ấy thiện xảo, không biết mệt, biết suy tư
phương tiện vừa đủ để tự làm và điều khiển người khác làm. Này các
Tỷ-kheo, đây gọi là đầy đủ tháo vát. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là đầy
đủ phòng hộ?
4. Ở đây, này các Tỷ-kheo, những tài
sản của thiện nam tử, do tháo vát tinh tấn thâu hoạch được, do sức mạnh
cánh tay chất chứa được, do mồ hôi đổ ra đúng pháp, thâu hoạch được
đúng pháp, vị ấy gìn giữ chúng, phòng hộ và bảo vệ. Làm thế nào các tài
sản này của ta không bị vua mang đi, không bị trộm cướp mang đi, không
bị lửa đốt, không bị nước cuốn trôi, không bị các người con thừa tự
không khả ái cướp đoạt. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là đầy đủ phòng hộ. Và
này các Tỷ-kheo, thế nào là làm bạn với thiện?
5. Ở đây, này các Tỷ-kheo, thiện nam
tử sống tại làng hay tại thị trấn. Tại đấy có những gia chủ, hay con
người gia chủ, những người trẻ được nuôi lớn trong giới đức, hay những
người lớn tuổi được lớn lên trong giới đức, đầy đủ lòng tin, đầy đủ giới
đức, đầy đủ lòng tin, đầy đủ giới đức, đầy đủ bố thí, đầy đủ trí tuệ,
vị ấy giao thiệp, nói chuyện, thảo luận với những người ấy. Với những
người đầy đủ lòng tin, vị ấy theo học đầy đủ lòng tin; với những người
đầy đủ bố thí, theo học đầy đủ bố thí; với những người đầy đủ trí tuệ,
theo học đầy đủ trí tuệ. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là làm bạn với thiện.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là sống thăng bằng điều hòa?
6. Ở đây, này các Tỷ-kheo, thiện nam
tử sau khi biết tài sản nhập, sau khi biết tài sản xuất, sinh sống một
cách thăng bằng điều hòa, không quá phung phí, không quá bỏn xẻn. Người
ấy suy nghĩ: "Ðây là tiền nhập của ta, sau khi trừ đi tiền xuất, còn lại
như sau: không phải là tiền xuất của ta, sau khi trừ tiền nhập, còn lại
như vậy". Ví như, này các Tỷ-kheo, người cầm cân hay đệ tử người cầm
cân, sau khi cầm cân, biết rằng: "Với chừng ấy, cân nặng xuống; hay với
chừng ấy, cân bổng lên". Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, thiện nam tử sau khi
biết tài sản nhập, sau khi biết tài sản xuất, sinh sống một cách điều
hỏa, không quá phung phí, không quá bỏn xẻn, người ấy nghĩ rằng: "Ðây là
tiền nhập của ta, sau khi trừ đi tiền xuất còn lại như vậy; không phải
là tiền xuất của ta, sau
khi trừ đi tiền nhập, còn lại như vậy. Này các Tỷ-kheo, nếu thiện nam tử
này, tiền nhập vào ít, nhưng sống nếp sống rộng rãi (hoang phí), thời
người ta nói về người ấy như sau: "Người thiện nam tử này ăn tài sản của
người ấy như người ăn trái cây sung". Này các Tỷ-kheo, nếu người thiện
nam tử này có tiền nhập lớn, nhưng sống nếp sống cơ cực, thời người ta
sẽ nói về người ấy như sau: "Người thiện nam tử này sẽ chết như người
chết đói". Khi nào, này các Tỷ-kheo, sau khi biết tài sản nhập, sau khi
biết tài sản xuất, sống nếp sống thăng bằng điều hòa, không quá phung
phí, không quá bỏn xẻn, nghĩ rằng: "Như vậy, tiền nhập của ta, sau khi
trừ đi tiền xuất, còn lại như vậy; không phải là tiền xuất, sau khi trừ
tiền nhập, còn lại như vậy". Này các Tỷ-kheo, đây gọi là nếp sống
thăng bằng, điều hòa. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là đầy đủ lòng tin?
7. Ở đây, này các Tỷ-kheo, thiện nam
tử có lòng tin, tin tưởng ở sự giác ngộ Của Như Lai: "Ðây là Thế Tôn...
bậc Ðạo Sư của chư Thiên và loài Người, Phật, Thế Tôn". Này các
Tỷ-kheo, đây gọi là đầy đủ lòng tin. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là đầy
đủ giới?
8. Ở đây, này các Tỷ-kheo, thiện nam
tử từ bỏ sát sanh... từ bỏ không đắm say rượu men, rượu nấu. Này các
Tỷ-kheo, đây gọi là đầy đủ giới. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là đầy đủ
bố thí?
9. Ở đây, này các Tỷ-kheo, thiện nam
tử sống ở gia đình, với tâm không bị c61u uế xan tham chi phối, bố thí
rộng rãi, với bàn tay rộng mở, vui thích từ bỏ, sẵn sàng để được yêu
cầu, vui thích chia xẻ vật bố thí. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là đầy đủ bố
thí. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là đầy đủ, trí tuệ?
10. Ở đây, này các Tỷ-kheo, thiện
nam tử có trí tuệ, thành tựu trí tuệ về sanh diệt, với Thánh thể nhập
(quyết trạch), chơn chánh, chấm dứt khổ đau. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là
đầy đủ trí tuệ.
Tháo vát trong công việc,
Không phóng dật, nhanh nhẹn,
Sống đời sống thăng bằng,
Giữ tài sản thâu được,
Có tín, đầy đủ giới,
Bố thí không xan tham,
Rửa sạch đường thượng đạo,
An toàn trong tương lai,
Ðây chính là tám pháp,
Bậc tín chủ tầm cầu,
Bậc chân thật tuyên bố,
Ðưa đến lạc hai đời,
Hạnh phúc cho hiện tại,
Và an lạc tương lai,
Ðây trú xứ gia chủ,
Bố thí tăng công đức.
(VII) (77) Dục
1. Tại đấy, Tôn giả Sàriputta gọi
các Tỷ-kheo: "Này các Hiền giả Tỷ-kheo".
- Thưa Hiền giả.
Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Tôn giả Sàriputta. Tôn giả Sàriputta nói như
sau:
2. - Này các Hiền giả, có tám hạng
người này có mặt, hiện hữu ở đời. Thế nào là tám?
3. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
trong khi sống nhàn tịnh, không có tinh tấn khởi lên ước muốn có lợi
dưỡng. Vị ấy hăng hái, phấn chấn, tinh tấn để được lợi dưỡng. Dầu cho vị
ấy hăng hái, phấn chấn, tinh tấn để được lợi dưỡng, nhưng lợi dưỡng
không đến. Do không được lợi dưỡng, vị ấy sầu muộn, than van, khóc lóc,
đập ngực, rơi vào bất tỉnh. Này các Tỷ-kheo, vị ấy được gọi là Tỷ-kheo
sống ham muốn lợi dưỡng, hăng hái, phấn chấn, tinh tấn để được lợi
dưỡng; không được lợi dưỡng, vị ấy sầu muộn, than khóc, bỏ rơi diệu
pháp.
4. Ở đây, này các Tỷ-kheo, có
Tỷ-kheo trong khi sống nhàn tịnh, không có tinh tấn, khởi lên ước muốn
có lợi dưỡng. Vị ấy hăng hái, phấn chấn, tinh tấn để được lợi dưỡng. Do
hăng hái, phấn chấn, tinh tấn để được lợi dưỡng, lợi dưỡng khơi lên. Với
lợi dưỡng ấy, vị ấy đắm say, phóng dật, rơi vào tình trạng đắm say,
phóng dật. Ðây gọi la Tỷ-kheo sống ham muốn lợi dưỡng, hăng hái, phấn
chấn, tinh tấn để được lợi dưỡng; được lợi dưỡng, trở thành đắm say,
phóng dật và bỏ rơi diệu pháp.
5. Ở đây, này các Tỷ-kheo, có
Tỷ-kheo trong khi sống nhàn tịnh không có tinh tấn, khởi lên ước muốn có
lợi dưỡng. Vị ấy không hăng hái, không phấn chấn, không tinh tấn để
được lợi dưỡng. Do vị ấy không hăng hái, không phấn chấn, không tinh
tấn, lợi dưỡng không khởi lên. Vị ấy do không được lợi dưỡng không khởi
lên. Vị ấy do không được lợi dưỡng, nên sầu muộn, than van, khóc lóc,
đập ngực, rơi và bất tỉnh. Ðây gọi là Tỷ-kheo sống ham muốn lợi dưỡng,
không hăng hái, không phấn chấn, không tinh tấn để được lợi dưỡng; không
được lợi dưỡng, nên sầu muộn, than van và bỏ rơi diệu pháp.
6. Ở đây, này các Tỷ-kheo, có
Tỷ-kheo trong khi sống nhàn tịnh, không có tinh tấn, khởi lên ước muốn
có lợi dưỡng. Vị ấy không hăng hái, không phấn chấn, không tinh tấn để
được lợi dưỡng. Dầu vị ấy không hăng hái, không phấn chấn, không tinh
tấn để được lợi dưỡng, lợi dưỡng khởi lên. Với lợi dưỡng ấy, vị ấy đắm
say phóng dật, rơi vào trạng thái đắm say, phóng dật. Này các Tỷ-kheo,
đây gọi là Tỷ-kheo sống ham muốn lợi dưỡng, không hăng hái, không phấn
chấn, không tinh tấn để được lợi dưỡng; được lợi dưỡng, bị đắm say, bị
phóng dật và bỏ rơi diệu pháp.
7. Ở đây, này các Tỷ-kheo, có
Tỷ-kheo trong khi sống nhàn tịnh, không có tinh tấn, khởi lên ước muốn
có lợi dưỡng. Vị ấy hăng hái, phấn chấn, tinh tấn để được lợi dưỡng. Dầu
cho vị ấy hăng hái, phấn chấn, tinh tấn để được lợi dưỡng, lợi dưỡng
không khởi lên. Vị ấy. do không được lợi dưỡng, không sầu muộn, không
than van, không khóc lóc, không đập ngực, không rơi vào bất tỉnh. Này
các Tỷ-kheo, đây gọi là Tỷ-kheo, sống ham muôn lợi dưỡng, hăng hái, phấn
chấn, tinh tấn để được lợi dưỡng; không được lợi dưỡng, không sầu muộn,
không than van, và không bỏ rơi diệu pháp.
8. Ở đây, này các Tỷ-kheo, có
Tỷ-kheo trong khi sống nhàn tịnh, không có tinh tấn, khởi lên ước muốn
có lợi dưỡng, vị ấy hăng hái, phấn chấn, tinh tấn để được lợi dưỡng. Do
vị ấy hăng hái, phấn chấn, tinh tấn để được lợi dưỡng, lợi dưỡng khởi
lên. Với lợi dưỡng ấy, vị ấy không đắm say, không phóng dật, vị ấy không
có rơi vào đắm say. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là Tỷ-kheo sống ham muốn
lợi dưỡng, hăng hái, phấn chấn, tinh tấn để được lợi dưỡng; được lợi
dưỡng, không đắm say, không phóng dật, không bỏ rơi diệu pháp.
9. Ở đây, này các Tỷ-kheo, trong khi
sống nhàn tịnh, không có tinh tấn, khởi lên ước muốn có lợi dưỡng. Vị
ấy không hắng hái, không phấn chấn, không tinh tấn để được lợi dưỡng,
lợi dưỡng không khởi lên. Vị ấy không được lợi dưỡng, không sầu muộn,
không than van, không khóc lóc, không đập ngực, không rơi vào bất tỉnh.
Này các Tỷ-kheo, đây gọi là Tỷ-kheo sống ước muốn lợi dưỡng, không hăng
hái, không phấn chấn, không tinh tấn để được lợi dưỡng; không được lợi
dưỡng, không sầu muộn, không than van, không bỏ rơi diệu pháp.
10. Ở đây, này các Tỷ-kheo, có
Tỷ-kheo trong khi sống nhàn tịnh, không có tinh tấn, khởi lên ước muốn
có lợi dưỡng. Vị ấy không hăng hái, không phấn chấn, không tinh tấn để
được lợi dưỡng. Dầu cho vị ấy không hăng hái, không phấn chấn, không
tinh tấn để được lợi dưỡng, lợi dưỡng khởi lên. Vị ấy, với lợi dưỡng ấy,
không đắm say, không phóng dật, không rơi vào trạng thái đám say phóng
dật. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là Tỷ-kheo sống ham muốn lợi dưỡng, không
hăng hái, không phấn chấn, không tinh tấn để được lợi dưỡng; được lợi
dưỡng, không đăm say, không phóng dật, không bỏ rơi diệu pháp.
Này các Tỷ-kheo, có tám hạng người này sống có mặt, hiện hữu ở đời.
(VIII) (78) Vừa Ðủ
1. Tại đấy, Tôn giả Sàriputta gọi
các Tỷ-kheo:
- Này chư Hiền, thành tựu sáu pháp, Tỷ-kheo là vừa đủ, cho tự mình,
là vừa đủ cho các kẻ khác. Thế nào là sáu?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
nhanh nhẹn nắm được ý nghĩa trong các thiện pháp; là người thọ trì những
pháp đã được nghe; là người suy tư ý nghĩa các pháp đã được thọ trì;
sau khi biết ý nghĩa các pháp đã được thọ trì; sau khi biết ý nghĩa, sau
khi biết pháp, thực hành pháp và tùy pháp; giọng nói dễ nghe, phát âm
tốt, lời nói tao nhã, phân minh, phát ngôn không bập bẹ, giải thích
nghĩa lý minh xác; có khả năng thuyết giảng, khích lệ, làm cho phấn
khởi, làm cho hoan hỷ các vị đồng Phạm hạnh. Thành tựu sáu pháp này, này
các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo là vừa đủ cho tự mình, là vừa đủ cho các người
khác.
3. Thành tựu năm pháp, này các
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo là vừa đủ cho tự mình, là vừa đủ cho các người khác.
Thế nào là năm?
4. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
không nhanh nhẹn nắm được ý nghĩa trong các thiện pháp; là người thọ trì
các pháp được nghe; là người suy tư ý nghĩa các pháp đã được thọ trì;
sau khi hiểu nghĩa; sau khi hiểu pháp, thực hành pháp và tùy pháp; giọng
nói dễ nghe...; làm cho hoan hỷ các vị đồng Phạm hạnh.
Thành tựu năm pháp, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo là vừa đủ cho tự mình,
là vừa đủ cho người khác.
5. Thành tựu bốn pháp, này các
Tỷ-kheo , Tỷ-kheo là vừa đủ cho tự mình, không vừa đủ cho các kẻ khác.
Thế nào là bốn?
6. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
nhanh nhẹn, nắm được ý nghĩa trong các thiện pháp; là người thọ trì các
pháp được nghe; là người suy tư ý nghĩa các pháp đã được thọ trì; sau
khi hiểu nghĩa; sau khi hiểu pháp, thực hành pháp và tùy pháp; giọng nói
không dễ nghe; phát âm không tốt, lời nói không tao nhã, không phân
minh, phát ngôn bập bẹ, giải thích lý không minh xác; không có khả năng
thuyết giảng, khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ các vị đồng
Phạm hạnh.
Thành tựu bốn pháp, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo là vừa đủ cho tự mình,
không vừa đủ cho các kẻ khác.
7. Thành tựu bốn pháp, này các
Tỷ-kheo, vừa đủ cho các kẻ khác, không vừa đủ cho tự mình. Thế nào là
bốn?
8. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
nhanh nhẹn nắm được ý nghĩa trong các thiện pháp; là người thọ trì các
pháp đã được nghe; không là người suy tư ý nghĩa các pháp đã được thọ
trì; không có sau khi hiểu nghĩa; sau khi hiểu pháp, thực hành pháp và
tùy pháp; giọng nói dễ nghe; phát âm tốt, lời nói tao nhã, phân minh,
phát minh không bập bẹ, giải thích lý minh xác; có khả năng thuyết
giảng, khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ các vị đồng Phạm
hạnh.
Thành tựu bốn pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo là vừa đủ cho các
người khác, không vừa đủ cho tự mình.
9. Thành tựu bốn pháp, này các
Tỷ-kheo, vừa đủ cho tự mình, không vừa đủ cho kẻ khác. Thế nào là ba?
10. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
không nhanh nhẹn nắm được ý nghĩa trong các thiện pháp; là người thọ trì
các pháp đã được nghe; là người suy tư ý nghĩa các pháp đã được thọ
trì; sau khi hiểu nghĩa; sau khi hiểu pháp, thực hành pháp và tùy pháp;
giọng nói không dễ nghe ... giải thích nghĩa lý không minh xác; không có
khả năng thuyết giảng... làm cho hoan hỷ các vị đồng Phạm hạnh.
Thành tựu ba pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo là vừa đủ cho tự
mình, không vừa đủ cho các kẻ khác
11. Thành tựu ba pháp, này các
Tỷ-kheo, vừa đủ cho các kẻ khác, không vừa đủ cho tự mình. Thế nào là
ba?
12. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
không nhanh nhẹn nắm được ý nghĩa trong các thiện pháp; là người thọ trì
các pháp đã được nghe; không là người suy tư ý nghĩa các pháp đã được
thọ trì; không là người sau khi hiểu nghĩa; sau khi hiểu pháp, thực hành
pháp và tùy pháp; giọng nói dễ nghe ... giải thích nghĩa lý minh xác;
có khả năng thuyết giảng ... làm cho hoan hỷ các vị đồng Phạm hạnh.
Thành tựu ba pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo là vừa đủ cho các kẻ
khác, không vừa đủ cho tự mình.
13. Thành tựu hai pháp, này các
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo là vừa đủ cho tự mình, không vừa đủ cho người khác. Thế
nào là hai?
14. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
không nhanh nhẹn nắm được ý nghĩa trong các thiện pháp; không là người
thọ trì các pháp đã được nghe; là người suy tư ý nghĩa các pháp đã được
thọ trì; là người sau khi hiểu nghĩa; sau khi hiểu pháp, thực hành pháp
và tùy pháp; giọng nói không dễ nghe ... giải thích nghĩa lý không minh
xác; không có khả năng thuyết giảng... làm cho hoan hỷ các vị đồng Phạm
hạnh.
Thành tựu hai pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo là vừa đủ cho tự
mình, không vừa đủ cho các người khác
15. Thành tựu hai pháp, này các
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo là vừa đủ cho các kẻ khác, không vừa đủ cho tự mình.
Thế nào là hai?
16. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
không nhanh nhẹn nắm được ý nghĩa trong các thiện pháp; không là người
thọ trì các pháp đã được nghe; không suy tư ý nghĩa các pháp đã được thọ
trì; không là người sau khi hiểu nghĩa; sau khi hiểu pháp, thực hành
pháp và tùy pháp; giọng nói dễ nghe, phát âm tốt, lời nói tao nhã, phân
minh, phát ngôn không bập bẹ, giải thích nghĩa lý minh xác; có khả năng
thuyết giảng pháp thoại, khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ
các vị đồng Phạm hạnh.
Thành tựu hai pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo là vừa đủ cho người
khác, không vừa đủ cho tự mình.
(IX) (79) Thối Ðọa
1. - Này các Tỷ-kheo, có tám pháp
này đưa Tỷ-kheo hữu học đến thối đọa. Thế nào là tám?
2. Ưa thích công việc, ưa thích nói
chuyện, ưa thích ngủ nghỉ, ưa thích hội chúng, không phòng hộ các căn,
không tiết độ trong ăn uống, ưa thích giao thiệp, ưa thích lý luận.
Này các Tỷ-kheo, tám pháp này đưa Tỷ-kheo hữu học đến thối đọa.
3. Này các Tỷ-kheo, có tám pháp này
đưa Tỷ-kheo hữu học đến không thối đọa. Thế nào là tám pháp?
4. Không ưa thích công việc, không
ưa thích nói chuyện, không ưa thích ngủ nghỉ, không ưa thích hội chúng,
các căn được phòng hộ, tiết độ trong ăn uống, không ưa thích giao thiệp,
không ưa thích lý luận.
Này các Tỷ-kheo, có tám pháp này đưa Tỷ-kheo hữu học đến không thối
đọa.
(X) (80) Tám Căn Cứ Ðể Biếng Nhác và Tinh Tấn
1. Này các Tỷ-kheo, có tám căn cứ
này để biếng nhác. Thế nào là tám?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
có việc phải làm, vị ấy nghĩ: "Có việc ta sẽ phải làm. Nhưng nếu ta làm,
thời thân sẽ mệt mỏi, vậy ta hãy nằm xuống". Vị ấy nằm xuống, không cố
gắng tinh tấn để đạt được những gì chưa đạt, để chứng đắc những gì chưa
chứng đắc, để chứng ngộ những gì chưa chứng ngộ. Này các Tỷ-kheo, đây là
căn cứ biếng nhác thứ nhất.
3. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
có việc phải làm. Vị ấy suy nghĩ: "Có việc ta đã làm, do ta đã làm,
thân bị mệt mỏi, vậy ta hãy nằm xuống". Vị ấy nằm xuống, không cố gắng
tinh tấn để đạt những gì chưa đạt, để chứng đắc những gì chưa chứng đắc,
để chứng ngộ những gì chưa chứng ngộ. Này các Tỷ-kheo, đây là căn cứ
biếng nhác thứ hai.
4. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, có con
đường Tỷ-kheo cần phải đi. Vị ấy suy nghĩ: "Có con đường ta sẽ phải đi.
Nếu ta đi, thời thân sẽ mệt mỏi, vậy ta hãy nằm xuống". Vị ấy nằm xuống,
không cố gắng... chưa chứng ngộ. Này các Tỷ-kheo, đây là căn cứ biếng
nhác thứ ba.
5. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, có con
đường Tỷ-kheo đã đi. Vị ấy suy nghĩ: "Ta đã đi con đường. Do ta đã đi
con đường, nên thân bị mệt mỏi, vậy ta hãy nằm xuống". Vị ấy nằm xuống,
không cố gắng... chưa chứng ngộ. Này các Tỷ-kheo, đây là căn cứ biếng
nhác thứ tư.
6. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
đi khất thực trong làng hay trong thị trấn, không nhận được các đồ ăn
loại thô hay tế, đầy đủ như ý muốn. Vị ấy suy nghĩ: "Ta đi khất thực
trong làng hay trong thị trấn, không nhận được các đồ ăn loại thô hay
tế, đầy đủ như ý muốn. Nay thân ta mệt mỏi, không có thể chịu đựng. Vậy
ta hãy nằm xuống". Vị ấy nằm xuống, không cố gắng... chưa chứng ngộ. Này
các Tỷ-kheo, đây là căn cứ biếng nhác thứ năm.
7. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
đi khất thực trong làng hay trong thị trấn, nhận được các đồ ăn loại
thô hay tế, đầy đủ như ý muốn. Vị ấy suy nghĩ: "Ta đi khất thực trong
làng hay trong thị trấn, nhận được các đồ ăn loại thô hay tế, đầy đủ như
ý muốn. Nay thân ta nặng nề, không có thể chịu đựng, nặng nề như loại
đậu bị ngâm nước. Vậy ta hãy nằm xuống". Vị ấy nằm xuống, không cố
gắng... chưa chứng ngộ. Này các Tỷ-kheo, đây là căn cứ biếng nhác thứ
sáu.
8. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
bị bệnh nhẹ. Vị ấy suy nghĩ: "Nay bệnh nhẹ này khởi lên nơi ta, có lý
do để nằm xuống, vậy ta hãy nằm xuống". Vị ấy nằm xuống, không cố
gắng... chưa chứng ngộ. Này các Tỷ-kheo, đây là căn cứ biếng nhác thứ
bảy.
9. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
đau bệnh mới khỏi, mới khỏi bệnh không bao lâu, vị ấy suy nghĩ: "Ta đau
bệnh mới khỏi, mới khỏi bệnh không bao lâu, thân ta do bệnh bị yếu,
không có thể chịu đựng, vậy ta hãy nằm xuống". Vị ấy nằm xuống, không cố
gắng... chưa chứng ngộ. Này các Tỷ-kheo, đây là căn cứ biếng nhác thứ
tám.
Này các Tỷ-kheo, đây là tám căn cứ biếng nhác.
10. Này các Tỷ-kheo, có tám căn cứ
này để siêng năng. Thế nào là tám?
11. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
có việc phải làm. Vị ấy nghĩ: "Có việc ta sẽ phải làm. Nếu ta làm việc,
thời không dễ gì để ta tác ý đến lời dạy của các Đức Phật. Vậy trước
hết, ta bắt đầu tinh tấn, để đạt được những gì chưa đạt, để chứng đắc
những gì chưa chứng đắc, để chứng ngộ những gì chưa chứng ngộ". Vị ấy
bắt đầu tinh tấn để đạt được những gì chưa đạt, để chứng đắc những gì
chưa chứng đắc, để chứng ngộ những gì chưa chứng ngộ. Này các Tỷ-kheo,
đây là căn cứ siêng năng thứ nhất.
12. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
đã làm một công việc. Vị ấy suy nghĩ: "Ta đã làm một công việc. Do ta
làm công việc, ta đã không có thể tác ý đến lời dạy của các Đức Phật.
Vậy trước hết, ta bắt đầu tinh tấn, để đạt được những gì chưa đạt, để
chứng đắc những gì chưa chứng đắc, để chứng ngộ những gì chưa chứng
ngộ". Vị ấy bắt đầu tinh tấn để đạt được... chưa chứng ngộ. Này các
Tỷ-kheo, đây là căn cứ siêng năng thứ hai.
13. Ở đây, này các Tỷ-kheo, có con
đường Tỷ-kheo cần phải đi. Vị ấy suy nghĩ: "Ta sẽ cần phải đi con đường.
Do ta đi con đường, không dễ gì để ta tác ý đến lời dạy của các Đức
Phật. Vậy trước hết, ta bắt đầu tinh tấn ... để chứng ngộ những gì chưa
chứng ngộ". Vị ấy bắt đầu tinh tấn để đạt được... chưa chứng ngộ. Này
các Tỷ-kheo, đây là căn cứ siêng năng thứ ba.
14. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
đã đi con đường. Vị ấy suy nghĩ: "Ta đã đi con đường. Do ta đi con
đường, ta đã không có thể nghĩ đến lời dạy của các Đức Phật. Vậy ta hãy
bắt đầu tinh tấn... để chứng ngộ những gì chưa chứng ngộ". Vị ấy bắt đầu
tinh tấn để đạt được... chưa chứng ngộ. Này các Tỷ-kheo, đây là căn cứ
siêng năng thứ tư.
15. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
khi đi khất thực trong làng hay trong thị trấn, không nhận được các đồ
ăn loại thô và loại tế đầy đủ như ý muốn. Vị ấy suy nghĩ: "Ta đi khất
thực trong làng hay trong thị trấn, không nhận được các đồ ăn loại thô
hay loại tế đầy đủ như ý muốn, thân ta (do vậy) được nhẹ nhàng, có thể
chịu đựng. Vậy ta hãy bắt đầu tinh tấn... để chứng ngộ những gì chưa
chứng ngộ". Vị ấy bắt đầu tinh tấn để đạt được... chưa chứng ngộ. Này
các Tỷ-kheo, đây là căn cứ siêng năng thứ năm.
16. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
khi đi khất thực trong làng hay trong thị trấn, nhận được các đồ ăn loại
thô và loại tế đầy đủ như ý muốn. Vị ấy suy nghĩ: "Ta đi khất thực
trong làng hay trong thị trấn, nhận được các đồ ăn loại thô hay loại tế
đầy đủ như ý muốn. Thân ta có sức mạnh, có thể chịu đựng. Vậy ta hãy bắt
đầu tinh tấn... để chứng ngộ những gì chưa chứng ngộ". Vị ấy bắt đầu
tinh tấn ... chưa chứng ngộ. Này các Tỷ-kheo, đây là căn cứ siêng năng
thứ sáu.
17. Lại nữa, này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo mới khỏi một bệnh nhẹ. Vị ấy suy nghĩ: "Bệnh nhẹ này khơi lên
nơi ta. Sự kiện này có xảy ra: bệnh này có thể tăng trưởng nơi ta. Vậy
trước hết, ta hãy bắt đầu tinh tấn... chưa chứng ngộ". Này các Tỷ-kheo,
đây là căn cứ siêng năng thứ bảy.
18. Lại nữa, này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo mới khỏi bệnh, được khỏi bệnh không bao lâu, vị ấy suy nghĩ: "Ta
mới khỏi bệnh, được khỏi bệnh không bao lâu. Sự kiện này có xảy ra:
bệnh này của ta có thể trở lại. Vậy trước hết, ta hãy bắt đầu tinh tấn
để đạt được những gì chưa đạt, để chứng đắc những gì chưa chứng đắc, để
chứng ngộ những gì chưa chứng ngộ". Vị ấy bắt đầu tinh tấn, để đạt được
những gì chưa đạt, để chứng đắc những gì chưa chứng đắc, để chứng ngộ
những gì chưa chứng ngộ. Này các Tỷ-kheo, đây là căn cứ siêng năng thứ
tám.
Này các Tỷ-kheo, có tám căn cứ siêng năng này.
IX. Phẩm Niệm
(I) (81) Niệm
1.
- Khi chánh niệm, tỉnh giác không có,
này các Tỷ-kheo, với người không có chánh niệm, tỉnh giác, tàm quý đi
đến hủy diệt. Khi tàm quý không có, này các Tỷ-kheo, với người thiếu tàm
quý, chế ngự các căn đi đến hủy diệt. Khi chế ngự các căn không có, với
người thiếu chế ngự các căn, giới đi đến hủy diệt. Khi giới không có,
với người thiếu giới, chánh định đi đến hủy diệt. Khi chánh định không
có, với người không có chánh định, tri kiến như thật đi đến hủy diệt.
Khi tri kiến như thật không có, với người thiếu tri kiến như thật, nhàm
chán, ly tham đi đến hủy diệt. Khi nhàm chán, ly tham không có, với
người thiếu nhàm chán, ly tham, giải thoát tri kiến đi đến hủy diệt. Ví
như, này các Tỷ-kheo, một cây không có cành và lá, các mầm non của cây
ấy
không đi đến thành mãn, vỏ cây, giác cây, lõi cây không đi đến thành
mãn. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, khi chánh niệm, tỉnh giác không có, với
người không có chánh niệm, tỉnh giác tàm quý đi đến hủy diệt... giải
thoát tri kiến đi đến hủy diệt.
2. Khi chánh niệm, tỉnh giác có mặt,
với người có chánh niệm, tỉnh giác, tàm quý đi đến đầy đủ. Khi tàm quý
có mặt, này các Tỷ-kheo, với người đầy đủ tàm quý, chế ngự các căn, đi
đến đầy đủ. Khi chế ngự các căn có mặt, với người đầy đủ chế ngự các
căn, giới đi đến đầy đủ. Khi giới có mặt, với người đầy đủ giới, chánh
định đi đến đầy đủ. Khi chánh định có mặt, với người đầy đủ chánh định,
tri kiến như thật đi đến đầy đủ. Khi tri kiến như thật có mặt, với người
đầy đủ tri kiến như thật, thời nhàm chán, ly tham đi đến đầy đủ. Khi
nhàm chán, ly tham có mặt, với người đầy đủ nhàm chán, ly tham, giải
thoát tri kiến đi đến đầy đủ. Ví như, này các Tỷ-kheo, một cây có cành
và lá, các mầm non và lõi cây đi đến thành mãn, vỏ cây, giác cây và lõi
cây đi đến thành mãn. Cũng vậy,
này các Tỷ-kheo, khi chánh niệm, tỉnh giác có mặt, với người đầy đủ
chánh niệm, tỉnh giác... giải thoát tri kiến đi đến đầy đủ.
(II) (82) Tôn Gỉả Punniya
1. Rồi Tôn giả Punniya đi đến Thế
Tôn, sau khi đến... Ngồi xuống một bên, Tôn giả Punniya bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, do nhân gì, do duyên gì, có khi Thế Tôn thuyết pháp,
có khi Thế Tôn không thuyết pháp?
2. - Này Punniya, Tỷ-kheo có lòng
tin, không đi đến yết kiến, Thế Tôn không có thuyết pháp. Khi nào
Tỷ-kheo có lòng tin và đi đến yết kiến, như vậy Thế Tôn có thuyết pháp.
Này Punniya, Tỷ-kheo có lòng tin, có đi đến yết kiến, nhưng không có hầu
hạ, có hầu hạ nhưng không hỏi... có hỏi nhưng không lóng tai... có lóng
tai nghe pháp, nhưng nghe pháp không có thọ trì... nghe pháp có thọ trì
nhưng không suy nghĩ đến ý nghĩa các pháp được thọ trì... có suy nghĩ
các pháp được thọ trì, nhưng sau khi biết nghĩa, sau khi biết pháp,
không thực hành pháp và tùy pháp. Thế Tôn không thuyết pháp. Khi nào,
này Punniya lòng tin , có đi đến yết kiến, có hầu hạ, có hỏi, có lóng
tai nghe, có thọ trì pháp, có suy tư ý nghĩa các pháp được thọ trì, sau
khi biết nghĩa, sau khi biết pháp,
thực hành pháp và tùy pháp, như vậy, Như Lai có thuyết pháp.
Thành tựu những pháp này, này Punniya, nhất định Như Lai thuyết pháp.
(III) (83) Cội rễ Của Sự Vật
1. - Này các Tỷ-kheo, nếu các du sĩ
ngoại đạo đến hỏi: "Thưa Hiền giả, tất cả pháp lấy gì làm căn bản? Tất
cả pháp lấy gì làm sanh khởi? Tất cả pháp lấy gì làm tập khởi? Tất cả
pháp lấy gì làm chỗ tụ hội? Tất cả pháp lấy gì làm thượng thủ? Tất cả
pháp lấy gì làm tăng thượng? Tất cả pháp lấy gì làm tối thượng? Tất cả
này pháp lấy gì làm lõi cây?" Ðược hỏi vậy, này các Tỷ-kheo, các Thầy
trả lời các du sĩ ngoại đạo ấy như thế nào?
2. - Bạch Thế Tôn, đối với chúng
con, các pháp lấy Thế Tôn làm căn bản, lấy Thế Tôn làm lãnh đạo, lấy Thế
Tôn làm chỗ nương tựa. Lành thay, Bạch Thế Tôn, Thế Tôn hãy thuyết ý
nghĩa lời nói này. Sau khi nghe Thế Tôn, các Tỷ-kheo sẽ thọ trì.
- Vậy này các Tỷ-kheo, hãy nghe và khéo tác ý, Ta sẽ giảng.
- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau:
3. - Này các Tỷ-kheo, nếu các du sĩ
ngoại đạo có hỏi như sau: "Thưa Hiền giả, tất cả pháp lấy gì làm căn
bản? Tất cả pháp lấy gì làm sanh khỏi? Tất cả pháp lấy gì làm tập khởi?
Tất cả pháp lấy gì làm chỗ tụ hội? Tất cả pháp lấy gì làm thượng thủ?
Tất cả pháp lấy gì làm tăng thượng? Tất cả pháp lấy gì làm tối thượng?
Tất cả này pháp lấy gì làm lõi cây?" Ðược hỏi vậy, này các Tỷ-kheo, các
Thầy trả lời như sau: "Này chư Hiền, các pháp lấy dục làm căn bản. Tất
cả pháp lấy tác ý làm sanh khởi. Tất cả pháp lấy xúc làm tập khởi. Tất
cả pháp lấy thọ làm chỗ tụ hội. Tất cả pháp lấy định làm thượng thủ. Tất
cả pháp lấy niệm làm tăng thượng. Tất cả pháp lấy tuệ làm tối thượng.
Tất cả pháp lấy giải thoát làm lõi cây". Ðược hỏi như vậy, này các
Tỷ-kheo, các Thầy hãy trả lời cho
các du sĩ ngoại đạo ấy như vậy.
(IV) (84) Ðại Ăn Trộm
1. - Thành tựu tám chi phần, này các
Tỷ-kheo, người ăn trộm lớn mau chóng đi đến đường cùng, không tồn tại
lâu dài. Thế nào là tám?
Ðập người không đập, lấy trộm không để lại cái gì, giết nữ nhân, hiếp
dâm thiếu nữ, xâm phạm người xuất gia; xâm phạm ngân khố của vua; làm
việc quá gần nhà, và không khéo cất giấu.
Thành tựu tám chi phần này, này các Tỷ-kheo, người ăn trộm lớn mau
chóng đi đến đường cùng, không tồn tại lâu dài.
3. Thành tựu tám chi phần, này các
Tỷ-kheo, người ăn trộm lớn không mau chóng đi đến đường cùng, tồn tại
được lâu dài. Thế nào là tám?
4. Không đập người không đập, lấy
trộm có để lại cái gì, không giết nữ nhân, không hiếp dâm thiếu nữ;
không xâm phạm người xuất gia, không xâm phạm ngân khố của vua, không
làm việc quá gần nhà, và khéo léo cất giấu.
Thành tựu tám chi phần này, này các Tỷ-kheo, một người ăn trộm không
mau chóng đi đến đường cùng, tồn tại được lâu dài.
(V) (85) Người Sa Môn
1. - Sa-môn, này các Tỷ-kheo, là
đồng nghĩa với Như Lai, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác. Bà-la-môn, này
các Tỷ-kheo, là đồng nghĩa với Như Lai, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác.
Bậc Chánh trí, này các Tỷ-kheo, là đồng nghĩa với Như Lai, bậc A-la-hán,
Chánh Ðẳng Giác. Dược sư là đồng nghĩa với Như Lai, bậc A-la-hán, Chánh
Ðẳng Giác. Bậc Ly cấu, này các Tỷ-kheo, là đồng nghĩa với Như Lai, bậc
A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác. Bậc Có trí, này các Tỷ-kheo, là đồng nghĩa
với Như Lai, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác. Bậc Giải thoát, này các
Tỷ-kheo, là đồng nghĩa với Như Lai, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác.
Sa-môn đạt được gì,
Phạm chí thành mãn gì,
Bậc Chánh trí đạt gì,
Bậc Dược sư vô thượng,
Bậc Ly cấu đạt gì.
Bậc Vô cấu thanh tịnh,
Bậc Trí đạt được gì,
Bậc Giải thoát vô thượng.
Trong chiến trận Ta thắng,
Giải thoát khỏi triền phược,
Voi tối thượng nhiếp phục,
Ta, vô học, tịch tịnh.
(VI) (86) Ðảnh Lễ
1. Một thời, Thế Tôn đang bộ hành
giữa dân chúng Kosala với chúng Tỷ-kheo, đi đến một làng Bà-la-môn của
dân chúng Kosala tên là Icchànangala. Tại đấy, Thế Tôn trú ở
Icchànangala, tại khu rừng Icchànangala.
2. Các Bà-la-môn gia chủ trú ở
Icchànangala được nghe: "Sa-môn Gotama là Thích tử, xuất gia từ dòng họ
Thích-ca, nay đã đến Icchànangala, trú ở Icchànangala, tại khu rừng
Icchànangala, những tiếng đồn tốt đẹp sau đây được truyền đi về Sa-môn
Gotama: "Ngài là bậc Thế Tôn, A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, Minh Hạnh Túc,
Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn
Sư, Phật, Thế Tôn... Lành thay, nếu được yết kiến một bậc A-la-hán như
vậy." Rồi Bà-la-môn gia chủ sau khi đêm ấy đã mãn, đem theo rất nhiều đồ
ăn loại cứng và loại mềm, đi đến Icchànangala, sau khi đến, đứng tại
ngoài cửa nói lớn tiếng làm ồn ào.
3. Lúc bấy giờ, Tôn giả Nàgita là
thị giả của Thế Tôn. Rồi Thế Tôn bảo Tôn giả Nàgita:
- Này Nàgita, những ai lớn tiếng, cao tiếng như những hàng cá, với
đống cá lớn?
- Các người ấy, bạch Thế Tôn là các Bà-la-môn gia chủ ở Icchànangala
đang đứng ở ngoài cổng vào, đem theo rất nhiều đồ ăn loại cứng và loại
mềm cho Thế Tôn và chúng Tăng.
- Này Nàgita, Ta không có liên hệ gì với danh vọng, và danh vọng
không có liên hệ gì với Ta. Này Nàgita, những ai tìm được có khó khăn,
tìm được có mệt nhọc, tìm được có phí sức an ổn lạc, viễn ly lạc, an
tịnh lạc, chánh giác lạc mà Ta đã tìm được không khó khăn, tìm được
không mệt nhọc, tìm được không phí sức, hãy để họ thọ hưởng lạc như
phân, thụy miên lạc, lợi dưỡng, cung kính, danh văn lạc ấy.
- Bạch Thế Tôn, nay Thế Tôn hãy chấp nhận! Thiện Thệ hãy chấp nhận.
Bạch Thế Tôn, nay là thời Thế Tôn chấp nhận. Thế Tôn sẽ đi đến chỗ nào,
tại chỗ ấy, các Bà-la-môn gia chủ ở thị trấn và ở quốc độ cũng sẽ đi đến
với tâm hướng về Ngài. Ví như trời mưa nặng hạt, và nước mưa được chảy
tùy theo chiều dốc. Cũng vậy, bạch Thế Tôn, nay Thế Tôn sẽ đi đến chỗ
nào, tại chỗ ấy, các Bà-la-môn gia chủ ở tại thị trấn và quốc độ cũng sẽ
đi đến, với tâm hướng về Ngài. Vì sao? Bạch Thế Tôn, do vì giới hạnh và
trí tuệ của Thế Tôn.
- Này Nàgita, Ta không có liên hệ với danh vọng và danh vọng không có
liên hệ gì với Ta. Này Nàgita, những ai tìm được có khó khăn, tìm được
có mệt nhọc, tìm được có phí sức an lạc, viễn ly lạc, an tịnh lạc, chánh
giác lạc; còn Ta, Ta đã tìm được không khó khăn, tìm được không mệt
nhọc, tìm được không phí sức, hãy để họ thọ hưởng lạc như phân, thụy
miên lạc, lợi dưỡng, cung kính, danh văn lạc ấy. Này Nàgita, một số chư
Thiên tìm được có khó khăn, tìm được có mệt nhọc, tìm được có phí sức an
ổn lạc, viễn ly lạc, an tịnh lạc, chánh giác lạc, mà Ta, Ta đã tìm được
không có khó khăn, tìm được không có mệt nhọc, tìm được không có phí
sức. Này Nàgita, khi nào các Thầy họp với nhau, tụ hội với nhau, sống an
trú chú tâm trong nếp sống hội chúng, thời Ta suy nghĩ như sau:
"Thật vậy, các Tôn giả này của Ta tìm được có khó khăn, tìm được có mệt
nhọc, tìm được có phí sức an ổn lạc, viễn ly lạc, an tịnh lạc, chánh
giác lạc này; còn Ta, Ta đã tìm được không có phí sức an ổn lạc, viễn ly
lạc, an tịnh lạc, chánh giác lạc. Cho nên các Tôn giả của Ta mới họp
với nhau, tụ hội với nhau, sống an trú chú tâm trong nếp sống hội
chúng".
4. Này Nàgita, khi nào Ta thấy các
Tỷ-kheo, chơi giỡn lấy ngón tay đâm thọc nhau. Này Nàgita, Ta suy nghĩ
như sau: "Thật vậy, các Tôn giả này của Ta tìm được có khó khăn, tìm
được có mệt nhọc, tìm được có phí sức an ổ lạc, viễn ly lạc, an tịnh
lạc, chánh giác lạc; còn Ta, Ta đã tìm được... chánh giác lạc. Cho nên
các Tôn giả của Ta mới chơi giỡn lấy ngón tay đâm thọc nhau".
5. Ở đây, này Nàgita, khi Ta thấy
các Tỷ-kheo sau khi ăn cho đến thỏa mãn, cho đến bụng có thể chứa được,
rồi sống chú tâm vào lạc nằm xuống, lạc về xúc, lạc về ngủ, khi ấy, này
Nàgita, Ta suy nghĩ như sau: "Thật sự, các Tôn giả này tìm được có khó
khăn, tìm được có mệt nhọc, tìm được có phí sức an ổn lạc, viễn ly lạc,
an tịnh lạc, chánh giác lạc; còn Ta thời chứng được không khó khăn,
chứng được không mệt nhọc, chứng được không phí sức an ổn lạc, viễn ly
lạc, an tịnh lạc, chánh giác lạc; vì rằng các Tôn giả này, sau khi ăn
cho đến thỏa mãn, cho đến bụng có thể chứa được, rồi sống chú tâm vào
lạc nằm xuống, lạc về xúc, lạc về ngủ".
6. Ở đây, này Nàgita, khi ta thấy
Tỷ-kheo trú ở cuối làng, đang ngồi Thiền định. Này Nàgita, rồi Ta suy
nghĩ: "Nay người giữ khu vườn sẽ đến quấy rầy, hay một Sa-di sẽ làm vị
ấy từ bỏ Thiền định". Do vậy, này Nàgita, Ta không hoan hỷ Tỷ-kheo ấy
trú ở cuối làng.
7. Ở đây, này Nàgita, Ta thấy một
Tỷ-kheo trú ở rừng đang ngồi ngủ gục ở trong rừng. Này Nàgita, Ta suy
nghĩ như sau: "Nay Tôn giả này khi đoạn trừ được buồn ngủ và mỏi mệt, sẽ
tác ý đến tưởng về rừng và sống nhất tâm". Do vậy, này Nàgita, Ta hoan
hỷ với Tỷ-kheo ấy sống ở trong rừng.
8. Ở đây, này Nàgita. Ta thấy
Tỷ-kheo sống ở rừng đang ngồi không Thiền định ở trong rừng. Này Nàgita,
Ta suy nghĩ như sau: "Nay, vị Tôn giả này sẽ định tĩnh tâm chưa được
Thiền định, và sẽ bảo vệ tâm đã được Thiền định". Do vậy, này Nàgita, Ta
hoan hỷ với Tỷ-kheo ấy sống ở trong rừng.
9. Ở đây, này Nàgita, Ta thấy
Tỷ-kheo ngồi Thiền định ở trong rừng. Này Nàgita, Ta suy nghĩ như sau:
"Nay Tôn giả này sẽ giải thoát tâm chưa được giải thoát hay sẽ bảo vệ
tâm đã được giải thoát". Do vậy, này Nàgita, Ta hoan hỷ với Tỷ-kheo sống
ở trong rừng.
Khi nào, này Nàgita, Ta đi trên đường, không thấy một ai ở phía trước
hay ở phía sau, này Nàgita, khi ấy, Ta cảm thấy sảng khoái cho đến vấn
đề đại, tiểu tiện.
(VII)
(87) Bình Bát
1. - Này các Tỷ-kheo, nếu muốn,
chúng Tăng có thể lật úp bình bát của một nam cư sĩ thành tựu tám pháp.
Thế nào là tám?
2. Cố gắng đem lại thiệt hại cho các
Tỷ-kheo, cố gắng đem lại bất lợi cho các Tỷ-kheo, cố gắng đuổi các
Tỷ-kheo không cho trú ở, mắng nhiếc chỉ trích các Tỷ-kheo, làm ly gián
giữa các Tỷ-kheo, hủy báng Phật, hủy báng Pháp, hủy báng Tăng.
Này các Tỷ-kheo, nếu muốn, chúng Tăng có thể lật úp bình bát của một
cư sĩ thành tựu tám pháp này.
3. Này các Tỷ-kheo, nếu muốn, chúng
Tăng có thể lật ngửa bình bát của một nam cư sĩ thành tựu tám pháp. Thế
nào là tám?
4. Không cố gắng đem lại thiệt hại
cho các Tỷ-kheo, không cố gắng đem lại bất lợi cho các Tỷ-kheo, không cố
gắng đuổi các Tỷ-kheo, không cho trú ở, không mắng nhiếc chỉ trích các
Tỷ-kheo, không làm ly gián giữa các Tỷ-kheo, tán thán Phật, tán thán
Pháp, tán thán chúng Tăng.
Này các Tỷ-kheo, nếu muốn, chúng Tăng có thể lật ngửa bình bát của
một nam cư sĩ thành tựu tám pháp này.
(VIII) (88) Phản Ðối
1. - Ðối với nam cư sĩ thành tựu tám
pháp, này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo muốn, có thể nói lời phản đối. Thế
nào là tám?
2. Cố gắng đem lại thiệt hại cho các
gia chủ, cố gắng đem lại bất lợi cho các gia chủ, nhiếc mắng chỉ triùch
các gia chủ, làm ly gián giữa các gia chủ, hủy báng Phật, hủy báng
Pháp, phỉ báng chúng Tăng, thấy người ấy tại các chỗ không xứng đáng.
Ðối với nam cư sĩ thành tựu tám pháp, này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo
muốn, có thể nói lời phản đối.
3. Ðối với nam cư sĩ thành tựu tám
pháp, này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo muốn, có thể nói lời tùy thuận. Thế
nào là tám?
4. Không cố gắng đem lại thiệt hại
cho các gia chủ, không cố gắng đem lại bất lợi cho các gia chủ, không
nhiếc mắng chỉ trích các gia chủ, không làm ly gián giữa các gia chủ,
tán thán Phật, tán thán Pháp, tán thán chúng Tăng, thấy người ấy tại các
chỗ xứng đáng.
Ðối với nam cư sĩ thành tựu tám pháp này, này các Tỷ-kheo, nếu
Tỷ-kheo muốn, có thể nói lời tùy thuận.
(IX) (89) Buộc Tội
1. - Ðối với Tỷ-kheo thành tựu tám
pháp, này các Tỷ-kheo, nếu chúng Tăng muốn, chúng Tăng có thể làm Yết-ma
buộc tội. Thế nào là tám?
2. Cố gắng đem lại thiệt hại cho các
gia chủ, cố gắng đem lại bất lợi cho các gia chủ, làm ly gián giữa các
gia chủ, hủy báng Phật, hủy báng Pháp, hủy báng chúng Tăng, không thực
hiện lời hứa đúng pháp cho các gia chủ.
Ðối với Tỷ-kheo thành tựu tám pháp, này các Tỷ-kheo, nếu chúng Tăng
muốn, chúng Tăng có thể làm Yết-ma buộc tội.
3. Ðối với Tỷ-kheo thành tựu tám
pháp, này các Tỷ-kheo, nếu chúng Tăng muốn, chúng Tăng có thể giải tỏa
buộc tội Yết-ma. Thế nào là tám?
4. Không cô gắng đem lại thiệt hại
cho các gia chủ, không cố gắng đem lại bất lợi cho các gia chủ, không cố
gắng ly gián giữa các gia chủ, không hủy báng Phật, không hủy báng
Pháp, không hủy báng chúng Tăng, thực hiện lời hứa đúng Pháp cho các gia
chủ.
Ðối với Tỷ-kheo thành tựu tám pháp, này các Tỷ-kheo, nếu chúng Tăng
muốn, chúng Tăng có thể giải tỏa buộc tội Yết-ma.
(X) (90) Hành Xử Ðúng Pháp
1. - Này các Tỷ-kheo, với Tỷ-kheo đã
bị hành tìm tội Yết-ma, cần phải chơn chánh hành xử với vị ấy, theo tám
pháp: Không cho pháp truyền đại giới, không cho vị ấy y chỉ, không cho
Sa-di hầu hạ, không cho phép được nói gì với Tỷ-kheo dầu đã chấp nhận,
không cho phép giáo giới các Tỷ-kheo-ni, không được hưởng các quyết định
của Tăng chúng, không được đặt trong một vị trí đặc biệt nào, không
được phép trở lại vị trí cũ bởi bất cứ lý do nào.
Này các Tỷ-kheo, với Tỷ-kheo đã bị hành tìm tội Yết-ma, cần phải chơn
chánh hành xử với vị ấy theo tám pháp này.
(X) (90b) Một Số Nữ Cư Sĩ
Bojjhà, Sirimà, Padumà, Sudhanà, Manujà, Uttarà, Muttà, Khemà, Somà
Rùpì, Cundì Bimbì, Sumanà, Mallikà, Tissà, mẹ của Tissà, Sonà, mẹ Cunda
Sonà, Kànà, mẹ của Kànà, Uttarà, mẹ của Nandà, Visàkhà, mẹ của Migàra,
nữ cư sĩ Khujjuttarà và Sàmavatì, Suppavàsà, người thiếu nữ Koliya, nữ
cư sĩ Suppiyà, nữ gia chủ mẹ của Nakula.
X.
Tham Ái
(I) (1) Thắng Tri Tham Ái (1)
1.
- Này các Tỷ-kheo, muốn thắng tri tham
ái, tám pháp cần phải tu tập. Thế nào là tám?
2. Chánh tri kiến, chánh tư duy,
chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh
định.
Này các Tỷ-kheo, muốn thắng tri tham ái, tám pháp này cần phải tu
tập.
(I) (1) Thắng Tri Tham Ái (2)
1. - Này các Tỷ-kheo, muốn thắng tri
tham ái, tám pháp cần phải tu tập. Thế nào là tám?
2. Một vị quán tưởng nội sắc, thấy
các ngoại sắc có hạn lượng, đẹp xấu. Vị ấy nhận thức rằng: "Sau khi
nhiếp thắng chúng, ta biết, ta thấy". Ðó là thắng xứ thứ nhất.
3. Một vị quán tưởng nội sắc, thấy
các loại ngoại sắc không có hạn lượng, đẹp xấu. Vị ấy nhận thức rằng:
"Sau khi nhiếp thắng chúng, ta biết, ta thấy". Ðó là thắng xứ thứ hai.
4. Một vị quán tưởng vô sắc ở nội
tâm, thấy các loại ngoại sắc có hạn lượng, đẹp xấu. Vị ấy nhận thức
rằng: "Sau khi nhiếp thắng chúng, ta biết, ta thấy". Ðó là thắng xứ thứ
ba.
5. Một vị quán tưởng vô sắc ở nội
tâm, thấy các loại ngoại sắc vô lượng, đẹp xấu. Vị ấy nhận thức rằng:
"Sau khi nhiếp thắng chúng, ta biết, ta thấy". Ðó là thắng xứ thứ tư.
6. Một vị quán tưởng vô sắc ở nội
tâm, thấy các loại ngoại sắc màu xanh, sắc màu xanh, tướng sắc xanh,
hình sắc xanh, ánh sáng xanh. Vị ấy nhận thức rằng: "Sau khi nhiếp thắng
chúng, ta biết, ta thấy". Ðó là thắng xứ thứ năm.
7. Một vị quán tưởng vô sắc ở nội
tâm, thấy các loại ngoại sắc màu vàng, tướng sắc vàng, hình sắc vàng,
ánh sáng vàng. Vị ấy nhận thức rằng: "Sau khi nhiếp thắng chúng, ta
biết, ta thấy". Ðó là thắng xứ thứ sáu.
8. Một vị quán tưởng vô sắc ở nội
tâm, thấy các loại ngoại sắc màu đỏ, tướng sắc đỏ, hình sắc đỏ, ánh sáng
đỏ. Vị ấy nhận thức rằng: "Sau khi nhiếp thắng chúng, ta biết, ta
thấy". Ðó là thắng xứ thứ bảy.
9. Một vị quán tưởng vô sắc ở nội
tâm, thấy các loại ngoại sắc màu trắng, tướng sắc trắng, hình sắc trắng,
ánh sáng trắng. Vị ấy nhận thức rằng: "Sau khi nhiếp thắng chúng, ta
biết, ta thấy". Ðó là thắng xứ thứ tám.
Này các Tỷ-kheo, muốn thăng tri tham ái, tám pháp này cần phải tu
tập.
(III) (3) Thắng Tri Tham Ái (3)
1. - Này các Tỷ-kheo, muốn thắng tri
tham ái, tám pháp này cần phải tu tập. Thế nào là tám?
2. Tự mình có sắc, thấy các sắc,
quán tưởng nội sắc là vô sắc, thấy các ngoại sắc; chú tâm trên suy tưởng
(sắc là) tịnh. Vượt khỏi hoàn toàn sắc tưởng, diệt trừ các tưởng hữu
đối, không tác ý đến những khác biệt với suy tư hư không là vô biên,
chúng và trú Không vô biên xứ, với suy tư "Thức là vô biên", chứng và
trú Thức vô biên xứ. Vượt khỏi hoàn toàn Thức vô biên xứ, với suy tư
"không có vật gì", chúng và trú Vô sở hữu xứ. Vượt khỏi hoàn toàn Vô sở
hữu xứ, chứng và trú Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Vượt khỏi hoàn toàn Phi
tưởng phi phi tưởng xứ, chứng và trú Diệt thọ tưởng.
Này các Tỷ-kheo, muốn thắng tri tham ái, tám pháp này cần phải tu
tập.
(IV)
(4) Tham Ái
- Muốn liễu tri tham ái... muốn tận diệt tham ái... muốn đoạn tận
tham ái... muốn trừ diệt tham ái... muốn hủy diệt tham ái... muốn ly
tham tham ái... muốn đoạn diệt tham ái... muốn trừ khử tham ái... muốn
từ bỏ tham ái, tám pháp này cần phải tu tập.
(V)
(5) Các Pháp Khác
- Ðối với sân... đối với si... đối với phẫn nỗ... đối với hiềm hận...
đối với giả dối... đối với não hại... đối với tật đố... đối với xan
lẫn... đối với man trá... đối với phản bội... đối với ngoan cố.... đối
với bồng bột nông nổi... đối với mạn... đối với tăng thượng mạn... đối
với đắm say... Muốn thắng tri phóng dật... muốn liễu tri... muốn diệt
tận... muốn đoạn tận... muốn trừ diệt... muốn hủy diệt... muốn ly
tham... muốn đoạn diệt... muốn trừ khử... muốn xóa bỏ phóng dật, tám
pháp này cần phải tu tập.