CHƯƠNG NĂM
NĂM PHÁPI. Phẩm Sức Mạnh Hữu Học
(I) (1) Tóm Lược
1.
Như vậy tôi nghe:
Một thời, Thế Tôn trú ở Sàvatthi tại Jetavana, vườn ông
Anàthapindika. Tại đấy, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo:
- Này các Tỷ-kheo.
- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Các vị Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau:
2. - Này các Tỷ-kheo, có năm sức
mạnh này, cuả bậc Hữu học. Thế nào là năm? Tín lực, tàm lực, quý lực,
tuệ lực. Này các Tỷ-kheo, có năm sức mạnh này của bậc hữu học.
Do vậy, này các Tỷ-kheo, cần phải học tập như sau:
3. "Tôi sẽ thành tựu tín lực, được
gọi là hữu học lực. Tôi sẽ thành tựu tàm lực, được gọi là hữu học lực.
Tôi sẽ thành tựu quý lực, được gọi là hữu học lực. Tôi sẽ thành tựu tinh
tấn lực, được gọi là hữu học lực. Tôi sẽ thành tựu tuệ lực, được gọi là
hữu học lực". Như vậy, này các Tỷ-kheo, các Thầy cần phải học tập.
(II) (2) Rộng Rãi
1. - Này các Tỷ-kheo, có năm sức
mạnh này của bậc Hữu học. Thế nào là năm? Tín lực, tàm lực, quý lực,
tinh tấn, tuệ lực.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là tín lực?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Thánh
đệ tử có lòng tin, tin tưởng sự giác ngộ của Như Lai: "Ðây là Thế Tôn,
bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải,
Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn". Như
vậy, này các Tỷ-kheo, được gọi là tín lực.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là tàm lực?
3. Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Thánh
đệ tử có lòng hổ thẹn,. Hổ thẹn đối với thân làm ác, miệng nói ác, ý
nghĩ ác, hổ thẹn đối với các pháp ác, bất thiện được thực hiện. Như vậy,
này các Tỷ-kheo, được gọi là tàm lực.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là quý lực?
4. Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Thánh
đệ tử có lòng sợ hãi, sợ hãi đối với thân làm ác, miệng nói ác, ý nghĩ
ác, sợ hãi đối với các pháp ác, bất thiện được thực hiện. Như vậy, này
các Tỷ-kheo, được gọi là quý lực.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là tinh tấn lực?
5. Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Thánh
đệ tử sống tinh cần tinh tấn, từ bỏ các pháp bất thiện, thành tựu các
thiện pháp, nỗ lực, kiên trì tinh tấn, không từ bỏ gánh nặng đối với
thiện pháp. Như vậy, này các Tỷ-kheo, được gọi là tinh tấn lực.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là tuệ lực?
6. Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Thánh
đệ tử có trí tuệ, thành tựu trí tuệ về sanh diệt, với sự thể nhập bậc
Thánh vào con đường đoạn tận khổ đau. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là tuệ
lực.
Những pháp này, này các Tỷ-kheo, là năm sức mạnh của bậc Hữu học. Do
vậy, này các Tỷ-kheo, cần phải học tập như sau:
7. "Ta sẽ thành tựu tín lực, được
gọi là hữu học lực... tàm lực... quý lực... tinh tấn lực... ta sẽ thành
tựu tuệ lực, được gọi là hữu học lực". Như vậy, này các Tỷ-kheo, các
Thầy cần phải học tập.
(III) (3) Khổ
1. - Thành tựu năm pháp này, này các
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ngay trong hiện tại sống đau khổ, với tổn não, với ưu
não, với nhiệt não, sau khi thân hoại mạng chung, được chờ đợi là ác
thú. Thế nào là năm?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo không có lòng tin, không có lòng hổ
thẹn, không có lòng sợ hãi, biếng nhác, ác tuệ. Thành tựu với năm pháp
này, này các Tỷ-kheo, ngay trong hiện tại sống đau khổ, với tổn não, với
ưu não, với nhiệt não; sau khi thân hoại mạng chung, được chờ đợi là ác
thú.
2. Thành tựu năm pháp này, này các
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ngay trong hiện tại sống an lạc, không có tổn não,
không ưu não, không có nhiệt não; sau khi thân hoại mạng chung, được chờ
đợi là cõi lành. Thế nào là năm? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo có
lòng tin, có lòng hổ thẹn, có lòng sợ hãi, tinh cần tinh tấn, có trí
tuệ. Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ngay trong hiện
tại sống an lạc, không có tổn não, không có ưu não, không có nhiệt não;
sau khi thân hoại mạng chung, được chờ đợi là cõi lành.
(IV) (4) Tương Xứng
1. - Thành tựu năm pháp này, này các
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo tương xứng như vậy, bị rơi vào địa ngục. Thế nào là
năm?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo không có lòng tin, không có lòng hổ
thẹn, không có lòng sợ hãi, biếng nhác, có ác tuệ. Thành tựu năm pháp
này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo tương xứng như vậy, bị rơi vào địa ngục.
2. Thành tựu năm pháp này, này các
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo tương xứng như vậy, được sanh vào cõi Trời. Thế nào là
năm?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo có lòng tin, có lòng hổ thẹn, có lòng
sợ hãi, tinh cần tinh tấn, có trí tuệ. Thành tựu năm pháp này, này các
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo tương xứng như vậy được sanh vào cõi Trời.
(V) (5) Học Pháp
1. - Tỷ-kheo hay Tỷ-kheo-ni nào, này
các Tỷ-kheo, từ bỏ học pháp, trở lui đời sống thế tục, năm vấn đề hợp
pháp để tự trách và chỉ trích đến với vị ấy ngay trong hiện tại. Thế nào
là năm?
2. "Trong Thầy (vị ấy nghĩ) không có
lòng tín đối với các thiện pháp; trong Thầy không có lòng hổ thẹn đối
với các thiện pháp; trong Thầy không có lòng sợ hãi đối với các thiện
pháp; trong Thầy không có tinh tấn đối với các thiện pháp; trong Thầy
không có trí tuệ đối với các thiện pháp. "Tỷ-kheo hay Tỷ-kheo-ni nào,
này các Tỷ-kheo, từ bỏ học pháp, trở lui đời sống thế tục, năm vấn đề
hợp pháp này để tự trách và chỉ trích đến với vị ấy ngay trong hiện tại.
3. Tỷ-kheo hay Tỷ-kheo-ni nào, này
các Tỷ-kheo, dầu với đau khổ, với ưu tư, với mặt đầy nước mắt, than
khóc, vẫn sống đời sống Phạm hạnh hoàn toàn thanh tịnh, năm vấn đề hợp
pháp để tự tán thán đế với vị ấy ngay trong hiện tại. Thế nào là năm?
"Trong Thầy (vị ấy nghĩ) có lòng tin đối với các thiện pháp; trong Thầy
có lòng hổ thẹn đối với các thiện pháp; trong Thầy có lòng sợ hãi đối
với các thiện pháp; trong Thầy có lòng tinh tấn đối với các thiện pháp;
trong Thầy có trí tuệ đối với các thiện pháp. Tỷ kheo hay tỷ kheo ni
nào, naỳ các Tỷ kheo, dầu với đau khổ, với ưu tư, với mặt đầy nước mắt,
khóc than vẫn sống đời sống Phạm hạnh hoàn toàn thanh tịnh, năm vấn đề
hợp pháp để tự tán thán này đến với vị ấy ngay trong hiện tại.
(VI) (6) Bước Vào
1. - Không có sự bước vào bất thiện,
này các Tỷ-kheo, cho đến khi nào có lòng tin an trú vào các thiện pháp.
Khi nào lòng tin biến mất, này các Tỷ-kheo, lòng không tin khởi lên và
tồn tại, thời có sự bước vào bất thiện.
2-5. Không có sự bước vào bất thiện,
này các Tỷ-kheo, cho đến khi nào có lòng hổ thẹn... lòng sợ hãi... tinh
tấn... trí tuệ an trú vào các thiện pháp. Khi nào lòng hổ thẹn... lòng
sợ hãi... tinh tấn... trí tuệ biến mất, này các Tỷ-kheo, không xấu hổ...
không sợ hãi... biếng nhác... ác tuệ khởi lên và tồn tại, thời có sự
bước vào bất thiện.
(VII) (7) Dục Vọng
1. - Phần lớn, này các Tỷ-kheo, các
loại hữu tình tìm được lạc thú trong các dục. Với thiện nam tử, này các
Tỷ-kheo, đã bỏ một bên lưỡi liềm và đòn gánh, xuất gia, từ bỏ gia đình,
sống không gia đình, vị ấy vừa đủ để được gọi: "Vị thiện nam tử vì lòng
tin xuất gia". Vì cớ sao?
2. Các dục, này các Tỷ-kheo, được
tìm thấy với tuổi trẻ, các dục này hay các dục khác. Và này các Tỷ-kheo,
các dục hạ liệt, các dục trung đẳng, và các dục tối thắng, tất cả dục
đều được chấp nhận là các dục.
3. Ví như, này các Tỷ-kheo, có đứa
con nít, trẻ nhỏ, ngây thơ đang nằm ngửa, do người vú vô ý, đức nhỏ cầm
một cây que hay hòn sạn cho vào miệng. Người vú hầu ấy phải mau chóng
tác ý. Sau khi mau chóng tác ý, phải mau chóng móc cho ra. Nếu không có
thể mau chóng móc ra được, thời với tay trái mắn đầu nó, với tay mặt,
lấy ngón tay làm như cái móc, móc cho vật ấy ra, dầu có phải chảy máu.
Vì cớ sao? Này các Tỷ-kheo, làm như vậy, có hại cho đứa trẻ. Ta nói rằng
không phải không có hại Như vậy, này các Tỷ kheo, người vú hầu phải làm
như vậy vì muốn lợi ích, vì tìm hạnh phúc, vì lòng thương tưởng, vì
lòng từ mẫn (đứa trẻ). Nhưng này các Tỷ-kheo, khi đức trẻ ấy đã lớn lên,
và có đủ trí khôn, người vú hầu ấy không săn sóc nó nữa, nghĩ rằng:
"Nay đứa trẻ đã biết tự bảo vệ
mình, không phóng dật nữa".
Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, cho đến khi nào vị Tỷ-kheo chưa gây được
lòng tin đối với các thiện pháp, chưa gây được lòng hổ thẹn đối với các
thiện pháp, chưa gây được lòng sợ hãi đối với các thiện pháp, chưa gây
được tinh tấn đối với các thiện pháp; chưa gây được trí tuệ đối với các
thiện pháp, cho đến khi ấy, này các Tỷ-kheo, Ta cần phải phòng hộ
Tỷ-kheo ấy. Khi nào, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo gây được lòng tin đối với
các thiện pháp, gây được lòng hổ thẹn đối với thiện pháp, gây được lòng
sợ hãi đối với các thiện pháp gây được lòng tinh tấn đối với các thiện
pháp; gây được trí tuệ đối với các thiện pháp, thời khi ấy, này các
Tỷ-kheo, Ta không còn săn sóc Tỷ-kheo ấy, nghĩ rằng: "Nay Tỷ-kheo ấy đã
biết tự bảo vệ mình, không còn phóng dật nữa".
(VIII) (8) Từ Bỏ
1.- Thành tựu năm pháp này, này các
Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo từ bỏ, không an trú trong diệu pháp. Thế nào là
năm?
2. Không có lòng tin, này các
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo từ bỏ, không an trú trong diệu pháp. Không có lòng hổ
thẹn, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo từ bỏ không an trú trong diệu pháp. Không
có lòng sợ hãi, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo từ bỏ, không an trú trong
diệu pháp. Biếng nhác, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo từ bỏ, không an trú
trong diệu pháp. Không có trí tuệ, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo từ bỏ, không
an trú trong diệu pháp. Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo từ bỏ, không an trú trong diệu pháp.
3. Thành tựu năm pháp này, này các
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo không từ bỏ, an trú trong diệu pháp. Thế nào là năm? Có
lòng tin, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo không từ bỏ, an trú trong diệu pháp.
Có lòng hổ thẹn... có lòng sợ hãi... có tinh tấn... có trí tuệ, này các
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo không từ bỏ, an trú trong diệu pháp. Thành tựu năm
pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo không từ bỏ, an trú trong diệu pháp.
(IX)
(9) Không Tôn Kính (1)
1. - Thành tựu năm pháp này, này các
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo không cung kính, không tôn trọng, từ bỏ, không an trú
trong diệu pháp. Thế nào là năm?
2. Không có lòng tin, này các
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo không cung kính, không tôn trọng, từ bỏ, không an trú
trong diệu pháp. Không có lòng hổ thẹn... không có lòng sợ hãi... biếng
nhác... không có trí tuệ, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo không cung kính,
không tôn trọng, từ bỏ, không an trú trong diệu pháp. Thành tựu năm pháp
này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo không cung kính, không tôn trọng, từ bỏ,
không an trú trong diệu pháp.
3. Thành tựu năm pháp này, này các
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo có cung kính, có tôn trọng, không từ bỏ, an trú trong
diệu pháp. Thế nào là năm?
4. Có lòng tin, này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo có cung kính, có tôn trọng, không từ bỏ, an trú trong diệu pháp.
Có lòng hổ thẹn... có lòng sợ hãi... có tinh tấn... có trí tuệ, này các
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo có cung kính, có tôn trọng, không từ bỏ, an trú trong
diệu pháp. Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo có cung
kính, có tôn trọng, không từ bỏ, an trú trong diệu pháp.
(X)
(10) Không Tôn Kính (2)
1. - Thành tựu năm pháp này, này các
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo không cung kính, không tôn trọng, không có thể lớn
lên, tăng trưởng, lớn mạnh trong Pháp và Luật này. Thế nào là năm?
2. Không có lòng tin, này các
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo không cung kính, không tôn trọng, không có thể lớn lên,
tăng trưởng, lớn mạnh trong Pháp và Luật này. Không có lòng hổ thẹn...
không có lòng sợ hãi... biếng nhác... có ác trí tuệ, này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo không cung kính, không tôn trọng, không có thể lớn lên, tăng
trưởng, lớn mạnh trong Pháp và Luật này. Thành tựu năm pháp này, này các
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo không cung kính, không tôn trọng, không có thể lớn
lên, tăng trưởng, lớn mạnh trong Pháp và Luật này.
3. Thành tựu năm pháp này, này các
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo cung kính, tôn trọng, có thể lớn lên, tăng trưởng, lớn
mạnh trong Pháp và Luật này. Thế nào là năm?
4. Có lòng tin, này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo có cung kính, có tôn trọng, có thể lớn lên, tăng trưởng, lớn
mạnh trong Pháp và Luật này. Có lòng hổ thẹn... có lòng sợ hãi... tinh
tấn... có trí tuệ, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo có cung kính, có tôn trọng,
có thể lớn lên, tăng trưởng, lớn mạnh trong Pháp và Luật này. Thành tựu
năm pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo có cung kính, có tôn trọng, có
thể lớn lên, tăng trưởng, lớn mạnh trong Pháp và Luật này.
II. Phẩm Sức Mạnh
(I) (11) Chưa Ðược Nghe
1.
- Này các Tỷ-kheo, Ta tự cho là đã đạt
được sự cứu cánh với thắng trí đối với các pháp từ trước Ta chưa từng
được nghe. Này các Tỷ-kheo, có năm sức mạnh này của Như Lai. Thành tựu
các đã đạt được vị trí Ngưu vương, rống tiếng rống con sư tử giữa các
hội chúng, làm vận chuyển bánh xe Phạm thiên. Thế nào là năm?
2. Tín lực, tàm lực, quý lực, tinh
tấn lực, tuệ lực. Có năm Như Lai lực này của Như Lai, này các Tỷ-kheo.
Thành tựu các sức mạnh ấy, Như Lai tự xem đã được vị trí Ngưu vương,
rống tiếng rống con sư tử giữa các hội chúng, làm vận chuyển bánh xe
Phạm thiên.
(II) (12) Nóc Nhọn
1. - Này các Tỷ-kheo, có năm sức
mạnh này của bậc hữu học. Thế nào là năm?
2. Tín lực, tàm lực, quý lực, tinh
tấn lực, tuệ lực. này các Tỷ-kheo, có năm sức mạnh này của bậc Hữu học.
Trong năm sức mạnh của bậc Hữu học này, này các Tỷ-kheo, cái này là tối
thượng, cái này là tổng nhiếp, cái này là tổng thâu tóm, tức là tuệ lực.
3. Ví như, này các Tỷ-kheo, với ngôi
nhà có nóc nhọn, cái này là tối thượng, cái này là tổng nhiếp, cái này
là tổng thâu tóm, tức là cái nóc. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, trong năm
sức mạnh này của bậc hữu học, cái này là tối thượng, cái này là tổng
nhiếp, cái này là tổng thâu tóm, tức là tuệ lực. Do vậy, này các
Tỷ-kheo, cần phải học tập như sau:
4. "Tôi sẽ thành tựu tín lực, được
gọi là hữu học lực. Tôi sẽ thành tàm lực, được gọi là hữu học lực. Tôi
sẽ thành tựu quý lực... tinh tấn lực... tuệ lực, được gọi là hữu học
lực." Như vậy, này các Tỷ-kheo, các Thầy cần phải học tập.
(III) (13) Các Sức Mạnh Tóm Lược
- Này các Tỷ-kheo, có năm sức mạnh này. Thế nào là năm? Tín lực, tấn
lực, niệm lực, định lực, tuệ lực. Này các Tỷ-kheo, có năm lực này.
(IV) (14) Các Sức Mạnh Rộng Thuyết
1. - Này các Tỷ-kheo, có năm sức
mạnh này. Thế nào là năm?
2. Tín lực, tấn lực, niệm lực, định
lực, tuệ lực.
Này các Tỷ-kheo, thế nào là tín lực?
3. Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Thánh
đệ tử có lòng tin, tin tưởng ở sự giác ngộ của Như Lai: "Ðây là Thế Tôn,
bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải,
Vô Thượng sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn". Như
vậy, này các Tỷ-kheo, được gọi là tín lực.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là tấn lực?
4. Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Thánh
đệ tử sống tinh cần tinh tấn, từ bỏ các pháp bất thiện, thành tựu các
thiện pháp, nỗ lực kiên trì tinh tấn, không từ bỏ gánh nặng đối với
thiện pháp. Như vậy, này các Tỷ-kheo, được gọi là tấn lực.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là niệm lực?
5. Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Thánh
đệ tử có chánh niệm, thành tựu tối thắng niệm và tuệ. Vị ấy nhớ và gợi
lại trong trí nhớ những điều đã nói và đã làm lâu ngày về trước. Như
vậy, này các Tỷ-kheo, được gọi là niệm lực.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là định lực?
6. Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Thánh
đệ tử ly các dục, ly các bất thiện pháp, chứng đạt và an trú Thiền thứ
nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm, có tứ. Làm cho tịnh
chỉ tầm và tứ, chứng đạt và an trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc
do định sanh, không tầm, không tứ, nội tĩnh nhất tâm. Ly hỷ, trú xả,
chánh niệm, tỉnh giác, thân cảm lạc thọ, được các bậc Thánh gọi là xả
niệm lạc trú, chứng đạt và an trú Thiền thứ ba. Ðoạn lạc đoạn khổ, chấm
dứt hỷ ưu đã cảm thọ từ trước, chứng đạt và an trú Thiền thứ tư, không
khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh. Như vậy, này các Tỷ-kheo, được gọi
là định lực.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là tuệ lực?
7. Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Thánh
đệ tử có trí tuệ, thành tựu trí tuệ về sanh diệt, với sự thể nhập bậc
Thánh vào con đường đoạn tận khổ đau. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là tuệ
lực.
Này các Tỷ-kheo, các pháp này là năm lực.
(V) (15) Cần Phải Thấy
- Này các Tỷ-kheo, có năm sức mạnh này. Thế nào là năm? Tín lực, tấn
lực, niệm lực, định lực, tuệ lực.
Và này các Tỷ-kheo, tín lực cần phải thấy ở đâu? Trong bốn Dự lưu chi
phần; ở đấy, tín lực cần phải thấy. Và này các Tỷ-kheo, tấn lực cần
phải thấy ở đâu? Trong bốn chánh cần; ở đấy tấn lực cần phải thấy. Và
này các Tỷ-kheo, niệm lực cần phải thấy ở đâu? Trong Bốn niệm xứ; ở đấy,
niệm lực cần phải thấy. Và này các Tỷ-kheo, định lực cần phải thấy. Và
này các Tỷ-kheo, định lực cần phải thấy ở đâu? Ở trong bốn Thiền; ở đấy,
định lực cần phải thấy. Và này các Tỷ-kheo, tuệ lực cần phải thấy ở
đâu? Ở trong bốn Thánh đế; ở đấy, tuệ lực cần phải thấy. Này các
Tỷ-kheo, có năm sức mạnh này.
(VI) (16) Lại Nóc Nhọn
(Xin xem kinh số12)
(VII) (17) Hạnh Phúc Cho Ai? (1)
-Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đem lại hạnh phúc
cho mình, không đem lại hạnh phúc cho người khác. Thế nào là năm?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo tự mình đầy đủ giới hạnh, không có
khuyến khích người khác đầy đủ giới hạnh; tự mình đầy đủ Thiền định,
không có khuyến khích người khác đầy đủ Thiền định; tự mình đầy đủ trí
tuệ, không có khuyến khích người khác đầy đủ trí tuệ; tự mình đầy đủ
giải thoát; tự mình đầy đủ giải thoát tri kiến, không có khuyến khích
người khác đầu đủ giải thoát tri kiến. Thành tựu năm pháp này, này các
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đem lại hạnh phúc cho mình, không đem lại hạnh phúc cho
người khác.
(VIII) (18) Hạnh Phúc Cho Ai? (2)
- Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đem lại hạnh phúc
cho người khác, không đem lại hạnh phúc cho mình. Thế nào là năm?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo không tự mình đầy đủ giới hạnh,
khuyến khích người khác đầy đủ giới hạnh; không tự mình đầy đủ Thiền
định... không tự mình đầy đủ trí tuệ... không tự mình đầy đủ giải
thoát... không tự mình đầy đủ giải thoát tri kiến, khuyến khích người
khác đầy đủ giải thoát tri kiến. Ðầy đủ năm pháp này, này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo đem lại hạnh phúc cho người khác, không đem lại hạnh phúc cho
mình.
(IX) (19) Hạnh Phúc Cho Ai? (3)
- Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo không đem lại hạnh
phúc cho mình, không đem lại hạnh phúc cho người. Thế nào là năm?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo không tự mình đầy đủ giới hạnh, không
khuyến khích người khác đầy đủ giới hạnh; không tự mình đầy đủ Thiền
định... không tự mình đầy đủ trí tuệ... không tự mình đầy đủ giải
thoát... không tự mình đầy đủ giải thoát tri kiến, không khuyến khích
người khác đầy đủ giải thoát tri kiến. Thành tựu năm pháp này, này các
Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo không đem lại hạnh phúc cho mình, không đem lại hạnh
phúc cho người.
(X) (20) Hạnh Phúc Cho Ai? (4)
- Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đem lại hạnh phúc
cho mình và đem lại hạnh phúc cho người. Thế nào là năm?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo tự mình đầy đủ giới hạnh và khuyến
khích người khác đầy đủ giới hạnh; tự mình đầy đủ Thiền định... tự mình
đầy đủ trí tuệ... tự mình đầy đủ giải thoát... tự mình đầy đủ giải thoát
tri kiến, và khuyến khích người khác đầy đủ giải thoát tri kiến. Ðầy đủ
năm pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đem lại hạnh phúc cho mình và
đem lại hạnh phúc cho người.
III. Phẩm Năm Phần
(I)
(21) Không Có Cung Kính (1)
1-
Tỷ-kheo, này các Tỷ-kheo, không cung
kính, không thận trọng, không sống tương hòa với các vị đồng Phạm hạnh,
sẽ làm cho viên mãn thắng hạnh pháp, sự kiện này không xảy ra. Sau khi
không làm cho viên mãn thắng hạnh pháp, vị ấy sẽ làm cho viên mãn hữu
học pháp, sự kiện này không xảy ra. Không làm cho viên mãn hữu học pháp,
vị ấy sẽ làm cho viên mãn các giới luật, sự kiện này không xảy ra. Sau
khi không làm cho viên mãn các giới luật, vị ấy sẽ làm cho viên mãn
chánh tri kiến, sự kiện này không xảy ra. Sau khi không làm cho viên mãn
chánh tri kiến, vị ấy sẽ làm cho viên mãn chánh định, sự kiện này không
xảy ra.
2. Tỷ-kheo, này các Tỷ-kheo, có cung
kính có thận trọng, sống tương hòa với các vị đồng Phạm hạnh sẽ làm cho
viên mãn thắng hạnh pháp, sự kiện này có xảy ra. Sau khi làm cho viên
mãn thắng hạnh pháp, vị ấy sẽ làm cho viên mãn hữu học pháp, sự kiện này
có xảy ra. Sau khi làm cho viên mãn hữu học pháp, vị ấy sẽ làm cho viên
mãn các giới luật, sự kiện này có xảy ra. Sau khi làm cho viên mãn các
giới luật, vị ấy sẽ làm cho viên mãn chánh tri kiến, sự kiện này có xảy
ra. Sau khi làm cho viên mãn chánh tri kiến, vị ấy sẽ làm cho viên mãn
chánh định, sự kiện này có xảy ra.
(II)
(22) Không Có Cung Kính (2)
1. - Tỷ-kheo, này các Tỷ-kheo, không
cung kính, không thận trọng, không sống tương hòa với các vị đồng Phạm
hạnh, sẽ làm viên mãn thắng hạnh pháp, sự kiện này không xảy ra. Sau khi
không làm cho viên mãn thắng hạnh pháp, vị ấy sẽ làm viên mãn hữu học
pháp, sự kiện này không xảy ra. Sau khi không làm cho viên mãn hữu học
pháp, vị ấy sẽ làm cho viên mãn giới uẩn, sự kiện này không xảy ra. Sau
khi không làm cho viên mãn giới uẩn, vị ấy sẽ làm cho viên mãn định uẩn,
sự kiện này không xảy ra. Sau khi không làm cho viên mãn định uẩn, vị
ấy sẽ làm cho viên mãn tuệ uẩn, sự kiện này không xảy ra.
2. Tỷ-kheo, này các Tỷ-kheo, có cung
kính, có thận trong, sống tương hòa với các vị đồng Phạm hạnh, vị ấy sẽ
làm cho viên mãn thắng hạnh pháp, sự kiện này có xảy ra. Sau khi làm
cho viên mãn thắng hạnh pháp, vị ấy sẽ làm cho viên mãn hữu học pháp, sự
kiện này có xảy ra. Sau khi làm viên mãn hữu học pháp, vị ấy sẽ làm cho
viên mãn giới uẩn, sự kiện này có xảy ra. Sau khi làm cho viên mãn giới
uẩn, vị ấy sẽ làm cho viên mãn định uẩn, sự kiện này có xảy ra. Sau khi
làm cho viên mãn định uẩn, vị ấy sẽ làm cho viên mãn tuệ uẩn, sự kiện
này có xảy ra.
(III) (23) Các Uế Nhiễm
1. - Có năm uế nhiễm này của vàng,
này các Tỷ-kheo, do các uế nhiễm ấy, vàng bị uế nhiễm không được nhu
nhuyến, không được dễ sử dụng, không sáng chói, bị bể vụn và không chơn
chánh chịu sự tác thành. Thế nào là năm?
2. Sắt, đồng, thiếc, chì và bạc. Có
năm uế nhiễm này của vàng, này các Tỷ-kheo, do uế nhiễm ấy, vàng bị uế
nhiễm không được nhu nhuyến, không được dễ sử dụng, không sáng chói bị
bể vụn và không chơn chánh chịu sự tác thành.
3. Và khi nào, này các Tỷ-kheo, vàng
được giải thoát khỏi năm uế nhiễm này, khi ấy vàng ấy được nhu nhuyến,
dễ sử dụng, sáng chói, không bị bể vụn, và chơn chánh chịu sự tác thành.
Và các đồ trang sức nào người ta muốn như nhẫn, như bông tai, như vòng
cổ, như dây chuyền vàng, vàng ấy có thể dùng tùy theo ước muốn.
Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, có năm uế nhiễm này của tâm, do các uế
nhiễm ấy, tâm bị uế nhiễm, không nhu nhuyến, không dễ sử dụng, không
sáng chói, bị bể vụn, không chơn chánh định tĩnh để đoạn diệt các lậu
hoặc. Thế nào là năm?
4. Tham dục, sân, hôn trầm thụy
miên, trạo hối, nghi. Có năm uế nhiễm này của tâm, này các Tỷ-kheo, do
năm uế nhiễm ấy, tâm bị uế nhiễm không được nhu nhuyến, không dễ sử
dụng, không sáng chói, bị bể vụn, không chơn chánh, định tĩnh để đoạn
diệt các lậu hoặc.
5. Và khi nào, này các Tỷ-kheo, tâm
được giải thoát khỏi năm uế nhiễm ấy; khi ấy tâm ấy được nhu nhuyến, dễ
sử dụng, sáng chói, không bể vụn, chơn chánh định tĩnh để đoạn diệt các
lậu hoặc. Tùy thuộc theo pháp gì cần phải được giác ngộ với thắng trí,
tâm vị ấy hướng đến để được giác ngộ với thắng trí. Tại đây, tại đấy vị
ấy có khả năng, có năng lục đạt đến pháp ấy, dầu thuộc loại xứ nào.
6. Nếu vị ấy ước muốn, "Ta sẽ chứng
được các loại thần thông, một thân hiện ra nhiều thân, nhiều thân hiện
ra một thân; hiện hình biến hình đi ngang qua vách, qua tường, qua núi
như đi qua hư không; độn thổ, trồi lên ngang qua đất liền như ở trong
nước; đi trên nước không chìm, như trên đất liền; ngồi kiết-già hay đi
trên hư không như con chim; với bàn tay, chạm và sờ mặt trăng và mặt
trời, những vật có đại oai lực, đại oai thần như vậy; có thể tự thân bay
đến cõi Phạm thiên." Tại đấy, tại đấy, vị ấy có khả năng, có năng lực
đạt đến trạng thái ấy, dầu thuộc loại xứ nào.
7. Nếu vị ấy muốn: "Với thiên nhĩ
thanh tịnh, siêu nhân, có thể nghe hai loại tiếng chư thiên và loài
Người, xa và gần". Tại đấy, tại đấy, vị ấy có khả năng, có năng lực đạt
đến trạng thái ấy, dầu thuộc loại xứ nào.
8. Nếu vị ấy ước muốn: "Mong rằng
với tâm của mình có thể biết được tâm của các loại chúng sanh khác, tâm
của loài Người khác nhau như sau: "Tâm có tham, biết là tâm có tham. Tâm
không tham, biết là tâm không tham. Tâm có sân biết là tâm có sân. Tâm
không sân, biết là tâm không sân. Tâm có si biết là tâm có si. Tâm không
si biết là tâm không si. Tâm chuyên chú biết là tâm chuyên chú. Tâm tán
loạn biết là tâm tán loạn. Ðại hành tâm biết là đại hành tâm. Không
phải đại hành tâm biết là không phải đại hành tâm. Tâm chưa vô thượng
biết là tâm chưa vô thượng. Tâm vô thượng biết là tâm vô thượng. Tâm
Thiền định biết là tâm thiền định. Tâm không thiền định biết là tâm
không Thiền định. Tâm giải thoát biết là tâm giải thoát. Tâm không giải
thoát biết là tâm không giải
thoát"". Tại đấy, tại đấy, vị ấy có khả năng, có năng lực đạt đến trạng
thái ấy, dầu thuộc loại xứ nào.
9. Nếu vị ấy ước muốn: "Ta sẽ nhớ
đến nhiều đời sống quá khứ, như một đời, hai đời, ba đời, bốn đời, năm
đời, mười đời, hai mươi đời, ba mươi đời, bốn mươi đời, năm mươi đời,
một trămđời, hai trăm đời, ngàn đời, nhiều hoại kiếp, nhiều thành kiếp,
nhiều hoại và thành kiếp." Vị ấy nhớ rằng: "Tại chỗ kia, ta có tên như
thế này, dòng họ như thế này, giai cấp như thế này, đồ ăn như thế này,
thọ khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến mức thế này. Sau khi chết tại chỗ
kia, ta được sinh ra tại chỗ nọ. Tại chỗ ấy, ta có tên như thế này, dòng
họ như thế này, giai cấp như thế này, đồ ăn như thế này, tuổi thọ đến
mức như thế này. Sau khi chết tại chỗ nọ, ta được sanh ở đây." Tại chỗ,
tại đấy, vị ấy có khả năng, có năng lực đạt đến trạng thái ấy, dầu thuộc
loại xứ nào.
10. Nếu vị ấy ước muốn: "Với thiên
nhãn thanh tịnh siêu nhân, ta thấy sự từ bỏ và sanh khởi của chúng sanh.
Ta biết rõ chúng sanh, người hạ liệt, kẻ cao sang, người đẹp đẽ, kẻ thô
xấu, người may mắn, kẻ bất hạnh đều do hạnh nghiệp của họ. Các vị chúng
sanh ấy làm những ác hạnh về thân, ác hạnh về lời, ác hạnh về ý, phỉ
báng các bậc Thánh, theo tà kiến, tạo các nghiệp theo tà kiến. Những
người này, sau khi thân hoại mạng chung phải sanh vào cõi dữ, ác thú,
đọa xứ, địa ngục. Các vị chúng sanh nào làm những thiện hạnh về thân,
ngữ và ý, không phỉ báng các bậc Thánh, theo chánh kiến, tạo các nghiệp
theo chánh kiến. Những vị này sau khi thân hoại mạng chung, được sanh
lên các cõi lành, cõi Trời, trên đời này. Như vậy, với thiên nhãn thuần
tịnh siêu nhân, ta có thể thấy sự
sống chết của chúng sanh. ta có thể rõ biết rằng chúng sanh, người hạ
liệt, kẻ cao sang, người đẹp đẽ, kẻ thô xấu, người may mắn, kẻ bất hạnh
đều do hạnh nghiệp của họ". Tại đấy, tại đấy, vị ấy có khả năng, có năng
lực đạt đến trạng thái ấy, dầu thuộc loại xứ nào.
11. Nếu vị ấy ước muốn: "Do đoạn
diệt các lậu hoặc, ngay trong hiện tại, với thắng trí ta chứng ngộ,
chứng đạt và an trú vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát." Tại đấy, tại
đấy, vị ấy có khả năng, có năng lực đạt đến trạng thái ấy, dầu thuộc
loại xứ nào.
(IV) (24) Ác Giới
1. - Với người ác giới, này các
Tỷ-kheo, với người phá giới, chánh định do vậy bị phá hoại. Khi chánh
định không có mặt, với người chánh định bị phá hoại, như thật tri kiến
do vậy bị phá hoại. Khi như thật tri kiến không có mặt, với người như
thật tri kiến bị phá hoại, nhàm chán, ly tham do vậy bị phá hoại. Khi
nhàm chán ly tham không có mặt, với người nhàm chán ly tham bị phá hoại,
giải thoát tri kiến do vậy bị phá hoại.
2. Ví như, này các Tỷ-kheo, một cây,
với cành và lá bị phá hoại, thời đọt cây ấy không đi đến viên mãn, vỏ
cây không đi đến viên mãn, giác cây không đi đến viên mãn, lõi cây không
đi đến viên mãn. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, với người ác giới, với
người phá giới, chánh định do vậy bị phá hoại. Khi chánh định không có
mặt, với người chánh định bị phá hoại, như thật tri kiến nhân vậy bị phá
hoại. Khi như thật tri kiến không có mặt, với người như thật tri kiến
bị phá hoại, nhàm chán, ly tham do vậy bị phá hoại. Khi nhàm chán, ly
tham không có mặt, với người nhàm chán ly tham bị phá hoại, giải thoát
tri kiến do vậy bị phá hoại.
3. Với người có giới, này các
Tỷ-kheo, với người gìn giữ giới, chánh định do vậy được đầy đủ. Do chánh
định có mặt, với người chánh định được thành tựu, như thật tri kiến do
vậy được thành tựu. Do như thật tri kiến có mặt, với người như thật tri
kiến có mặt, nhàm chán, ly tham do vậy được thành tựu. Do nhàm chán, ly
tham có mặt, với người nhàm chán ly tham được thành tựu, giải thoát tri
kiến do vậy được thành tựu.
4. Ví như, này các Tỷ-kheo, một cây,
với cành và lá được đầy đủ, thời đọt cây ấy đi đến viên mãn vỏ cây đi
đến viên mãn, giác cây đi đến viên mãn lõi cây đi đến viên mãn. Cũng
vậy, này các Tỷ-kheo, với người có giới, với người giữ gìn giới, chánh
định nhân vậy được đầy đủ. Do chánh định có mặt, với người chánh định
được thành tựu, như thật tri kiến do vậy được thành tựu. Do như thật tri
kiến có mặt, với người như thật tri kiến được thành tựu, nhàm chán, ly
tham do vậy được thành tựu. Do nhàm chán, ly tham có mặt, với người nhàm
chán, ly tham được thành tựu, giải thoát tri kiến do vậy được thành
tựu.
(V) (25) Nhiếp Thọ
1. - Do nhiếp thọ năm chi phần, này
các Tỷ-kheo, chánh tri kiến được thành thục với tâm giải thoát quả và
với các lợi ích của tâm giải thoát quả và với các lợi ích của tâm giải
thoát quả với tuệ giải thoát quả và với các lợi ích của tuệ giải thoát
quả.
2. Với năm pháp gì? Ở đây, này các
Tỷ-kheo, chánh tri kiến được giới pháp nhiếp thọ, được văn nhiếp thọ,
được luận nghị nhiếp thọ, được chỉ nhiếp thọ, được quán nhiếp thọ. Do
được năm chi phần này nhiếp thọ, này các Tỷ-kheo, chánh tri kiến được
thành tựu với tâm giải thoát quả và các lợi ích của tâm giải thoát quả,
với tâm giải thoát quả, với tuệ giải thoát quả và các lợi ích của tuệ
giải thoát quả.
(VI) (26) Giải Thoát Xứ
1. - Có năm giải thoát xứ này, này
các Tỷ-kheo, ở đây vị Tỷ-kheo sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần,
thời tâm chưa giải thoát được gỉai thoát, hay các lậu hoặc chưa được
đoạn diệt hoàn toàn, đi đến đoạn diệt hoàn toàn, hay vô thượng an ổn
khỏi các khổ ách chưa đạt, được đạt đến.
2. Thế nào là năm? Ở đây, này các
Tỷ-kheo, bậc Ðạo Sư hay một vị đồng Phạm hạnh đóng vai trò vị Ðạo Sư
thuyết pháp cho vị Tỷ-kheo. Tùy theo bậc Ðạo Sư, hay một vị đồng Phạm
hạnh đóng vai trò vị Ðạo Sư thuyết pháp cho vị Tỷ-kheo như thế nào, nhu
thế nào,tùy theo như vậy, như vậy, vị Tỷ-kheo tín thọ về nghĩa và tín
thọ về pháp trong pháp ấy. Do vị ấy tín thọ về nghĩa, tín thọ về pháp,
nên hân hoan sanh. Do hân hoan, nên hỷ sanh. Do ý hoan hỷ, thân được
khinh an. Do thân được khinh an, vị ấy cảm giác lạc thọ. Do lạc thọ, tâm
được định tĩnh. Ðây là giải thoát xứ thứ nhất; ở đấy, vị Tỷ-kheo sống
không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, thời tâm chưa giải thoát được giải
thoát, hay các lậu hoặc chưa được đoạn diệt hoàn toàn, đi đến đoạn diệt
hoàn toàn, hay vô thượng an ổn
khỏi các khổ ách chưa đạt, được đạt tới.
3. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, bậc Ðạo
Sư hay một vị đồng Phạm hạnh đóng vai trò vị Ðạo Sư không thuyết pháp
cho vị Tỷ-kheo. Và vị Tỷ-kheo ấy thuyết pháp rộng rãi cho các người khác
như đã được nghe, như đã được học thuộc lòng. Vị Tỷ-kheo ấy thuyết pháp
rộng rãi cho các người khác như đã được nghe, như đã được học thuộc
lòng, như thế nào, như thế nào, tùy theo như vậy, như vậy, vị ấy tín thọ
về nghĩa và tín thọ về pháp trong pháp ấy. Do vị ấy tín thọ về nghĩa,
tín thọ về pháp nên hân hoan sanh. Do hân hoan sanh nên hỷ sanh... tâm
được định tĩnh. Ðây là giải thoát xứ thứ hai, ở đây vị Tỷ-kheo sống
không phóng dật, nhiệt tâm... được đạt tới.
4. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, bậc Ðạo
Sư hay một vị đồng Phạm hạnh đóng vai trò vị Ðạo Sư không thuyết pháp
cho vị Tỷ-kheo. Vị Tỷ-kheo ấy không thuyết pháp một cách rộng rãi cho
các người khác như đã được nghe, như đã được học thuộc lòng. Vị ấy đọc
tụng pháp một cách rộng rãi như đã được nghe, như đã được học thuộc
lòng. Vị Tỷ-kheo ấy, này các Tỷ-kheo đọc tụng pháp như vậy, như đã được
nghe, như đã được học thuộc lòng, một cách rộng rãi như thế nào, như thế
nào, tùy theo như vậy, như vậy vị Tỷ-kheo ấy tín thọ về nghĩa và tín
thọ về pháp trong pháp ấy. Do vị ấy tín thọ về nghĩa, tín thọ về pháp
nên hân hoan sanh. Do hân hoan, nên hỷ sanh... tâm được định tĩnh. Ðây
là giải thoát xứ thứ ba, ở đây vị Tỷ-kheo sống không phóng dật, nhiệt
tâm... được đạt tới.
5. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, bậc Ðạo
Sư hay một vị đồng Phạm hạnh đóng vai trò vị Ðạo Sư, không thuyết pháp
cho vị Tỷ-kheo. Vị Tỷ-kheo ấy không thuyết pháp như đã được nghe, như đã
được học thuộc lòng một cách rộng rãi cho người khác. Vị ấy không đọc
tụng pháp một cách rộng rãi như đã nghe, như đã được học thuộc lòng.
Nhưng vị ấy với tâm tùy tầm, tùy tự, với ý quán sát pháp như đã được
nghe, như đã được đọc tụng. Vị Tỷ-kheo ấy, này các Tỷ-kheo, do với tâm
tùy tầm, tùy tứ, với ý quán sát pháp như đã được nghe, như đã được đọc
tụng như thế nào, như thế nào, tùy theo như vậy, như vậy, vị Tỷ-kheo ấy
tín thọ về nghĩa, tín thọ về pháp trong pháp ấy. Do vị ấy tín thọ về
nghĩa, tín thọ về pháp, nên hân hoan sanh. Do hân hoan, nên hỷ sanh...
tâm được định tĩnh. Ðây là giải
thoát xứ thứ tư, ở đây vị Tỷ-kheo sống không phóng dật, nhiệt tâm...
được đạt tới.
6. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, bậc Ðạo
Sư hay một vị đồng Phạm hạnh đóng vai vị Ðạo Sư không thuyết pháp cho
vị Tỷ-kheo. Vị Tỷ-kheo ấy không thuyết pháp một cách rộng rãi cho các
người khác, như đã được nghe, như đã được học thuộc lòng. Vị ấy không
đọc tụng pháp ấy một cách rộng rãi, như đã được nghe, như đã được học
thuộc lòng. Vị ấy không với tâm tùy tầm, tùy tứ, với ý quán sát pháp như
đã được nghe, như đã học thuộc lòng. Vị ấy pháp như đã được nghe, như
đã học thuộc lòng. Nhưng vị ấy khéo nắm giữ một định tướng, khéo tác ý,
khéo thọ trì, khéo thông đạt với trí tuệ như thế nào, như thế nào, tùy
theo như vậy, như vậy, vị ấy tín thọ về nghĩa, tín thọ về pháp trong
pháp ấy. Do vị ấy tín thọ về nghĩa, tín thọ về pháp nên hân hoan. Do hân
hoan, nên hỷ sanh... tâm được
định tĩnh. Ðây là giải thoát xứ thứ năm, ở đây, vị Tỷ-kheo sống không
phóng dật, nhiệt tâm... được đạt tới.
7. Có năm giải thoát xứ này, này các
Tỷ-kheo, ở đây vị Tỷ-kheo sống không phóng dật, nhiệt tâm, tính cần,
thời tâm chưa giải thoát, dược giải thoát, hay các lậu hoặc chưa đoạn
diệt hoàn toàn, đi đến đoạn diệt hoàn toàn, hay vô thượng an ổn khỏi các
khổ ách chưa đạt, được đạt đến.
(VII) (27) Ðịnh
1. - Này các Tỷ-kheo, thông minh,
thường niệm, hãy tu tập vô lượng định. Với ai thông minh thường niệm, tu
tập vô lượng định, tự mỗi người ấy khởi lên năm trí. Thế nào là năm?
2. Ðịnh này hiện tại lạc và tương
lai có quả dị thục lạc, trong mỗi người, trí (như vậy) khởi lên. Ðịnh
này thuộc bậc Thánh, không thuộc vật chất, trong mỗi người, trí (như
vậy) khởi lên. Ðịnh này không do người ác thực hiện, trong mỗi người,
trí (như vậy) khởi lên. Ðịnh này an tịnh, thù diệu đem đến khinh an, đạt
được nhất tâm, không phải là sự chế ngự gò ép thường xuyên, trong mỗi
người, trí (như vậy) khởi lên: "An tịnh, ta nhập định này. An tịnh, ta
xuất khỏi định này", trong mỗi người trí (như vậy) khởi lên.
Này các Tỷ-kheo, thông minh, thường niệm, hãy tu tập vô lượng định.
Với ai thông minh, thường niệm, hãy tu tập vô lượng định, tự mỗi người
ấy, khởi lên năm trí này.
(VIII) (28) Năm Chi Phần
1. - Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ thuyết
giảng sự tu tập Thánh chánh định gồm có năm chi phần. Hãy lắng nghe và
suy nghiệm kỹ. Ta sẽ giảng.
- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau:
- Này các Tỷ-kheo, như thế nào là sự tu tập Thánh chánh định gồm có
năm chi phần?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
ly dục... chứng đạt và an trú Thiền thứ nhất với tầm, với tứ. Vị ấy thấm
nhuần, tẩm ướt, làm cho sung mãn, tràn đầy thân mình với hỷ lạc do ly
dục sanh, không một chỗ nào trên toàn thân không được hỷ lạc do ly dục
sanh ấy thấm nhuần.
3. Ví như, này các Tỷ-kheo, như một
người hầu tắm hay đệ tử hầu tắm, sau khi rắc bột tắm trong thau bằng
đồng, liền nhồi bột ấy với nước. Cục bột tắm ấy được thấm nhuần nước
ướt, trào trộn với nước ướt, thấm ướt cả trong lẫn ngoài với nước, nhưng
không chảy thành giọt. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo thấm
nhuần, tẩm ướt, làm cho dung mãn, tràn đầy thân này với hỷ lạc do ly dục
sanh, không một chỗ nào trên toàn thân không được hỷ lạc do ly dục sanh
ấy thấm nhuần.
Ðây là sự tu tập thứ nhất về Thánh chánh định gồm có năm chi phần.
4. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, vị
Tỷ-kheo làm cho tịnh chỉ tầm và tứ... chứng đạt và an trú Thiền thứ hai.
Vị ấy thấm nhuần, tẩm ướt, làm cho sung mãn, tràn đầy thân này với hỷ
lạc do định sanh, không một chỗ nào trên toàn thân không được hỷ lạc do
định sanh ấy thấm nhuần.
5. Ví như, này các Tỷ-kheo, một hồ
nước, nước tự dâng lên, phương Ðông không có lỗ nước chảy ra, phương Tây
không có lỗ nước chảy ra, phương Bắc không có lỗ nước chảy ra, phương
Nam không có lỗ nước chảy ra, và thỉnh thoảng trời lại mưa lớn. Suối
nước mát từ hồ nuớc ấy phun ra, thấm nhuần, tẩm ướt, làm cho sung mãn
tràn đầy hồ nước ấy với nước mát lạnh, không một chỗ nào của hồ nước ấy
không được nước mát lạnh thấm nhuần. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
thấm nhuần tẩm ướt làm cho sung mãn tràn đầy thân này với hỷ lạc do định
sanh, không một chỗ nào trên toàn thân không được hỷ lạc do định sanh
ấy thấm nhuần.
Ðây là sự tu tập thứ hai về Thánh chánh định gồm có năm chi phần.
6. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, vị
Tỷ-kheo ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các
bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú, chứng và an trú Thiền thứ ba. Vị
Tỷ-kheo ấy thấm nhuần với lạc thọ không có hỷ ấy, không một chỗ nào trên
toàn thân không được lạc thọ không có hỷ ấy thấm nhuần.
7. Ví như, này các Tỷ-kheo, trong hồ
sen xanh, hồ sen hồng hay sen trắng, những bông hoa ấy sanh trong nước,
lớn lên trong nước, không vượt khỏi nước, nuôi sống dưới nước, từ đầu
ngọn cho đến gốc rễ đều thấm nhuần, tẩm ướt, tràn đầy thấu suốt bởi nước
mát lạnh ấy, không một chỗ nào của toàn thể sen xanh, sen hồng hay sen
trắng không được nước mát lạnh ấy thấm nhuần. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo thấm nhuần, tẩm ướt, làm cho sung mãn tràn đầy thân này với lạc
thọ không có hỷ ấy, không một chỗ nào trên toàn thân không được lạc thọ
không có hỷ ấy thấm nhuần.
Này các Tỷ-kheo, đây là sự tu tập thứ ba về Thánh chánh định gồm có
năm chi phần.
8. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
xả lạc, xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng và trú Thiền thứ tư,
không khổ, không lạc, xả niệm, thanh tịnh. Tỷ-kheo ấy ngồi thấm nhuần
toàn thân mình với tâm thuần tịnh trong sáng, không một chỗ nào trên
toàn thân không được tâm thuần tịnh trong sáng ấy thấm nhuần.
9. Ví như, này các Tỷ-kheo, một ngồi
người dùng tấm vải trắng trùm đầu, không một chỗ nào trên toàn thân
không được vải trắng ấy che phủ. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ngồi
thấm nhuần toàn thân này với tâm thuần tịnh trong sáng, không một chỗ
nào trên toàn thân không được tâm thuần tịnh trong sáng ấy thấm nhuần.
Này các Tỷ-kheo, đây là sự tu tập thứ tư về Thánh chánh định gồm có
năm chi phần.
10. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, quán
sát tướng được vị Tỷ-kheo khéo nắm giữ, khéo tác ý, khéo thọ trì, khéo
thể nhập với trí tuệ.
11. Ví như, này các Tỷ-kheo, một
người quán sát một người khác, người đứng quán sát người ngồi, hay người
ngồi quán sát người nằm. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, quán sát tướng được
Tỷ-kheo khéo nắm giữ, khéo tác ý, khéo thọ trì, khéo thế nhập với trí
tuệ.
Này các Tỷ-kheo, đây là sự tu tập thứ năm về Thánh chánh định gồm có
năm chi phần.
Tu tập như vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo với Thánh chánh định gồm có
năm chi phần được làm cho sung mãn như vậy, tùy thuộc theo pháp gì cần
phải được giác ngộ với thắng trí, tâm vị ấy hướng đến để được giác ngộ
với thắng trí. Tại đấy, tại đấy vị ấy có khả năng, có năng lực đạt đến
pháp ấy dầu thuộc loại xứ nào.
12. Ví như, này các Tỷ-kheo, một cái
ghè nước đặt trên một cái giá, ghè ấy đựng đầy nước, tràn đầy đến nỗi
con quạ có thể uống được. Và một người có sức mạnh đến lắc qua lắc lại
cái ghè ấy, như vậy nước có đổ ra chăng?
- Thưa có, bạch Thế Tôn.
- Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo tu tập như vậy, Thánh chánh
định gồm có năm chi phần được làm cho sung mãn như vậy, tùy thuộc theo
pháp gì cần phải được giác ngộ với thắng trí, tâm vị ấy hướng đến để
được giác ngộ với thắng trí. Tại đấy, tại đấy vị ấy có khả năng, có năng
lực đạt đến pháp ấy, dầu thuộc loại xứ nào.
13. Ví như, này các Tỷ-kheo, một hồ
nước trên một khoảnh đất bằng, bốn góc có bờ đê đắp cao đầu tràn nước
đến nỗi con quạ có thể uống được. Rồi một người có sức mạnh đến tháo bờ
đê chỗ này chỗ kia, như vậy nước có đổ ra chăng?
- Thưa có, bạch Thế Tôn.
- Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo tu tập như vậy... dầu thuộc
loại xứ nào.
14. Ví như, này các Tỷ-kheo, trên
đất bằng, tại chỗ ngã tư, có một chiếc xe đang đậu, thắng với ngựa thuần
chủng, có gậy thúc ngực đặt ngang sẵn sàng. Có người huấn luyện ngựa
thiện xảo, người đánh xe điều ngự các con ngựa đáng được điều ngựa, leo
lên xe ấy, tay trái nắm lấy dây cương tay mặt cầm lấy gậy thúc ngựa, có
thể đánh xe ngựa ấy đi tới đi lui tại chỗ nào và như thế nào theo ý mình
muốn. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo tu tập như vậy, Thánh chánh
định gồm có năm chi phần được làm cho sung mãn như vậy, tùy thuộc theo
pháp gì cần phải được giác ngộ với thắng trí, tâm vị ấy hướng đến để
được giác ngộ với thắng trí. Tại đấy, tại đấy vị ấy có khả năng, có năng
lực đạt đến pháp ấy, dầu thuộc loại xứ nào.
15. Nếu vị ấy ước muốn: "Ta sẽ chứng
được các loại thần thông, một thân hiện ra nhiều thân... "(như trên,
số 23, mục 6)... dầu thuộc loại xứ nào.
16. Nếu vị ấy ước muốn: "Thiên nhĩ
thanh tịnh siêu nhân... "(như trên, số 23, mục 7)
17. Nếu vị ấy ước muốn: "Mong rằng
với tâm của mình có thể hiểu biết được tâm của các loại chúng sanh
khác... "(như trên, số 23, mục 8)...
18. Nếu vị ấy ước muốn: "Ta sẽ nhớ
đến nhiều đời sống quá khứ, như một đời... "(như trên, số 23, mục 9)...
19. Nếu vị ấy ước muốn: "Với thiên
nhãn thanh tịnh siêu nhân, ta thấy sự sống chết của chúng sanh... "(như
trên, số 23, mục 10)
20. Nếu vị ấy ước muốn: "Do đoạn
diệt các lậu hoặc, ngay trong hiện tại, với thắng trí ta chứng ngộ,
chứng đạt và an trú vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát". Tại đấy, tại
đấy, vị ấy có khả năng, có năng lực đạt đến trạng thái ấy, dầu thuộc
loại xứ nào.
(IX)
(29) Kinh Hành
1. - Này các Tỷ-kheo, có năm lợi ích
này của kinh hành. Thế nào là năm?
2. Kham nhẫn được đường trường; kham
nhẫn được tinh cần; ít bệnh tật; đưa đến tiêu hóa tốt đẹp các đồ được
ăn, được uống, được nhai, được nếm; định chứng được trong khi kinh hành
được tồn tại lâu dài. Những pháp này, này các Tỷ-kheo là năm lợi ích của
kinh hành.
(X) (30) Tôn Giả Nàgita
1. Như vầy tôi nghe:
Một thời, Thế Tôn bộ hành giữa các người Kosala, cùng với đại chúng
Tỷ-kheo đi đến một làng Bà-la-môn tên là Icchànangalam. Tại đấy, Thế Tôn
trú ở Icchànangalam, trong khóm rừng Icchànangalam.
Các Bà-la-môn gia chủ ở Icchànangalam được nghe: "Sa-môn Tôn giả
Gotama là Thích tử xuất gia từ gia đình họ Thích, đã đến Icchànangalam,
trú ở Icchànanagalam trong khóm rừng Icchànangalam. Về Tôn giả Gotama
ấy, tiếng đồn tốt đẹp sau đây được truyền đi: "Ðây là Ðức Thế Tôn, bậc
A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế gian giải, Vô
Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Với thắng
trí, Ngài tự thân chứng ngộ thế giới này cùng với Thiên giới, Phạm thiên
giới, với chúng Sa-môn, Bà-la-môn các loài Trời và Người. Sau khi đã
chứng ngộ, Ngài tuyên thuyết điều Ngài đã chứng ngộ. Ngài thuyết pháp sơ
thiện, trung thiện, hậu thiện, có nghĩa, có văn. Ngài truyền dạy Phạm
hạnh hoàn toàn đầy đủ trong sạch. Tốt đẹp thay, sự chiêm ngưỡng một vị
A-la-hán như vậy!""
Rồi các Bà-la-môn gia chủ ở Icchànangalam, sau khi đêm ấy đã màn, cầm
theo rất nhiều đồ ăn loại cứng và loại mềm, đi đến khóm rừng
Icchànangalam, sau khi đến, đứng ở ngoài cổng vào, và lớn tiếng làm
huyên náo.
2. Lúc bấy giờ, Tôn giả Nàgita là
thị giả của Thế Tôn. rồi Thế Tôn bảo Tôn già Nàgita:
- Này Nàgita, những ai đã đến, và làm ồn ào như những hàng cá với
đống cá lớn?
- Các người ấy, bạch Thế Tôn, là các Ba-la-môn gia chủ ở
Icchànangalam, đang đứng ở ngoài cổng vào, đem theo rất nhiều đồ ăn loại
cứng và loại mềm cho Thế Tôn và chúng Tăng.
- Này Nàgita, Ta không có liên hệ gì với danh vọng không có liên hệ
gì với Ta. Này Nàgita, những ai tìm được không có khó khăn, tìm được
không có mệt nhọc, tìm được không có phí sức, tìm được an ổn, lạc viễn
ly lạc, an tịnh lạc, chánh giác lạc, mà Ta đã tìm được không có khó
khăn, tìm được không có mệt nhọc, tìm được không có phí sức. Hãy để học
thọ hưởng lạc như phân ấy, thụy miên lạc, lợi dưỡng, cung kính, danh văn
lạc.
3. - Bạch Thế Tôn, nay Thế Tôn hãy
chấp nhận! Thiện Thệ hãy chấp nhận! Nay Thế Tôn sẽ đi đến chỗ nào, tại
chỗ ấy các Bà-la-môn gia chủ ở thị trấn và ở quốc độ cũng sẽ đi đến với
tâm hướng về cúng dường. Ví như trời mưa nặng hạt, và nước mưa được chảy
tùy theo chiều dốc. Cũng vậy, bạch Thế Tôn, nay Thế Tôn sẽ đi đến chỗ
nào, tại chỗ ấy các Ba-la-môn gia chủ ở thị trấn và ở quốc độ họ cũng sẽ
đi đến, với tâm hướng về cúng đường. Vì cớ sao? Bạch Thế Tôn, do vì
giới hạnh và trí tuệ của Thế Tôn
4. - Này Nàgita, Ta không có liên hệ
gì với danh vọng, và danh vọng không vó liên hệ gì với Ta. Này Nàgita,
những ai tìm được không có khó khăn, tìm được không có mệt nhọc, tìm
được không có phí sức, tìm được an ổn lạc, viễn ly lạc, an tịnh lạc,
chánh giác lạc, mà Ta đã tìm được không có khó khăn, tìm được không phí
sức. Hãy để họ thọ hưởng lạc như phân ấy, thụy miên lạc, lợi dưỡng, cung
kính, danh văn lạc. Này Nàgita, với ai ăn, uống, nhai, nếm, thời đại
tiện, tiểu tiện, là kết quả tất nhiên cho người ấy. Với những ai nặng nề
về ái lạc, này Nàgita, sự biến hoại, đổi khác, sầu bi khổ ưu não khởi
lên. Ðấy là kết quả tất nhiên cho người ấy. Những ai chuyên chú tâm về
tướng bất tịnh, này Nàgita, thời sự nhàm chán đối với tịnh tướng được an
trú. Ðấy là kết quả tất nhiên
cho người ấy. Ai sống tùy quán vô thường trong sáu xúc xứ, này Nàgita,
thời sự nhàm chán đối với xúc được an trú. Ðấy là kết quả tất nhiên cho
người ấy. Ai sống tùy quán sanh diệt đối với năm thủ uẩn, này Nàgita,
thời sự nhàm chán đối với chấp thủ được an trú. Ðấy là kết quả tất nhiên
cho người ấy.
IV. Phẩm Sumanà
(I)
(31) Sumanà , Con Gái Vua
1.
Một thời, Thế Tôn trú ở Sàvatthi,
Jetavana, tại khu vườn của Anàthapindika. Rồi Sumanà, con gái vua, với
năm trăm thiếu nữ hộ tống trên năm trăm cổ xe, đi đến Thế Tôn, sau khi
đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Sumanà,
con gái vua bạch Thế Tôn:
2. - Ở đây, bạch Thế Tôn, có hai đệ
tử của Thế Tôn đồng đẳng về tín, đồng đẳng về giới, đồng đẳng về tuệ,
một có bố thí, một không bố thí. Sau khi thân hoại mạng chung, cả hai
được sanh lên cõi lành Thiên giới. Giữa hai vị thiên ấy, có sự đặc thù
gì, có sự sai khác gì?
Thế Tôn đáp:
- Có sự sai biệt, này Sumanà.
3. Người có bố thí, khi được làm vị
Thiên, vượt qua vị Thiên không có bố thí trên năm phương diện. Về thiên
thọ mạng, về thiên sắc, về thiên lạc, về thiên danh xưng, về thiên tăng
thượng. Người có bố thí, này Sumanà, khi được làm vị Thiên, vượt qua vị
Thiên không bố thí trên năm phương diện này.
4. - Bạch Thế Tôn, nếu họ từ đây
mạng chung, trở lại trạng thái này, khi họ trở lại làm người, bạch Thế
Tôn, có sự đặc thù gì, có sự sai khác gì?
Thế Tôn đáp:
- Có sự sai biệt, này Sumanà.
5. Người có bố thí, khi được làm
người, vượt qua vị làm người không bố thí trên năm phương diện: Về nhân
thọ mạng, về nhân sắc, về nhân lạc, về nhân danh xưng, về nhân tăng
thượng. Người có bố thí, này Sumanà, khi được làm người, vượt qua vị làm
người không bố thí trên năm phương diện này
6. - Bạch Thế Tôn, nếu cả hai đều
xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Giữa hai người xuất gia
ấy, bạch Thế Tôn có thể có những đặc thù gì, những sai khác gì?
Thế Tôn đáp:
- Có sự sai biệt, này Sumanà.
7. Người có bố thí, khi được xuất
gia, vượt qua vị xuất gia không có bố thí trên năm phương diện: Thường
hay được yêu cầu nhận y, ít khi không được yêu cầu; thường hay được yêu
cầu nhận đồ ăn khất thực, ít khi không được yêu cầu; thường hay được yêu
cầu nhận sàng tọa, ít khi không được yêu cầu; thường hay được yêu cầu
nhận dược phẩm trị bệnh, ít khi không được yêu cầu. Vị ấy sống với những
vị đồng Phạm hạnh nào, các vị này đối với vị ấy, xử sự với nhiều thân
nghiệp khả ái, với ít thân nghiệp không khả ái, với nhiều khẩu nghiệp
khả ái, với ít khẩu nghiệp không khả ái, với nhiều ý nghiệp khả ái, với
ít ý nghiệp không khả ái, giúp đỡ với nhiều giúp đỡ khả ái, với ít giúp
đỡ không khả ái. Này Sumanà, người có bố thí khi được xuất gia, vượt qua
người không có bố thí trên
năm phương diện này.
8. - Nhưng bạch Thế Tôn, nếu cả hai
đều chứng quả A-la-hán. Với hai vị chứng đạt A-la-hán ấy, bạch Thế Tôn
có sự đặc thù nào, có sự sai khác nào?
9. - Ở đây, này Sumanà, Ta nói không
có sự sai khác nào, tức là so sánh giải thoát với giải thoát.
10. - Thật vi diệu thay, bạch Thế
Tôn! Thật hy hữu thay, bạch Thế Tôn! Xa cho đến như vậy là vừa đủ để bố
thí, là vừa đủ để làm cho các công đức. Vì rằng chúng là những giúp đỡ,
những công đức cho chư Thiên, chúng là những giúp đỡ, những công đức cho
loài Người, chúng là những giúp đỡ, những công đức cho các người xuất
gia.
- Sự việc là như vậy, này Sumanà, là vừa đủ, này Sumanà, để bố thí,
là vừa đủ để làm các công đức. Chúng là những giúp ích, những công đức
cho chư Thiên. Chúng là những giúp ích, những công đức cho loài Người.
Chúng là những giúp ích, những công đức cho những người xuất gia.
11. Thế Tôn thuyết như vậy. Bậc
Thiện Thệ nói như vậy xong, bậc Ðạo Sư lại nói thêm:
Như mặt trăng không uế,
Ði giữa hư không giới,
với ánh sáng bừng chói,
Giữa quần sao ở đời.
Cũng vậy, người đủ giới,
Hạng người có lòng tin,
Với bố thí, bừng chói,
Giữa xan tham ở đời.
Như mây mưa sấm sét,
Vòng hoa chóp trăm đầu,
Tràn đầy cả thung lũng,
Lan tràn cả đất bằng.
Cũng vậy, đầy tri kiến,
Ðệ tử bậc Chánh Giác,
Bậc trí vượt xan tham,
Trên cả năm phương diện,
Thọ mạng và danh xưng,
Dung sắc và an lạc,
Với tài sản sung mãn,
Chết hưởng hỷ lạc thiên.
(II)
(32) Cundì, Con Gái Vua
1. Một thời, Thế Tôn ở Ràjagaha
(Vương Xá), Veluvana (Trúc Lâm), chỗ nuôi dưỡng các con sóc. Rồi Cundì,
con gái vua, với năm trăm thiếu nữ hộ tống trên năm trăm cỗ xe đi đến
Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một
bên, Cundì, con gái vua bạch Thế Tôn:
2. - Anh của chúng con, bạch Thế
Tôn, hoàng tử Cunda nói như sau: "Nếu có người đàn bà hay người đàn ông
quy y Phật, quy y Pháp, quy y chúng Tăng, từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của
không cho, từ bỏ tà hạnh trong các dục, từ bỏ nói láo, từ bỏ say đắm
rượu men, rượu nấu, người ấy, sau khi thân hoại mạng chung, nhất định
sanh lên cõi lành, không vào cõi dữ". Nhưng bạch Thế Tôn, con xin hỏi
Thế Tôn: Với lòng tin bậc Ðạo Sư như thế nào, bạch Thế Tôn sau khi thân
hoại mạng chung: nhất định được sanh lên cõi lành, không vào cõi dữ? Với
lòng tin Pháp như thế nào, sau khi thân hoại mạng chung, nhất định được
sanh lên cõi lành, không vào cõi dữ? Với lòng tin chúng Tăng như thế
nào, sau khi thân hoại mạng chung, nhất định được sanh lên cõi lành,
không vào cõi dữ? Làm cho đầy đủ các
giới như thế nào, sau khi thân loại mạng chung, nhất định được sanh lên
cõi lành, không vào cõi dữ?
3. - Dầu cho các loại hữu tình nào,
này Cundì, không chân hay hai chân, bốn chân hay nhiều chân, có sắc hay
không sắc, có tưởng hay không tưởng, hay phi tưởng phi phi tưởng, Thế
Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác được xem là tối thượng. Những ai đặt
lòng tin vào Đức Phật, họ đặt lòng tin vào tối thượng. Vơi những ai đặt
lòng tin vào tối thượng, họ được quả dị thục tối thượng.
4. Dầu cho loại pháp nào, này Cundì,
hữu vi hay vô vi, ly tham được xem là tối thượng trong tất cả pháp,
(tức là) sự chiếc phục kiêu mạn, dự nhiếp phục khao khát, sự nhổ lên dục
ái, sự chặt đứt tái sanh, sự đoạn diệt tham ái, sự ly tham, đoạn diệt,
Niết-bàn. Những ai đặt lòng tin vào pháp ly tham, này Cundĩ, họ đặt lòng
tin vào tối thượng. Với những ai đặt lòng tin vào tối thượng, họ được
quả dị thục tối thượng.
5. Dầu cho loại chúng Tăng hay Hội
chúng nào, này Cundì, chúng Tăng đệ tử của Như Lai, được xem là tối
thượng trong tất cả hội chúng ấy, tức là bốn đôi tám vị. Chúng Tăng đệ
tử của Như Lai đáng được cung kính, đáng được tôn trọng, đáng được cúng
đường, đáng được chắp tay, là vô thượng phước điền ở đời. Những ai đặt
lòng tin vào chúng Tăng, này Cundì, họ đặt lòng tin vào tối thượng. Với
những ai đặt lòng tin vào tối thượng, họ được quả dị thục tối thượng.
6. Dầu cho loại giới nào, này Cundì,
các giới được bậc Thánh ái kính được gọi là tối thượng trong các giới
ấy, tức là giới không bị bể vụn, không bị sứt mẻ, không bị vết chấm,
không bị uế nhiễm, đem lại giải thoát, được bậc trí tán thán, không bị
chấp thủ, đưa đến chánh định. Với những ai làm cho đầy đủ trong các giới
luật được các bậc Thánh ái kính, họ làm cho đầy đủ những gì tối thượng.
Với những ai đặt lòng tin vào tối thượng, họ được quả dị thục tối
thượng.
Tin tưởng vào tối thượng,
Biết được pháp tối thượng,
Tin tưởng Phật tối thượng,
Ðáng tôn trọng, vô thượng.
Tin tưởng Pháp tối thượng,
Ly tham, an tịnh lạc,
Tin tưởng Tăng tối thượng,
Là ruộng phước vô thượng,
Bố thí bậc tối thượng,
Phước tối thượng tăng trưởng,
Tối thượng về thọ mạng,
Dung sắc và danh văn,
Tối thượng về an lạc,
Tối thượng về sức mạnh.
Bậc trí thí tối thượng,
Pháp tối thượng chánh định,
Chư Thiên hay loài Người
Ðạt được hỷ tối thượng.
(III) (33) Uggaha, Người Gia Chủ
1. Một thời, Thế Tôn trú ở Bhaddiya,
trong rừng Jàti. Rồi Uggaha, cháu trai của Mendaka đi đến Thế Tôn, sau
khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên,
Uggaha, cháu trai của Mendaka bạch Thế Tôn:
2. - Bạch Thế Tôn, Thế Tôn hãy nhận
lời mời của con, ngày mai đến dùng bữa ăn, với Thế Tôn là người thứ tư.
Thế Tôn im lặng nhận lời. Rồi Uggaha, cháu trai của Mendaka biết được
Thế Tôn đã nhận lời, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Thế Tôn, thân bên
hữu hướng về Ngài rồi ra đi.
3. Rồi Thế Tôn, sau khi đêm ấy đã
mãn, vào buổi sáng đắp y, cầm y bát, đi đến trú xứ của Uggaha, cháu trai
của Mendaka; sau khi đến, ngồi xuống trên chỗ đã soạn sẵn. Rồi Uggaha,
cháu trai của Mendaka, với tay của mình thân mời và làm cho thỏa mãn Thế
Tôn với các món ăn thượng vị loại cứng và loại mềm. Rồi Uggaha, cháu
trai của Mendaka, sau khi Thế Tôn dùng bữa ăn xong, tay rời khỏi bát,
liền ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Uggaha, cháu trai của
Mendaka bạch Thế Tôn:
- Những đứa con gái này của con, bạch Thế Tôn, sẽ đi về nhà chồng.
Bạch Thế Tôn, Thế Tôn hãy giáo giới chúng. Bạch Thế Tôn, Thế Tôn hãy
khuyên dạy chúng, để chúng được hạnh phúc an lạc lâu dài.
4. Rồi Thế Tôn nói với các người con
gái ấy:
- Này các thiếu nữ, các Con hãy học tập như sau: "Ðối với những người
chồng nào, mẹ cha cho các con, vì muốn lợi ích, vì tìm hạnh phúc, vì
lòng thương tưởng, vì lòng từ mẫn khởi lên, đối với vị ấy, chúng ta sẽ
thức dậy trước, chúng ta sẽ đi ngủ sau cùng, vui lòng nhận làm mọi công
việc, xử sự đẹp lòng, lời nói dễ thương." Như vậy, này các Thiếu nữ, các
Con cần phải học tập.
5. Do vậy, này các Thiếu nữ, các Con
cần phải học tập như sau: "Những ai, chồng ta kính trọng, như mẹ, cha,
Sa-môn, Bà-la-môn, chúng ta sẽ tôn trọng, đảnh lễ, cúng dường và khi họ
đến, chúng ta sẽ dâng hiến họ chỗ ngồi và nước." Như vậy, này các Thiếu
nữ, các Con cần phải học tập.
6. Do vậy, này các Thiếu nữ, các Con
cần phải học tập như sau: "Phàm có những công nghiệp trong nhà, hoặc
thuộc về len vải hay vải bông, ở đây, chúng ta sẽ phải thông thạo, không
được biếng nhác, tự tìm hiểu phương pháp làm, vừa đủ để tự mình làm,
vừa đủ để sắp đặt người làm." Như vậy, này các Thiếu nữ, các Con cần
phải học tập.
7. Do vậy, này các Thiếu nữ, các Con
cần phải học tập như sau: "Trong nhà người chồng, phàm có nô tỳ nào,
hay người đưa tin, hay người công thợ, chúng ta sẽ phải biết công việc
của họ với công việc đã làm; chúng ta sẽ phải biết sự thiếu sót của họ
với công việc không làm. Chúng ta sẽ biết sức mạnh hay sức không mạnh
của những người đau bệnh. Chúng ta sẽ chia các đồ ăn, loại cứng và loại
mềm, mỗi người tùy theo phần của mình". Như vậy, này các Thiếu nữ, các
Con cần phải học tập.
8. Do vậy, này các Thiếu nữ, các Con
cần phải học tập như sau: "Phàm có tiền bạc, lúa gạo, bạc và vàng người
chống đem về, chúng ta cần phải phòng hộ, bảo vệ chúng, và sẽ gìn giữ
để khỏi ăn trộm, ăn cắp, kẻ uống rượu, kẻ phá hoại". Như vậy, này các
Thiếu nữ, các con cần phải học tập. Thành tựu năm pháp này, này các
Thiếu nữ, người đàn bà, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh cộng trú
với chư Thiên có thân khả ái.
Hãy thường thương yêu chồng,
Luôn nỗ lực cố gắng,
Người đem lại lạc thú,
Chớ khinh thường người chồng,
Chớ làm chồng không vui,
Chớ làm chồng tức tối,
Với những lời ganh tị.
Chồng cung kính những ai,
Hãy đảnh lễ tất cả,
Vì nàng, người có trí.
Hoạt động thật nhanh nhẹn,
Giữa các người làm việc,
Xử sự thật khả ái,
Biết giữ tài sản chồng.
Người vợ xử như vậy,
Làm thỏa mãn ước vọng,
Ưa thích của người chồng,
Sẽ được sanh tại chỗ,
Các chư thiên khả ái.
(IV) (34) Ðại Tướng Sìha
1. Một thời, Thế Tôn ở Vesàlì, tại
Ðại Lâm ở giảng đường có nóc nhọn. Rồi tướng quân Sìha đi đến thế Tôn,
sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên,
tướng quân Sìha bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, Thế Tôn có thể trình bày cho con về quả thiết thực
hiện tại của bố thí?
Thế Tôn đáp:
2. - Có thể được, này Sìha! Người bố
thí, này Sìha, người thí chủ được quần chúng ái mộ và ưa thích. Này
Sìha, người bố thí, người thí chủ được quần chúng ái mộ và ưa thích, đây
quả bố thí thiết thực hiện tại
3. Lại nữa, này Sìha! Bậc thiện, bậc
Chân nhân thân cận người bố thí, người thí chủ. Này Sìha, bậc Thiện,
bậc Chân nhân, thân cận người bố thí, người thí chủ. Này Sìha, đây là
quả bố thí thiết thực hiện tại.
4. Lại nữa, này Sìha! Người bố thí,
người thí chủ được đồn tốt đẹp truyền đi. Này Sìha, người bố thí, người
thí chủ được tiếng đồn tốt đẹp truyền đi. Này Sìha, đây là quả bố thí
thiết thực hiện tại.
5. Lại nữa, này Sìha, người bố thí,
người thí chủ đi đến hội chúng nào, hoặc hội chúng Sát-đế-ly, hoặc hội
chúng Bà-la-môn, hoặc hội chúng gia chủ, hoặc hội chúng Sa-môn. Vị ấy đi
đến với tự tín, không có do dự hoang mang. Này Sìha, người bố thí,
người thí đi đến hội chung nào, hoặc hội chúng Sát Ðế Lỵ, hoặc hội chúng
Bà-la-môn, hoặc hội chúng gia chủ, hoặc hội chúng Sa-môn; vị ấy đi đến
với tự tin, không có do dự hoang mang. Này Sìha, đây là quả bố thí thiết
thực hiện tại.
6. Lại nữa, Sìha! Người bố thì,
người thí chủ, sau khi thân hoại mạng chung được sanh lên cõi lành,
Thiên giới. Người bố thí, người thí chủ, này Sìha, sau khi thân hoại
mạng chung, được sanh lên cõi lành, Thiên giới. Này Sìha, đây là quả bố
thí thiết thực hiện tại.
7. Ðược nói vậy, tướng quân Sìha
bạch Thế Tôn:
- Bốn quả bố thí thiết thực hiện tại này, bạch Thế Tôn, được Thế Tôn
nói đến, con không nhờ chúng đi đến lòng tin Thế Tôn. Con biết được
chúng. Bạch Thế Tôn, con là người bố thì, là thí chủ được quần chúng ái
mộ ưa thích. Bạch Thế Tôn, con là người bố thí, người thí chủ được bậc
thiện, bậc Chân nhân thân cận với con. Bạch Thế Tôn, con là người bồ
thì, người thì chủ. Tiếng đồn tốt đẹp được truyền đi về con:" Tướng quân
Sìha là người bố thí, là người làm việc, là người hộ trì chúng Tăng."
Bạch Thế Tôn, con là người bố thí, là người thí chủ. Con đi đến hội
chúng nào, hoặc hội chúng Sát-đế-ly, hoặc hội chúng Bà-la-môn, hoặc hội
chúng Gia chủ, hoặc hội chúng Sa-môn. Con đi đến với lòng tự tín, không
do dự hoang mang. Bốn quả bố thí hiện tại này, bạch Thế Tôn, được Thế
Tôn
nói đến, con không nhờ chúng đi lòng tin Thế Tôn. con biết được chúng.
Nhưng bạch Thế Tôn, khi Thế Tôn nói với con: "Người bố thí, này Sìha,
người thí chủ sau khi thân hoại mạng chung được sanh lên cõi lành, Thiên
giới." Ðiều này con không được biết, ở đây con đi đến lòng tin Thế Tôn.
- Sự kiện là vậy, này Sìha! Sự kiện là vậy, này Sìha! Người bố thí,
người thí chủ, sau khi thân hoại mạng chung được sanh lên thiện thú,
Thiên giới.
Người cho được ái mộ,
Ðược nhiều người thân cận,
Ðược tiếng đồn tốt đẹp,
Danh xưng được tăng trưởng.
Không hoang mang do dự,
Ði vào giữa hội chúng,
Với tâm đầy tự tín,
Là người không xan tham.
Do vậy người có trí,
Thường thường làm bố thí,
Nhiếp phục uế, xan tham,
Tìm cầu chơn an lạc.
Ðược an trú lâu ngày,
Trên cõi trời Thập Tam
Họ sống vui hoan hỷ,
Ðồng bạn với chư Thiên.
Sanh duyên đã làm xong
Thiện hạnh đã làm xong,
Mệnh chung sanh chư Thiên,
Ðược sống và thọ hưởng,
Tại rừng Nan-da-na
Tại đấy họ hoan hỷ,
Họ vui thích, thoải mái,
Thọ hưởng năm dục lạc,
Ðối với lời thuyết giảng
Bậc Vô trước Thế Tôn,
Các đệ tử Thiện Thệ,
Sống hoan hỷ Thiên giới.
(V) (35) Lợi Ích và Bố Thí
- Này các Tỷ-kheo, có năm lợi ích này của bố thí. Thế nào là năm?
Ðược nhiều người ái mộ, ưa thích; được bậc Thiện nhân, Chân nhân thân
cận; tiếng đồn tốt đẹp được truyền đi; không có sai lệch pháp của người
gia chủ; khi thân hoại mạng chung được sanh lên cõi lành, Thiên giới.
Những pháp này, này các Tỷ-kheo, là lợi ích của bố thí.
Người cho được ái kính,
Sở hành là hiền thiện,
Bậc Hiền thường thân cận,
Sống Phạm hạnh chế ngự.
Thuyết pháp người bố thí,
Ðưa đến khổ đoạn diệt,
Vị ấy biết được pháp,
Lậu hoặc được tịch tịnh.
(VI) (36) Cho Ðúng Thời
- Này các Tỷ-kheo, có năm bố thí đúng thời này. Thế nào là năm?
Bố thí cho người đến, bố thí cho người đi, bố thí cho người đau bệnh,
bố thí trong thời đói, phàm có những hoa quả gì mới gặt hái được, dành
chúng đầu tiên để cúng dường các bậc giữ giới. Này các Tỷ-kheo, năm pháp
này là năm bố thí đúng thời.
Có trí, thí đúng thời,
Lời từ ái, không tham,
Ðúng thời, thí bậc thánh,
Bậc Chánh trực, Thế Tôn.
Cúng dường vậy to lớn,
Ðưa đến lòng tịnh tín,
Ở đây người tùy hỷ,
Cùng người làm nghiệp vụ.
Không ai thiếu cúng dường,
Họ san sẻ công đức,
Do vậy hãy bố thí,
Với tâm không hạn chế.
Chỗ nào với bố thí,
Ðưa đến kết quả lớn,
Ðối với các hữu hình,
Công đức được an lập,
Cho đến trong đời sau.
(VII) (37) Bố Thí Bữa Ăn
- Người bố thí bữa ăn, này các Tỷ-kheo, người thí chủ đem lại cho
người thọ lãnh năm điều. Thế nào là năm?
Cho thọ mạng, cho dung sắc, cho an lạc, cho sức mạnh, cho biện tài.
Cho thọ mạng, vị ấy được chia thọ mạng chư Thiên hay loài Người. Cho
dung sắc, vị ấy được chia dung sắc chư Thiên hay loài Người. Cho an lạc,
vị ấy được chia an lạc chư Thiên hay loài Người. Cho sức mạnh, vị ấy
được chia sức mạnh chư Thiên hay loài Người. Cho biện tài, vị ấy được
chia biện tài chư Thiên hay loài Người. Người bố thí bữa ăn, này các
Tỷ-kheo, người thí chủ đem lại cho người thọ lãnh năm điều này.
Bậc Hiền cho thọ mạng,
Sức mạnh, sắc, biện tài,
Bậc trí cho an lạc,
Ðược chia phần an lạc.
Cho thọ mạng, sức mạnh,
Sắc, an lạc, biện tài,
Ðược sống lâu, danh xưng,
Tại chỗ được tái sanh.
(VIII) (38) Sự Lợi Ích Lòng Tin
1. - Này các Tỷ-kheo, có năm lợi ích
này cho thiên nam tử có lòng tin. Thế nào là năm?
Các Thiện nhân, các Chân nhân, trước hết có lòng thương tưởng đến vị
có lòng tin, không có như vậy đối với vị không có lòng tin; khi đến
thăm, trước hết họ đến thăm vị có lòng tin, không có như vậy đối với vị
không có lòng tin; khi chấp nhận, họ chấp nhận (các món ăn) trước hết từ
những người có lòng tin, không từ những người không có lòng tin; họ
thuyết pháp trước hết cho những người có lòng tin, không cho những người
không có lòng tin; người có lòng tin, sau khi thân hoại mạng chung,
được sanh lên cõi lành, cõi Trời. Những pháp này, này các Tỷ-kheo, là
năm lợi ích cho thiên nam tử có lòng tin.
2. Ví như, này các Tỷ-kheo, trên
khoảnh đất tốt, tại ngã tư đường, có cây bàng to lớn là chỗ nương tựa
cho các loài chim chung quanh. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, thiện nam tử
có lòng tin là chỗ nương tựa cho quần chúng, cho các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo-ni, cho nam cư sĩ và cho nữ cư sĩ.
Như cây bàng to lớn,
Với cành, lá, trái cây,
Với thân, rễ, đầy trái,
Làm chỗ trú loài chim.
Tại trú xứ thoải mái,
Các con chim làm tổ,
Cần bóng mát, hứng mát,
Cần trái cây, ăn trái.
Cũng vậy, vị trì giới,
Người có lòng tịnh tín,
Khiêm nhường và nhu thuận,
Hiền hòa, lời từ tốn,
Tánh tình thật dịu hiền,
Vị đoạn tham, đoạn sân,
Ðoạn si, không lậu hoặc,
Là ruộng phước ở đời.
Họ đến người như vậy,
Họ thuyết pháp, người ấy
Ðoạn trừ mọi khổ đau,
Vị ấy ở tại đây,
Hiểu biết Chánh pháp ấy,
Viên bản nhập Niết-bàn,
Hoàn toàn không lậu hoặc.
(IX)
(39) Con Trai
- Thấy năm điều này, này các Tỷ-kheo, mẹ cha muốn con trai sanh trong
gia đình. Thế nào là năm? Ðược giúp đỡ, sẽ giúp đỡ chúng ta; hay sẽ làm
công việc cho chúng ta; sẽ duy trì lâu dài truyền thống gia đình; sẽ
tiếp tục di sản thừa hưởng; sẽ cúng dường hiến vật cho các hương linh bị
mệnh chung.
Do thấy năm điểm này, này các Tỷ-kheo, mẹ cha muốn con trai sanh
trong gia đình.
Do thấy năm sự việc,
Bậc trí muốn con trai:
Ðược giúp, giúp ta lại,
Sẽ làm việc cho ta,
Sẽ duy trì lâu dài
Truyền thống của gia đình,
Sẽ tiếp tục gìn giữ,
Gia sản được thừa hưởng,
Hay đối với hương linh,
Hiến dâng các vật cúng.
Do thấy sự việc ấy,
Bậc trí muốn con trai,
Bậc Hiền thiện, Chân nhân,
Nhớ ơn, biết trả ơn,
Nhớ đến việc làm xưa,
Họ hiếu dưỡng mẹ cha,
Họ làm mọi công việc,
Như trước làm cho họ.
Thực hiện lời giảng dạy,
Ðược giúp, hiếu dưỡng lại,
Với truyền thống gia đình,
Duy trì được lâu dài,
Ðầy đủ tín và giới,
Con trai được tán thán.
(X) (40) Cây Sàla Lớn
- Dựa trên vua núi Tuyết sơn, này các Tỷ-kheo, các cây sàla lớn được
lớn lên trên năm phương diện. Thế nào là năm?
Chúng lớn lên về cành cây, về lá, về toàn bộ lá cây; chúng lớn lên về
đọt cây, chúng lớn lên về vỏ cây; chúng lớn lên về giác cây; chúng lớn
lên về lõi cây. Dựa trên núi Tuyết sơn, này các Tỷ-kheo, các cây sàla
lớn, được lớn lên trên năm phương diện này. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo,
dựa trên thiên nam tử có lòng tin, các người trong gia đình lớn lên về
năm phương diện. Thế nào là năm? Lớn lên về lòng tin; lớn lên về giới;
lớn lên về học hỏi; lớn lên về bố thí; lớn lên về trí tuệ. Dựa trên
thiên nam tử có lòng tin, các người trong gia đình lớn lên từ năm sự lớn
lên này.
Như hòn đá trên núi,
Trong rừng, trong núi lớn,
Các cây dựa vào đấy,
Các rừng chủ lớn lên.
Cũng vậy, người đủ giới,
Nam tử có lòng tin,
Dựa vị này chúng lớn,
Vợ, con và bà con,
Thân hữu và quyến thuộc,
Cùng các người tùy tùng.
Những ai sở hành tốt,
Với mắt đã được thấy,
Bắt chước giới vị này,
Bắt chước tâm bố thí,
Sau khi hành pháp này,
Tìm con đường cõi lành,
Trong Thiên giới hoan hỷ,
Họ được niềm hoan hỷ,
Hưởng thọ các dục lạc.
V. Phẩm Vua Munda
(I) (41) Trở Thành Giàu
1.
Như vầy tôi nghe:
Một thời, Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, khu vườn ông
Anàthapindika. Rồi gia chủ Anàthapindika đi đến Thế Tôn, sau khi đến,
đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Thế Tôn nói với gia chủ
Anàthapindika đang ngồi một bên:
2. - Này Gia chủ, có năm lý do này
để gầy dựng tài sản. Thế nào là năm?
Ở đây, này Gia chủ, vị Thánh đệ tử được tài sản nhờ nỗ lực tinh tấn,
thâu góp với sức mạnh bàn tay, kiếm được do đổ mồ hôi ra, thâu được một
cách hợp pháp; tự làm mình an lạc, hoan hỷ và chơn chánh duy trì sự an
lạc; làm cho mẹ cha an lạc, hoan hỷ và chơn chánh duy trì sự an lạc; làm
cho vợ con, người phục vụ, các người làm công được an lạc, hoan hỷ và
chơn chánh duy trì sự an lạc. Ðây là lý do thứ nhất để gây dựng tài sản.
3. Lại nữa, này Gia chủ, vị Thánh đệ
tử được tài sản nhờ nỗ lực tinh tấn, thâu góp với sức mạnh bàn tay,
kiếm được do đổ mồ hôi ra, thâu được một cách hợp pháp. Vị ấy làm cho
bạn bè thân hữu an lạc, hoan hỷ và chơn chánh duy trì sự an lạc. Ðây là
lý do thứ hai để gầy dựng tài sản.
4. Lại nữa, này Gia chủ, vị Thánh đệ
tử được tài sản nhờ nỗ lực tinh tấn, thâu góp với sức mạnh bàn tay,
kiếm được do đổ mổ hôi ra, thâu được một cách hợp pháp. Các tai họa từ
lửa, từ nước, từ vua, từ ăn trộm, từ kẻ thù hay từ các người thừa tự
được chận đứng, và vị ấy giữ tài sản được an toàn cho vị ấy. Ðây là lý
do thứ ba để gầy dựng tài sản.
5. Lại nữa, này Gia chủ, vị Thánh đệ
tử được tài sản nhờ nỗ lực tinh tấn, thâu góp với sức mạnh bàn tay,
kiếm được do đổ mồ hôi ra, thâu được một cách hợp pháp, có thể làm năm
hiến cúng. Hiến cúng cho bà con, hiến cúng cho khách, hiến cúng cho
hương linh đã chết (peta), hiến cúng cho vua, hiến cúng cho chư Thiên.
Ðây là lý do thứ tư để gầy dựng tài sản.
6. Lại nữa, này Gia chủ, vị Thánh đệ
tử được tài sản nhờ nỗ lực tinh tấn, thâu góp với sức mạnh bàn tay,
kiếm được do đổ mồ hôi ra, thâu được một cách hợp pháp, đối với các
Sa-môn, Bà-la-môn nào ly kiêu mạn, ly phóng dật, an trú nhẫn nhục, nhu
hòa, nhiếp phục tự mình, an tịnh tự mình, làm lắng dịu tự mình, đối với
những Sa-môn, Bà-la-môn như vậy vị ấy tổ chức sự cúng dường tối thượng,
đưa đến cảnh giới chư Thiên, được quả dị thục, đưa đến cõi trời. Ðây là
lý do thứ năm để gầy dựng tài sản.
Này Gia chủ, có năm lý do này để gầy dựng tài sản.
7. Này Gia chủ, đối với vị Thánh đệ
tử gầy dựng tài sản với năm lý do này, khi tài sản đi đến hoại diệt, vị
ấy suy nghĩ như sau: "Các tài sản do những lý do để gầy dựng, ta đã gầy
dựng chúng. Nay các tài sản ấy của ta đi đến hoại diệt", vị ấy không có
hối hận. Này Gia chủ, đối với vị Thánh đệ gầy dựng tài sản với năm lý do
này, nếu tài sản ấy đi đến tăng trưởng, vị ấy suy nghĩ như sau: "Các
tài sản do những lý do gầy dựng, ta đã gầy dựng chúng. Nay các tài sản
ấy của ta đi đến tăng trưởng". Như vậy, cả hai phương diện, vị ấy không
có hối hận.
Tài sản được thọ hưởng,
Gia nhân được nuôi dưỡng,
Chính nhờ các tài sản,
Do ta tránh tai họa.
Là cúng dường tối thượng,
Làm năm loại hiến vật,
Dành cho bậc trì giới
Bậc tự điều, Phạm hạnh.
Mục đích gì bậc Trí,
Trú nhà, cầu tài sản,
Mục đích ấy ta đạt,
Ðược làm không hối hận.
Người nào nhớ nghĩ vậy,
An trú trên Thánh pháp,
Ðời này được tán thán,
Ðời sau được hoan hỉ,
Trên cảnh giới chư Thiên.
(II) (42) Bậc Chân Nhân
1. - Bậc Chân nhân, này các Tỷ-kheo,
sinh ra trong gia đình, đưa lại lợi ích, hạnh phúc và an lạc cho nhiều
người; đưa lại lợi ích, hạnh phúc và an lạc cho mẹ cha; đưa lại lợi ích,
hạnh phúc và an lạc cho vợ con; đưa lại lợi ích, hạnh phúc và an lạc
cho các người hầu hạ, làm công; đưa lại lợi ích, hạnh phúc và an lạc cho
các bạn bè, thân hữu; đưa lại lợi ích, hạnh phúc và an lạc cho các
Sa-môn, Bà-la-môn.
2. Này các Tỷ-kheo, ví như trận mưa
lớn đem lại các mùa gặt được nhiều chín muồi, đưa lại lợi ích, hạnh phúc
và an lạc cho nhiều người. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, bậc Chân nhân
sanh ra trong gia đình, đưa lại lợi ích, hạnh phúc và an lạc cho nhiều
người; đưa lại lợi ích, hạnh phúc và an lạc cho mẹ cha; đưa lại lợi ích,
hạnh phúc và an lạc cho vợ con; đưa lại lợi ích, hạnh phúc và an lạc
cho các người hầu hạ, làm công; đưa lại lợi ích, hạnh phúc và an lạc cho
bạn bè, thân hữu; đưa lại lợi ích, hạnh phúc và an lạc cho các Sa-môn,
Bà-la-môn.
Vì hạnh phúc nhiều người,
Hãy gầy dựng tài sản,
Chư Thiên bảo vệ người
Biết bảo vệ đúng pháp,
Tiếng tốt không từ bỏ,
Người được học, nghe nhiều,
Ðầy đủ các cấm giới,
An trú trên Chánh pháp.
Ai có thể chỉ trích,
Bậc trú pháp, trì giới,
Bậc nói thật, tàm quý,
Như trang sức vàng ròng?
Chư Thiên khen người ấy,
Phạm Thiên cũng tán thán.
(III) (43) Khả Lạc
1. Rồi Gia chủ Anàthapindika đi đến
Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Thế Tôn
nói với Gia chủ Anàthapindika đang ngồi một bên:
2. - Có năm pháp này, này Gia chủ,
khả lạc, khả hỷ, khả ý, khó tìm được ở đời. Thế nào là năm?
Tuổi thọ khả lạc, khả hỷ, khả ý khó tìm được ở đời; dung sắc khả lạc,
khả hỷ, khả ý khó tìm được ở đời; an lạc khả lạc, khả hỷ, khả ý khó tìm
được ở đời; tiếng đồn tốt khả lạc, khả hỷ, khả ý khó tìm được ở đời;
cõi trời khả lạc, khả hỷ, khả ý khó tìm được ở đời.
Này Gia chủ, năm pháp này, khả lạc, khả ý khó tìm được ở đời. Này Gia
chủ, năm pháp khả lạc, khả hỷ, khả ý khó tìm được ở đời này, Ta tuyên
bố không phải do nhân cầu xin, không phải do nhân ước vọng mà có được.
3. Này Gia chủ, nếu năm pháp khả
lạc, khả hỷ, khả ý khó tìm được ở đời này, do nhân cầu xin, do nhân ước
vọng mà có được, thời ai ở đời này lại héo mòn vì một lẽ gì? Này Gia
chủ, vị Thánh đệ tử muốn có thọ mạng, không có thể do cầu xin thọ mạng
hay tán thán để làm nhân đem lại thọ mạng. Vị Thánh đệ tử muốn có thọ
mạng cần phải thực hành con đường dẫn đến thọ mạng. Do vị ấy thực hành
con đường dẫn đến thọ mạng, sự thực hành ấy đưa vị ấy nhận lãnh được thọ
mạng, vị ấy nhận lãnh được thọ mạng hoặc Chư Thiên, hoặc loài Người.
4. Này Gia chủ, vị Thánh đệ tử muốn
có dung sắc, không có thể do cầu xin dung sắc hay tán thán để làm nhân
đem lại dung sắc. Vị Thánh đệ tử muốn có dung sắc cần phải thực hành con
đường dẫn đến dung sắc. Do vị ấy thực hành con đường dẫn đến dung sắc,
sự thực hành ấy đưa vị ấy nhận lãnh được dung sắc, vị ấy nhận lãnh được
dung sắc hoặc Chư Thiên, hoặc loài Người.
5. Này Gia chủ, vị Thánh đệ tử muốn
có an lạc, không có thể do cầu xin an lạc hay tán thán để làm nhân đem
đến an lạc. Vị Thánh đệ tử muốn có an lạc cần phải thực hành con đường
dẫn đến an lạc. Do vị ấy thực hành con đường dẫn đến an lạc, sự thực
hành ấy đưa đến vị ấy nhận lãnh được an lạc, vị ấy nhận lãnh được an lạc
hoặc chư Thiên, hoặc loài Người.
6. Này Gia chủ, vị Thánh đệ tử muốn
có tiếng tốt, không có thể do cầu xin tiếng tốt hay tán thán để làm nhân
đem đến tiếng tốt. Vị Thánh đệ tử muốn có tiếng tốt cần phải thực hành
con đường dẫn đến tiếng tốt. Do vị ấy thực hành con đường dẫn đến tiếng
tốt, sự thực hành ấy đưa vị ấy nhận lãnh được tiếng tốt, vị ấy nhận lãnh
được tiếng tốt hoặc chư Thiên, hoặc loài Người
7. Này Gia chủ, vị Thánh đệ tử muốn
có được Thiên giới, không có do cầu xin Thiên giới hay tán thán để làm
nhân đem đến Thiên giới. Vị thánh đệ tử muốn có Thiên giới cần phải thực
hành con đường dẫn đến Thiên giới. Do vị ấy thực hành con đường dẫn đến
Thiên giới, sự thực hành ấy đưa vị ấy nhận lãnh được Thiên giới, vị ấy
nhận lãnh được Thiên giới.
Thọ mạng và dung sắc,
Tiếng tốt và danh vọng,
Thiên giới và quý tộc,
Ðược người đời ngày đêm,
Luôn luôn và rộng mở,
Cầu xin và cầu nguyện.
Còn bậc Hiền tán thán,
Không phóng dật phước hành,
Bậc Hiền không phóng dật,
Chứng được hai lợi ích,
Lợi ích ngay hiện tại,
Và lợi ích đời sau,
Vị nào thực hiện được,
Lợi ích và mục đích,
Vị ấy đáng được gọi,
Bậc Trí giả, Hiền giả.
(VI) (44) Cho Các Vật Khả Ái
1. Một thời, Thế Tôn trú ở Vesàlì,
rừng Ðại Lâm, tại giảng đường có nóc nhọn. Rồi Thế Tôn, vào buổi sáng
đắp y, cầm y bát đi đến trú xứ của gia chủ Ugga người Vesàlì, sau khi
đến, ngồi xuống trên chỗ đã soạn sẵn. Rồi gia chủ Ugga, người Vesàlì đi
đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn, rồi ngồi xuống một bên. Ngồi
xuống một bên, gia chủ Ugga, người Vesàlì bạch Thế Tôn:
2. - Bạch Thế Tôn, con nghe như sau
từ miệng Thế Tôn, con có nhận lãnh như sau từ miệng Thế Tôn: "Ai cho vật
khả ý, nhận được điều khả ý". Bạch Thế Tôn, con có cháo nấu từ hoa cây
sàla thật là khả ý, có thể ăn được. Mong Thế Tôn nhận lấy cháo ấy, vì
lòng từ ái!
Và Thế Tôn nhận lấy, vì lòng từ ái.
- Bạch Thế Tôn, con nghe như sau từ miệng Thế Tôn, con có nhận lãnh
như sau từ miệng Thế Tôn: "Ai cho vật khả ý, nhận được điều khả ý". Bạch
Thế Tôn, con có thịt heo nấu chung với trái táo, thật là khả ý. Mong
Thế Tôn nhận lấy, vì lòng từ ái (chúng con)!
Và Thế Tôn nhận lấy, vì lòng từ ái.
- Bạch Thế Tôn, con nghe như sau từ miệng Thế Tôn, con có nhận lãnh
như sau từ miệng Thế Tôn: "Ai cho vật khả ý, nhận được điều khả ý". Bạch
Thế Tôn, con có loại rau ống dài có dầu thật là khả ý. Mong Thế Tôn
nhận lấy, vì lòng từ ái!
Và Thế Tôn nhận lấy, vì lòng từ ái.
- Bạch Thế Tôn, con nghe như sau từ miệng Thế Tôn, con có nhận lãnh
như sau từ miệng Thế Tôn: "Ai cho vật khả ý, nhận được điều khả ý". Bạch
Thế Tôn, con có cháo gạo, các hạt đen được loại bỏ dùng với các món
canh, các món đồ ăn nhiều loại, thật là khả ái. Mong Thế Tôn nhận lấy,
vì lòng từ ái!
Và Thế Tôn nhận lấy, vì lòng từ ái.
- Bạch Thế Tôn, con nghe như sau từ miệng Thế Tôn, con có nhận như
sau từ miệng Thế Tôn: "Ai cho vật khả ái, nhận được điều khả ý". Bạch
Thế Tôn, con có các loại vải dệt từ Kàdi thật là khả ý. Mong Thế Tôn
nhận lấy, vì lòng từ ái!
Và Thế Tôn nhận lấy, vì lòng từ ái.
- Bạch Thế Tôn, con nghe như sau từ miệng Thế Tôn, con có nhận lãnh
như sau từ miệng Thế Tôn: "Ai cho vật khả ý, nhận được điều khả ý". Bạch
Thế Tôn, con có ghế dài với nệm trải giường bằng lông cừu, chăn len
thuê bông, nệm bằng da con sơn dương gọi là
kadalimigapavarapaccat-tharanam, tấm thảm có lọng che phía trên, ghế dài
có hai đầu gối chân màu đỏ. Bạch Thế Tôn dầu rằng chúng con được biết:
Những vật ấy không phù hợp với Thế Tôn, nhưng bạch Thế Tôn, tấm phản nằm
bằng gỗ chiên đàn này đáng giá hơn một trăm ngàn, mong Thế Tôn hãy nhận
lấy, vì lòng từ ái!
Và Thế Tôn nhận lấy, vì lòng từ ái.
Rồi Thế Tôn làm cho tùy hỷ gia chủ Ugga người xứ Vesàlì, với bài kệ
tùy hỷ này:
Ai cho vật khả ý,
Nhận được điều khả ý,
Ðối với bậc Chánh trực,
Vui lòng đem bố thí,
Vải mặc và giường nằm,
Ăn uống các vật dụng.
Biết được bậc La-hán,
Ðược ví là phước điền,
Nên các bậc Chân nhân,
Thí những vật khó thí,
Ðược từ bỏ, giải thoát,
Không làm tâm đắm trước,
Người thí vật khả ý,
Nhận được điều khả ý.
Rồi Thế Tôn sau khi tùy hỷ gia chủ Ugga với bài kệ tùy hỷ này, liền
đứng dậy và ra đi. Rồi gia chủ Ugga người Vesàlì, sau một thời gian bị
mệnh chung. Bị mệnh chung, gia chủ Ugga người Vesàlì được sanh với một
thân rất khả ý.
Lúc bấy giờ, Thế Tôn trú ở Sàvatthi, Jetavana, tại khu vườn ông
Anàthapindika. Rồi Thiên tử Ugga, sau khi đêm đã gần tàn, với dung sắc
thù thắng chói sáng toàn vùng Jetavana đi đến Thế Tôn, sau khi đi đến,
đảnh lễ Thế Tôn rồi đứng một bên. Thế Tôn nói với Thiên tử Ugga đang
đứng một bên:
- Này Ugga, sự việc có như ý muốn không?
- Bạch Thế Tôn, sự việc có được như ý con muốn.
Rồi Thế Tôn với bài kệ nói với Thiên tử Ugga:
Ai cho vật khả ý,
Nhận được điều khả ý,
Bố thí vật tối thượng,
Sẽ được quả tối thượng.
Người có vật thù diệu,
Nhận được điều thù diệu,
Người có vật tối thắng,
Nhận được điều tối thắng.
Người nào đem bố thí
Vật tối thượng, thù diệu,
Và các vật tối thượng,
Người ấy thọ mạng dài,
Và được cả danh xưng,
Tại chỗ vị ấy sanh.
(V) (45) Phước Ðiền
1. - Này các Tỷ-kheo, có năm nguồn
sanh phước, nguồn sanh thiện này, là món ăn an lạc, thuộc Thiên giới, là
quả lạc di thục, dẫn đến cõi Trời, đưa đến khả lạc, khả hỷ, khả ý, hạng
phúc, an lạc. Thế nào là năm?
2. Này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo trong
khi hưởng thọ y của ai, đạt đến và an trú vô lượng tâm định, như vậy là
nguồn sanh phước vô lượng cho người ấy, là nguồn sanh thiện, là món ăn
an lạc, thuộc Thiên giới, là quả lạc di thục, dẫn đến cõi Trời, đưa đến
khả lạc, khả hỷ, khả ý, hạng phúc, an lạc.
Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo trong khi hưởng thọ đồ ăn khất thực của
ai...
Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo trong khi hưởng thọ tinh xá của ai... hưởng
thọ giường ghế của ai... hưởng thọ dược phẩm trị bệnh của ai, đạt đến và
an trú vô lượng tâm định, như vậy là nguồn sanh phước vô lượng cho
người ấy, là nguồn sanh thiện, là món ăn an lạc, thuộc Thiên giới, là
quả lạc dị thục dẫn đến cõi Trời, đưa đến khả lạc, khả hỷ, khả ý, hạnh
phúc, an lạc.
Này các Tỷ-kheo, năm nguồn sanh phước, nguồn sanh thiện này là món ăn
an lạc, thuộc Thiên giới, dẫn đến cõi Trời, đưa đến khả lạc, khả hỷ,
khả ý, hạnh phúc, an lạc.
3. Và này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ
tử thành tựu năm nguồn sanh phước, nguồn sanh thiện này, thời không dễ
gì để nắm lấy một số lượng phước thiện, và nói rằng: "Có chừng ấy nguồn
sanh phước, nguồn sanh thiện, món ăn an lạc, thuộc Thiên giới, là quả
lạc dị thục dẫn đến cõi Trời, đưa đến khả lạc, khả hỷ, khả ý, hạnh phúc,
an lạc". Vì rằng cả khối phước thiện lớn được xem là vô số, vô lượng.
Ví như, này các Tỷ-kheo, trong biển lớn, thật không dễ gì để nắm lấy
một số lượng nước và nói rằng: "Có chừng ấy thùng nước, hay có chừng ấy
trăm thùng nước, hay có chừng ấy ngàn thùng nước, hay có chừng ấy trăm
ngàn thùng nước." Vì rằng cả khối lượng lớn nước được xem là vô số, vô
lượng. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử thành tựu năm nguồn
sanh phước, nguồn sanh thiện này, thời không dễ gì để nắm lấy một số
lượng phước thiện và nói rằng: "Có chừng ấy nguồn sanh phước, nguồn sanh
thiện. món ăn an lạc, thuộc Thiên giới, là quả lạc dị thục đem đến cõi
Trời, đưa đến khả lạc. khả hỷ, khả ý, hạnh phúc, an lạc". Vì rằng cả
khối thiện lớn được xem là vô số, vô lượng.
Biển lớn không hạn lượng,
Hồ lớn nhiều sợ hãi,
Là kho tàng cất giữ,
Vô số lượng châu báu,
Cũng là chỗ trú ẩn;
Vô số các loại cá,
Là chỗ các sông lớn.
Quy tựu chảy ra biển.
Cũng vậy người bố thí,
Ðồ ăn và đồ uống,
Vải mặc và giường nằm,
Chỗ ngồi và thảm nệm,
Bậc Hiền thí như vậy,
Phước đức ùa chạy đến,
Như sông dẫn dòng nước,
Ùa chảy vào biển cả.
(VI) (46) Cụ Túc
- Này các Tỷ-kheo, có năm cụ túc này. Thế nào là năm? Tín cụ túc,
giới cụ túc, văn cụ túc, thí cụ túc, tuệ cụ túc.
Những pháp này, này các Tỷ-kheo là năm cụ túc.
(VII) (47) Tài Vật
1.- Này các Tỷ-kheo, có năm tài sản
này. Thế nào là năm? Tín tài, giới tài, văn tài, thí tài, tuệ tài. Và
này các Tỷ-kheo, thế nào là tín tài?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Thánh
đệ tử có lòng tin, tin tưởng vào sự giác ngộ của Như Lai: "Ðây là Thế
Tôn, Bậc La-hán, Chánh Ðẳng Giác,... Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn". Này
các Tỷ-kheo, đây gọi là tín tài. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là giới
tài?
3. Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Thánh
đệ tử từ bỏ sát sanh... từ bỏ đắm say rượu men, rượu nấu. Này các
Tỷ-kheo, đây gọi là giới tài. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là văn tài?
4. Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Thánh
đệ tử nghe được nhiều... khéo thể nhập với tri kiến. Này các Tỷ-kheo,
đây gọi là văn tai. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là thí tài?
5. Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Thánh
đệ tử sống ở gia đình, tâm không bị cấu uế xan tham chi phối, bố thí
rộng rãi, với bàn tay rộng mở, ưa thích từ bỏ, sẵn sàng để được yêu cầu,
ưa thích phân phát vật bố thí. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là thí tài. Và
này các Tỷ-kheo, thế nào là tuệ tài?
6. Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Thánh
đệ tử có trí tuệ, thành tựu trí tuệ đối với sanh diệt và sự thể nhập bậc
Thánh đưa đến đoạn tận khổ đau. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là tuệ tài.
Các pháp này, này các Tỷ-kheo là năm tài sản.
Ai tin tưởng Như Lai,
Bất động, khéo an trí,
Ai gìn giữ thiện giới,
Thánh ái mộ tán thán.
Ai tịnh tín chúng Tăng,
Ðược thấy bậc Chánh trực,
Người ấy gọi không nghèo,
Mạng sống không trống không.
Do vậy, tín và giới,
Tịnh tín thấy Chánh pháp,
Bậc trí tâm chuyên chú,
Nhớ đến lời Phật dạy.
(VIII). (48) Sự Kiện Không Thể Có Ðược
1.- Này các Tỷ-kheo, có năm sự kiện
này không thể có được bởi Sa-môn hay Bà-la-môn, bởi Ma hay Phạm thiên,
hay bởi một ai ở đời. Thế nào là năm?
2. Phải bị già, muốn khỏi già, là
một sự kiện không thể có được bởi một Sa-môn hay Bà-la-môn, bởi Ma hay
Phạm thiên, hay bởi một ai ở đời. Phải bị bệnh, muốn không bệnh... Phải
bị chết, muốn không chết... Phải hoại diệt, muốn không hoại diệt... Phải
bị tiêu diệt, muốn không tiêu diệt. là một sự kiện không thể có dược
bởi một Sa môn hay Bà la môn, bởi Ma hay Phạm Thiên, hay bởi một ai ở
đời.
3. Với kẻ phàm phu không học, này
các Tỷ-kheo, phải bị già và già đến; khi già đến, kẻ ấy không suy tư:
"Không phải chỉ một mình ta phải bị già và già đến, nhưng đối với loài
hữu tình, có đến, có đi, có diệt, có sanh, tất cả loài hữu tình đều phải
bị già và già đến. Và nếu phải bị già và khi già đến, ta lại sầu, bi,
than khóc, đập ngực, đi đến bất tỉnh, thời ăn uống không làm ta ưa
thích, thân ta trở thành xấu xí; các công việc không có xúc tiến; kẻ thù
sẽ hoan hỷ; bạn bè sẽ lo buồn". Kẻ ấy phải bị già, khi già đến, sầu,
bi, than khóc, đập ngực, đi đến bất tỉnh.
Này các Tỷ-kheo, đây gọi là kẻ phàm phu không học bị mũi tên sầu muộn
tẩm thuốc độc bắn trúng, kẻ ấy tự làm mình ưu não.
4. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, với kẻ
phàm phu, không học phải bị bệnh và bệnh đến... phải bị chết và chết
đến... phải bị hoại diệt và hoại diệt đến... phải bị tiêu diệt và tiêu
diệt đến; khi tiêu diệt đến, kẻ ấy không suy tư: "Không phải chỉ một
mình ta phải bị tiêu diệt và tiêu diệt đến, nhưng đối với các loài hữu
tình, có đến, có đi, có diệt, có sanh, tất cả loài hữu tình đều phải bị
tiêu diệt và tiêu diệt đến. Và nếu phải bị tiêu diệt, và khi tiêu diệt
đến, ta lại sầu, bi, than khóc, đập ngực, đi đến bất tỉnh, thời ăn uống
không làm ta ưa thích; thân ta trở thành xấu xí; công việc không có xúc
tiến, kẻ thù sẽ hoan hỷ, bạn bè sẽ lo buồn". Kẻ ấy phải bị tiêu diệt,
khi tiêu diệt đến, sầu, bi, than khóc, đập ngực, đi đến bất tỉnh.
Này các Tỷ-kheo, đây gọi là kẻ phàm phu không học, bị mũi tên sầu
muộn tẩm thuốc độc bắn trúng, kẻ ấy tự làm mình ưu não.
5. Với vị Thánh đệ tử có học, này
các Tỷ-kheo. phải bị già và già đến; khi già đến, vị ấy suy tư như sau:
"Không phải chỉ một mình ta phải bị già và già đến. Nhưng đối với các
loài hữu tình, có đến, có đi, có diệt, có sanh, tất cả các loài hữu tình
đều phải bị già, và già đến. Và nếu phải bị già và già đến, ta lại sầu,
bi, than khóc, đập ngực, đi đến bất tỉnh, thời ăn uống không làm ta ưa
thích, thân ta trở thành xấu xí; các công việc không có xúc tiến; kẻ thù
sẽ hoan hỷ; bạn bè sẽ lo buồn:. Vị ấy phải bị già, khi già đến, không
sầu, không bi, không than khóc, không đập ngực, không đi đến bất tỉnh.
Này các Tỷ-kheo, đây gọi là vị Thánh đệ tử có học, được nhổ lên là
mũi tên sầu muộn có tẩm thuốc độc, mà kẻ phàm phu không học bị bắn
trúng, tự làm mình ưu não. Không sầu muộn, không bị tên bắn, vị Thánh đệ
tử làm cho chính mình được hoàn toàn tịch tịnh.
6. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, với vị
Thánh đệ tử có học, phải bị bệnh và bệnh đến... phải bị chết và chết
đến... phải bị hoại diệt và hoại diệt đến...phải bị tiêu diệt và tiêu
diệt đến; khi tiêu diệt đến, vị ấy suy tư như sau: "Không phải chỉ một
mình ta phải bị tiêu diệt và tiêu diệt đến. Nhưng đối với các loài hữu
tình, có đến, có đi, có diệt, có sanh, tất cả các loài hữu tình đều phải
bị tiêu diệt và tiêu diệt đến. Và nếu phải bị tiêu diệt, và khi tiêu
diệt đến, ta lại sầu, bi, than khóc, đập ngực, đi đến bất tỉnh, thời ăn
uống không làm ta ưa thích, thân ta trở thành xấu xí; các công việc
không có xúc tiến; kẻ thù sẽ hoan hỷ; bạn bè sẽ lo buồn". Vị ấy phải bị
tiêu diệt, khi tiêu diệt đến. không sầu, không bi, không than khóc,
không đập ngực, không đi đến bất tỉnh.
Này các Tỷ-kheo, đây gọi là vị Thánh đệ tử có học, được nhổ lên là
mũi tên sầu muộn có tẩm thuốc độc mà kẻ phàm phu không học bị bắn trúng,
tự mình làm ưu não. Không sầu muộn, không bị bắn tên, vị Thánh đệ tử
làm cho chính mình hoàn toàn tịch tịnh.
Các pháp này, này các Tỷ-kheo, là năm sự kiện không thể có được bởi
Sa-môn hay Bà-la-môn, bởi Ma hay Phạm thiên, hay bởi một ai ở đời.
Chớ sầu, chớ than khóc,
Lợi ích được thật ít,
Biết nó sầu, nó khổ,
Kẻ địch tự vui sướng.
Do vậy, bậc Hiền trí,
Giữa các sự bất hạnh,
Không hoảng hốt rung sợ,
Biết phân tích, lợi ích.
Kẻ địch bị khổ não,
Thấy sắc diện không đổi,
Với tụng niệm văn chú,
Với lời thật khéo nói,
Với bố thí chân chánh,
Với truyền thống khéo giữ.
Chỗ nào được lợi ích,
Chỗ ấy gắn tinh cần.
Nếu biết lợi không được,
Cả ta và người khác,
Không sầu, biết chịu đựng,
Mong vị ấy nghĩ rằng:
Nay ta phải làm gì?
Phải kiên trì thế nào?
(IX) (49) Người Kosala
1. Một thời, Thế Tôn trú ở Sàvatthi
(Xá-vệ), tại Jetavana (Thắng Lâm), khu vườn ông Anàthapindika. Rồi vua
Pasenadi nước Kosala đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi
ngồi xuống một bên.
Lúc bấy giờ hoành hậu Mallikà mệnh chung. Rồi một người đi đến
Pasenadi nước Kosala; sau khi đến, báo tin kề bên tai vua Pasenadi nước
Kosala: "Tâu Ðại vương, hoàng hậu Mallikà đã mệnh chung". Ðược nghe nói
vậy, vua Pasenadi nước Kosala khổ đau, ưu tư, thụt vai, cúi đầu, sững
sờ, không nói nên lời. Rồi Thế Tôn biết được vua Pasenadi nước Kosala
đang đau khổ, ưu tư, thụt vai, cúi đầu, sững sờ, không nói nên lời, liền
nói với vua Pasenadi nước Kosala:
2. - Thưa Ðại vương, có năm sự kiện
này không thể có được bởi một Sa-môn hay Bà-la-môn, bởi Ma hay Phạm
thiên hay bởi một ai ở đời. Thế nào là năm?
... (Hoàn toàn giống như kinh trước cho đến câu: "... Phải kiên
trì thế nào", với những thay đổi cần thiết nếu có...).
(X) (50) Tôn Giả Nàrada
1. Một thời, Tôn giả Nàrada trú ở
Pàtaliputta tại khu vườn Kukkuta (Kê Viên). Lúc bấy giờ, hoàng hậu
Bhaddà của vua Munda mệnh chung, được ái luyến thương yêu. Vì quá thương
yêu hoàng hậu Bhaddà, vua không tắm rửa, không thoa dầu, không ăn uống,
không lo các công việc, ngày đêm sầu muộn, ôm ấp thân của hoàng hậu
Bhaddà. Rồi vua Munda bảo Piyaka, người giữ kho bạc:
- Này Piyaka, hãy đặt thân hoàng hậu Bhaddà vào trong một hòm sắt
đựng đầy dầu, và đậy lại với một hòm bằng sắt khác; nhờ vậy chúng ta có
thể thấy thân hoàng hậu Bhaddà lâu hơn.
- Thưa vâng, tâu Ðại vương.
Piyaka, người giữ kho bạc vâng đáp vua Munda, đặt thân hoàng hậu
Bhaddà vào trong một hòm sắt đều đầy dầu, và đậy lại với một hòm bằng
sắt khác. Rồi Piyaka, vị giữ kho bạc cho vua nghĩ như sau: "Hoàng hậu
Bhaddà của vua Munda này đã mệnh chung, được ái luyến thương yêu, vì quá
thương yêu hoàng hậu Bhaddà, vua không tắm rửa, không thoa dầu, không
ăn uống, không lo các công việc, ngày đêm sầu muộn, ôm ấp thân của hoàng
hậu Bhaddà. Hãy để vua Munda đến yết kiến một vị Sa-môn hay Bà-la-môn,
sau khi nghe pháp từ vị ấy, có thể bỏ được mũi tên sầu muộn". Rồi
Piyaka, người giữ kho bạc nghĩ như sau: "Có Tôn giả Nàrada này trú ở
Pàtaliputta, tại khu vườn Kukkuta. Tiếng đồn tốt đẹp sau đây được truyền
đi về Tôn giả Nàrada: "Bậc Hiền trí, thông minh, bậc trí giả, được nghe
nhiều, khéo nói, thiện biện tài, bậc Trưởng lão, bậc A-la-hán". Hãy để
vua Munda đến yết kiến Tôn giả Nàrada. Sau khi nghe pháp từ vị ấy, vua
có thể gạt bỏ mũi tên sầu muộn". Rồi Piyaka, người giữ kho bạc đi đến
vua Munda, sau khi đến, nói với vua Munda:
-Tâu Ðại vương, có Tôn giả Nàrada nay trú ở Pàtaliputta, tại khu vườn
Kukkuta. Tiếng đồn tốt đẹp sau đây được truyền đi về Tôn giả Nàrada:
"Bậc Hiền trí, thông minh, bậc trí giả, được nghe nhiều, khéo nói, thiện
biện tài, bậc Trưởng lão, bậc A-la-hán". Nếu Ðại vương yết kiến Tôn giả
Nàrada, rất có thể, sau khi nghe pháp từ Tôn giả Nàrada, Ðại vương có
thể gạt bỏ mũi tên sầu muộn.
- Vậy này Piyaka, hãy tin cho Tôn giả Nàrada được biết.
Rồi vua nghĩ: "Làm sao ta tự nghĩ, một người như ta, phải đến thăm
như thế nào một Sa-môn hay Bà-la-môn sống ở trong quốc độ, từ trước chưa
được ai biết?"
- Thưa vâng, tâu Ðại vương
Pijaka, người giữ kho bạc vâng đáp vua Munda; đi đến Tôn giả Nàrada,
sau khi đến, đảnh lễ Tôn giả Nàrasa rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống
một bên, Piyaka, vị giữ kho bạc bạch Tôn giả Nàrada:
Hoàng hậu Bhaddà của vua Munda, thưa Tôn giả, đã mệnh chung, được ái
luyến, thương yêu. Vì quá thương yêu hoàng hậu Bhaddà, nên vua không
tắm, không thoa dầu, không ăn uống, không lo các công việc, ngày đêm sầu
muộn, ôm ấp thân hoàng hậu Bhaddà. Lành thay, Nếu Tôn giả Nàrada thuyết
pháp cho vua Munda như thế nào để vua Mundasau khi nghe pháp từ Tôn giả
Nàrada, có thể gạt bỏ mũi tên sầu muộn.
- Này Piyaka, nay là thời để vua Munda làm những gì vua nghĩ là phải
thời.
Rồi Piyaka, người giữ kho bạc, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ tôn giả
Nàrada, thân bên hữu hướng về ngài rồi ra đi, và đi đến vua Munda; sau
khi đến, thưa với vua Munda:
- Tâu Ðại vương, cơ hội đã được sắp đặt với Tôn giả Nàrada. Này Ðại
vương hãy làm những gì Ðại vương nghĩ là phải thời.
- Vậy này Piyaka, hãy cho thắng các cỗ xe tốt đẹp.
- Thưa vâng, tâu Ðại vương.
Pikaka, người giữ kho bạc vâng đáp vua Munda, cho thắng các cỗ xe tốt
đẹp, rồi thưa với vua Munda:
- Tâu Ðại vương, các cỗ xe tốt đẹp đã thắng xong. Nay Ðại vương hãy
làm những gì Ðại vương nghĩ là phải thời.
2. Rồi vua Munda leo lên cỗ xe tốt
đẹp, cùng với các cỗ xe tốt đẹp khác đi đến khu vườn Kukkuta với uy nghi
oai lực của nhà vua để yết kiến Tôn giả Nàrada. Vua đi xe xa cho đến
đường đất xe có thể đi được, rồi xuống xe, đi bộ vào khu vườn. Rồi vua
Munda đi đến Tôn giả Nàrada, sau khi đến, đảnh lễ Tôn giả Nàrada rồi
ngồi xuống một bên. Rồi Tôn giả Nàrada nói với vua đang ngồi một bên.
- Thưa Ðại vương, có năm sự kiện này không thể có được bởi một
Sa-môn, hay Bà-la-môn, bởi Ma hay Phạm thiên, hay bởi một ai ở đời. Thế
nào là năm?
3. Bị già và muốn không già, là một
sự kiện không thể có được bởi một Sa-môn hay Bà-la-môn, bởi Ma hay Phạm
thiên, hay bởi một ai ở đời. Bị bệnh và muốn không bệnh... bị chết và
muốn không chết... bị hoại diệt và muốn không hoại diệt... bị hoại diệt
và muốn không tiêu diệt, là một sự kiện không thể có được bởi một Sa-môn
hay Bà-la-môn, bởi Ma hay Phạm thiên, hay bởi một ai ở đời.
4. Với phàm phu không học, thưa Ðại
vương, phải bị già và già đến; và khi già đến, kẻ ấy không suy tư:
"Không phải chỉ một mình ta phải bị già và già đến. Nhưng đối với loài
hữu tình, có đến, có đi, có diệt, có sanh, tất cả loài hữu tình đều phải
bị già và già đến. Và nếu phải bị già và khi già đến, ta lại sầu, bi,
than khóc, đập ngực, đi đến bất tỉnh, thời ăn uống, không làm ta ưa
thích; thân ta trở thành xấu xí; các công việc không có xúc tiến, kẻ thù
sẽ hoan hỷ; bạn bè sẽ lo buồn". Kẻ ấy phải bị già, khi già đến, sầu,
bi, than khóc, đập ngực, đi đến bất tỉnh.
Thưa Ðại Vương, đây gọi là kẻ phàm phu không học bị mũi tên sầu muộn
tẩm thuốc độc bắn trùng, kẻ ấy tự làm mình ưu não.
5. Lại nữa, thưa Ðại vương, với kẻ
phàm phu không học, phải bị bệnh và bệnh đến... phải bị chết và chết
đến... phải bị hoại diệt và hoại diệt đến... phải bị tiêu diệt và tiêu
diệt đến; khi tiêu diệt đến, kẻ ấy không suy tư: "Không phải chỉ một
mình ta phải bị tiêu diệt và tiêu diệt đến. Nhưng đối với các loài hữu
tình có đến, có đi, có diệt, có sanh, tất cả loài hữu tình đều phải bị
tiêu diệt và tiêu diệt đến. Và nếu phải bị tiêu diệt, khi tiêu diệt đến,
ta lại sầu, bi, than khóc, đập ngực, đi đến bất tỉnh, thời ăn uống
không làm ta ưa thích; thân ta trở thành xấu xí; các công việc không có
xúc tiến; kẻ thù sẽ hoan hỷ, bạn bè sẽ lo buồn". Kẻ ấy phải bị tiêu
diệt, khi tiêu diệt đến, sầu, bi than khóc, đập ngực, đi đến bất tỉnh.
Thưa Ðại vương, đây gọi là kẻ phàm phu không học bị mũi tên sầu muộn
tẩm thuốc độc bắn trúng, vị ấy tự làm mình ưu não.
6. Với vị Thánh đệ tử có học, thưa
Ðại vương, bị già đến; và già đến; khi già đến, vị ấy có suy tư: "Không
phải chỉ một mình ta phải bị già và già đến. Nhưng đối với các loài hữu
tình có đến, có đi; có diệt, có sanh, tất cả các loài hữu tình đều phải
bị già và già đến. Và nếu phải bị già và khi già đến, ta lại sầu, bi,
than khóc, đập ngực, đi đến bất tỉnh, thời ăn uống không làm ta ưa
thích; thân ta trở thành xấu xí; các công việc không có xúc tiến; kẻ thù
sẽ hoan hỷ; bạn bè sẽ lo buồn". Vị ấy phải bị già, khi già đến, không
sầu, không bi, không than khóc, không đập ngựa, không đi đến bất tỉnh.
Thưa Ðại vương, đây gọi là vị Thánh đệ tử có học, được nhổ lên là mũi
tên sầu muộn có tẩm thuốc độc, mà kẻ phàm phu không học bị bắn trúng,
tự làm mình ưu não. Không sầu muộn, không bị tên bắn trúng, vị Thánh đệ
tử tự làm mình được hoàn toàn tịch tịnh.
7. Lại nữa, thưa Ðại vương, với vị
Thánh đệ tử có học phải bị bệnh và bệnh đến... phải bị chết và chết
đến... phải bị hoại diệt và hoại diệt đến... phải bị tiêu diệt và tiêu
diệt đến; khi tiêu diệt đến, vị ấy có suy tư: "Không phải chỉ một mình
ta phải bị tiêu diệt và tiêu diệt đến. Nhưng đối với các loài hữu tình,
có đến, có đi, có diệt, có sanh, tất cả các loài hữu tình đều phải bị
tiêu diệt và tiêu diệt đến. Và nếu phải bị tiêu diệt và khi tiêu diệt
đến, ta lại sầu, bi, than khóc, đập ngực, đi đến bất tỉnh, thời ăn uống
không làm ta ưa thích, thân ta trở thành xấu xí; các công việc không có
xúc tiến; kẻ thù sẽ hoan hỷ; bạn bè sẽ lo buồn". Vị ấy phải bị tiêu
diệt, khi tiêu diệt đến không sầu, không bi, không than khóc, không đập
ngực, không đi đến bất tỉnh.
Thưa Ðại vương, đây gọi là vị Thánh đệ tử có học, được nhổ lên là mũi
tên sầu muộn có tẩm thuốc độc mà kẻ phàm phu không học bị bắn trúng, tự
làm mình ưu não. Không sầu muộn, không bị tên bắn, vị Thánh đệ tử tự
làm mình được hoàn toàn tịch tịnh.
Các pháp này, thưa Ðại vương, là năm sự kiện không thể có được bởi
Sa-môn hay Bà-la-môn, bởi Ma hay Phạm thiên, hay bởi một ai ở đời.
Không sầu, không than khóc,
Lợi ích được thật ít,
Biết nó sầu, nó khổ,
Kẻ địch tự vui sướng.
Do vậy, bậc Hiền trí,
Giữa các sự bất hạnh,
Không hoảng hốt run sợ,
Biết phân tích lợi ích.
Kẻ địch bị khổ não,
Thấy sắc diện không đổi,
Với tụ niệm văn chú,
Với lời thật khéo nói,
Với bố thí chơn chánh,
Với truyền thống khéo giữ,
Chỗ nào được lợi ích,
Chỗ ấy gắn tinh cần.
Nếu biết lợi không được,
Cả ta và người khác,
Không sầu, biết chịu đựng,
Mong vị ấy nghĩ rằng:
Nay ta phải làm gì?
Phải kiên trì thế nào?
8. Sau khi được nghe như vậy, vua
Munda thưa với Tôn giả Nàrada:
- Thưa Tôn giả, pháp thoại này tên gì?
- Thưa Ðại vương, pháp thoại này tên là "Nhổ lên mũi tên sầu muộn".
- Thật vậy, thưa Tôn giả, được nhổ lên là mũi tên sầu muộn! Khi con
nghe pháp thoại này, mũi tên sầu muộn đã được đoạn tận.
Rồi vua Munda bảo Piyaka, vị gìn giữ kho bạc:
- Này Piyaka, hãy cho thiêu đốt thân của hoàng hậu Bhaddà, rồi xây
tháp cho hoàng hậu. Bắt đầu từ hôm sau, chúng ta sẽ tắm rửa, sẽ thoa
dầu, sẽ ăn cơm, sẽ lo làm các công việc.
VI. Phẩm Triền Cái
(I) (51) Ngăn Chặn
1.
Như vậy tôi nghe:
Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, khu vườn của ông
Anàthapindika. Tại đấy, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo:
- Này các Tỷ-kheo.
- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Các vị Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau:
2. - Có năm chướng ngại, triền cái
này, này các Tỷ-kheo, bao phủ tâm, làm yếu ớt trí tuệ. Thế nào là năm?
3. Dục tham, này các Tỷ-kheo, là
chướng ngại triền cái boa phủ tâm, làm yếu ớt trí tuệ. Sân, này các
Tỷ-kheo, là chướng ngại triền cái bao phủ tâm làm yếu ớt trí tuệ. Hôn
trầm thụy miên, này các Tỷ-kheo, là chướng ngại, triền cái bao phủ tâm,
làm yếu ớt trí tuệ. Trạo hối, này các Tỷ-kheo, là chướng ngại, triền cái
bao phủ tâm, làm yếu ớt trí tuệ. Nghi, này các Tỷ-kheo, là chướng ngại,
triền cái bao phủ tâm, làm yếu ớt trí tuệ.
Những pháp này, này các Tỷ-kheo, là năm chướng ngại, triền cái bao
phủ tâm, làm yếu ớt trí tuệ.
4. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy không
đoạn tận năm chướng ngại triền cái này bao phủ tâm, làm yếu ớt trí tuệ.
Không có sức mạnh, và trí tuệ yếu kém, sẽ biết lợi ích của mình, hay sẽ
biết lợi ích của người, hay có thể biết lợi ích của cả hai, hay sẽ
chứng ngộ được pháp Thượng nhân, tri kiến thù thắng xứng đáng bậc Thánh;
sự kiện này không xảy ra.
Ví như, này các Tỷ-kheo, một con sông chảy, từ núi xuống, chảy thật
xa, dòng chảy nhanh cuốn trôi mọi vật. Rồi có người lấy cày mở hai bên
bờ sông. Như vậy, này các Tỷ-kheo, dòng sông ấy ở chặng giữa bị trở
ngại, tràn rộng, bị chuyển hướng, không còn chảy ra xa, không còn chảy
nhanh, không cuốn trôi mọi vật.
Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy không đoạn tận năm chướng ngại
triền cái này bao phủ tâm, làm yếu ớt trí tuệ. Không có sức mạnh và trí
tuệ yếu kém, sẽ biết được lợi ích của mình, của cả hai, sẽ chứng ngộ
được pháp thượng nhân, trí kiến thù thắng, xứng đáng bậc Thánh; sự kiện
này không xảy ra.
5. Này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo ấy,
sau khi đoạn tận năm chướng ngại triền cái này bao phủ tâm, làm yếu ớt
trí tuệ. Có sức mạnh và có trí tuệ, sẽ biết được lợi ích của mình, hay
sẽ biết lợi ích của người, hay sẽ biết được lợi ích cả hai, sẽ chứng ngộ
được pháp thượng nhân, tri kiến thù thắng, xứng đáng bậc Thánh; sự kiện
này có xảy ra.
Ví như, này các Tỷ-kheo, một con sông chảy từ núi xuống, chảy thật
xa, dòng nước chảy nhanh, cuốn trôi mọi vật. Có người chận đóng lại các
cửa miệng hai bên bờ sông. Như vậy, này các Tỷ-kheo, dòng sông ấy ở
chặng giữa không bị trở ngại, không có chảy tràn, không bị chuyển hướng,
chảy được thật xa, dòng nước chảy nhanh, cuốn trôi mọi vật. Cũng vậy,
này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy sau khi đoạn tận năm chướng ngại triền cái
này bao phủ tâm, làm yếu ớt trí tuệ, có sức mạnh, có trí tuệ, sẽ biết
được lợi ích mình hay sẽ biết được lợi người, hay có thể biết lợi cả
hai, sẽ chứng ngộ được pháp thượng nhân, tri kiến thù, thắng, xứng đáng
bậc Thánh; sự kiện này có xảy ra.
(II) (52) Ðống
1. - Nói đến một đống bất thiện, này
các Tỷ-kheo, nói một cách chơn chánh là nói đến năm triền cái. Thật
vậy, này các Tỷ-kheo, toàn bộ đống triền cái. Thật vậy, này các Tỷ-kheo,
toàn bộ đống bất thiện tức là năm triền cái. Thế nào là năm?
2. Dục tham triền cái, sân triền
cái, hôn trầm thụy miên triền cái, trạo hối triền cái, nghi triền cái.
Nói đến một đống bất thiện, này các Tỷ-kheo, nói một cách chơn chánh
là nói đến năm triền cái. Thật vậy, này các Tỷ-kheo, toàn bộ đống bất
tiện này, này các Tỷ-kheo, tức là năm triền cái.
(III) (53) Các Chi Phần
1. - Này các Tỷ-kheo, có năm chi
phần tinh cần này. Thế nào là năm?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị
Tỷ-kheo có lòng tin, tin tưởng ở sự giác ngộ của Như Lai: "Ðây là Thế
Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, Minh Hạnh Túc. Thiện Thệ, Thế Gian
Giải, Vô Thượng Sĩ, điều Ngự Trượng Phu, Phật, Thế Tôn. Ngài ít bệnh, ít
não, sự tiêu hóa được điều hòa, không lạnh quá, không nóng quá, trung
bình hợp với tinh tấn. Ngài không lừa đảo, dối gạt, nêu rõ mình như chân
đối với bậc Ðạo sư, đối với các vị sáng suốt hay đối với các vị đồng
Phạm hạnh. Ngài sống tinh cần tinh tấn, từ bỏ các pháp bất thiện, thành
tự các thiện pháp, kiên trì, nỗ lực, không tránh né đối với các thiện
pháp. Ngài có trí tuệ, thành tựu trí tuệ hướng đến sanh diệt (của các
Pháp), thành tựu thánh thể nhập, đưa đến chơn chánh đoạn diệt khổ đau."
Các pháp này, này các Tỷ-kheo, là năm chi phần tinh cần.
(IV) (54) Thời Gian Ðể Tinh Cần
1.- Có năm phi thần để tinh cần, này
các Tỷ-kheo. Thế nào là năm?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
già yếu, bị già chinh phục. Này các Tỷ-kheo, đây là phi thời thứ nhất để
tinh cần.
3. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
bệnh hoạn, bị bệnh hoạn chinh phục. Này các Tỷ-kheo, đây là phi thời
thứ hai để tinh cần.
4. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, khi có
nạn đói, mất mùa, đồ ăn khất thực khó được, không dễ gì để nuôi sống
bằng khất thực nỗ lực. Này các Tỷ-kheo, đây là thời gian phi thời thứ ba
để tinh cần.
5. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, có sự
sợ hãi về giặc cướp rừng, dân chúng trong nước leo lên xe đi trốn. Này
các Tỷ-kheo, đây là phi thời thứ tư để tinh cần.
6. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, chúng
Tăng bị chia rẽ. Khi chúng Tăng bị chia rẽ, này các Tỷ-kheo, có sự mắng
nhiếc lẫn nhau, có sự đấu khẩu lẫn nhau, có sự kết tội lẫn nhau, có sự
tẩn xuất lẫn nhau. Ai không có tịnh tín, không tìm được tịnh tín, và
những ai có tịnh tín có thể đổi khác. Này các Tỷ-kheo, đây là phi thời
thứ năm để tinh cần.
Các pháp này, này các Tỷ-kheo, là năm phi thời để tinh cần.
7. Này các Tỷ-kheo, có năm đúng thời
này để tinh cần. Thế nào là năm?
8. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
còn trẻ, niên thiếu, còn thanh niên, tóc đen nhánh, trong tuổi thanh
xuân, trong sơ kỳ tuổi đời. Này các Tỷ-kheo, đây là đúng thời thứ nhất
để tinh cần.
9. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
ít bệnh, ít não, sự tiêu hóa được điều hòa, không quá lạnh, không quá
nóng, trung bình, hợp với tinh tấn. Này các Tỷ-kheo, đây là đúng thời
thứ hai để tinh cần.
10. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, khi ăn
uống được đấy đủ, được mùa, đồ ăn khất thực kiếm được thật dễ dàng để
nuôi sống bằng khất thực nỗ lực. Này các Tỷ-kheo, đây là đúng thời thứ
ba để tinh cần.
11. Lại nữa, này các Tỷ kheo, các
Thầy sống với nhau thuận hoà, thân hữu, không cãi lộn nhau, hoà hợp như
nước với sữa, nhìn nhau với cặp mắt ái kính. Này các Tỷ kheo, đây là
đúng thời thứ tư để tinh cần.
12. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, chúng
Tăng hoà hợp, cùng nhau hòa hợp, không tranh luận nhau, sống thoải mái
cùng chung một lời dạy. Này các Tỷ-kheo, giữa chúng Tăng hòa hợp, không
có mắng nhiếc lẫn nhau, không có đấu khẩu lẫn nhau, không có kết tội lẫn
nhau, không có sự tẩn xuất lẫn nhau. Ở đây, những ai không có tịnh tín,
tìm được tịnh tín, những ai có tịnh tín, được tăng trưởng nhiều hơn.
Này các Tỷ-kheo, đây là đúng thời thú năm để tinh cần.
Những pháp này, này các Tỷ-kheo, là năm đúng thời để tinh cần.
(V) (55) Mẹ Và Con
1. Một thời, Thế Tôn trú ở Sàvatthi
tại Jetavana, khu vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ, tại Sàvatthi, cả
hai mẹ và con đều an cư vào mùa mưa, nhân danh Tỷ-kheo và Tỷ-kheo-ni, họ
thường xuyên muốn thấy mặt nhau. Mẹ thường xuyên muốn thấy mặt con, và
con cũng thường xuyên muốn thấy mặt mẹ. Vì họ luôn luôn thấy nhau, nên
có sự liên hệ. Do có sự liên hệ, nên có sự thân mật. Do có sự thân mật,
nên có sự sa ngã. Với tâm sa ngã, buông bỏ sự học tập, làm lộ liễu sự
yếu đuối, họ rơi vào thông dâm với nhau.
2. Rồi một số đông Tỷ-kheo đi đến
Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống
một bên, các Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn:
- Ở đây, bạch Thế Tôn, tại Sàvatthi, cả hai mẹ con cùng an cư vào mùa
mưa, nhân danh Tỷ-kheo và Tỷ-kheo-ni, họ thường xuyên muốn thấy mặt
nhau, mẹ thường xuyên muốn thấy mặt con và con cũng thường xuyên muốn
thấy mặt mẹ. Vì họ thường xuyên thấy nhau, nên có sự liên hệ. Do có sự
liên hệ, nên có sự thân mật. Do có thân mật, nên có sự sa ngã. Với tâm
sa ngã, buông bỏ sự học tập, làm lộ liễu sự yếu đuối, họ rơi vào thông
dâm với nhau.
3.- Sao, này các Tỷ-kheo, kẻ ngu si
này lại nghĩ rằng: "Mẹ không tham đắm con, hay con không tham đắm mẹ"?
Này các Tỷ-kheo, Ta không thấy một sắc nào khác lại khả ái như vậy, đẹp
đẽ như vậy, mê ly như vậy, trói buộc như vậy, say sưa như vậy, chướng
ngại như vậy cho sự đạt đến an ổn khỏi các khổ ách, tức là, này các
Tỷ-kheo, sắc đẹp của nữ nhân. Và này các Tỷ-kheo, loài hữu tình nào ái
nhiễm, tham luyến, tham đắm, say đắm, say mê, sắc đẹp của nữ nhân, chúng
sẽ sầu ưu lâu dài, vì bị rơi vào uy lực nữ sắc.
Này các Tỷ-kheo, Ta không thấy một tiếng nào khác... một hương nào
khác... một vị nào khác... một xúc nào khác lại khả ái như vậy, đẹp đẽ
như vậy, mê ly như vậy, trói buộc như vậy, say sưa như vậy, chướng ngại
như vậy cho sự đạt đến an ổn khỏi các khổ ách, tức là, này các Tỷ-kheo,
cảm xúc của nữ nhân. Và này các Tỷ-kheo, loài hữu tình nào ái nhiễm,
tham luyến, tham đắm, say đắm, say mê cảm xúc nữ nhân, chúng sẽ bị sầu
ưu lâu dài, vì bị rơi vào uy lực của nữ xúc. Nữ nhân, khi đang đi, sẽ
đứng lại để chinh phục tâm người đàn ông; khi đứng, khi ngồi, khi nằm,
khi cười, khi nói, khi hát, khi khóc, khi bất tỉnh, khi chết, sẽ đứng
lại để chinh phục tâm người đàn ông.
Này các Tỷ-kheo, nếu có ai nói rằng: "Là bẩy mồi toàn diện của Màra",
thời người ấy đã nói một cách chơn chánh về nữ nhân, thật là "một bẩy
mồi hoàn toàn của Màra".
Hãy nói chuyện với người,
Có kiếm ở trong tay,
Nói chuyện với ác quỷ,
Hay ngồi thật gần kề.
Con rắn có nọc độc,
Bị cắn liền mệnh chung,
Nhưng chớ có một mình,
Nói chuyện với nữ nhân.
Thất niệm, họ trói lại,
Với nhìn, với nụ cười,
Với xiêm áo hở hang,
Với lời nói ngọt lịm,
Người ấy vẫn không thỏa,
Bất tỉnh bị mệnh chung.
Năm dục công đức ấy,
Ðược thấy trong nữ sắc
Sắc, thanh, hương, vị, xúc,
Hấp dẫn và đẹp ý.
Bị thác nước dục vọng,
Tràn ngập và cuốn trôi,
Kẻ ngu si vô trí,
Không liễu tri các dục.
Loài người khi mạng chung,
Sanh thú hữu, phi hữu,
Họ phải bị dẫn đầu,
Trong nhiều kiếp luân hồi.
Ai liễu tri các dục,
Sở hành không sợ hãi,
Họ đến bờ bên kia,
Ðạt được lậu hoặc tận.
(VI) (56) Thân Giáo Sư
1. Rồi một Tỷ-kheo đi đến vị giáo
thọ của mình, sau khi đến, thưa với vị giáo thọ của mình như sau:
- Bạch Thượng tọa, nay thân con cảm thấy như bị say ngọt, con không
thấy rõ phương hướng, pháp không được con nhớ đến. Hôn trầm thụy miên
chinh phục tâm con và an trú. Không có hoan hỷ, con sống Phạm hạnh. Con
có những nghi ngờ đối với Chánh pháp.
2. Rồi Tỷ-kheo ấy đem theo một vị
Tỷ-kheo cộng trú, đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi
xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo này nói như sau: "Bạch Thế Tôn, thân con cảm
thấy như bị say ngọt, mắt con không thấy rõ phương hướng, pháp không
được con nhớ đến. Hôn trầm thụy miên chinh phục tâm con và an trú. Không
có hoan hỷ, con sống Phạm hạnh. Con có những nghi ngờ đối với Chánh
pháp".
3.- Sự việc là vậy, này Tỷ-kheo, khi
một người sống với các căn không được bảo vệ, với ăn uống không có tiết
độ, không có chú tâm cảnh giác, không có quán nhìn các thiện pháp,
không có trước đêm và sau đêm chuyên chú tu tập các pháp giác chi. Do
vậy, thân Thầy cảm thấy như bị say ngọt, mắt Thầy không thấy rõ phương
hướng, pháp không được Thầy nhớ đến. Hôn trầm thụy miên chinh phục tâm
Thầy và an trú. Không có hoan hỷ, Thầy sống Phạm hạnh. Thầy có những
nghi ngờ đối với Chánh pháp. Do vậy, này Tỷ-kheo, Thầy phải học tập như
sau: "Ta sẽ bảo vệ các căn, có tiết độ trong ăn uống, chú tâm cảnh giác,
quản nhìn các Thiện pháp, trước đêm và sau đêm ta sẽ sống chuyên chú tu
tập các pháp giác chi".
Như vậy, này các Tỷ-kheo, các Thầy cần phải học tập.
4. Rồi Tỷ-kheo ấy được Thế Tôn giáo
giới với lời giáo giới này, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Thế Tôn, thân
phía hữu hướng về Ngài rồi ra đi. Rồi Tỷ-kheo ấy sống một mình, an tịnh,
không phóng dật, nhiệt tâm, tin cần, không bao lâu chứng được mục đích
mà các thiện nam tử chơn chánh xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia
đình, chính là vô thượng cứu cánh Phạm hạnh, ngay trong hiện tại, tự
mình với thắng trí, chứng đạt và an trú. Vị ấy hoàn toàn liễu tri: "Sanh
đã tận, Phạm hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm, không có trở lui
trạng thái này nữa". Tỷ-kheo ấy trở thành một vị A-la-hán.
Rồi Tỷ-kheo đã chứng đắc A-la-hán ấy đi đến vị giáo thọ sư của mình,
sau khi đến, thưa với vị giáo thọ sư của mình:
5.- Bạch Thượng tọa, nay thân con
không cảm thấy như bị say ngọt, mắt con thấy rõ các phương hướng. Pháp
được con nhớ rõ. Với tâm hoan hỷ, con sống Phạm hạnh, Con không còn nghi
nhờ đối với các thiện pháp.
6. Rồi Tỷ-kheo ấy đem theo một
Tỷ-kheo cộng trú; đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi
xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn:
-Bạch Thế Tôn, vị Tỷ-kheo này nói như sau: "Bạch Thế tôn, nay thân
con không cảm thấy như bị say ngọt, con thấy rõ các phương hướng, pháp
được con nhớ rõ. Với tâm hoan hỷ, con sống Phạm hạnh. Con không còn nghi
ngờ đối với các thiện pháp".
7.- Như vậy là phải, này Tỷ-kheo,
khi một người sống với các căn được bảo vệ, với ăn uống có tiết độ, có
chú tâm cảnh giác, có quán nhìn các thiện pháp, trước đêm và sau đêm
sống chuyên chú tu tập các pháp giác chi. Do vậy, thân không cảm thấy
như bị say ngọt, các phương hướng được hiện rõ, và pháp được người ấy
nhớ rõ. Hôn trầm thụy miên không còn chinh phục tâm của vị ấy. Với tâm
hoan hỷ, vị ấy sống Phạm hạnh. Vị ấy không còn nghi ngờ đối với các
thiện pháp. Vậy này các Tỷ-kheo, các Thầy cần phải học tập như sau: "Ta
sẽ bảo vệ các căn, có tiết độ trong ăn uống, chuyên tâm cảnh giác quán
nhìn các thiện pháp, trước đêm và sau đêm, ta sẽ sống chuyên chú tu tập
các pháp giác chi".
Như vậy, này các Tỷ-kheo, các Thầy cần phải học tập.
(VII) (57) Sự Kiện Cần Phải Quan Sát
1.- Có năm sự kiện này, này các
Tỷ-kheo, cần phải thường xuyên quán sát bởi nữ nhân hay nam nhân, bởi
tại gia hay xuất gia. Thế nào là năm?
2. "Ta phải bị già, không thoát khỏi
già" là sự kiện cần phải thường xuyên quán sát bởi nữ nhân hay nam
nhân, bởi tại gia hay xuất gia. "Ta phải bị bệnh, không thoát khỏi bệnh"
là sự kiện cần phải thường xuyên quán sát bởi nữ nhân hay nam nhân, bởi
tại gia hay xuất gia. "Ta phải bị chết, không thoát khỏi chết" là sự
kiện cần phải thường xuyên quán sát bởi nữ nhân hay nam nhân, bởi tại
gia hay xuất gia. "Tất cả pháp khả ái, khả ý đối với ta sẽ phải đổi khác
sẽ phải biến diệt", là sự kiện cần phải thường xuyên quán sát bởi nữ
nhân hay nam nhân, bởi tại gia hay xuất gia. "Ta là chủ nhân của nghiệp,
là thừa tự của nghiệp, nghiệp là thai tạng, nghiệp là quyến thuộc,
nghiệp là điểm tựa. Phàm nghiệp nào ta sẽ làm thiện hay ác, ta sẽ thừa
tự nghiệp ấy" là sự kiện cần phải
thường xuyên quán sát bởi nữ nhân hay nam nhân, bởi tại gia hay xuất
gia. Và do duyên lợi ích như thế nào, này các Tỷ-kheo, "Ta phải bị già,
không thoát khỏi già", là sự kiện cần phải thường xuyên quán sát bởi nữ
nhân hay nam nhân, bởi tại gia hay xuất gia.
3. Có những loài hữu tình, này các
Tỷ-kheo, đang còn trẻ, kiêu mãn trong tuổi trẻ, say đắm trong kiêu mạn
ấy, thân làm ác, miệng nói ác, ý nghĩ ác. Do vị ấy thường xuyên quán sát
sự kiện này, sự kiêu mạn tuổi trẻ trong tuổi trẻ được hoàn toàn đoạn
tận hay được giảm thiểu.
Do duyên lợi ích này, này các Tỷ-kheo, "Ta phải bị già, không thoát
khỏi già", cần phải thường xuyên quán sát như vậy bởi nữ nhân hay nam
nhân, bởi tại gia hay xuất gia. Do duyên lợi ích như thế nào, này các
Tỷ-kheo, "Ta phải bị bệnh, ta không thoát khỏi bệnh" là sự kiện cần phải
thường xuyên quán sát bởi nữ nhân hay nam nhân, bởi tại gia hay xuất
gia?
4. Có những loài hữu tình khỏe mạnh,
này các Tỷ-kheo, kiêu mạn trong khỏe mạnh. Do say đắm trong kiêu mạn
ấy, thân làm ác, miệng nói ác, ý nghĩ ác. Do vị ấy thường xuyên quán sát
sự kiện này, sự kiêu mạn khỏe mạnh trong khỏe mạnh được hoàn toàn đoạn
tận hay được giảm thiểu.
Do duyên lợi ích này, này các Tỷ-kheo, "Ta phải bị bệnh, không thoát
khỏi bệnh" cần phải thường xuyên quán sát như vậy bởi nữ nhân hay nam
nhân, bởi tại gia hay xuất gia. Do duyên lợi ích như thế nào, này các
Tỷ-kheo, "Ta phải bị chết, ta không thoát khỏi chết", là sự kiện cần
phải thường xuyên quán sát bởi nữ nhân hay nam nhân, bởi tại gia hay
xuất gia?
5. Có những lời hữu tình đang sống,
này các Tỷ-kheo, kiêu mạn trong sự sống. Do say đắm trong kiêu mạn ấy,
thân làm ác, miệng nói ác, ý nghĩ ác. Do vị ấy thường xuyên quán sát sự
kiện này, sự kiêu mạn sự sống trong sự sống được hoàn toàn đoạn tận hay
được giảm thiểu.
Do duyên lợi ích này, này các Tỷ-kheo, "Ta phải bị chết, không thoát
khỏi chết", cần phải thường xuyên quán sát như vậy bởi nữ nhân hay nam
nhân, bởi tại gia hay xuất gia. Do duyên lợi ích như thế nào, này các
Tỷ-kheo, "Tất cả pháp khả ái, khả hỷ đối với ta sẽ phải đổi khác, sẽ
phải biến diệt" là sự kiện cần phải thường xuyên quán sát bởi nữ nhân
hay nam nhân, bởi tại gia hay xuất gia?
6. Có những loài hữu tình, này các
Tỷ-kheo, có lòng tham dục đối với các vật khả ái. Do say đắm với lòng
tham dục ấy, thân làm ác, miệng nói ác, ý nghĩ ác Do vị ấy thường xuyên
quán sát sự kiện ấy, nên tham dục đối với các vật khả ái được đoạn tận
hoàn toàn hay được giảm thiểu.
Do duyên lợi ích này, này các Tỷ-kheo, "Tất cả pháp khả ái, khả hỷ
đối với ta sẽ phải đổi khác, phải biến diệt" là sự kiện cần phải thường
xuyên quán sát bởi nữ nhân hay nam nhân, bởi tại gia hay xuất gia. Và do
duyên lợi ích như thế nào, này các Tỷ-kheo, "Ta là chủ nhân của nghiệp,
là thừa tự của nghiệp, nghiệp là thai tạng, nghiệp là quyến thuộc,
nghiệp là điểm tựa. Phàm nghiệp nào ta sẽ làm, thiện hay ác, ta sẽ thừa
tự nghiệp ấy" là sự kiện cần phải thường xuyên quán sát bởi nữ nhân hay
nam nhân, bởi tại gia hay xuất gia?
7. Có những loài hữu tình, này các
Tỷ-kheo, thân làm ác, miệng nói ác, ý nghĩ ác. Do vị ấy thường xuyên
quán sát như vậy, ác hạnh được hoàn toàn đoạn tận hay được giảm thiểu.
Do duyên lợi ích này, này các Tỷ-kheo, "Ta là chủ nhân của nghiệp, là
thừa tự của nghiệp, nghiệp là thai tạng, nghiệp là quyến thuộc, nghiệp
là điểm tựa. Phàm nghiệp nào ta sẽ làm, thiện hay ác, ta sẽ thừa tự
nghiệp ấy" là sự kiện cần phải thường xuyên quán sát bởi nữ nhân hay nam
nhân, bởi tại gia hay xuất gia.
8. Nếu vị Thánh đệ tử, này các
Tỷ-kheo, suy tư như sau: "Không phải chỉ một mình ta già, không thoát
khỏi già, nhưng phàm có những loài hữu tình nào có đến, có đi, có diệt,
có sanh, tất cả loài hữu tình ấy phải bị già, không thoát khỏi già". Do
vị ấy thường xuyên quán sát sự kiện ấy, con đường được sanh khởi. Vị ấy
sử dụng con đường ấy, tu tập, làm cho sung mãn. Do vị ấy sử dụng con
đường ấy, tu tập, làm cho sung mãn nên các kiết sử được đoạn tận, các
tùy miên được chấm dứt. "Không phải chỉ một mình ta bị bệnh, không thoát
khỏi bệnh, nhưng phàm có những loài hữu tình nào có đến, có đi, có
diệt, có sanh, tất cả loài hữu tình ấy phải bị bệnh, không thoát khỏi
bệnh". Do vị ấy thường xuyên quán sát sự kiện ấy, con đường được sanh
khởi. Vị ấy sử dụng con đường ấy, tu tập,
làm cho sung mãn. Do vị ấy sử dụng con đường ấy, tu tập, làm cho sung
mãn, nên các kiết sử được đoạn tận, các tùy miên được chấm dứt. "Không
phải chỉ một mình ta bị chết, không thoát khỏi chết, nhưng phàm có những
loài hữu tình nào, có đến, có đi, có diệt, có sanh, tất cả các loài hữu
tình ấy phải bị chết, không thoát khỏi chết..." ... "Không phải chỉ có
các pháp khả ái, khả ý của riêng một mình ta sẽ phải đổi khác, sẽ phải
biến diệt. Phàm có các loài hữu tình nào có đến, có đi, có diệt, có
sanh, các pháp khả ái, khả ý của tất cả loài hữu tình ấy sẽ phải đổi
khác, sẽ phải biến diệt...". "Không phải chỉ có một mình ta là chủ nhân
của nghiệp, là thừa tự của nghiệp, nghiệp là thai tạng, nghiệp là quyến
thuộc, nghiệp là điểm tựa. Phàm nghiệp nào ta sẽ làm, thiện hay ác ta
sẽ thừa tự nghiệp ấy". Phàm có các loài hữu tình nào có đến, có đi, có
diệt, có sanh, tất cả các loài hữu tình ấy là chủ nhân của nghiệp, là
thừa tự của nghiệp, nghiệp là thai tạng, nghiệp là quyến thuộc, nghiệp
là điểm tựa. Phàm nghiệp nào họ sẽ làm thiện hay ác, họ sẽ thừa tự
nghiệp ấy.
Do vị ấy thường xuyên quán sát dự kiện ấy, nên con đường được sanh
khởi. Vị ấy sử dụng con đường ấy, tu tập, làm cho sung mãn. Do vị ấy sử
dụng con đường ấy, tu tập, làm cho sung mãn, nên các kiết sử dụng được
đoạn tận, các tùy miên được chấm dứt.
Bị bệnh và bị già,
Lại thêm phải bị chết,
Pháp yếu là như vậy,
Hữu tình là như vậy.
Phàm phu sanh nhàm chán,
Thật không hợp cho Ta,
Nếu Ta cũng nhàm chán,
Ðối với các chúng sanh,
Cùng chung một số phận.
Trong khi đời sống Ta,
Không khác gì đời họ,
Ta được sống như vậy,
Biết pháp không sanh y,
Kiêu mạn trong không bệnh,
Trong tuổi trẻ sinh mạng,
Tất cả Ta nhiếp phục
Phát xuất từ an ổn,
Ta thấy hạnh viễn ly,
Ta phát tâm dõng mãnh,
Thấy được cảnh Niết-bàn.
Nay Ta không có thể,
Hưởng thọ các dục vọng,
Ta sẽ không thối đọa,
Chứng cứu cánh Phạm hạnh.
(VIII)
(58) Thanh Niên Licchavi
1. Một thời, Thế Tôn trú ở Vesàli,
tại Ðại Lâm, tại giảng đường có nóc nhọn. Rồi Thế Tôn vào buổi sáng đắp
y, cầm y bát đi vào Vesàli để khất thực. Sau khi khất thực ở Vesàli
xong, sau bữa ăn, trên con đường khất thực trở về, Ngài đi sâu vào Ðại
lâm, và ngồi xuống một gốc cây để nghỉ ban ngày.
Lúc bấy giờ, một số đông thanh niên Licchavi cầm các cung được chuẩn
bị sẵn sàng với đàn chó bao vây xung quanh, đang đi qua đi lại ở Ðại
Lâm, thấy Thế Tôn ngồi dưới một gốc cây. Thấy vậy họ liền bỏ các cung
được chuẩn bị sẵn sàng xuống, kéo đàn chó về một phía và đi đến Thế Tôn.
Sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn, rồi yên lặng, yên lặng chắp tay đứng hầu
Thế Tôn. Lúc bấy giờ, Mahànàma người Licchavi bộ hành đi qua đi lại
trong rừng Ðại Lâm, thấy các thanh niên Licchavi đang yên lặng, yên lặng
chắp tay đứng hầu Thế Tôn. Thấy vậy, ông đi đến gần Thế Tôn, sau khi
đến đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Mahànàma
người Licchavi nói lên lời cảm hứng ngữ:
- Họ sẽ trở thành người Vajji! Họ sẽ trở thành người Vajji!
- Này Mahànàma, sao Ông lại nói như vậy: "Họ sẽ trở thành người
Vajji! Họ sẽ trở thành người Vajji"?
- Bạch Thế Tôn, những thanh niên Licchavi này là hung bạo, thô ác,
ngạo mạn. Các đồ vật được các gia đình gửi đi như mía, trái táo, bánh
ngọt, kẹo đường, họ cướp giật và ăn; họ đánh sau hông các nữ nhân, thiếu
nữ các gia đình; nhưng nay họ đứng yên lặng, yên lặng chắp tay hầu hạ
Thế Tôn.
- Ðối với thiện nam tử nào, này Mahànàma, năm pháp này được tìm thấy,
dầu là vua Sát-đế-ly đã làm lễ quán đảnh, hay là người thôn quê sống
trên đất trại của người cha, hay là vị tướng trong quân đội hay là vị
thôn trưởng ở làng, hay là vị tổ trưởng các tổ hợp, hay là những vị có
quyền thế trong gia tộc, thời được chờ đợi là sự tăng trưởng, không phải
là giảm thiểu. Thế nào là năm?
2. Ở đây, này Mahànàma, thiện nam
tử, với những tài sản thâu hoạch được do nỗ lực tinh tấn, tích lũy được
do sức mạnh cách tay, do mồ hôi đổ ra đúng pháp, thâu hoạch đúng pháp,
cung kính, tôn trọng, đảnh lễ, cúng dường cha mẹ. Cha mẹ được người ấy
cung kính, tôn trọng, đảnh lễ, cúng dường với thiện ý, khởi lên lòng
thương mến người ấy: "Mong rằng (con ta) được sống lâu! Mong rằng thọ
mạng được che chở lâu dài!" Và này Mahànàma, với một thiện nam tử được
cha mẹ thương tưởng, chờ đợi là sự tăng trưởng, không phải là giảm tiếu.
3. Lại nữa, này Mahànàma, thiện nam
tử với những tài sản thâu hoạch được do nỗ lực tinh tấn... đúng pháp,
thâu hoạch đúng pháp, cung kính, tôn trọng, đảnh lễ, cúng dường vợ con,
người phục vụ, người làm công và vợ con người phục vụ người làm công. Vợ
con, người phục vụ, người làm công và vợ con người phục vụ, người làm
công và được người ấy cung kính, tôn trọng đảnh lễ, cúng dường với thiện
ý, khởi lên lòng thương tưởng người ấy: "Mong rằng được sống lâu! Mong
rằng thọ mạng được che chở lâu dài!" Và này Mahànàma, một thiện nam tử
được vợ con, người phục vụ, người làm công thương tưởng, chờ đợi là sự
tăng trưởng không phải là giảm thiểu.
4. Lại nữa, này Mahànama, vị thiện
nam tử với những tài sản thâu hoạch được do nỗ lực tinh tấn, đúng pháp,
thâu hoạch đúng pháp, cung kính, tôn trọng, đảng lễ, cúng dường các
người làm ruộng các chức sắc ở biên cương. Những người làm ruộng các
chức sắc ở biên cương được người ấy cung kính, tôn trọng, đảnh lễ, cúng
dường... chờ đợi là sự tăng trưởng, không có giảm thiểu.
5. Lại nữa, này Mahànama, thiện nam
tử với những tải sản thâu hoạch được do nỗ lực tinh tấn... đúng pháp,
thâu hoạch đúng pháp, cung kính, tôn trọng, đảnh lễ, cúng dường chư
thiên nhận lãnh các vật cúng tế. Chư Thiên nhận lãnh các vật cúng tế
được người ấy cung kính, tôn trọng, đảnh lễ, cúng dường... chờ đợi là sự
tăng trưởng, không có giảm thiểu.
6. Lại nữa, này Mahànama, thiện nam
tử với những tài sản thâu hoạch được do nỗ lực tinh tấn, tích lũy được
do sức mạnh cánh tay, do mồ hôi đổ ra đúng pháp, thâu hoạch đúng pháp,
tôn trọng, cung kính, đảnh lễ, cúng dường các Sa-môn, Bà-la-môn. Các
Sa-môn, Bà-la-môn được người ấy cung kính, tôn trọng, đảnh lễ, cúng
dường với thiện ý, khởi lên trong lòng thương tưởng người ấy: "Mong rằng
được sống lâu! Mong rằng thọ mạng được che chở lâu dài." Và này
Mahànama, với một thiện nam tử được các Sa-môn, Bà-la-môn thương tưởng,
được chờ đợi là sự tăng trưởng, không phải là giảm thiểu.
Ðối với vị thiện nam tử nào, này Mahànama, năm pháp này được tìm
thấy, dầu là Sát-đế-lỵ đã làm lễ quán đảnh, hay là người thôn quê sống
trên đất của người cha, hay là vị tướng trong quân đội, hay là vị thôn
trưởng ở làng, hay là vị tổ trưởng các tổ hợp, hay là những vị có quyền
thế trong gia tộc, thời được chờ đợi là sự tăng trưởng, không phải là
giảm thiểu.
Mẹ cha lo phục vụ,
Vợ con thường thương tưởng,
Vì hạnh phúc nội nhân,
Cùng với kẻ từng sự,
Vì hạnh phúc cả hai,
Lời hòa nhã, giữ giới,
Vì hạnh phúc bà con,
Vì hương linh đi trước,
Vì mạng sống hiện tại,
Vì Sa-môn, Phạm chí,
Vì chư Thiên bậc trí
Thành người ban hạnh phúc.
Sống gia đình, đúng pháp,
Vị ấy làm thiện sự,
Ðược cúng dường tán thán,
Ðời này họ được khen,
Ðời sau sống hoan hỷ,
Trong cảnh giới chư Thiên.
(IX) (59) Khó Tìm Ðược (1)
1. - Này các Tỷ-kheo, thật khó tìm
được một người xuất gia lớn tuổi lại thành tựu năm pháp này. Thế nào là
năm?
2, Thật khó tìm được, này các Tỷ-kheo, một người xuất gia tuổi lại tế
nhị; thật khó tìm được một người có uy nghi tốt đẹp; thật khó tìm được
một người nghe nhiều; thật khó tìm được một người thuyết pháp; thật khó
tìm được một người trì luật.
Này các Tỷ-kheo, thật khó tìm được một người xuất gia lớn tuổi lại
thành tựu năm pháp này.
(X) (60) Khó Tìm Ðược (2)
1. Này các Tỷ-kheo, thật khó tìm
được một người xuất gia lớn tuổi lại thành tựu năm pháp này. Thế nào là
năm?
2. Thật khó tìm được, này các
tỷ-kheo, một người xuất gia lớn tuổi lại khéo nói; thật khó tìm được một
người có khả năng nắm giữ cái gì khéo năm giữ; thật khó tìm được một
người có cử chỉ tốt đẹp; thật khó tìm được một người thuyết pháp; thật
khó tìm được một người trì luật.
Này các Tỷ-kheo, thật khó tìm được một người xuất gia lớn tuổi lại
thành tựu năm pháp này.
VII. Phẩm Tưởng
(I) (61) Các Tưởng (1)
1.
- Có năm tưởng này, này các Tỷ-kheo,
được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến quả lớn, lợi ích lớn, thể
nhập vào bất tử, đưa đến cứu cánh bất tử. Thế nào là năm?
2. Tưởng bất định, tưởng chết, tưởng
nguy hại, tưởng ghê tởm các món ăn, tưởng không có hân hoan đối với tất
cả thế giới.
Năm tưởng này, này các Tỷ-kheo, được tu tập, được làm cho sung mãn,
đưa đến quả lớn, lợi ích lớn, thể nhập vào bất tử, đưa đến cứu cánh bất
tử.
(II) (62) Các Tưởng (2)
1. - Có năm tưởng này, này các
Tỷ-kheo, được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến quả lớn lợi ích,
thể nhập vào bất tử, đưa đến cứu cánh bất tử. Thế nào là năm?
2. Tưởng vô thường, tưởng vô ngã,
tưởng chết, tưởng ghê tởm các món ăn, tưởng không có hân hoan đối với
tất cả thế giới.
Những pháp này là năm tưởng, này các Tỷ-kheo, được tu tập, được làm
cho sung mãn, đưa đến quả lớn, lợi ích lớn, thể nhập vào bất tử, đưa đến
cứu cánh bất tử.
(III) (63) Tăng Trưởng (1)
1. - Này các Tỷ-kheo, tăng trưởng
với năm tăng trưởng, vị Thánh đệ tử tăng trưởng, với Thánh tăng trưởng
đem lại kiên cố, đem lại thù thắng cho tự thân. Thế nào là năm?
2. Tăng trưởng với lòng tin, tăng
trưởng với giới, tăng trưởng với học hỏi, tăng trưởng với bố thí, tăng
trưởng với trí tuệ.
Tăng trưởng với năm tăng trưởng này, này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử
tăng trưởng với Thánh tăng trưởng, đem lại kiên cố, đem lại thù thắng
cho tự thân.
Tăng trưởng với tín, giới,
Với tuệ, thí, nghe nhiều,
Vị Chân nhân quán sát,
Tự thân được kiên cố.
(IV) (64) Tăng Trưởng (2)
1. - Này các Tỷ-kheo, tăng trưởng
với năm tăng trưởng, vị nữ Thánh đệ tử tăng trưởng với Thánh tăng
trưởng, đem lại kiên cố, đem lại thù thắng cho tự thân. Thế nào là năm?
2. Tăng trưởng với lòng tin, tăng
trưởng với giới, tăng trưởng với học hỏi, tăng trưởng với bố thí, tăng
trưởng với trí tuệ.
Tăng trưởng với năm tăng trưởng này, này các Tỷ-kheo, vị nữ Thánh đệ
tử tăng trưởng với Thánh tăng trưởng, đem lại kiên cố, đem lại thù thắng
cho tự thân.
Tăng trưởng với tín, giới,
Với tuệ, thí, nghe nhiều,
Vị trì giới như vậy,
Vị nữ Thánh đệ tử,
Tự thân được kiên cố,
Ngay liền trong đời này
(V) (65) Nói Chuyện
1. - Thành tựu năm pháp, này các
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đủ khả năng nói chuyện với các vị đồng Phạm hạnh. Thế
nào là năm?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị
Tỷ-kheo tự mình đầy đủ giới, trả lời câu hỏi đề cập đến từ câu chuyện về
giới cụ túc, tự mình đầy đủ định, trả lời câu hỏi được đề cập đến từ
câu chuyện về định cụ túc; tự mình đầy đủ tuệ, trả lời câu hỏi được đề
cập đến từ câu chuyện về tuệ; tự mình đầy đủ giải thoát, trả lời câu hỏi
được đề cập đến từ câu chuyện về giải thoát; tự mình đầy đủ giải thoát
tri kiến, trả lời câu hỏi được đề cập đến từ câu chuyện về giải thoát
tri kiến.
Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đủ khả năng nói
chuyện với các vị đồng Phạm hạnh.
(VI) (66) Ðời Sống
1. - Thành tựu năm pháp này, này các
Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo với đời sống (của mình) làm gương cho các vị đồng
Phạm hạnh. Thế nào là năm?
2. Ở đây, Tỷ-kheo tự mình đầy đủ
giới, trả lời câu hỏi được nói đến từ câu chuyện về giới cụ túc... (như
trên)... từ câu chuyện về giải thoát tri kiến.
Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đủ khả năng, với đời
sống của mình, làm gương cho các vị đồng Phạm hạnh.
(VII) (67) Thần Thông (1)
1. - Tỷ-kheo hay Tỷ-kheo-ni nào, này
các Tỷ-kheo, tu tập năm pháp, làm cho sung mãn năm pháp, được chờ đợi
là vị ấy được một trong hai quả, ngay trong hiện tại được chánh trí, hay
nếu có dư y, chứng được Bất lai. Thế nào là năm?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
tu tập thần túc câu hữu với dục định tinh cần hành, tu tập thần túc câu
hữu với tinh tấn định tinh cần hành, tu tập thần túc câu hữu với tâm
định tinh cần hành, tu tập thần túc câu hữu với tư duy định tinh cần
hành, và thứ năm là tăng thượng tinh tấn.
Tỷ-kheo hay Tỷ-kheo-ni nào, này các Tỷ-kheo, tu tập năm pháp, làm cho
sung mãn năm pháp, được chờ đợi là vị ấy được một trong hai quả: ngay
trong hiện tại được chánh trí, hay nếu có dư ý, chứng được Bất lai.
(VIII) (68) Thần Thông (2)
1. - Trước khi Ta giác ngộ, này các
Tỷ-kheo, khi Ta chưa Chánh đẳng Chánh giác, còn là Bồ-tát, Ta đã tu tập
năm pháp, làm cho sung mãn năm pháp. Thế nào là năm?
2. Ta đã tu tập thần túc câu hữu với
dục định tinh cần hành, đã tu tập túc, câu hữu với tinh tấn định tinh
cần hành, đã tu tập thần túc câu hữu với tâm định tinh cần hành, đã tu
tập thần túc câu hữu với tư duy định tinh cần hành, và thứ năm là tăng
thượng tinh tấn. Này các Tỷ-kheo, do Ta tu tập và làm cho sung mãn các
pháp với tăng thượng tinh tấn là thứ năm, tùy theo Ta hướng tâm đến pháp
nào cần được chứng ngộ với thắng trí, để có thể chứng ngộ với thắng
trí, Ta có thể đạt đến pháp ấy, dầu thuộc hành xứ nào. Nếu Ta muốn, ta
có thể chứng được nhiều loại thần thông, tự thân có thể đạt được phạm
thiên giới. Ở đây ta có thể đạt đến pháp ấy, dầu thuộc hành xứ nào. Nếu
Ta muốn... do đoạn tận các lậu hoặc ngay trong hiện tại với thắng trí,
Ta tự mình chứng ngộ, chứng đạt
và an trú vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát, tại đấy, Ta có thể đạt
đến pháp ấy, dầu thuộc hành xứ nào.
(IX)
(69) Nhàm Chán (1)
1. - Có năm pháp này, này các
Tỷ-kheo, được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến nhứt hướng nhàm
chán, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn. Thế
nào là năm?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị
Tỷ-kheo trú quán bất tịnh trên thân, với tưởng ghê tớm với các món ăn,
với tưởng không hoan hỉ đối với tất cả thế giới, quán vô thường đối với
tất cả hành, và tưởng về chết, nội tâm khéo an trú.
Này các Tỷ-kheo, năm pháp này được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa
đến nhứt hướng nhàm chán, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác
ngộ, Niết-bàn.
(X)
(70) Nhàm Chán (2)
1. - Năm pháp này, này các Tỷ-kheo,
được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến đoạn diệt các lậu hoặc. Thế
nào là năm?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị
Tỷ-kheo trú quán bất tịnh trên thân, với tưởng ghê tởm đối với các món
ăn, với tưởng không hoan hỷ đối với tất cả thế giới, quán vô thường đối
với tất cả hành, với tưởng về chết, nội tâm khéo an trú.
Năm pháp này, này các Tỷ-kheo, được tu tập, được làm cho sung mãn,
đưa đến đoạn diệt các lậu hoặc.
VIII. Phẩm Chiến Sĩ
(I) (71) Tâm Giải Thoát Quả (1)
1.
- Năm pháp này, này các Tỷ-kheo, được tu
tập, được làm cho sung mãn, đưa đến tâm giải thoát quả, tuệ giải thoát
lợi ích. Thế nào là năm?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
trú tùy quán bất tịnh trên thân, với tưởng ghê tởm trong các món ăn, với
tưởng không hoan hỷ đối với tất cả thế giới, tùy quán vô thường đối với
tất cả hành, với tưởng về chết. Vị ấy nội tâm khéo an trú.
Năm pháp này, này các Tỷ-kheo, được tu tập, được làm cho sung mãn,
đưa đến tâm giải thoát quả, tâm giải thoát lợi ích, tuệ giải thoát quả
và tuệ giải thoát lợi ích.
3. Này các Tỷ-kheo, khi nào Tỷ-kheo
có tâm giải thoát và có tuệ giải thoát này các Tỷ-kheo, vị ấy được gọi
là Tỷ-kheo đã cất đi các vật chướng ngại, đã lấp các thông hào, đã nhổ
lên cột trụ, đã mở tung các ổ khóa, là bậc Thánh đã hạ cây cờ xuống, đã
đặt gánh nặng xuống, không có gì hệ lụy.
Và thế nào là Tỷ-kheo đã cất đi các chướng ngại?
4. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
đã đoạn trừ vô minh, đã cắt đứt tận gốc rễ, làm cho như thân cây tàla,
làm cho không thể hiện hữu, không thể sinh khởi trong tương lai. Này các
Tỷ-kheo, như vậy là Tỷ-kheo đã cất đi các vật chướng ngại.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo đã lấp các thông hào?
5. Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị
Tỷ-kheo đã đoạn trừ tái sanh và sự luân chuyển sanh tử, đã cắt đứt tận
gốc rễ, làm cho như thân cây tàla, làm cho không thể hiện hữu, không thể
tái sanh trong tương lai. Này các Tỷ-kheo, như vậy là Tỷ-kheo đã lấp
các thông hào.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là vị Tỷ-kheo đã nhổ lên cột trụ?
6. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
đã đoạn trừ tham ái, đã cắt đứt tận gốc rễ, đã làm cho như thân cây
tàla, đã làm cho không thể hiện hữu, không thể sanh khởi trong tương
lai. Này các Tỷ-kheo, như vậy là Tỷ-kheo đã nhổ lên cột trụ.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là vị Tỷ-kheo đã mở tung các ổ khóa?
7. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
đã đoạn trừ năm hạ phần kiết sử, đã cắt đứt tận gốc rễ, đã làm cho như
thân cây tàla, đã làm cho không thể hiện hữu, không thể tái sanh trong
tương lai. Này các Tỷ-kheo, như vậy là Tỷ-kheo đã mở tung các ổ khóa.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào gọi Tỷ-kheo là bậc Thánh đã hạ cây cờ
xuống, đã đặt gánh nặng xuống, không có gì hệ lụy?
8. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
đã đoạn trừ ngã mạn, đã cắt đứt tận gốc rễ, đã làm cho như thân cây
tàla, đã làm cho không thể hiện hữu, không thể sanh khởi trong tương
lai. Này các Tỷ-kheo, như vậy gọi Tỷ-kheo là bậc Thánh đã hạ cây cờ
xuống, đã đặt gánh nặng xuống, không còn gì hệ lụy.
(II) (72) Tâm Giải Thoát Quả (2)
1. - Năm pháp này, này các Tỷ-kheo,
được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến tâm giải thoát quả, tâm giải
thoát lợi ích, tuệ giải thoát quả và tuệ giải thoát lợi ích. Thế nào là
năm?
2. Tưởng vô thường, tưởng khổ trong
vô thường, tưởng vô ngả trong khổ, tưởng đoạn tận, tưởng ly tham.
Năm pháp này, này các Tỷ-kheo, được tu tập, được làm cho sung mãn,
đưa đến tâm giải thoát quả, tâm giải thoát lợi ích, tuệ giải thoát quả
và tuệ giải thoát lợi ích.
3. Khi nào vị Tỷ-kheo, này các
Tỷ-kheo, có tâm giải thoát và tuệ giải thoát, này các Tỷ-kheo vị ấy được
gọi là Tỷ-kheo đã cất đi các vật chướng ngại, đã lấp các thông hào, đã
nhổ lên cột trụ, đã mở tung các ổ khóa, là bậc Thánh đã hạ cây cờ xuống,
đã đặt gánh nặng xuống, không có gì hệ lụy.
Và thế nào là Tỷ-kheo đã cất đi các vật chướng ngại?
4. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
đã đoạn trừ vô minh, đã cắt đứt tận gốc rễ, đã làm cho như thân cây
tàla, đã làm cho không thể hiện hữu, không thể tái sanh trong tương lai.
Này các Tỷ-kheo, như vậy là Tỷ-kheo đã cất đi các vật chướng ngại.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo đã lấp các thông hào?
5. Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị
Tỷ-kheo đã đoạn trừ tái sanh và sự luân chuyển sanh tử, đã cắt đứt tận
gốc rễ, đã làm cho như thân cây tàla, đã làm cho không thể hiện hữu,
không thể sanh khởi trong tương lai. Này các Tỷ-kheo, như vậy là Tỷ-kheo
dã lấp các thông hào.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo đã nhổ lên cột trụ?
6. Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị
Tỷ-kheo đã đoạn trừ tham ái, đã cắt đứt tận gốc rễ, đã làm cho như thân
cây tàla, làm cho không thể hiện hữu, không thể sanh khởi trong tương
lai. Này các Tỷ-kheo, như vậy là Tỷ-kheo đã nhổ lên cột trụ.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo đã mở tung các ổ khóa?
7. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
đã đoạn trừ năm hạ phần kiết sử, đã cắt đứt tận gốc rễ, đã làm cho như
thân cây tàla, đã làm cho không thể hiện hữu, không thể sanh khởi trong
tương lai. Này các Tỷ-kheo, như vậy là Tỷ-kheo đã mở tung các ổ khóa.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào gọi Tỷ-kheo là bậc Thánh đã hạ cây cờ
xuống, đã đặt gánh nặng xuống, không có gì hệ lụy?
8. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
đã đoạn trừ ngã mạn, đã cắt đứt tận gốc rễ, đã làm cho như thân cây
tàla, đã làm cho không thể hiện hữu, không thể sanh khởi trong tương
lai. Này các Tỷ-kheo, như vậy là Tỷ-kheo bậc Thánh đã hạ cây cờ xuống,
đã đặt gánh nặng xuống, không có gì hệ lụy.
(III) (73) Sống Theo Pháp (1)
1. Rồi một Tỷ-kheo đi đến Thế Tôn,
sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên,
Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn:
- "Sống theo pháp, sống theo pháp", bạch Thế Tôn, được nói đến như
vậy. Cho đến như thế nào, bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo là vị sống theo pháp?
2. - Ở đây, này Tỷ-kheo, Tỷ-kheo học
thông suốt pháp tức là Khế kinh, ứng tụng, Ký thuyết, Phúng tụng, Không
hỏi tự nói, Như thị thuyết, Bồn sanh, Vị tằng hữu pháp, Trí giải hay
Phương quảng. Vị ấy dùng trọn cả ngày để học thuộc lòng pháp, bỏ phế
sống độc cư an tịnh, không nỗ lực chuyên chú vào nội tâm an chỉ. Này
Tỷ-kheo, đây gọi là Tỷ-kheo thông đạt nhiều kinh điển, nhưng không sống
theo pháp.
3. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
thuyết pháp cho các người khác một cách rộng rãi như đã được nghe, như
đã được học thông suốt. Vị ấy dùng trọn cả ngày để trình bày pháp cho
các người khác, bỏ phế sống độc cư an tịnh, không nỗ lực chuyên chú vào
nội tâm an chỉ. Này Tỷ-kheo, đấy gọi là Tỷ-kheo thuyết trình nhiều,
nhưng không sống theo pháp.
4. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
đọc tụng pháp một cách rộng rãi như đã được nghe, như đã được học thuộc
lòng. Vị ấy dùng trọn cả ngày để tụng học, bỏ phế sống độc cư an tịnh,
không nỗ lực chuyên chú vào nội tâm an chỉ. Này Tỷ-kheo, đây gọi là
Tỷ-kheo đọc tụng nhiều, nhưng không sống theo pháp.
5. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
với tâm tùy tiện, với ý tùy quán pháp như đã được nghe, như đã được học
thuộc lòng. Vị ấy dùng trọn cả ngày suy tầm về pháp, bỏ phế sống độc cư
an tịnh, không nỗ lực chuyên chú vào nội tâm an chỉ. Này Tỷ-kheo, đây
gọi là Tỷ-kheo suy tâm nhiều, nhưng không sống theo pháp.
6. Ở đây, này Tỷ-kheo, Tỷ-kheo học
thuộc lòng pháp, tức là Khế kinh, ứng tụng, Ký thuyết, Phúng tụng, Không
hỏi tự nói, Như thị thuyết, Bổn sanh, Vị tằng hữu pháp, Trí giải hay
Phương quảng. Vị ấy không dùng trọn cả ngày để học thuộc lòng pháp,
không phế bỏ sống độc cư an tịnh, nỗ lực chuyên chú vào nội tâm an chỉ.
Này Tỷ-kheo, như vậy Tỷ-kheo sống theo pháp.
7. Này Tỷ-kheo, như vậy ta đã thuyết
về học thuộc lòng nhiều, đã thuyết về thuyết trình nhiều, đã thuyết về
thuyết tụng nhiều, đã thuyết về suy tầm nhiều, đã thuyết về sống theo
pháp. Này Tỷ-kheo, điều gì bậc Ðạo Sư cần phải làm cho các đệ tử vì hạnh
phúc, vì lòng thương tưởng, vì lòng từ khởi lên, các điều ấy, Ta đã làm
cho các Thầy. Này Tỷ-kheo, đây là những gốc cây, đây là những căn nhà
trống. Này Tỷ-kheo, hãy tu Thiền, chớ có phóng dật, chớ có để về sau sẽ
phải hối tiếc. Ðấy là lời giáo giới của Ta cho các Thầy.
(IV) (74) Sống Theo Pháp (2)
1. Rồi một Tỷ-kheo đi đến Thế Tôn,
sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên,
vị Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn:
- "Sống theo pháp, sống theo pháp", bạch Thế Tôn, được nói đến như
vậy. Cho đến như thế nào, bạch Thế Tôn, là vị Thế Tôn sống theo pháp?
2. - Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
học thuộc lòng pháp, tức là Khế kinh, ứng tụng, Ký thuyết, Phúng tụng,
không hỏi tự nói, Như thị thuyết, Bốn sanh, Vị tằng hữu pháp, Trí giải
hay Phương quảng, nhưng không rõ biết mục đích tối thượng với trí tuệ.
Này các Tỷ-kheo, đây gọi là Tỷ-kheo học thuộc lòng nhiều, nhưng không
sống theo pháp.
3. Lại nữa, đây các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
thuyết pháp cho các người khác một cách rộng rãi như đã được nghe, như
đã học thuộc lòng, nhưng không rõ biết mục đích tối thượng với trí tuệ.
Này các Tỷ-kheo, đây gọi là Tỷ-kheo, thuyết trình nhiều, nhưng không
sống theo pháp.
4. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
đọc tụng pháp một cách rộng rãi như đã được nghe, như đã được học thuộc
lòng, nhưng không rõ biết mục đích tối thượng với trí tuệ. Này các
Tỷ-kheo, đây gọi là Tỷ-kheo đọc tụng nhiều, nhưng không sống theo pháp.
5. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, vị
Tỷ-kheo với tâm tùy tầm, tùy tứ, với ý tùy quán pháp như được nghe, như
đã được học thuộc lòng, nhưng không rõ biết mục đích tối thượng với trí
tuệ. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là Tỷ-kheo suy tầm nhiều nhưng không sống
theo pháp.
6. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
học thuộc lòng pháp, tức là Khế kinh, ứng tụng, Ký thuyết, Phúng tụng.
Không hỏi tự nói, Như thị thuyết, Bổn sanh, Vị tằng hữu pháp, Trí giải
hay Phương quảng, và biết mục đích tối thượng với trí tuệ. Này các
Tỷ-kheo, đây gọi là Tỷ-kheo sống theo pháp.
7. Này các Tỷ-kheo, như vậy Ta đã
thuyết về học thuộc lòng nhiều, đã thuyết về thuyết trình nhiều, đã
thuyết về đọc tụng nhiều, đã thuyết về suy tầm nhiều đã thuyết về sống
theo pháp. Này các Tỷ-kheo, điều gì bậc Ðạo Sư cần phải làm cho các đệ
tử, vì hạnh phúc, vì lòng thương tưởng, vì lòng từ khởi lên, các điều
ấy, Ta đã làm cho các Thầy. Này các Tỷ-kheo, đây là những gốc cây, đây
là những căn nhà trống. Này các Tỷ-kheo, hãy tu Thiền, chớ có phóng dật,
chớ có để về sau phải hối tiếc. Ðây là lời giáo giới của Ta cho các
Thầy.
(V) (75) Người Chiến Sĩ (1)
1. - Này các Tỷ-kheo, có năm hạng
chiến sĩ này có mặt, hiện hữu ở đời. Thế nào là năm?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người
chiến sĩ chỉ thấy bụi mù dấy lên đã chùn chân, rủn chí, không còn can
đảm, không có thể tham gia chiến trận. Như vậy ở đây, này các Tỷ-kheo,
là một hạng người chiến sĩ. Này các Tỷ-kheo, đây là người chiến sĩ thứ
nhất có mặt hiện hữu ở đời.
3. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, ở đây
có người chiến sĩ có thể chịu đựng bụi mù dấy lên, nhưng khi thấy cờ xí
dựng lên, liền chùn chân, rủn chí, không còn can đảm, không còn can đảm,
không có thể tham gia chiến trận. Như vậy ở đây, này các Tỷ-kheo, là
một hạng người chiến sĩ ở đời. Này các Tỷ-kheo, đây là hạng người chiến
sĩ thứ hai có mặt, hiện hữu ở đời.
4. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, ở đây
có người chiến sĩ có thể chịu đựng bụi mù dấy lên, chịu đựng cờ xí dựng
lên, nhưng khi nghe tiếng la hét, liền chùn chân, rủn chí, không còn can
đảm, không có thể tham gia chiến trận. Như vậy ở đây, này các Tỷ-kheo,
là một hạng người chiến sĩ. Này các Tỷ-kheo, đây là hạng người chiến sĩ
thứ ba có mặt, hiện hữu ở đời.
5. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, ở đây
có hạng người chiến sĩ có thể chịu đựng bụi mù dấy lên, chịu đựng cờ xí
dựng lên, chịu đựng tiếng la hét, nhưng khi bị thương trong chiến trận,
liền thất kinh, thất đảm. Như vậy ở đây, này các Tỷ-kheo, là một hạng
người chiến sĩ. Này các Tỷ-kheo, đây là hạng người chiến sĩ thứ tư có
mặt, hiện hữu ở đời.
6. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, ở đây
có hạng người chiến sĩ có thể chịu đựng bụi mù dấy lên, chịu đựng cờ xí
dựng lên, chịu đựng tiếng la hét, chịu đựng cuộc xáp chiến. Vị ấy, sau
khi thắng trận, dự phần vào chiến thắng, cầm đầu trong chiến thắng. Như
vậy ở đây, này các Tỷ-kheo, là một hạng chiến dĩ. Ðây là hạng người
chiến sĩ thứ năm, này các Tỷ-kheo, có mặt, hiện hữu ở đời.
Năm hạng người chiến sĩ này, này các Tỷ-kheo, có mặt, hiện hữu ở đời.
7. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, được
ví dụ với năm hạng chiến sĩ này, có năm hạng người có mặt, hiện hữu giữa
các Tỷ-kheo. Thế nào là năm?
8. Ở đây, này các Tỷ-kheo, khi thất
bụi mù dấy lên, liền chùn chân, rủn chí, không còn can đảm, không có thể
tiếp tục đời sống Phạm hạnh, sau khi biểu lộ sự yếu kém trong học tập,
liền bỏ học pháp, trở lui lại đời sống thế tục. Thế nào là bụi mù dấy
lên đối với vị ấy? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo được nghe: "Tại một
làng hay một thị trấn kia, có người phụ nữ hay thiếu nữ đẹp đẽ, khả ái,
làm đẹp lòng người với sắc mặt đẹp thù thắng như hoa sen". Khi được nghe
vậy, vị ấy liền chùn chân, rủn chí, không còn can đảm, không thể tiếp
tục đời sống Phạm hạnh, sau khi biểu lộ sự yếu kém trong học tập, liền
bỏ học pháp, trở lui lại đời sống thế tục. Ðây là nghĩa bụi mù dấy lên
đối với vị ấy.
Ví như, này các Tỷ-kheo, hạng người chiến sĩ ấy, khi mới thấy bụi mù
dấy lên, liền chùn chân, rủn chí, không còn can đảm, không có thể tham
dự chiến trận. Này các Tỷ-kheo, Ta tuyên bố người này giống như ví dụ
ấy. Như vậy ở đây, này các Tỷ-kheo, là một hạng người. Ðây là người, này
các Tỷ-kheo, được ví dụ với hạng người chiến sĩ thứ nhất có mặt, hiện
hữu giữa các Tỷ-kheo.
9. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, có
Tỷ-kheo chịu đựng được bụi mù dấy lên, nhưng khi thấy cờ xí dựng lên,
liền chùn chân, rủn chí, không còn can đảm, không có thể tiếp tục đời
sống Phạm hạnh, sau khi biểu lộ sự yếu kém trong học tập, liền bỏ học
pháp, trở lui lại đời sống thế tục. Thế nào là cờ xí dựng lên đối với vị
ấy? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo không có nghe: "Tại một làng hay
thị trấn kia, có người phụ nữ hay thiếu nữ đạp đẽ, khả ái, làm đẹp lòng
người với sắc mặt đẹp thù thắng như hoa sen", nhưng vị ấy tự mình thấy
một phụ nữ hay một thiếu nữ đẹp đẽ, khả ái, làm đẹp lòng người với sắc
mặt đẹp thù thắng như hoa sen. Vị ấy, sau khi thấy người phụ nữ hay
người thiếu nữ ấy, liền chùn chân, rủn chí, không còn can đảm, không thể
có thể tiếp tục đời sống Phạm hạnh,
sau khi biểu lộ sự yếu kém trong học tập, liền bỏ học pháp, trở lui lại
đời sống thế tục. Ðây là nghĩa cờ xí dựng lên đối với vị ấy. Ví như, này
các Tỷ-kheo, hạng người chiến sĩ ấy chịu đựng được bụi mù dấy lên,
nhưng khi thấy cờ xí dựng lên, liền chùn chân, rủn chí, không còn can
đảm, không có thể ra trận xáp chiến. Này các Tỷ-kheo, Ta tuyên bố người
này giống như ví dụ ấy. Như vậy ở đây, này các Tỷ-kheo, là một hạng
người. Ðây là người, này các Tỷ-kheo, được ví dụ với hạng người chiến sĩ
thứ hai có mặt, hiện hữu giữa các vị Tỷ-kheo
10. Lại nữa, này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo chịu đựng được bụi mù dấy lên, chịu đựng được cờ xí dựng lên,
nhưng khi nghe tiếng la hét, liền chùn chân, rủn chí, không còn can đảm,
không có thể tiếp tục đời sống Phạm hạnh, sau khi biểu lộ sự yếu kém
trong học tập, liền bỏ học pháp, trở lui lại đời sống thế tục. Thế nào
là tiếng la hét đối với vị ấy? Ở đây, này các Tỷ-kheo, một nữ nhân đi
đến vị Tỷ-kheo tại ngôi rừng, dưới một gốc cây hay tại ngôi nhà trống,
cười nhạo Tỷ-kheo, nói mơn trớn, nói cười lớn tiếng, cợt nhả. Tỷ-kheo bị
nữ nhân cười nhạo, nói mơn trớn, nói cười lớn tiếng, cợt nhả, liền chùn
chân, rủn chí, không còn can đảm, không có thể tiếp tục đời sống Phạm
hạnh, sau khi biểu lộ sự hèn yếu trong học tập, liền bỏ học pháp, trở
lui lại đời sống thế tục. Ðây là nghĩa
của tiếng la hét đối với vị ấy.
Ví như người chiến sĩ ấy, này các Tỷ-kheo, chịu đựng được bụi mù dấy
lên, chịu đựng được cờ xí dựng lên, nhưng khi nghe tiếng la hét, liền
chùn chân, rủn chí, không còn can đảm, không có thể ra trận xáp chiến.
Này các Tỷ-kheo, Ta tuyên bố người này giống như ví dụ ấy. Như vậy ở
đây, này các Tỷ-kheo, là một hạng người. Này các Tỷ-kheo, đây là hạng
người được ví dụ với người chiến sĩ thứ ba có mặt, hiện hữu giữa các
Tỷ-kheo.
11. Lại nữa, này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo chịu đựng được bụi mù dấy lên, chịu đựng được cờ xí dựng lên,
chịu đựng được tiếng la hét, nhưng bị thương trong khi xáp chiến lâm
trận liền thất kinh thất đảm. Thế nào là xáp chiến lâm trận đối với vị
ấy? Ở đây, này các Tỷ-kheo, khi đi đến ngôi rừng, đi đến gốc cây, hay đi
đến ngôi nhà trống, một nữ nhân đến Tỷ-kheo ấy, ngồi sát một bên, nằm
sát một bên, vuốt ve mơn trớn. Tỷ-kheo ấy được nữ nhân ngồi sát một bên,
nằm sát một bên, được vuốt ve mơn trớn, không từ bỏ học tập, không biểu
lộ sự yếu kém trong học tập, hành dâm (với nữ nhân). Ðây là nghĩa xáp
chiến lâm trận đối với vị ấy. Ví như người chiến sĩ ấy, này các Tỷ-kheo,
chịu đựng được bụi mù dấy lên, chịu đựng được cờ xí dựng lên, chịu đựng
được tiếng la hét, nhưng khi lâm
trận xáp chiến, bị thương, thất kinh, thất đảm. Này các Tỷ-kheo, Ta
tuyên bố người này giống như ví dụ ấy. Như vậy ở đây, này các Tỷ-kheo,
là một hạng người. Này các Tỷ-kheo, đây là hạng người được ví dụ với
người chiến sĩ thứ tư có mặt, hiện hữu giữa các Tỷ-kheo.
12. Lại nữa, này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo chịu đựng được bụi mù dấy lên, chịu đựng được cờ xí dựng lên,
chịu đựng được tiếng la hét, chịu đựng được xáp chiến lâm trận. Vị ấy
sau khi chiến thắng chiến trận ấy, chiến thắng trong chiến trận, vị ấy
vẫn đứng hàng đầu trong trận chiến ấy. Thế nào là sự chiến thắng trong
chiến trận đối với vị ấy? Ở đây, này các Tỷ-kheo, khi vị Tỷ-kheo đi đến
ngôi nhà rừng, đi đến gốc cây, hay đi đến ngôi nhà trống, có nữ nhân đi
đến vị ấy, ngồi xuống sát một bên, nằm sát một bên, vuốt ve mơn trớn. Vị
ấy, khi được nữ nhân ngồi sát một bên, nằm sát một bên, vuốt ve mơn
trớn, liền gỡ mình ra, gỡ thoát ra, và ra đi chỗ nào mình muốn.
Và vị ấy đi đến một chỗ trống trải, khu rừng, gốc cây, ngọn núi, khe
đá, hang núi, nghĩa địa, cao nguyên, ngoài trời, đống rơm. Rồi vị ấy đi
đến khu rừng, đi đến gốc cây hay đi đến ngôi nhà trống, ngồi kiết già,
lưng thẳng và để niệm trước mặt. Vị ấy, sau khi đoạn tận tham, an trú
với tâm ly tham, gột sạch tâm khỏi tham, sau khi đoạn tận sân, an trú
với tâm ly sân, có lòng thương tưởng đến tất cả loài hữu tình và chúng
sanh, gột sạch tâm khỏi sân hận; sau khi đoạn tận hôn trầm thụy miên, an
trú với tâm ly thụy miên hôn trầm, với tưởng ánh sáng, chánh niệm, tỉnh
giác, gột sách tâm khỏi hôn trầm thụy miên; sau khi đoạn tận trạo cử
hối quá, an trú không trạo cử, nội tâm tịch tịnh, gột sạch tâm khỏi trạo
cử hối quá; sau khi đoạn tận nghi, an trú với tâm vượt khỏi nghi
ngờ, không còn nghi hoặc, gột sạch tâm khỏi nghi ngờ đối với các thiện
pháp. Vị ấy, sau khi đoạn tận năm triền cái này, những pháp làm uế nhiễm
tâm, làm yếu ớt trí tuệ, ly dục, ly các pháp bất thiện... chứng đạt và
an trú sơ Thiền... an trú Thiền thứ tư.
Vị ấy với tâm định tĩnh, thanh tịnh, trong sáng, không cấu uế, ly các
tùy phiền mão, nhu nhuyến, kham nhẫn, kiên trì, bất động, hướng tâm về
trí đoạn tận các lậu hoặc. Vị ấy như thật rõ biết: "Ðây là Khổ"; như
thật rõ biết: "Ðây là Khổ tập"; như thật rõ biết: "Ðây là khổ diệt"; như
thật rõ biết: "Ðây là con Ðường đưa đến khổ diệt"; như thật rõ biết:
"Những pháp này là những lậu hoặc"; như thật rõ biết: "Ðây là lậu hoặc
tập khởi" như thật rõ biết: "Ðây là lậu hoặc đoạn diệt". Như thật rõ
biết: "Ðây là con đường đưa đến lậu hoặc đoạn diệt". Do vị ấy biết như
vậy, thấy như vậy, tâm được giải thoát khỏi dục lậu, tâm được giải thoát
khỏi hữu lậu, tâm được giải thoát khỏi vô minh lậu. Trong sự giải thoát
trí khởi lên: "Ta đã được giải thoát". Vị ấy rõ biết: "Sanh đã tận,
Phạm hạnh đã thành, các việc nên làm đã làm, nay không còn trở lui trăng
thái này nữa". Ðây là sự chiến thắng trong trận chiến đối với vị ấy.
Ví như, này các Tỷ-kheo, người chiến sĩ chịu đựng được bụi mù dấy
lên, chịu đựng được cờ xí dựng lên, chịu đựng được các tiếng la hét,
chịu đựng được sự xáp chiến. Vị ấy, sau khi chiến thắng chiến trận ấy,
chiến thắng trong chiến trận, vị ấy vẫn đứng hàng đầu trong trận chiến
ấy. Này các Tỷ-kheo, Ta tuyên bố người này giống như ví dụ ấy. Như vậy,
này các Tỷ-kheo, là một hạng người. Này các Tỷ-kheo, đấy là hạng người
được ví dụ với người chiến sĩ thứ năm có mặt, hiện hữu ở đời.
Những người này, này các Tỷ-kheo, được ví dụ với năm chiến sĩ có mặt,
hiện hữu ở giữa các vị Tỷ-kheo.
(VI) (76) Người Chiến Sĩ (2)
- Có năm người chiến sĩ này, này các Tỷ-kheo, có mặt, hiện hữu ở đời.
Thế nào là năm?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người
chiến sĩ cầm kiếm và mâu, đeo cung và tên, tham gia vào trận chiến ác
liệt. Người ấy trong trận chiến ấy nỗ lực hăng hái. Nhưng các người
khác, trong khi người ấy nỗ lực và hăng hái như vậy, đánh người ấy và áp
đảo người ấy. Như vậy, ở đây này các Tỷ-kheo, có hạng người chiến sĩ
như vậy. Ðây là hạng chiến sĩ thứ nhất có mặt, hiện hữu ở đời.
3. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, ở đây
có hạng người chiến sĩ cầm kiếm và mâu, đeo cung và tên, tham gia vào
trận chiến ác liệt. Vị ấy, trong trận chiến ấy, nỗ lực, hăng hái. Nhưng
các người khác làm cho người ấy bị thương, khiêng người ấy đi, chở người
ấy đến các bà con. Khi chở người ấy đi và chưa đến các bà con, người ấy
mệnh chung ở giữa đường. Ở đây, này các Tỷ-kheo, có một hạng chiến sĩ
như vậy. Ðây là hạng chiến sĩ thứ hai, này các Tỷ-kheo, có mặt, hiện hữu
ở đời.
4. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, ở đây
có hạng người chiến sĩ cầm kiếm và mâu, đeo cung và tên, tham gia vào
trận chiến ác liệt. Vị ấy, trong trận chiến ấy, nỗ lực hăng hái. Nhưng
các người khác làm cho người ấy bị thương và khiêng người ấy đi, chở
người ấy đến các bà con. Và những người bà con săn sóc và nuôi dưỡng
người ấy. Người ấy, trong khi được các người bà con săn sóc và nuôi
dưỡng, bị mệnh chung vì vết thương ấy. Ở đây, này các Tỷ-kheo, có một
hạng người chiến sĩ như vậy. Ðây gọi là hạng chiến sĩ thứ ba có mặt,
hiện hữu ở đời.
5. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, ở đây
có người chiến sĩ cầm kiếm và mâu, đeo cung và tên, tham gia vào trận
chiến ác liệt. Vị ấy, trong trận chiến ấy, nỗ lực hăng hái. Nhưng các
người khác làm cho người ấy bị thương, và khiêng người ấy đi, chở người
ấy đến các người bà con. Và những người bà con nuôi dưỡng và săn sóc
người ấy. Người ấy, trong khi được các người bà con săn sóc và nuôi
dưỡng, được chữa lành các vết thương ấy. Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng
người chiến sĩ như vậy. Này các Tỷ-kheo, đây là hạng chiến sĩ thứ tư có
mặt, hiện hữu ở đời.
6. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, ở đây
có hạng chiến sĩ cầm kiếm và mâu, đeo cung và tên, tham gia vào chiến
trận ấy, chiến thắng trong chiến trận, vị ấy vẫn đứng hàng đầu trong
chiến trận ấy. Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng chiến sĩ như vậy. Này các
Tỷ-kheo, đây là hạng chiến sĩ thứ năm có mặt, hiện hữu ở đời.
Năm hạng chiến sĩ này, này các Tỷ-kheo, có mặt, hiện hữu ở đời.
7. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, có
những hạng người được ví dụ với năm hạng chiến sĩ này có mặt, hiện hữu
giữa các vị Tỷ-kheo. Thế nào là năm?
8. Ở đây, này các Tỷ-kheo, một
Tỷ-kheo sống dựa vào ngôi làng hay thị trấn. Vị ấy, vào buổi sáng đắp y,
cầm y bát đi vào làng hay thị trấn để khất thực, không phòng hộ thân,
không phòng hộ lời, không phòng hộ tâm, niệm không an trú, các căn không
được bảo vệ. Vị ấy ở đấy thấy một nữ nhân ăn mặc không tề chỉnh, ăn mặc
không kín đáo. Ðược thấy nữ nhân ăn mặc không tề chỉnh, ăn mặc không
kín đáo, tham dục tấn công tâm vị ấy. Tâm bị tham dục tấn công, không từ
bỏ học tập, không biểu lộ sự yếu kém trong học pháp, vị ấy rơi vào hành
dâm.
Ví như người chiến sĩ ấy, này các Tỷ-kheo, cầm gươm và mâu, đeo cung
và tên tham gia vào trận chiến ác liệt. Vị ấy trong trận chiến ấy nỗ lực
hăng hái. Nhưng các người khác, trong khi người ấy nỗ lực hăng hái như
vậy, đánh người ấy và áp đảo người ấy. Này các Tỷ-kheo, Ta tuyên bố
người này giống như ví dụ ấy. Ở đây, này các Tỷ-kheo, có một hạng người
như vậy. Này các Tỷ-kheo, đây là hạng người được ví dụ với hạng chiến sĩ
thứ nhất có mặt, hiện hữu giữa các Tỷ-kheo.
9. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
sống dựa vào một làng hay thị trấn. Vị ấy, vào buổi sáng, đắp y, cầm y
bát, đi vào làng ấy hay thị trấn ấy để khất thực, với thân không phòng
hộ, với lời nói không phòng hộ, với tâm không phòng hộ, với niệm không
an trú, với các căn không được bảo vệ. Ở đây, vị ấy thấy một nữ nhân ăn
mặc không chỉnh tề, ăn mặc không kín đáo. Ðược thấy nữ nhân ăn mặc không
chỉnh tề, ăn mặc không kín đáo, tham dục tấn công tâm vị ấy. Vị ấy, với
tâm bị tham dục tấn công nên thân bị thiêu cháy, tâm bị thiêu cháy. Vị
ấy nghỉ: "Ta hãy đi về khu vườn (chỗ Tăng ở) báo tin cho các Tỷ-kheo:
"Này các Hiền giả, tôi bị tham dục tràn ngập, bị tham dục ám ảnh, tôi
không có thể tiếp tục đời sống Phạm hạnh, tôi biểu lộ sự yếu kém trong
học tập, từ bỏ học pháp, tôi
trở về với đời sống thế tục". Vị ấy, trên con đường đi đến khu vườn, còn
ở giữa đường, biểu lộ sự yếu kém trong học tập, từ bỏ học pháp, trở về
đời sống thế tục.
Ví như, này các Tỷ-kheo, người chiến sĩ cầm kiếm và mâu, đeo cung và
tên, tham gia vào trận chiến ác liệt. Vị ấy, trong trận chiến ấy, nỗ lực
hăng hái. Nhưng các người khác, trong khi người ấy nỗ lực hăng hái như
vậy, làm cho người ấy bị thương, khiêng người ấy đi, chở người ấy, và
đưa người ấy đến các bà con, người ấy mệnh chung giữa đường. Này các
Tỷ-kheo, Ta tuyên bố này giống với ví dụ ấy. Ở đây, này các Tỷ-kheo, có
một hạng người như vậy. Này các Tỷ-kheo, đây là hạng người được ví dụ
với người chiến sĩ thứ hai có mặt, hiện hữu giữa các Tỷ-kheo.
10. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, vị
Tỷ-kheo sống dựa vào một làng hay một thị trấn. Vị ấy vào buổi sáng đắp
y, cầm y bát đi vào làng hay thị trấn ấy để khất thực, thân không phòng
hộ, lời nói không phòng hộ, tâm không phòng hộ, niệm không an trú, các
căn không được bảo vệ. Vị ấy ở đấy thấy nữ nhân ăn mặc không tề chỉnh,
ăn mặc không kín đáo, tham dục tấn công vị ấy. Vị ấy với tham dục bị tấn
công, nên thân bị thiêu cháy, tâm bị thiêu cháy. Vị ấy suy nghĩ như
sau: "Ta hãy đi đến khu vườn báo tin cho các Tỷ-kheo: "Này các Hiền giả,
tôi bị tham dục tràn ngập, bị tham dục ám ảnh. Tôi không thể tiếp tục
đời sống Phạm hạnh, sau khi biểu hiện sự yếu kém trong học tập, tôi từ
bỏ học pháp, sẽ trở về với đời sống thế tục". Các vị đồng Phạm hạnh giáo
giới, khuyên bảo như sau: "Này
Hiền giả, Thế Tôn đã nói: "Các dục vị ngọt ít, khổ nhiều, não nhiều, sự
nguy hại ở đây nhiều hơn. Các dục được Thế Tôn ví dụ như một khúc xương,
khổ nhiều, não nhiều, sự nguy hại ở đây nhiều hơn. Các dục được Thế Tôn
ví dụ như miếng thịt, khổ nhiều, não nhiều, nguy hại ở đây lại nhiều
hơn. Các dục được Thế Tôn ví dụ như bó đuốc bằng cỏ, khổ nhiều, não
nhiều, sự nguy hại ở đây lại nhiều hơn. Các dục được Thế Tôn ví dụ như
một hố than hừng, khổ nhiều, não nhiều, sự nguy hại ở đây lại nhiều hơn.
Các dục được Thế Tôn ví dụ như một cơn mộng, khổ nhiều, não nhiều, sự
nguy hại ở đây lại nhiều hơn. Các dục được Thế Tôn ví dụ như vật dụng
mượn dùng, khổ nhiều, não nhiều, sự nguy hại ở đây lại nhiều hơn. Các
dục được Thế Tôn ví dụ như quả của cây, khổ nhiều, não nhiều, sự nguy
hại ở đây lại nhiều hơn. Các dục được Thế Tôn ví dụ như lò thịt, khổ
nhiều, não nhiều, sự nguy hại ở đây lại nhiều hơn. Các dục được Thế Tôn
ví dụ như cây gậy nhọn, khổ nhiều, não nhiều, sự nguy hại ở đây lại
nhiều hơn. Các dục được Thế Tôn ví dụ như đầu rắn, khổ nhiều, não nhiều,
sự nguy hại ở đây lại nhiều hơn". Tôn giả hãy tìm sự thoải mái trong
Phạm hạnh! Tôn giả chớ biểu hiện sự yếu kém trong học tập, từ bỏ học
pháp và trở lui đời sống thế tục".
Vị ấy được các đồng Phạm hạnh giáo giới như vậy, khuyên bảo như vậy,
liền nói như sau: "Này các Hiền giả, dầu cho Thế Tôn có nói các dục ngọt
ít, khổ nhiều, não nhiều, sự nguy hại ở đây lại nhiều hơn, nhưng tôi có
thể tiếp tục sống Phạm hạnh. Sau khi biểu lộ sự yếu kém trong học tập,
từ bỏ học pháp, tôi sẽ trở về đời sống thế tục". Sau khi biểu lộ sự yếu
kém trong học tập, sau khi từ bỏ học pháp, vị ấy trở lui đời sống thế
tục.
Ví như, này các Tỷ-kheo, người chiến sĩ ấy, sau khi cầm kiếm và mâu,
đeo cung và tên, tham gia vào trận chiến khốc liệt. Vị ấy, trong chiến
trận ấy, nỗ lực, hăng hái. Nhưng các người khác trong khi có nỗ lực,
hăng hái như vậy, làm cho người bị thương, khiêng người ấy đi, chở người
ấy, và đưa người ấy đến các người bà con. Các người bà con săn sóc nuôi
dưỡng người ấy. Người ấy, tuy được các người bà con săn sóc nuôi dưỡng
nhưng bị mệnh chung vì vết thương ấy. Này các Tỷ-kheo, Ta tuyên bố người
này được ví như ví dụ ấy. Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng người như
vậy. Này các Tỷ kheo, đây là hạng người được ví dụ với người chiến sĩ
thứ ba có mặt, hiện hữu giữa các Tỷ-kheo.
11. Lại nữa, này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo sống dựa vào làng hay thị trấn. Vị ấy vào buổi sáng đắp y, cầm
bát, đi vào ngôi làng hay thị trấn ấy để khất thực, với thân không phòng
hộ, với lời không phòng hộ, với tâm không phòng hộ, với niệm không an
trú, với các căn không được bảo vệ. Vị ấy ở đấy, thấy nữ nhân ăn mặc
không chỉnh tề, ăn mặc không kín đáo. Sau khi thấy nữ nhân ăn mặc không
chỉnh tề, ăn mặc không kín đáo, tham dục tấn công vị ấy. Vị ấy với tâm
bị tham dục tấn công, nên thân bị thiêu cháy, tâm bị thiêu đốt. Vị ấy
suy nghĩ như sau: "Ta hãy đi đến khu vườn, báo tin cho các Tỷ-kheo: "Này
các Hiền giả, tôi bị tham dục tràn ngập, bị tham bị tham dục ám ảnh.
Tôi không thể tiếp tục đời sống Phạm hạnh. Tôi tuyên bố sự yếu kém trong
học tập, từ bỏ học pháp, trở về với
đời sống thế tục". Vị ấy đi đến khu vườn, báo tin cho các Tỷ-kheo: "Này
các Hiền giả, tôi bị tham dục tràn ngập, bị tham dục ám ảnh. Tôi không
thể tiếp tục đời sống Phạm hạnh; sau khi biểu lộ sự yếu kém trong học
tập, từ bỏ học pháp, tôi trở về với đời sống thế tục". Các vị đồng Phạm
hạnh giáo giới khuyên bảo như sau: "Này hiền giả, Thế Tôn đã nói: "Các
dục ngọt ít, đắng nhiều, não nhiều, sự nguy hại ở đây lại nhiều hơn...
Các dục được Thế Tôn ví như đầu rắn, khổ nhiều, não nhiều, sự nguy hại ở
đây lại nhiều hơn". Tôn giả hãy tìm sự thoải mái trong Phạm hạnh. Hiền
giả chớ biểu lộ sự kém trong học tập, từ bỏ học pháp và trở lui đời sống
thế tục".
Vị ấy được các đồng giáo giới ví như vậy, khuyên bảo như vậy, nói như
vầy: "Thưa các Hiền giả, tôi sẽ nỗ lực. Thưa các Hiền giả, tôi sẽ cố
gắng. Thưa các Hiển giả, tôi sẽ sống thoải mái. Nay tôi không biểu lộ sự
yếu kém trong học tập, từ bỏ học pháp, trở lui về đời sống thế tục".
Ví như, này các Tỷ-kheo, người chiến sĩ ấy cầm kiếm và mâu, đeo cung
và tên, tham gia vào trận chiến ác liệt. Vị ấy trong trận chiến ấy, nỗ
lựa hăng hái. Nhưng các người khác, trong khi người ấy nỗ lực hăng hái
như vậy, làm cho người ấy bị thương, khiêng người ấy đi, chở người ấy và
đưa người ấy đến các bà con. Các người bà con săn sóc người ấy, nuôi
dưỡng người ấy. Người ấy, nhờ các bà con săn sóc nuôi dưỡng, được chữa
lành khỏi vết thương. Ta tuyên bố rằng, này các Tỷ-kheo, người này giống
như ví dụ ấy. Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng người như vậy. Người này,
này các Tỷ-kheo, được ví dụ với chiến sĩ thứ tư có mặt, hiện hữu giữa
các vị Tỷ-kheo.
12. Lại nữa, này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo sống dựa vào một làng hay một thị trấn. Vị ấy vào buổi sáng đắp
y, cầm bát y, vào làng hay thị trấn ấy để khất thực, với thân được phòng
hộ, với lời được phòng hộ, với tâm được phòng hộ, với niệm được an trú,
với các căn được bảo vệ. Vị ấy khi mắt thấy sắc, không nắm giữ tướng
chung, không nắm giữ tướng riêng. Những nguyên nhân gì, vì nhãn căn
không được chế ngự, khiến tham ái ưu bi, các ác bất thiện pháp khởi lên,
vị ấy tự chế ngự nguyên nhân ấy, hộ trì nhãn căn, thực hành sự hộ trì
nhãn căn. Khi tai nghe tiếng... mũi ngửi hương... lưỡi nếm vị... thân
cảm xúc... ý nhận thức các pháp, vị ấy không nắm giữ tướng chung, không
nắm giữ tướng riêng. Những nguyên nhân gì, khiến ý căn không được chế
ngự, khiến tham ái ưu bi, các ác bất
thiện pháp khởi lên, vị Tỷ-kheo chế ngự nguyên nhân ấy, hộ trì ý căn,
thực hành sự hộ trì ý căn.
Vị ấy, sau bữa ăn, trên con đường khất thực trở về, đi đến một chỗ
sàng tọa trống trãi, khu rừng, gốc cây, ngọn núi, khe núi, hang núi, bãi
tha ma, cao nguyên, ngoài trời, đống rơm. Vị ấy đi đến khu rừng, hay đi
đến gốc cây, hay đi đến ngôi nhà trống, ngồi kiết-gà, lưng thẳng, để
niệm trước mặt. Vị ấy đoạn tận tham ở đời, an trú với tâm ly tham...
chứng đạt và an trú sơ Thiền... chứng đạt và an trú Thiền thứ tư. Vị ấy
với tâm định tĩnh, trong sáng, không cấu uế, các phiền não được đoạn
trừ, nhu nhuyến, kham nhẫn, kiên trì, bất động, hướng tâm về trí đoạn
tận các lậu hoặc. Vị ấy như thật rõ biết: "Ðây là khổ", như thật rõ
biết: "Ðây là khổ tập", như thật rõ biết: "Ðây là khổ diệt", như thật rõ
biết: "Ðây là con đường đi đến khổ diệt... không còn trở lui trạng thái
này
nữa".
Ví như, này các Tỷ-kheo, người chiến sĩ ấy cầm kiếm và mâu, đeo cung
và tên, tham gia vào trận chiến ác liệt. Người ấy, sau khi chiến thắng
trận ấy, chiến thắng trong chiến trận, vị ấy vẫn đứng đầu trong chiến
trận ấy. Này các Tỷ-kheo, Ta tuyên bố người này giống như ví dụ ấy. Ở
đây, này các Tỷ-kheo, có một hàng người như vậy. Ðây là hạng người được
ví dụ với chiến sĩ thứ năm, hiện hữu giữa các Tỷ-kheo.
Này các Tỷ-kheo, có năm hạng người được ví dụ với năm người chiến sĩ
này, có mặt, hiện hữu giữa các vị Tỷ-kheo.
(VIII) (77) Sợ Hãi Trong Tương Lai (1)
1. - Này các Tỷ-kheo, do quán thấy
năm sợ hãi trong tương lai này, thật là vừa đủ để vị Tỷ-kheo sống ở rừng
không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần để chứng đạt những gì chưa chứng
đạt, để chứng đắc những gì chưa chứng đắc, để chứng ngộ những gì chưa
chứng ngộ. Thế nào là năm?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
sống ở rừng quán sát như sau: "Nay ta sống một mình trong rừng. Khi ta
sống một mình trong rừng, con rắn có thể cắn ta, con bò cạp có thể cắn
ta, con rít có thể cắn ta. Do vậy, ta có thể mệnh chung. Như vậy là
chướng ngại cho ta. Vậy ta hãy cố gắng tinh tấn để chứng đạt những gì
chưa chứng đạt, để chứng đạt những gì chưa chứng đắc, để chứng ngộ những
gì chưa chứng ngộ".
Này các Tỷ-kheo, do quán thấy sợ hãi thứ nhất này về tương lai, thật
là vừa đủ để vị Tỷ-kheo sống ở trong rừng không phóng dật, nhiệt tâm,
tinh cần để chứng đạt những gì chưa chứng đạt, để chứng đắc những gì
chưa chứng đắc, để chứng ngộ những gì chưa chứng ngộ.
3. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
sống ở trong rừng quán sát như sau: "Nay ta sống một mình trong rừng.
Khi ta sống một mình trong rừng, ta có thể vấp ngã và té xuống, cơm ta
ăn có thể làm ta mắc bệnh khi ăn, hay mật có thể làm ta khuấy động, hay
niêm dịch (đàm) có thể làm ta khuấy động, các gió như kiếm có thể làm ta
khuấy động, do vậy ta có thể mệnh chung. Như vậy là chướng ngại cho ta.
Vậy ta hãy hăng hái, cố gắng để chứng đạt những gì chưa chứng đạt, để
chứng đắc những gì chưa chứng đắc, để chứng ngộ những gì chưa chứng
ngộ".
Này các Tỷ-kheo, do quán thấy sợ hãi thứ hai này về tương lai, thật
là vừa đủ để vị Tỷ-kheo sống ở rừng không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần
để chứng đạt những gì chưa chứng đạt, để chứng đắc những gì chứa chứng
đắc, để chứng ngộ những gì chưa chứng ngộ.
4. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
sống ở rừng quán sát như sau: "Nay ta sống một mình trong rừng. Sống
một mình trong rừng, ta chung sống với các loài thú nguy hiểm, như sư
tử, cọp, báo, gấu, dã can. Chúng có thể đoạt mạng sống của ta, có thể
làm ta mệnh chung. Như vậy là một sự chướng ngại cho ta. Vậy ta hãy hăng
hái tinh cần để chứng đạt những gì chưa chứng đạt, để chứng đắc những
gì chưa chứng đắc, để chứng ngộ những gì chưa chứng ngộ".
Này các Tỷ-kheo, do quán thấy sợ hãi thứ ba này về tương lai, thật là
vừa đủ để vị Tỷ-kheo sống ở rừng không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần,
để chứng đạt những gì chưa chứng đạt, để chứng đắc những gì chưa chứng
đắc, để chứng ngộ những gì chưa chứng ngộ.
5. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
sống ở rừng quán sát như sau: "Nay ta sống một mình trong rừng. Trong
khi ta sống một mình trong rừng, ta chung sống với các loài ăn trộm, ăn
cắp đã hành nghề. Chúng có thể đoạt mạng sống của ta, chúng có thể làm
ta mạng chung và như vậy là một chướng ngại cho ta. Vậy ta hãy hăng hái
tinh cần, để chứng đạt những gì chưa chứng đạt, để chứng đắc những gì
chưa chứng đắc, để chứng ngộ những gì chưa chứng ngộ".
Này các Tỷ-kheo, do quán thấy sợ hãi thứ tư này về tương lai, thật là
vừa đủ để vị Tỷ-kheo sống ở rừng không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần,
để chứng đạt những gì chưa chứng đạt, để chứng đắc những gì chưa chứng
đắc, để chứng ngộ những gì chưa chứng ngộ.
6. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
sống ở rừng quán sát như sau: "Nay ta sống một mình ở trong rừng. Ở
trong rừng có những loài phi nhân nguy hiểm, chúng có thể đoạt mạng sống
của ta làm ta mệnh chung, như vậy là một chướng ngại cho ta. Vậy ta hãy
hăng hái tinh cần để chứng đạt những gì chưa chứng đạt, chứng đắc những
gì chưa chứng đắc, chứng ngộ những gì chưa chứng ngộ".
Này các Tỷ-kheo, do quán thấy sợ hãi thứ năm này về tương lai, thật
là vừa đủ để Tỷ-kheo sống ở rừng, chứng ngộ những gì chưa chứng ngộ.
Này các Tỷ-kheo, do quán thấy năm sợ hãi về tương lai này, thật là
vừa đủ để Tỷ-kheo sống ở rừng chứng đạt những gì chưa chứng đạt, chứng
đắc những gì chưa chứng đắc, chứng ngộ những gì chưa chứng ngộ.
(VIII) (78) Sợ Hãi Trong Tương Lai (2)
1. - Này các Tỷ-kheo, do quán thấy
năm sự sợ hãi về tương lai này, thật là vừa đủ để Tỷ-kheo sống không
phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, để chứng đạt những gì chưa chứng đạt,
chứng đắc những gì chưa chứng đắc, chứng ngộ những gì chưa chứng ngộ.
Thế nào là năm?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
quán sát như sau: "Nay ta còn trẻ, niên thiếu, còn thanh niên, tóc đen
nhánh, trong buổi thanh xuân, trong sơ kỳ tuổi đời. Nhưng rồi đến thời
già sẽ xúc chạm thân này. Khi đã già yếu, và bị già chinh phục, thật
không dễ gì để tác ý đến giáo pháp của các Đức Phật, thật không dễ gì để
sống tại các trú xứ rừng núi cao nguyên xa vắng. Trước khi trạng thái
ấy đến với ta, không đáng ưa, không đáng thích, không khả ý, ta hãy hăng
hái tinh cần trước khi thời ấy đến, để chứng đạt những gì chưa chứng
đạt, chứng đắc những gì chưa chứng đắc, chứng ngộ những gì chưa chứng
ngộ. Và nếu thành tựu trạng thái ấy, có bị già, ta sẽ sống được thoải
mái".
Này các Tỷ-kheo, do quán thấy sợ hãi thứ nhất này về tương lai, như
vậy là vừa đủ để Tỷ-kheo sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, để
đạt đến... để chứng ngộ những gì chưa chứng ngộ.
3. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, vị
Tỷ-kheo quán sát như sau: "Nay ta ít bệnh, ít não, sự tiêu hóa được điều
hòa, không lạnh quá, không nóng quá, trung bình, hợp với tinh tấn,
nhưng rồi đến thời bệnh sẽ xúc chạm thân này. Khi đã bị bệnh và bị bệnh
chinh phục, thật không dễ gì tác ý đến giáo pháp của các Đức Phật, thật
không dễ gì để sống tại các trú xứ rừng núi cao nguyên xa vắng. Trước
khi trạng thái ấy đến với ta, không đáng ưa, không đáng thích, không khả
ý, ta hãy hăng hái tinh cần trước khi thời ấy đến, để chứng đạt những
gì chưa chứng đạt, chứng đắc những gì chưa chứng đắc, chứng ngộ những gì
chưa chứng ngộ. Và nếu thành tựu trạng thái ấy, dầu có bị bệnh, ta sẽ
sống được thoải mái".
Này các Tỷ-kheo, do quán thấy sợ hãi thứ hai này về tương lai, như
vậy là vừa đủ để vị Tỷ-kheo sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần,
để đạt đến... để chứng ngộ những gì chưa chứng ngộ.
4. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, vị
Tỷ-kheo quán sát như sau: "Nay không có đói kém, được mùa, đồ ăn khất
thực dễ kiếm được, thật dễ dàng để nuôi sống bằng khất thực nỗ lực.
Nhưng rồi đến thời có nạn đói, mất mùa, đồ ăn khất thực nỗ lực được,
không dễ gì nuôi sống bằng khất thực nỗ lực. Và những người bị nạn đói
sẽ dời đến chỗ nào được nhiều đồ ăn; tại đấy, phải sống với quần chúng,
phải sống với hỗn tạp. Khi phải sống với quần chúng, phải sống với hỗn
tạp, thật không dễ gì để tác ý đến giáo pháp của các Đức Phật, thật
không dễ gì để sống tại các trú xứ rừng núi cao nguyên xa vắng. Trước
khi trạng thái ấy đến với ta, không đáng ưa, không đáng thích, không khả
ý, ta hãy hăng hái tinh cần trước khi thời ấy đến, để chứng đạt những
gì chưa chứng đạt... để chứng ngộ những gì
chưa chứng ngộ. Và nếu thành tựu trạng thái ấy, có bị đói kém, ta sẽ
sống được thoải mái".
Này các Tỷ-kheo, do quán thấy sợ hãi thứ ba này về tương lai, như vậy
là vừa đủ để vị Tỷ-kheo sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, đạt
đến... để chứng ngộ những gì chưa chứng ngộ.
5. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
quán sát như sau: "Nay các loài Người sống với nhau thuận hòa, hoan hỷ
với nhau, không cãi lộn nhau, hòa hợp như nước với sữa, sống nhìn nhau
với cặp mắt ái kính. Nhưng rồi đến thời có sự sợ hãi về nạn cướp rừng,
dân chúng trong nước leo lên xe để đi trốn tại nào có sự sợ hãi, dân
chúng đi động đến chỗ có sự an ổn. Tại đấy, phải sống với quần chúng,
phải sống với hỗn tạp, thật không dễ với quần chúng, sống với hỗn tạp,
thật không dễ gì để tác ý đến giáo pháp của các Đức Phật, thật không dễ
gì để sống tại các trú xứ rừng núi cao nguyên xa vắng.. Trước khi trạng
thái ấy đến với ta, không đáng ưa, không đáng thích, không khả ý, ta
phải hăng hái tinh cần trước khi thời ấy đến để chứng đạt những gì chưa
chứng đạt... để chứng ngộ những
gì chưa chứng ngộ. Và nếu thành tựu trạng thái ấy, có gặp sự sợ hãi, ta
sẽ sống được thoải mái".
Này các Tỷ-kheo, do quán thấy sợ hãi thứ tư này về tương lai, như vậy
là vừa đủ để Tỷ-kheo sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, để đạt
đến... để chứng ngộ những gì chưa chứng ngộ.
6. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
quán sát như sau: "Nay chúng Tăng hòa hợp, cùng nhau hoan hỷ, không
tranh luận nhau, sống thoải mái cùng chung một lời dạy... nhưng rồi đến
thời chúng Tăng chia rẽ. Khi chúng Tăng chia rẽ, thật không dễ gì để tác
ý đến giáo pháp của các Đức Phật. Thật không dễ gì để sống tại các trú
xứ rừng núi, cao nguyên xa vắng. Trước khi trạng thái ấy đến với ta,
không đáng ưa, không đáng thích, không khả ý, ta hãy hăng hái tinh cần
trước khi thời ấy đến, để chứng đạt những gì chưa chứng đạt... để chứng
ngộ những gì chưa chứng ngộ. Và nếu thành tựu trạng thái ấy, chúng Tăng
có chia rẽ, ta sẽ sống được thoải mái".
Này các Tỷ-kheo, do quán thấy sợ hãi thứ năm này về tương lai, như
vậy là vừa đủ để vị Tỷ-kheo sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần,
để đạt đến... chứng ngộ những gì chưa chứng ngộ.
Này các Tỷ-kheo, do quán thấy năm sợ hãi này về tương lai, thật là
vừa đủ để vị Tỷ-kheo sống không phóng, nhiệt tâm, tinh cần, để chứng đạt
những gì chưa chứng đạt, chứng đắc những gì chưa chứng đạt, chứng ngộ
những gì chưa chứng ngộ.
(IX) (79) Sợ Hãi Trong Tương Lai (3)
1. - Có năm sợ hãi về tương lai này,
này các Tỷ-kheo, nay chưa sanh khởi, nhưng sẽ sanh khởi trong tương
lai. Các Thầy cần phải hoàn toàn rõ biết chúng, sau khi rõ biết, cần
phải tinh tấn đoạn trừ chúng. Thế nào là năm?
2. Này các Tỷ-kheo, sẽ có những vị
Tỷ-kheo trong tương lai, thân không tu tập, giới không tu tập, tâm không
tu tập, tuệ không tu tập. Do thân không tu tập, giới không tu tập, tâm
không tu tập, tuệ không tu tập, nếu họ thọ đại giới cho các người khác,
họ sẽ không có thể huấn luyện trong tăng thượng giới, trong tăng thượng
tâm, trong tăng thượng tuệ. Các người ấy sẽ trở thành những người thân
không tu tập, giới không tu tập, tâm không tu tập, tuệ không tu tập. Do
thân không tu tập, giới không tu tập, tâm không tu tập, tuệ không tu
tập, họ sẽ thọ đại giới cho các người khác, họ không có thể huấn luyện
trong tăng thượng giới, trong tăng thượng tâm, trong tăng thượng tuệ.
Các người ấy sẽ trở thành những người thân không tu tập, giới không tu
tập, tâm không tu tập, tuệ
không tu tập. Như vậy, này các Tỷ-kheo, do Pháp ô nhiễm, nên Luật bị ô
nhiễm; do Luật ô nhiễm, nên Pháp bị ô nhiễm.
Này các Tỷ-kheo, đây là sợ hãi thứ nhất về tương lai, nay chưa sanh
khởi, nhưng sẽ sanh khởi trong tương lai; các Thầy cần phải hoàn toàn rõ
biết chúng. Sau khi hoàn toàn rõ biết, các Thầy cần phải tinh tấn để
đoạn trừ chúng.
3. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, các
Tỷ-kheo trong tương lai sẽ trở thành những người thân không tu tập, giới
không tu tập, tâm không tu tập, tuệ không tu tập, họ làm y chỉ sư cho
các người khác. Họ không có thể huấn luyện trong tăng thượng giới, trong
tăng thượng tâm, trong tăng thượng tuệ. những người ấy sẽ trở thành
những người thân không tu tập, giới không tu tập, tâm không tu tập, tuệ
không tu tập. Các người ấy, do thân không tu tập, giới không tu tập, tâm
không tu tập, tuệ không tu tập, lại làm y chỉ sư cho những người khác,
họ không có thể huấn luyện trong tăng thượng giới, trong tăng thượng
tâm, trong tăng thượng tuệ. Như vậy, này các Tỷ-kheo, do Pháp ô nhiễm,
nên Luật bị ô nhiễm. Do Luật ô nhiễm, nên Pháp bị ô nhiễm.
Này các Tỷ-kheo, đây là sự sợ hãi thứ hai về tương lai, nay chưa sanh
khởi, nhưng sẽ sanh khởi trong tương lai, các Thầy cần phải hoàn toàn
rõ biết chúng. Sau khi hoàn toàn rõ biết, các Thầy cần phải tinh tấn để
đoạn trừ chúng.
4. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, các
Tỷ-kheo trong tương lai sẽ trở thành những người thân không tu tập, giới
không tu tập, tâm không tu tập, tuệ không tu tập. Do thân không tu tập,
giới không tu tập, tâm không tu tập, tuệ không tu tập, khi họ thuyết về
Thắng pháp hay về Quảng thuyết (Trí giải luận), họ rơi vào hắc pháp,
không có thể giác ngộ rõ ràng. Này các Tỷ-kheo, đây là do ô nhiễm Pháp,
nên sanh ô nhiễm Luật; do ô nhiễm Luật, nên sanh ô nhiễm Pháp.
Này các Tỷ-kheo, đây là sợ hãi thứ ba về tương lai, nay chưa sanh
khởi, nhưng sẽ sanh khởi trong tương lai, các Thầy cần phải hoàn toàn rõ
biết chúng. Sau khi hoàn toàn rõ biết, các Thầy cần phải tinh tấn để
đoạn tận chúng.
5. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, sẽ có
những Tỷ-kheo trong tương lai thân không tu tập, giới không tu tập, tâm
không tu tập, tuệ không tu tập. Do thân không tu tập, giới không tu tập,
tâm không tu tập, tuệ không tu tập, đối với các kinh tạng do Như Lai
tuyên thuyết, thâm sâu, ý nghĩa sâu kín, siêu thế, liên hệ đến không,
khi các kinh ấy được thuyết giảng, họ không có nghe, họ không có lắng
tai, họ không an trú tâm liễu giải, họ không nghĩ rằng các kinh ấy cần
phải học tập, cần phải học thuộc lòng. Còn những kinh điển do các thi sĩ
làm, những bài thi, với những chữ văn hoa, với những câu văn hoa, thuộc
ngoại điển do các đệ tử thuyết, trong khi các kinh ấy được thuyết
giảng, họ sẽ lắng nghe, họ sẽ lóng tai, họ an trú tâm liễu giải. Các
pháp ấy, họ sẽ nghĩ cần phải học tập,
cần phải học thuộc lòng. Này các Tỷ-kheo, đây là do Pháp ô nhiễm, nên
Luật ô nhiễm; do Luật ô nhiễm, nên Pháp ô nhiễm.
Này các Tỷ-kheo, đây là sợ hãi thứ tư về tương lai, nay chưa sanh
khởi, nhưng sẽ sanh khởi trong tương lai, các Thầy cần phải hoàn toàn rõ
biết chúng. Sau khi hoàn toàn rõ biết, các Thầy cần phải tinh tấn để
đoạn tận sợ hãi ấy.
6. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, sẽ có
những Tỷ-kheo trong tương lai thân không tu tập, giới không tu tập, tâm
không tu tập, tuệ không tu tập. Do thân không tu tập, giới không tu tập,
tâm không tu tập, tuệ không tu tập nên các trưởng lão Tỷ-kheo sẽ sống
đầy đủ, biếng nhác dẫn đầu trong thối đọa, từ bỏ gánh nặng viễn ly,
không có hăng hái tinh tấn để chứng đạt những gì chưa chứng đạt, để
chứng đắc những đạt những gì chưa chứng đắc, để chứng ngộ những gì chưa
chứng ngộ. Và quần chúng về sau sẽ đi theo tà kiến của họ. Họ sẽ trở
thành những người sống đầy đủ, biếng nhác, dẫn đầu trong thối đọa, từ bỏ
gánh nặng, viễn ly, sẽ không hăng hái tinh tấn để chứng đạt những gì
chưa chứng đạt, để chứng đắc những gì chưa chứng đắc, để chứng ngộ những
gì chưa chứng ngộ. Như vậy, này các
Tỷ-kheo, do nhiễm ô về Pháp, đưa đến nhiễm ô về Luật; do nhiễm ô về
Luật, đưa đến nhiễm ô về Pháp.
Này các Tỷ-kheo, đây là sợ hãi thứ năm về tương lai, hiện nay chưa
sanh khởi, nhưng sẽ sanh khởi trong tương lai, các Thầy cần phải hoàn
toàn rõ biết chúng. Sau khi hoàn toàn rõ biết, cần phải tinh tấn để đoạn
tận sợ hãi ấy.
Này các Tỷ-kheo, năm sợ hãi về tương lai này, nay chưa sanh khởi,
nhưng sẽ sanh khởi trong tương lai. Các Thầy cần phải hoàn toàn rõ biết
chúng. Sau khi hoàn toàn rõbiết, các Thầy cần phải tinh tấn để đoạn tận
sự sợ hãi ấy.
(X) (80) Sự Sợ Hãi Trong Tương Lai (4)
1. - Có năm sợ hãi về tương lai này,
hiện chưa sanh khởi, nhưng sẽ sanh khởi trong tương lai, các Thầy cần
phải hoàn toàn rõ biết chúng. Sau khi hoàn toàn rõ biết, các Thầy cần
phải tinh tấn để đoạn tận sợ hãi ấy.
2. Này các Tỷ-kheo, các Tỷ-kheo
trong tương lai sẽ tham muốn các y tốt đẹp. Do họ tham muốn các y tốt
đẹp. Do họ tham muốn các y tốt đẹp, họ sẽ từ bỏ các y nhặt nơi đống rác,
họ sẽ từ bỏ các khu rừng, các vùng cao nguyên, các trú xứ xa vắng, họ
sẽ đi đến các làng, thị trấn, kinh đô vua chúa và sống tại các chỗ ấy.
Vì nhân y áo, họ sẽ rơi vào những hành vi tầm cầu không thích hợp.
Này các Tỷ-kheo, đây là sợ hãi thứ nhất về tương lai, hiện nay chưa
sanh khởi, nhưng sẽ sanh khởi trong tương lai. Các Thầy cần phải hoàn
toàn rõ biết chúng. Sau khi hoàn toàn rõ biết, cần phải tinh tấn để đoạn
trừ sợ hãi ấy.
3. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, những
Tỷ-kheo trong tương lai sẽ tham muốn các đồ ăn khất thực ngon lành. Do
họ tham muốn các đồ ăn khất thực ngon lành, họ sẽ từ bỏ nếp sống khất
thực, từ bỏ các khu rừng, các vùng cao nguyên, các trú xứ xa vắng. Họ sẽ
đi vào các làng, thị trấn, kinh đô của vua và sinh sống tại đấy, tìm
cầu các món ăn thượng vị, như với đầu lưỡi. Do nhân đồ ăn khất thực, họ
sẽ rơi vào nhiều hành động tâm cầu không thích hợp.
Này các Tỷ-kheo, đây là sợ hãi thứ hai về tương lai, hiện nay chưa
sanh khởi, nhưng sẽ sanh khởi trong tương lai... để đoạn trừ sợ hãi ấy.
4. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, những
Tỷ-kheo trong tương lai sẽ tham muốn sàng tọa tốt đẹp. Do họ tham muốn
các sàng tọa tốt đẹp, họ sẽ từ bỏ nếp sống dưới gốc cây, họ sẽ từ bỏ các
khu rừng, các vùng cao nguyên, các trú xứ xa vắng. Họ sẽ đi vào các
làng, thị trấn, kinh đô của vua và sinh sống tại đấy. Vì nhân sàng tọa,
họ sẽ rơi vào nhiều hành động tầm cầu không thích hợp.
Này các Tỷ-kheo, đây là sợ hãi thứ ba về tương lai, hiện nay chưa
sanh khởi, nhưng sẽ sanh khởi trong tương lai... để đoạn trừ sợ hãi ấy.
5. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, sẽ có
những Tỷ-kheo trong tương lai sẽ sống liên hệ với Tỷ-kheo-ni, các chánh
học nữ, các Sa-di-ni. Khi sống liên hệ với Tỷ-kheo-ni, chánh học nữ,
Sa-di-ni, này các Tỷ-kheo, được chờ đợi là: Họ sẽ không thích thú sống
Phạm hạnh, hay họ sẽ rơi vào một trong những tội lỗi ô nhiễm, sẽ từ bỏ
học pháp và trở lui lại đời sống thế tục.
Này các Tỷ-kheo, đây là sợ hãi thứ tư về tương lai, hiện nay chưa
sanh khởi... để đoạn trừ sợ hãi ấy.
6. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, sẽ có
những Tỷ-kheo trong tương lai sống liên hệ với các người có hệ lụy đến
khu vườn, với các Sa-di. Khi sống liên hệ với các người có hệ lụy đến
khu vườn và với các Sa-di, này các Tỷ-kheo, được chờ đợi là họ sẽ sống
và tận hưởng các vật liệu cất chứa, và họ sẽ làm các thô tướng đối với
đất đai và đối với các sản phẩm trồng trọt.
Này các Tỷ-kheo, đây là sợ hãi thứ năm về tương lai, hiện nay chưa
sanh khởi, nhưng sẽ sanh khởi trong tương lai. Các Thầy cần phải hoàn
toàn rõ biết chúng. Sau khi hoàn toàn rõ biết, các Thầy cần phải tinh
tấn để đoạn tận sự sợ hãi ấy.
Năm sự sợ hãi về tương lai này, này các Tỷ-kheo, hiện nay chưa sanh
khởi, nhưng sẽ sanh khởi trong tương lai. Các Thầy cần phải hoàn toàn rõ
biết chúng. Sau khi hoàn toàn rõ biết, các Thầy cần phải tinh tấn để
đoạn tận những sợ hãi ấy.
IX. Phẩm Trưởng Lão
(I) (81) Khả Ái
1.
- Thành tựu năm pháp này, này các
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo Trưởng lão đối với các vị đồng Phạm hạnh không được ái
mộ, không được ưa thích, không được tôn trọng, không được làm gương để
tu tập. Thế nào là năm?
2. Bị tham ái bởi những gì khả ái,
bị hiềm hận bởi những gì đáng hiềm hận, bị si mê bởi những gì đáng si
mê, bị phẫn nộ bởi những gì đáng phẫn nộ, bị say đắm bởi những gì đáng
say đắm. Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo Trưởng Lão đối
với các vị đồng Phạm hạnh không được ái mộ, không được ưa thích, không
được tôn trọng, không được làm gương để tu tập.
3. Thành tựu năm pháp này, này các
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo Trưởng lão đối với các vị đồng Phạm hạnh được ái mộ,
được ưa thích, được tôn trọng, được làm gương để tu tập. Thế nào là năm?
4. Không bị tham bởi những gì khả
ái, không bị hiềm hận bởi những gì đáng hiềm hận, không bị si mê bởi
những gì đáng si mê, không bị phẫn nộ bởi những gì đáng phẫn nộ, không
bị say đắm bởi những gì đáng say đắm. Thành tựu năm pháp này, này các
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo Trưởng Lão đối với các vị đồng Phạm hạnh được ái mộ,
được ưa thích, được tôn trọng, được làm gương để tu tập.
(II)
(82) Ly Tham
1. - Thành tựu năm pháp này, này các
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo Trưởng lão đối với các vị đồng Phạm hạnh không được ái
mộ, không được ưa thích, không được tôn trọng, không được làm gương để
tu tập. Thế nào là năm?
2. Không ly tham, không ly sân,
không ly si, hư ngụy và não hại.
Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo Trưởng lão đối
với các vị đồng Phạm hạnh không được ái mộ, không được ưa thích, không
được tôn trọng, không được làm gương để tu tập.
3. Thành tựu năm pháp này, này các
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo Trưởng lão đối với các vị đồng Phạm hạnh được ái mộ,
được ưa thích, được tôn trọng, được làm gương để tu tập. Thế nào là năm?
4. Ly tham, ly sân, ly si, không hư
ngụy và không não hại. Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo, một
Tỷ-kheo Trưởng lão đối với các vị đồng Phạm hạnh được ái mộ, được ưa
thích, được tôn trọng, được làm gương để tu tập.
(III) (83) Lừa Ðảo
1. - Thành tựu năm pháp này, này các
Tỷ-kheo, Một Tỷ-kheo Trưởng lão đối với các vị đồng Phạm hạnh không
được ái mộ, không được ưa thích, không được tôn trọng, không được làm
gương để tu tập. Thế nào là năm?
2. Lừa đảo, siễm nịnh (hư đàm), hiện
tướng (gợi ý), gièm pha, lấy lợi cầu lợi. Thành tựu năm pháp này, này
các Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo Trưởng lão đối với các vị đồng Phạm hạnh không
được ái mộ, không được ưa thích, không được tôn trọng, không được làm
gương để tu tập.
3. Thành tựu năm pháp này, này các
Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo Trưởng lão đối với các vị đồng Phạm hạnh được ái
mộ, được ưa thích, được tôn trọng, được làm gương để tu tập. Thế nào là
năm?
4. Không lừa đảo, không siễm nịnh,
không hiện tướng, gièm pha, không lấy lợi cầu lợi. Thành tựu năm pháp
này, này các Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo Trưởng lão đối với các vị đồng Phạm
hạnh được ái mộ, được ưa thích, được tôn trọng, được làm gương để tu
tập.
(IV)
(84) Lòng Tin
1. - Thành tựu năm pháp này, này các
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo Trưởng lão đối với các vị đồng Phạm hạnh không được ái
mộ, không được ưa thích, không được tôn trọng, không được làm gương để
tu tập. Thế nào là năm?
2. Không tín, không hổ thẹn, không
biết sợ, biếng nhác và ác tuệ. Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo,
một Tỷ-kheo Trưởng lão đối với các vị đồng Phạm hạnh không được ái mộ,
không được ưa thích, không được tôn trọng, không được làm gương để tu
tập.
3. Thành tựu năm pháp này, này các
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo Trưởng lão đối với các vị đồng Phạm hạnh được ái mộĩ,
được ưa thích, được tôn trọng, được làm gương để tu tập. Thế nào là năm?
4. Có lòng tin, có hổ thẹn, có biết
sợ, tinh cần, tinh tấn và có tuệ. Thành tựu năm pháp này, này các
Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo Trưởng lão đối với các vị đồng Phạm hạnh được ái
mộ, được ưa thích, được tôn trọng, được làm gương để tu tập.
(V) (85) Không Kham Nhẫn
(1-4)...
(Như kinh trên, chỉ khác về năm pháp, đó là: không kham nhẫn đối
với các sắc, không kham nhẫn đối với các tiếng, không kham nhẫn đối với
các hương, không kham nhẫn đối với các vị, không kham nhẫn đối với các
xúc. Còn về năm thiện pháp là kham nhẫn đối với các sắc... các tiếng...
các hương... các vị và các xúc).
(VI) (86) Vô Ngại Giải
- Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo Trưởng lão đối với
các vị đồng Phạm hạnh được ái mộ, được ưa thích, được tôn trọng, được
làm gương để tu tập. Thế nào là năm?
Ðạt được nghĩa vô ngại giải, đạt được pháp vô ngại giải, đạt được từ
vô ngại giải, đạt được biện tài vô ngại giải, đối với các sự việc, các
vị đồng Phạm hạnh cần phải làm, hoặc lớn hay nhỏ, vị ấy thiện xảo, không
có biếng nhác, thành tựu trí phương tiện. Ở đây vừa đủ để làm, vừa đủ
đến khiến người làm.
Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo Trưởng lão đối
với các vị đồng Phạm hạnh được ái mộĩ, được ưa thích, được tôn trọng,
được làm gương để tu tập.
(VII) (87) Giới
1. - Thành tựu năm pháp, này các
Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo Trưởng lão đối với các vị đồng Phạm hạnh được ái
mộ, được ưa thích, được tôn trọng, được làm gương để tu tập. Thế nào là
năm?
2. Có giới, sống được bảo vệ với sự
bảo vệ của giới bổn, đầy đủ oai nghi chánh hạnh, thấy sự sợ hãi trong
các tội nhỏ nhiệm, chấp nhận và học tập các học pháp, nghe nhiều, thọ
trì điều được nghe, tích tập điều được nghe. Các pháp nào sơ thiện,
trung thiện, hậu thiện, có nghĩa, có văn, đề cao đời sống Phạm hạnh hoàn
toàn đầy đủ thanh tịnh, những pháp ấy, vị ấy đã nghe nhiều, đã nắm giữ,
đã ghi nhớ nhờ đọc nhiều lần, chuyên ý quán sát, khéo thành tựu nhờ
chánh kiến; thiện ngôn dùng lời thiện ngôn, lời nói tao nhã, ý nghĩa
minh bạch, giọng nói không bập bẹ, phều phào, giải thích nghĩa lý minh
xác, chứng được không khó khăn, chứng được không mệt nhọc, chứng được
không phí sức bốn Thiền, thuộc tăng thượng tâm, đem đến hiện tại lạc
trú. Do đoạn tận các lậu hoặc, vị ấy tự
mình với thắng trí chứng ngộ, chứng đạt và an trú ngay trong hiện tại vô
lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát.
Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo Trưởng lão đối với
các vị đồng Phạm hạnh được ái mộ, được ưa thích, được tôn trọng, được
làm gương để tu tập.
(VIII) (88) Vị Trưởng Lão
1. - Thành tựu năm pháp này, này các
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo Trưởng lão đem lại bất hạnh cho đa số, đem lại không
an lạc cho đa số, đem lại không lợi ích, bất hạnh, đau khổ cho chư Thiên
và loài Người. Thế nào là năm?
2. Trưởng lão là bậc kỳ cựu, xuất
gia đã lâu ngày, được nhiều người biết đến, có danh vọng, được một số
đông người tại gia, xuất gia đoanh vây, nhận được các vật dụng cần thiện
như y, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh. Bậc nghe nhiều,
thọ trì điều được nghe, tích tập điều được nghe. Các pháp sơ thiện,
trung thiện, hậu thiện, có nghĩa, có văn, đề cao đời sống Phạm hạnh hoàn
toàn đầy đủ thanh tịnh, những pháp ấy, vị ấy đã nghe nhiều, đã nắm giữ,
đã ghi nhớ nhờ đọc nhiều lần, chuyên ý quan sát, khéo thành tựu, nhờ
chánh kiến. Vị ấy có tà kiến, có tri kiến điên đảo. Vị ấy làm cho nhiều
người từ bỏ diệu pháp, chấp nhận phi diệu pháp. Vì Tỷ-kheo là bậc kỳ
cựu, xuất gia đã lâu ngày, nhiều người làm theo tri kiến vị ấy. Vì vị
Trưởng lão được nhiều người biết đến,
gia đoanh vây, nhiều người làm theo tri kiến vị ấy. Vì rằng, Tỷ-kheo
Trưởng lão nhận được các vật dụng cần thiết như y, đồ ăn khất thực, sàng
tọa, dược phẩm trị bệnh, nhiều người làm theo tri kiến vị ấy. Vì rằng
Tỷ-kheo là bậc nghe nhiều, thọ trì điều được nghe, tích tập điều được
nghe, nhiều người làm theo tri kiến vị ấy.
Thành tựu năm pháp này, Tỷ-kheo Trưởng lão đem lại bất hạnh cho đa
số, đem lại không an lạc cho đa số, đem lại không lợi ích, bất hạnh, đau
khổ cho chư Thiên và loài Người.
3. Thành tựu năm pháp này, này các
Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo Trưởng lão đem lại hạnh phúc cho đa số, đem lại an
lạc cho đa số, đem lại lợi ích, hạnh phúc, an lạc cho chư Thiên và loài
Người. Thế nào là năm?
4. Trưởng lão là bậc kỳ cựu, xuất
gia đã lâu ngày, được nhiều người biết đến, có danh vọng, được một số
đông người tại gia, xuất gia đoanh vây, nhận được các vật dụng cần thiết
như y, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh. Bậc nghe nhiều,
thọ trì điều được nghe, tích tập điều được nghe. Các pháp sơ thiện,
trung thiện, hậu thiện, có nghĩa, có văn, đề cao đời sống Phạm hạnh,
hoàn toàn đầy đủ thanh tịnh, những pháp ấy, vị ấy đã nghe nhiều, đã nắm
giữ, đã ghi nhớ nhờ đọc nhiều lần, chuyên ý quan sát, khéo thành tựu nhờ
chánh kiến. Vị ấy có chánh kiến, không có tri kiến điên đảo. Vị ấy làm
cho nhiều người từ bỏ phi diệu pháp, chấp nhận diệu pháp. Vị Tỷ-kheo
Trưởng lão là bậc kỳ cựu xuất gia đã lâu ngày, nhiều người làm theo tri
kiến vị ấy. Vị Tỷ-kheo Trưởng lão đã
được nhiều người biết đến, có danh vọng, được số đông người tại gia xuất
gia doanh vây, nhiều người làm theo tri kiến vị ấy. Vì rằng Tỷ-kheo
Trưởng lão nhận được các vật dụng cần thiết như y, đồ ăn khất thực, sàng
tọa, dược phẩm trị bệnh, nhiều người làm theo tri kiến vị ấy. Vì rằng
Tỷ-kheo Trưởng lão là bậc nghe nhiều, thọ trì điều được nghe, tích tập
điều được nghe, nhiều người làm theo tri kiến vị ấy.
Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo Trưởng lão đem lại
hạnh phúc cho đa số, đem lại an lạc cho đa số, đem lại lợi ích, hạnh
phúc, an lạc cho chư Thiên và loài Người.
(IX) (89) Vị Tỷ Kheo Hữu Học (1)
1. - Năm pháp này, này các Tỷ-kheo,
khiến Tỷ-kheo hữu học thối chuyển. Thế nào là năm?
2. Ưa sự nghiệp, ưa đàm luận, ưa
ngủ, ưa có quần chúng, không quán sát tâm như đã được giải thoát.
Năm pháp này, này các Tỷ-kheo, khiến Tỷ-kheo hữu học thối chuyển.
3. Năm pháp này, này các Tỷ-kheo,
không khiến Tỷ-kheo hữu học thối chuyển. Thế nào là năm?
4. Không ưa sự nghiệp, không ưa đàm
luận, không ưa ngủ, không ưa có quần chúng, quán sát tầm như đã được
giải thoát.
Năm pháp này, này các Tỷ-kheo, không khiến Tỷ-kheo hữu học thối
chuyển.
(X) (90) Vị Tỷ Kheo Hữu Học (2)
1. - Năm pháp này, này các Tỷ-kheo,
khiến Tỷ-kheo hữu học thối chuyển. Thế nào là năm?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị
Tỷ-kheo hữu học có nhiều công việc, có nhiều việc phải làm, khéo léo
trong công việc phải làm, từ bỏ độc cư Thiền tịnh, không chuyên chú vào
nội tâm tịnh chỉ. Ðây là pháp thứ nhất khiến Tỷ-kheo hữu học thối
chuyển.
3. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
hữu học suốt ngày làm những công việc nhỏ nhặt, từ bỏ độc cư Thiền
tịnh, không có chuyên chú vào nội tâm tịnh chỉ. Ðây là pháp thứ hai
khiến vị Tỷ-kheo hữu học thối chuyển.
4. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
hữu học sống liên hệ nhiều với các vị tại gia và xuất gia, hệ lụy với
các sự việc tại gia không thích đáng, từ bỏ độc cư Thiền tịnh, không
chuyên chú vào nội tâm tịnh chỉ. Ðây là pháp thứ ba khiến Tỷ-kheo hữu
học thối chuyển.
5. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, vị
Tỷ-kheo hữu học đi vào làng quá sớm, từ giã làng quá muộn từ bỏ độc cư
Thiền tịnh, không chuyên chú vào nội tâm tịnh chỉ. Ðây là pháp thứ tư
khiến vị Tỷ-kheo hữu học thối chuyển.
6. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, vị
Tỷ-kheo hữu học đối với các câu chuyện nghiêm trang, khai tâm như các
câu chuyện về ít dục, câu chuyện về tri túc, câu chuyện về viễn ly, câu
chuyện về không hội họp, câu chuyện về tinh cần, tinh tấn, câu chuyện về
giới, câu chuyện về định, câu chuyện về tuệ, câu chuyện về giải thoát,
câu chuyện về giải thoát tri kiến. Các câu chuyện ấy, vị ấy có được có
khó khăn, có được có mệt nhọc, có được có phí sức. Vị ấy từ bỏ độc cư
Thiền tịnh, không chuyên chú vào nội tâm tịnh chỉ. Ðây là pháp thứ năm
khiến vị Tỷ-kheo hữu học thối chuyển.
7. Năm pháp này, này các Tỷ-kheo,
không khiến vị Tỷ-kheo hữu học thối chuyển. Thế nào là năm?
8. Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị
Tỷ-kheo hữu học không có nhiều công việc, không có nhiều việc phải làm,
không khéo léo trong công việc phải làm, không từ bỏ độc cư Thiền tịnh,
chuyên chú vào nội tâm tịnh chỉ. Ðây là pháp thứ nhất không khiến vị
Tỷ-kheo hữu học thối chuyển.
9. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, vị
Tỷ-kheo hữu học không suốt ngày làm những công việc nhỏ nhặt, không từ
bỏ độc cư Thiền tịnh, chuyên chú vào nội tâm tịnh chỉ. Ðây là pháp thứ
hai không khiến vị Tỷ-kheo hữu học thối chuyển.
10. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, vị
Tỷ-kheo hữu học không sống liên hệ nhiều với các vị tại gia và xuất gia,
không hệ lụy với các việc tại gia không thích đáng, không từ bỏ độc cư
Thiền tịnh, chuyên chú vào nội tâm tịnh chỉ. Ðây là pháp thứ ba không
khiến vị Tỷ-kheo hữu học thối chuyển.
11. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, vị
Tỷ-kheo hữu học không đi vào làng quá sớm, không từ giã quá muộn, không
từ bỏ độc cư Thiền tịnh, chuyên chú vào nội tâm tịnh chỉ. Ðây là pháp
thứ tư không khiến vị Tỷ-kheo hữu học thối chuyển.
12. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, vị
Tỷ-kheo hữu học đối với các câu chuyện nghiêm trang, khai tâm, như câu
chuyện về ít dục, câu chuyện về tri túc, câu chuyện về viễn ly, câu
chuyện về không hội họp, câu chuyện về tinh cần tinh tấn, câu chuyện về
giới, câu chuyện về định, câu chuyện về tuệ, câu chuyện về giải thoát,
câu chuyện về giải thoát tri kiến. Các câu chuyện ấy có được không khó
khăn, có được không mệt nhọc, có được không phí sức, không từ bỏ độc cư
Thiền tịnh, chuyên chú vào nội tâm tịnh chỉ. Ðây là pháp thứ năm, này
các Tỷ-kheo, không đưa đến thối chuyển cho vị Tỷ-kheo hữu học.
Năm pháp này, này các Tỷ-kheo, không khiến vị Tỷ-kheo hữu học thối
chuyển.
X. Phẩm Kakudha
(I) (91) Ðầy Ðủ (1)
1.
- Này các Tỷ-kheo, có năm đầy đủ này.
Thế nào là năm?
2. Tín đầy đủ, giới đầy đủ, nghe đầy
đủ, thí đầy đủ, tuệ đầy đủ.
Này các Tỷ-kheo, đây là năm đầy đủ.
II (92) Ðầy Dủ (2)
1. - Này các Tỷ-kheo, có năm đầy đủ
này. Thế nào là năm?
2. Giới đầy đủ, định đầy đủ, tuệ đầy
đủ, giải thoát đầy đủ, giải thoát tri kiến đầy đủ.
Này các Tỷ-kheo, đây là năm đầy đủ.
(III) (93) Trả Lời
1. - Này các Tỷ-kheo, có năm cách
trả lời về chánh trí này. Thế nào là năm?
2. Vì đần độn, vì ngu si, trả lời về
chánh trí; vì ác dục, vì bị dục chi phối, trả lời về chánh trí, vì kiêu
mạn, vì tâm tán loạn trả lời về chánh trí; vì tăng thượng mạn, trả lời
về chánh trí; vì hoàn toàn chơn chánh, trả lời về chánh trí.
Này các Tỷ-kheo, có năm cách trả lời về chánh trí này.
(IV) (94) Lạc Trú
1. - Này các Tỷ-kheo, có năm lạc trú
này. Thế nào là năm?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị
Tỷ-kheo ly dục, ly pháp bất thiện, chứng đạt và an trú Sơ Thiền, một
trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm, có tứ, làm cho tịnh chỉ tầm và
tứ... chứng đạt và an trú Thiền thứ hai... Thiền thứ ba... Thiền thứ
tư... do đoạn tận các lậu hoặc, ngay trong hiện tại, tự mình với thắng
trí chứng ngộ, chứng đạt, và an trú vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải
thoát.
Này các Tỷ-kheo, những pháp này là năm lạc trú.
(V) (95) Bất Ðộng
1. - Thành tựu năm pháp, này các
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo không bao lâu thể nhập vào bất động. Thế nào là năm?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
đạt được nghĩa vô ngại giải, đạt được pháp vô ngại giải, đạt được từ vô
ngại giải, đạt được biện tài vô ngại giải, quán sát tâm như đã giải
thoát.
Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo không bao lâu thể
nhập vào bất động.
(VI)
(96) Nghe Pháp
1. - Thành tựu năm pháp, này các
Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo thực hành Niệm hơi thở vô hơi thở ra, không bao lâu
thể nhập vào bất động. Thế nào là năm?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
muốn không có nhiều, công việc không có nhiều, nuôi sống dễ dàng, khéo
tri túc với những nhu yếu ở đời, ăn uống ít, không chuyên lo về bao tử;
ít thụy miên, chuyên chú trong giác tỉnh; nghe nhiều, thọ trì nhiều,
tích lũy điều đã nghe; các pháp nào sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, có
nghĩa, có văn, tán thán Phạm hạnh hoàn toàn viên mãn thanh tịnh, các
pháp ấy, Tỷ-kheo đã nghe nhiều, đã nắm giữ, đã ghi nhớ nhờ đọc nhiều
lần, chuyên ý quán sát, khéo thành tựu nhờ chánh kiến; quán sát tâm như
đã được giải thoát.
Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo thực hành Niệm hơi
thở vô hơi thở ra, không bao lâu thể nhập vào bất động.
(VII) (97) Nói Chuyện
1. - Thành tựu năm pháp, này các
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo tu tập Niệm hơi thở vô hơi thở ra, không bao lâu thể
nhập vào bất động. Thế nào là năm?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
muốn không có nhiều, việc làm không có nhiều, nuôi sống dễ dàng, khéo
tri túc với những nhu yếu ở đời; ăn uống ít, không chuyên lo về bao tử;
ít thụy miên, chuyên chú vào giác tỉnh; đối với các câu chuyện nghiêm
trang, khai tâm, như câu chuyện về ít dục, câu chuyện về tri túc, câu
chuyện về viễn ly, câu chuyện về không hội họp, câu chuyện về tinh cần
tinh tấn, câu chuyện về giới, câu chuyện về định, câu chuyện về tuệ, câu
chuyện về giải thoát, câu chuyện về giải thoát tri kiến, các câu chuyện
ấy, vị ấy có được không khó khăn, có được không mệt nhọc, có được không
phí sức; vị ấy quán sát tâm như đã được giải thoát.
Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo tu tập Niệm hơi
thở vô hơi thở ra, không bao lâu thể nhập vào bất động.
(VIII) (98) Rừng
1. - Thành tựu năm pháp, này các
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo làm cho sung mãn Niệm hơi thở vô hơi thở ra, không bao
lâu thể nhập vào bất động. Thế nào là năm?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
muốn không có nhiều, việc làm không có nhiều, nuôi sống dễ dàng, khéo
tri túc với những nhu yếu ở đời; ăn uống ít, không chuyên lo về bao tử,
ít thụy miên, chuyên chú vào giác tỉnh; sống ở trong rừng, sống tại các
sàng tọa xa vắng; quán sát tâm như đã được giải thoát.
Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo làm cho sung mãn
Niệm hơi thở vô hơi thở ra, không bao lâu thể nhập vào bất động.
(IX) (99) Con Sư Tử.
1. - Con sư tử, này các Tỷ-kheo, vào
buổi chiều, từ hang đi ra, sau khi từ hang đi ra, nó duỗi chân; sau khi
nó duỗi chân, nó ngó xung quanh cả bốn phương; sau khi nó ngó xung
quanh cả bốn phương, ba lần nó rống tiếng rống con sư tử; sau khi ba lần
rống tiếng rống con sư tử, nó ra đi tìm mồi. Nếu nó vồ bắt con voi, nó
vồ bắt rất cẩn thận, chu đáo, không phải không cẩn thận, chu đáo. Nếu nó
vồ bắt con thủy ngưu, nó vồ bắt rất cẩn thận, chu đáo, không phải không
cẩn thận, chu đáo. Nếu nó vồ bắt con báo, nó vồ bắt rất cẩn thận, chu
đáo, không phải không cẩn thận, chu đáo. Nếu nó vồ bắt các con vật nhỏ
khác như thỏ hay mèo, nó vồ bắt rất cẩn thận, chu đáo, không phải không
cẩn thận, chu đáo. Vì cớ sao? "Mong rằng uy lực của ta không có thất
bại".
2. Con sư tử, này các Tỷ-kheo, là
đồng nghĩa với bậc A-la-hán Chánh Ðẳng Giác. Khi Như Lai thuyết pháp cho
hội chúng, tức là rống tiếng rống con sư tử. Này các Tỷ-kheo, nếu Như
Lai thuyết pháp cho các vị Tỷ-kheo, Như Lai thuyết pháp hết sức cẩn
thận, chu đáo, không phải không cẩn thận, chu đáo. Nếu Như Lai thuyết
pháp cho các vị Tỷ-kheo Ni, Như Lai thuyết pháp hết sức cẩn thận, chu
đáo, không phải không cẩn thận, chu đáo. Nếu Như Lai thuyết pháp cho các
hàng nam cư sĩ, Như Lai thuyết pháp hết sức cẩn thận, chu đáo, không
phải không cẩn thận, chu đáo. Nếu Như Lai thuyết pháp cho các hàng nữ cư
sĩ, Như Lai thuyết pháp hết sức cẩn thận, chu đáo, không phải không cẩn
thận, chu đáo. Nếu Như Lai thuyết pháp cho các hàng phàm phu , cho các
người bắt chim hay xin ăn, Như Lai
thuyết pháp hết sức cẩn thận, chu đáo, không phải không cẩn thận, chu
đáo. Vì cớ sao? Vì Như Lai là bậc tôn trọng Pháp, này các Tỷ-kheo, là
bậc tôn kính Pháp.
(X)
(100) Kakudha
1. Một thời, Thế Tôn trú ở Kosambì,
tại khu vườn Ghosita. Lúc bấy giờ Kakudha, người Koliya, là thị giả của
Tôn giả Mahàmoggallàna vừa mệnh chung và sanh ra với một thân do ý tạo,
thân ấy với tự thể có được (to rộng) ví như hai hay ba thửa ruộng làng ở
Magadha. Vị ấy, với tự thể như vậy, không làm cho tự mình hay làm cho
người khác bị bệnh. Rồi Thiên tử Kakudha đi đến thời gian
Mahàmoggallàna; sau khi đến, đảnh lễ Tôn giả Mahàmoggallàna rồi đứng một
bên. Thiên tử Kakudha thưa với Tôn giả Mahàmoggallàna:
- Thưa Tôn giả, Devadatta có khởi lên ý muốn như sau: "Ta sẽ lãnh đạo
chúng Tăng". Với tâm khởi lên như vậy, thưa Tôn giả, thần thông của
Devadatta bị thối thất.
Thiên tử Kakudha nói lên như vậy, nói như vậy xong, đảnh lễ Tôn giả
Mahàmoggallàna, thân phía hữu hướng về ngài rồi biến mất tại chỗ. Rồi
Tôn giả Mahàmoggallàna đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi
ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Tôn giả Mahàmoggallàna bạch Thế
Tôn:
- Bạch Thế Tôn, Kakudha, người xứ Koliya, là thị giả của con, mệnh
chung không bao lâu, sanh ra với thân do ý tạo thành, thân ấy với tự thể
có được (to rộng) ví như hai hay ba thửa ruộng làng ở Magadha. Vị ấy
với tự thể như vậy, không làm cho tự mình hay làm cho người khác bị
bệnh. Rồi Thiên tử Kakudha đi đến con; sau khi đến, đảnh lễ con rồi đứng
một bên. Sau khi đứng một bên, bạch Thế Tôn, Thiên tử Kakudha thưa với
con: "Thưa Tôn giả, Devadatta có khởi lên ý muốn như sau: "Ta sẽ lãnh
đạo chúng Tăng". Với tâm khởi lên như vậy. Thưa Tôn giả, thần thông của
Devadatta bị thối thất". Thiên tử Kakudha, bạch Thế Tôn, nói lên như
vậy. Nói như vậy xong, đảnh lễ con, rồi thân phía hữu hướng về con rồi
biến mất.
- Này Moggallàna, có phải Thầy với tâm của mình biết được tâm của
Thiên tử Kakudha rằng: "Ðiều gì Thiên tử Kakudha nói lên, tất cả đều là
như vậy, không thể khác được"?
- Bạch Thế Tôn, với tâm của con, con biết được tâm của Thiên tử
Kakudha rằng: "Ðiều gì Thiên tử Kakudha nói lên, tất cả đều là như vậy,
không thể khác được".
- Này Moggallàna, hãy phòng hộ lời nói này! Này Moggallàna, hãy phòng
hộ lời nói này. Nay kẻ ngu si ấy sẽ tự mình thấy rõ tự mình. Này
Moggallàna, có năm bậc Ðạo sư này có mặt, hiện hữu ở đời. Thế nào là
năm?
2. Ở đây, này Moggallàna, có vị Ðạo
sư, giới không thanh tịnh lại tự cho rằng: "Ta có giới thanh tịnh. Giới
của ta thanh tịnh, chói sáng, không có uế nhiễm". Nhưng các đệ tử biết
về vị ấy như sau: "Tôn giả Ðạo sư này có giới không thanh tịnh, lại tự
nghĩa rằng: "ta có giới thanh tịnh. Giới của ta thanh tịnh, trong sáng,
không uế nhiễm". Nếu ta tin cho các cư sĩ biết như vậy, thời vị Ðạo sư
sẽ không bằng lòng. Và nếu vị ấy không bằng lòng, thời chúng ta sẽ xử sự
như thế nào mới được". Và vị ấy nhận được các vật dụng nhu yếu như y,
đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh. Những gì tự ngã sẽ làm,
tự ngã sẽ được biết do việc làm ấy. Như vậy, này Moggallàna, các đệ tử
che chở giới cho bậc Ðạo sư, và bậc Ðạo sư như vậy chờ đợi các đệ tử che
chở về giới cho mình.
3. Lại nữa, này Moggallàna ở đây có
bậc Ðạo sư mạng sống không thanh tịnh, lại tự cho rằng: "Ta có mạng sống
thanh tịnh. Mạng sống của ta thanh tịnh chói sáng, không có uế nhiễm".
Nhưng các đệ tử biết về vị ấy như sau: "Vị Tôn giả Ðạo sư này có mạng
sống không thanh tịnh, lại tự nghĩ rằng: "Ta có mạng sống thanh tịnh.
Mạng sống của ta thanh tịnh, trong sáng, không uế nhiễm". Nếu chúng ta
tin cho các cư sĩ biết như vậy, thời vị Ðạo sư ấy không bằng lòng, và
nếu vị ấy không bằng lòng thời chúng ta sẽ xử sự như thế nào mới được".
Và vị ấy nhận được các vật dụng nhu yếu như y, đồ ăn khất thực, sàng
tọa, dược phẩm trị bệnh. Những gì tự ngã sẽ làm, tự ngã Sẽ được biết do
việc làm ấy. Như vậy, này Moggallàna, các đệ tử che chở mạng sống cho
bậc Ðạo sư và bậc Ðạo sư như vậy
chờ đợi các đệ tử che chở mạng sống cho mình.
4. Lại nữa, này Moggallàna, ở đây có
bậc Ðạo sư thuyết pháp không thanh tịnh, lại tự cho rằng: "Ta thuyết
pháp thanh tịnh. Thuyết pháp của ta thanh tịnh, chói sáng, không có uế
nhiễm". Nhưng các đệ tử biết về vị ấy như sau: "Tôn giả Ðạo sư này
thuyết giảng không thanh tịnh, lại tự nghĩ rằng: "Ta thuyết pháp thanh
tịnh. Thuyết pháp của ta thanh tịnh, trong sáng, không uế nhiễm". Nếu
chúng ta tin cho các cư sĩ biết như vậy, thời vị đạo sư sẽ không bằng
lòng. Và nếu vị ấy không bằng lòng, thời chúng ta sẽ xử sự như thế nào
mới được". Và vị ấy nhận được các vật dụng nhu yếu như y, đồ ăn khất
thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh. Những gì tự ngã sẽ làm, tự ngã sẽ
được biết do việc làm ấy. Như vậy, này Moggallàna, các đệ tử phòng hộ sự
thuyết pháp cho bậc Ðạo sư, và bậc Ðạo
sư như vậy chờ đợi các đệ tử che chở thuyết pháp cho mình.
5. Lại nữa, này Moggallàna, ở đây có
bậc Ðạo sư trả lời không thanh tịnh, lại tự cho rằng: "Ta trả lời thanh
tịnh. Trả lời của ta thanh tịnh, chới sáng, không có uế nhiễm". Nhưng
các đệ tử biết về vị ấy như sau: "Tôn giả Ðạo sư này trả lời không thanh
tịnh, lại nghĩ rằng: "Ta trả lời thanh tịnh. Trả lời của ta thanh tịnh,
chói sáng, không uế nhiễm". Nếu chúng ta tin cho các cư sĩ biết như
vậy, thời vị Ðạo sư sẽ không bằng lòng và nếu vị ấy không bằng lòng,
thời chúng ta sẽ xử sự như thế nào mới được". Và vị ấy nhận được các vật
dụng nhu yếu như y, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh.
Những gì tự ngã sẽ làm, tự ngã sẽ được biết do việc làm ấy. Như vậy, này
Moggallàna, các đệ tử che chở trả lời cho bậc Ðạo sư, và bậc Ðạo sư như
vậy chờ đợi các đệ tử che chở
trả lời cho mình.
6. Lại nữa, này Moggallàna, ở đây có
bậc Ðạo sư tri kiến không thanh tịnh, lại tự cho rằng: "Ta có tri kiến
thanh tịnh. Tri kiến của ta thanh tịnh, chới sáng, không có uế nhiễm".
Nhưng các đệ tử biết về vị ấy như sau: "Tôn giả Ðạo sư này tri kiến
không thanh tịnh, lại tự nghĩ rằng: "Ta có tri kiến thanh tịnh. Tri kiến
của ta thanh tịnh, trong sáng, không có uế nhiễm". Nếu chúng ta tin cho
các cư sĩ biết như vậy, thời vị Ðạo sư sẽ không bằng lòng và nếu vị ấy
không bằng lòng, thời chúng ta sẽ xử sự như thế nào mới được". Và vị ấy
nhận được các vật dụng nhu yếu như y, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược
phẩm trị bệnh. Những gì tự ngã sẽ làm, tự ngã sẽ được biết do việc làm
ấy. Như vậy, này Moggallàna, các đệ tử che chở trả lời cho bậc Ðạo sư,
và bậc Ðạo sư như vậy chờ đợi
các đệ tử che chở tri kiến cho mình.
7. Này Moggallàna, Ta có giới thanh
tịnh, và Ta tự biết: "Giới của Ta thanh tịnh, trong sáng, không có uế
nhiễm". Các đệ tử không có che chở Ta về giới, và Ta không có chờ đợi
các đệ tử che chở Ta về giới. Mạng sống của Ta thanh tịnh. Ta tự rõ
biết: "Mạng sống của Ta thanh tịnh, trong sáng, không có uế nhiễm". Các
đệ tử không có che chở Ta về mạng sống, và Ta không có chờ đợi các đệ tử
che chở cho Ta về mạng sống. Thuyết pháp của Ta thanh tịnh, Ta tự rõ
biết: "Thuyết pháp của Ta thanh tịnh, Ta tự rõ biết: "Thuyết pháp của Ta
thanh tịnh, trong sáng, không có uế nhiễm". Các đệ tử không có che chở
Ta về thuyết pháp và Ta không có chờ đợi các đệ tử che chở Ta về thuyết
pháp. Các câu trả lời của Ta thanh tịnh, Ta tự rõ biết:" Các câu trả lời
của Ta thanh tịnh, trong
sáng, không có uế nhiễm". Các đệ tử không có che chở Ta về các câu trả
lời, và Ta không có chờ đợi các đệ tử che chở Ta về các câu trả lời. Tri
kiến của Ta thanh tịnh, Ta tự rõ biết: "Tri kiến của Ta thanh tịnh,
trong sáng, không có uế nhiễm". Các đệ tử không có che chở Ta về tri
kiến, và Ta không có chờ đợi các đệ tử che chở Ta về tri kiến.
XI. Phẩm An Ổn Trú
(I) (101) Ðáng Sợ Hãi
1.
- Này các Tỷ-kheo, có năm pháp này làm
cho bậc Hữu học không có sợ hãi. Thế nào là năm?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
có lòng tin, có giới, có nghe nhiều, có tinh cần tinh tấn, có trí tuệ.
Cái gì làm cho kẻ không có lòng tin sợ hãi, này các Tỷ-kheo, cái ấy
không làm cho người có lòng tin sợ hãi. Do vậy, pháp này là pháp làm cho
bậc Hữu học không sợ hãi. Cái gì làm cho kẻ ác giới sợ hãi, này các Tỷ
kheo, cáiu ấy không làm cho người cò giới sợ hãi. Do vậy, pháp này là
pháp làm cho bậc Hữu học không sợ hãi. Cái gì làm cho kẻ ít nghe sợ hãi,
này các Tỷ-kheo, cái ấy không làm cho người nghe nhiều sợ hãi. Do vậy,
pháp này là pháp làm cho bậc Hữu học không sợ hãi. Cái gì làm cho kẻ
biếng nhác sợ hãi, này các Tỷ-kheo, cái ấy không làm cho kẻ tinh cần
tinh tấn sợ hãi. Do vậy, pháp này là pháp làm cho bậc Hữu học không sợ
hãi. Cái gì làm cho kẻ ác tuệ sợ
hãi, này các Tỷ-kheo, cái ấy không làm cho người có trí tuệ sợ hãi. Do
vậy, pháp này là pháp làm cho bậc Hữu học không sợ hãi.
Năm pháp này, này các Tỷ-kheo, là các pháp làm cho bậc Hữu học không
sợ hãi.
(II) (102) Ðáng Nghi Ngờ
1. - Thành tựu năm pháp, này các
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo bị mất tin tưởng và bị nghi ngờ là "ác Tỷ-kheo", dầu
cho vị ấy đã đạt được bất động. Thế nào là năm?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
đi đến chỗ dâm nữ, đi đến nhà đàn bà góa, đi đến nhà có con gái già, hay
đi đến nhà các hoạn quan, hay đi đến chỗ các Tỷ-kheo-ni.
Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo bị mất tin tưởng
và bị nghi ngờ là ác Tỷ-kheo, dầu cho vị ấy đã đạt được bất động.
(III) (103) Kẻ Ăn Trộm
1. - Thành tựu năm chi phần, này các
Tỷ-kheo, một kẻ ăn trộm lớn xâm nhập vào nhà cửa, mang đồ ăn trộm ra
đi, thành người ăn trộm riêng rẽ, thành người cướp chận đường. Thế nào
là năm?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, kẻ ăn
trộm lớn dựa vào sự hiểm trở (của con đường), dựa vào sự rậm rạp (của
núi rừng), dựa vào quyền thế, là kẻ hối lộ, là kẻ ăn trộm một mình. Và
này các Tỷ-kheo, thế nào là kẻ ăn trộm lớn dựa vào sự hiểm trở?
3. Ở đây, này các Tỷ-kheo, kẻ ăn
trộm lớn dựa vào các con sông khó lội qua hay núi non hiểm trở. Như vậy,
này các Tỷ-kheo, là kẻ ăn trộm lớn dựa vào sự hiểm trở. Và này các
Tỷ-kheo, thế nào là kẻ ăn trộm lớn dựa vào sự rậm rạp?
4. Ở đây, này các Tỷ-kheo, kẻ ăn
trộm lớn dựa vào sự rậm rạp của cỏ, cây, bụi cây và của rừng rậm hoang
vu. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là kẻ ăn trộm lớn dựa vào sự rậm rạp. Và
này các Tỷ-kheo, thế nào là kẻ ăn trộm lớn dựa vào uy lực?
5. Ở đây, này các Tỷ-kheo, kẻ ăn
trộm lớn dựa vào vua hay các vị đại thần của vua. Anh ta suy nghĩ như
sau: "Nếu có ai nói điều gì về ta, các vị vua này hay các vị đại thần
của vua sẽ nói những lời che chở cho ta". Nếu có ai nói điều gì về anh
ta, các vua và các vị đại thần ấy nói che chở cho anh ta. Như vậy, này
các Tỷ-kheo, kẻ ăn trộm lớn dựa vào uy lực. Và này các Tỷ-kheo, thế nào
là kẻ ăn trộm lớn dựa vào hối lộ tài sản?
6. Ở đây, này các Tỷ-kheo, kẻ ăn
trộm lớn giàu có, có tiền của nhiều, có tài sản lớn. Anh ta nghĩ như
sau: "Nếu có ai nói gì đến ta, từ nay ta sẽ hối lộ người ấy với tài
sản". Nếu có người nói gì đến anh ta, anh ta liền hối lộ với tài sản.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, kẻ ăn trộm lớn hối lộ với tài sản. Và này các
Tỷ-kheo, thế nào là kẻ ăn trộm lớn là kẻ ăn trộm riêng rẽ?
7. Ở đây, này các Tỷ-kheo, có kẻ ăn
trộm lớn đoạt các tài vật một mình. Vì cớ sao? Anh ta suy nghĩ: "Mong
rằng không ai bàn bạc chỗ trốn với ta rồi làm ta rối loạn". Như vậy, này
các Tỷ-kheo, kẻ ăn trộm lớn thành kẻ ăn trộm riêng rẽ.
Thành tựu năm chi phần này, kẻ ăn trộm lớn xâm nhập vào nhà cửa, mang
đồ ăn trộm ra đi, thành người ăn trộm riêng rẽ, thành người cướp chận
đường.
8. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, thành
tựu năm pháp, kẻ ác Tỷ-kheo tự mình xử sự như kẻ mất gốc, bị tổn thương,
có tội lỗi, bị những bậc trí quở trách, và làm nhiều điều vô phược. Thế
nào là năm?
9. Ở đây, này các Tỷ-kheo, ác
Tỷ-kheo dựa vào hiểm trở, dựa vào rậm rạp, dựa vào uy lực, hối lộ tài
sản và hành động một mình. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là ác Tỷ-kheo dựa
vào hiểm trở?
10. Ở đây, này các Tỷ-kheo, ác
Tỷ-kheo thành tựu thân nghiệp hiểm nạn, thành tựu ngữ nghiệp hiểm nạn,
thành tựu ý nghiệp hiểm nạn. Như vậy, này các Tỷ-kheo, thế nào là ác
Tỷ-kheo dựa vào hiểm nạn. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo dựa vào
rừng rậm?
11. Ở đây, này các Tỷ-kheo, ác
Tỷ-kheo có tà kiến và thành tựu tri kiến cực đoan. Như vậy, này các
Tỷ-kheo, là ác Tỷ-kheo dựa vào rừng rậm. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
ác Tỷ-kheo dựa vào uy lực?
12. Ở đây, này các Tỷ-kheo, ác
Tỷ-kheo dựa vào vua và các vị đại thần của vua. Vị ấy suy nghĩ: "Nếu có
ai nói gì về ta, các vua ấy và các đại thần ấy nói lời với mục đích che
chở cho ta". Nếu có ai nói gì về vị ấy, các vua chúa hay các vị đại thần
của vua nói lời với mục đích che chở. Như vậy, này các Tỷ-kheo, ác
Tỷ-kheo dựa vào uy lực. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là ác Tỷ-kheo hối lộ
tài sản?
13. Ở đây, này các Tỷ-kheo, ác
Tỷ-kheo nhận được các vật dụng nhu yếu như y, đồ ăn khất thực, sàng tọa,
dược phẩm trị bệnh. Vị ấy suy nghĩ như sau: "Nếu có ai nói gì về ta, ta
sẽ hối lộ người ấy với vật dụng thâu được!" Và nếu có người nói gì về
vị ấy, vị ấy hối lộ với vật dụng thâu được. Như vậy, này các Tỷ-kheo, ác
Tỷ-kheo hối lộ với tài sản. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là ác Tỷ-kheo
hành động một mình?
14. Ở đây, này các Tỷ-kheo, ác
Tỷ-kheo sống một mình tức là ở các địa phương biên địa. Tại đấy, vị ấy
đến các gia đình và nhận được các lợi dưỡng. Như vậy, này các Tỷ-kheo,
là ác Tỷ-kheo hành động một mình.
Thành tựu năm pháp, này các Tỷ-kheo, ác Tỷ-kheo tự mình xử sự như
người bị mất gốc, bị tổn thương, có phạm tội, bị các người trí quở
trách, làm nhiều điều vô phước.
(IV) (104) Ðem Lại An Lạc
1. - Thành tựu năm pháp, này các
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo là người đem lại an lạc, của Sa-môn cho các Sa-môn. Thế
nào là năm?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
được yêu cầu hưởng thụ nhiều y áo, không phải ít yêu cầu, được yêu cầu
hưởng thụ nhiều đồ ăn khất thực, không phải ít yêu cầu; được yêu cầu
hưởng thụ nhiều sàng tọa không phải ít yêu cầu; được yêu cầu hưởng thụ
nhiều dược phẩm trị bệnh, không phải ít yêu cầu. Vị này sống với các vị
đồng Phạm hạnh, và các vị này xử sự đối với vị ấy với thân hành nhiều
khả ý, không phải ít khả ý; xử sự với khẩu hành nhiều khả ý, không phải ý
khả ý; xử sự với ý hành nhiều khả ý, không phải ít khả ý. Những vị này
giúp đỡ vị ấy với sự giúp đỡ khả ý, không phải it1 khả ý. Và những cảm
thọ nào do mật khởi lên, do gió khởi lên, hay do sự phối hợp (của ba sự
kiện trên), hay do sự thay đổi thời tiết, hay do sự săn sóc bất cẩn, hay
do sự xâm nhập của một vài
sự kiện (như một vài chứng bệnh), hay do kết quả của nghiệp, những sự
kiện ấy khởi lên không có nhiều. Vị ấy ít bệnh hoạn và đối với bốn
Thiền, thuộc tăng thượng tâm, hiện tại lạc trú (vị ấy) chứng được không
khó khăn, chứng được không mệt nhọc, chứng được không phí sức. Do đoạn
diệt các lậu hoặc, vị ấy ngay trong hiện tại, tự mình với thắng trí,
chứng ngộ, chứng đạt và an trú vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát.
Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo là người đem lại sự
an lạc của Sa-môn, cho các hàng Sa-môn.
3. Này các Tỷ-kheo, nếu có ai nói
một cách chân chánh về vị đem lại an lạc của Sa-môn cho các Sa-môn, thời
này các Tỷ-kheo, vị ấy sẽ nói một cách chân chánh về Ta là người đã đem
lại an lạc của Sa-môn cho các Sa-môn. Này các Tỷ-kheo, Ta là người được
yêu cầu hưởng thọ nhiều y áo, không phải ít yêu cầu; được yêu cầu hưởng
thọ nhiều đồ ăn khất thực, không phải ít yêu cầu; được yêu cầu, hưởng
thọ nhiều sàng tọa, không phải ít yêu cầu; được yêu cần hưởng thọ nhiều
dược phẩm trị bệnh, không phải ít yêu cầu. Ta sống với các vị đồng Phạm
hạnh và các vị này xử sự đối với Ta với thân hành nhiều khả ý, không
phải ít khả ý; xử sự với khẩu hành nhiều khả ý, không phải ít khả ý; xử
sự với ý hành nhiều khả ý, không phải ít khả ý. Những vị này giúp đỡ Ta
với sự giúp đỡ nhiều khả ý,
không phải ít khả ý. Và những cảm thọ do mật khởi lên, do đàm khởi lên,
do gió khởi lên hay do sự phối hợp của ba sự kiện trên, hay do sự thay
đổi thời tiết, hay do sự săn sóc bất cẩn, hay do sự xâm nhập của một vài
sự kiện, hay do kết quả của nghiệp, những sự kiện ấy khởi lên nơi Ta
không có nhiều. Ta có ít bệnh hoạn, và đối với bốn Thiền, thuộc tăng
thượng tâm, hiện tại lạc trú, Ta chứng được không khó khăn, chứng được
không mệt nhọc, chứng được không phí sức. Do đoạn diệt các lậu hoặc ngay
trong hiện tại, Ta tự mình với thắng trí, chứng ngộ, chứng đạt và an
trú vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát.
Này các Tỷ-kheo, nếu có ai nói một cách chân chánh về vị đem lại an
lạc của Sa-môn cho các Sa-môn, thời này các Tỷ-kheo, vị ấy sẽ nói một
cách chân chánh về Ta là người đã đem lại an lạc của vị Sa-môn cho các
vị Sa-môn.
(V) (105) An Ổn Trú
1. - Này các Tỷ-kheo, có năm an ổn
trú này, Thế nào là năm?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
an trú từ thân nghiệp đối với các đồng Phạm hạnh, cả trước mặt và sau
lưng; an trú từ khẩu nghiệp đối với các đồng Phạm hạnh, trước mặt và sau
lưng; an trú từ ý nghiệp đối với các đồng Phạm hạnh, trước mặt và sau
lưng; đối với các giới không bị bể vụn, không bị sứt mẻ, không bị nhiễm
ô, không bị uế nhiễm, đem lại giải thoát, được người trí tán thán, không
bị chấp thủ, đưa đến Thiền định, vị ấy song thành tựu các giới như vậy
đối với các đồng Phạm hạnh, trước mặt và sau lưng, và đối với tri kiến
này, thuộc bậc Thánh đưa đến xuất ly, được người thực hành chân chánh
đoạn diệt khổ đau, vị ấy sống thành tựu tri kiến như vậy đối với các
đồng Phạm hạnh, trước mặt và sau lưng.
Năm pháp này, này các Tỷ-kheo, là năm an ổn trú.
(VI) (106) Tôn Giả Ananda
1. Một thời, Thế Tôn ở Kosambì, tại
khu vườn Ghosita. Rồi Tôn giả Ananda đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh
lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Tôn giả Ananda
bạch Thế Tôn:
- Cho đến như thế nào, bạch Thế Tôn, chúng Tỷ-kheo Tăng sống an ổn
trú?
- Này Ananda, khi nào vị Tỷ-kheo tự mình đầy đủ giới và không làm
phiền hà người khác với tăng thượng giới. Cho đến như vậy, này Ananda,
chúng Tỷ-kheo Tăng sống an ổn trú.
- Bạch Thế Tôn, có pháp môn nào khác, nhờ vậy chúng Tỷ-kheo Tăng sống
an ổn trú?
- Có thể có, này Ananda!
Thế Tôn nói:
- Này Ananda, khi nào Tỷ-kheo đầy đủ giới và không làm phiền hà người
khác với tăng thượng giới, tự quán sát mình không quán sát người khác.
Cho đến như vậy, này Ananda, chúng Tỷ-kheo Tăng sống an ổn trú.
- Bạch Thế Tôn, có pháp môn nào khác, nhờ vậy chúng Tỷ-kheo Tăng sống
an ổn trú?
- Có thể có, này Ananda!
Thế Tôn nói:
- Này Ananda, khi nào vị Tỷ-kheo đầy đủ giới và không làm phiền hà
người khác với tăng thượng giới, tự quán sát mình, không quán sát người
khác, chưa trở thành có danh tiếng, và không cảm thấy bực phiền vì không
được có danh tiếng. Cho đến như vậy, này Ananda, chúng Tỷ-kheo Tăng
sống an ổn trú.
- Bạch Thế Tôn, có pháp môn nào khác, nhờ vậy chúng Tỷ-kheo Tăng sống
an ổn trú?
- Có thể có, này Ananda!
Thế Tôn nói:
- Này Ananda, khi nào Tỷ-kheo đầy đủ giới và không làm phiền hà người
khác với tăng thượng giới, tự quán sát mình, không quán sát người khác,
chưa trở thành có danh tiếng, và không cảm thấy bực phiền vì không được
có danh tiếng, đối với bốn thiền, thuộc tăng thượng tâm, hiện tại lạc
trú, chứng được không khó khăn, chứng được không mệt nhọc, chứng được
không phí sức. Cho đến như vậy, này Ananda, chúng Tỷ-kheo Tăng sống an
ổn trú.
- Bạch Thế Tôn, có pháp môn nào khác, nhờ vậy chúng Tỷ-kheo Tăng sống
an ổn trú?
- Có thể có, này Ananda!
Thế Tôn nói:
- Này Ananda, khi nào Tỷ-kheo đầy đủ giới và không làm phiền hà người
khác với tăng thượng giới, tự quán sát mình, không quán sát người khác,
chưa trở thành có danh tiếng, và không cảm thấy bực phiền vì không được
có danh tiếng, đối với bốn thiền, thuộc tăng thượng tâm, hiện tại lạc
trú, chứng được không khó khăn, chứng được không mệt nhọc, chứng được
không phí sức. Do đoạn tận các lậu hoặc, vị ấy tự mình với thắng trí
ngay trong hiện tại chứng đạt và an trú vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải
thoát. Cho đến như vậy, này Ananda, chúng Tỷ-kheo Tăng sống an ổn trú.
Ngoài các an ổn trú này, này Ananda, Ta tuyên bố không có một an ổn
trú nào khác cao thượng hơn, thù diệu hơn.
(VII) (107) Giới
1. - Thành tựu năm pháp, này các
Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo đáng được cung kính, đáng được tôn trọng, đáng được
cúng dường, đáng được chắp tay, là phước điền vô thượng ở đời. Thế nào
là năm?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
đầy đủ giới, đầy đủ định, đầy đủ tuệ, đầy đủ giải thoát, đầy đủ giải
thoát tri kiến.
Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo đáng được cung
kính, đáng được tôn trọng, đáng được cúng dường, đáng được chắp tay, là
phước điền vô thượng ở đời.
(VIII) (108) Vô Học
1. - Thành tựu năm pháp, này các
Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo đáng được cung kính, đáng được tôn trọng, đáng được
cúng dường, đáng được chắp tay, là phước điền vô thượng ở đời.
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
thành tựu vô học giới uẩn, thành tựu vô học định uẩn, thành tựu vô học
tuệ uẩn, thành tựu vô học giải thoát uẩn, thành tựu vô học giải thoát
tri kiến uẩn.
Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đáng được cung
kính... là phước điền vô thượng ở đời.
(IX) (109) Người Bốn Phương
1. - Thành tựu năm pháp, này các
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo là người bốn phương. Thế nào là năm?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
có giới, sống được bảo vệ với sự bảo vệ của giới bổn, đầy đủ oai nghi
chánh hạnh, thấy sợ hãi trong các tội nhỏ nhiệm, chấp nhận và học tập
trong các học pháp, là bậc nghe nhiều, thọ trì điều đã được nghe, tích
tập điều đã được nghe. Ðối với các pháp sơ thiện, trung thiện, hậu
thiện, có nghĩa, có văn, tán thán đời sống Phạm hạnh hoàn toàn viên mãn
thanh tịnh, các pháp như vậy, vị ấy nghe nhiều, thọ trì nhiều đã ghi nhớ
nhờ đọc nhiều lần, chuyên ý quán sát, khéo thành tựu nhờ chánh kiến,
biết đủ với các vật dụng nhu yếu như y áo, đồ ăn khất thực, sàng tọa,
dược phẩm trị bệnh. Ðối với bốn Thiền thuộc tăng thượng tâm, hiện tại
lạc trú, vị ấy chứng đắc không khó khăn, chứng đắc không mệt nhọc, chứng
đắc không phí sức. Do đoạn diệt các
lậu hoặc, vị ấy ngay trong hiện tại tự mình với thắng trí chứng ngộ,
chứng đạt và an trú vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát.
Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo là vị bốn phương
hướng.
(X) (110) Khu Rừng
1. - Thành tựu năm pháp, này các
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo sử dụng sàng tọa (trú xứ) thuộc rừng núi cao nguyên xa
vắng. Thế nào là năm?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
có giới... (xem Kinh 109 ở trên) chấp nhận và học tập trong các
học pháp, là bậc nghe nhiều... chuyên ý quán sát, khéo thành tựu nhờ
chánh kiến, sống tinh cần tinh tấn... nỗ lực kiên trì, không từ bỏ gánh
nặng đối với các thiện pháp, đối với bốn Thiền, thuộc tăng thượng tâm,
hiện tại lạc trú, chứng đắc không khó khăn, chứng đắc không mệt nhọc,
chứng đắc không phí sức, do đoạn diệt các lậu hoặc, ngay trong hiện tại,
tự mình chứng ngộ với thắng trí, chứng đạt và an trú vô lậu tâm giải
thoát, tuệ giải thoát.
Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo là vừa đủ để sử
dụng các sàng tọa thuộc rừng núi cao nguyên xa vắng.
XII. Phẩm Andhakavinda
(I) (111) Ði Ðến Các Gia Ðình
1.
- Thành tự năm pháp, này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo thân cận các gia đình, không được các gia đình ái mộ, thích ý,
kính trọng, noi gương để tu tập. Thế nào là năm?
2. Vị ấy thân mật với người không
thân tín, can thiệp vào việc không có thẩm quyền, ra vào với các phần tử
chống đối, nói riêng một bên tai, xin quá nhiều.
Thành tự năm pháp, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo thân cận các gia đình,
không được các gia đình ái mộ, thích ý, kính trọng, noi gương để tu tập.
3. Thành tự năm pháp, này các
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo thân cận các gia đình, được các gia đình ái mộ, thích
ý, kính trọng, noi gương để tu tập. Thế nào là năm?
Vị ấy không thân mật với người không thân tín, không can thiệp vào
việc không có thẩm quyền, không ra vào với các phần tử chống đối, không
nói riêng một bên tai, không xin quá nhiều.
Thành tự năm pháp, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo thân cận các gia đình,
được các gia đình ái mộ, thích ý, kính trọng, noi gương để tu tập.
(II)
(112) Sa Môn Tùy Tùng
1. - Này các Tỷ-kheo, thành tựu năm
pháp, một Tỷ-kheo không đáng được nhận làm Sa-môn tùy tùng. Thế nào là
năm?
2. Ði quá xa hay quá gần, không cầm
lấy bình bát đã được chứa đầy, không ngăn chặn lời nói đưa đến phạm tội,
ngắt lời nói của người khác, người ác tuệ đần độn, câm điếc.
Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo không đáng được
nhận làm Sa-môn tùy tùng.
3. Thành tựu năm pháp, này các
Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo đáng được nhận làm Sa-môn tùy tùng. Thế nào là năm?
4. Không đi quá xa hay không quá
gần, cầm lấy bình bát đã được chứa đầy, ngăn chặn lời nói đưa đến phạm
tội, không ngắt lời nói của người khác, người có trí tuệ, không đần độn,
không câm điếc.
Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo đáng được nhận
làm Sa-môn tùy tùng.
(III) (113) Thiền Ðịnh
1. - Thành tựu năm pháp, này các
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo không có thể đạt đến và an trú chánh định. Thế nào là
năm?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
không kham nhẫn các sắc, không kham nhẫn các tiếng, không kham nhẫn các
hương, không kham nhẫn các vị, không kham nhẫn các xúc.
Thành tựu năm pháp, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo không có thể đạt đến và
an trú chánh định.
3. Thành tựu năm pháp, này các
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo có thể đạt đến và an trú chánh định. Thế nào là năm?
4. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
kham nhẫn các sắc, kham nhẫn các tiếng, kham nhẫn các hương, kham nhẫn
các vị, kham nhẫn các xúc.
Thành tựu năm pháp, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo có thể đạt đến và an trú
chánh định.
(IV) (114) Tại Andhakavinda
1. Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân
chúng Magadha, tại Andhakavinda. Rồi Tôn giả Ananda đi đến Thế Tôn; sau
khi đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Thế Tôn nói với Tôn giả
Ananda đang ngồi một bên:
- Những Tỷ-kheo nào, này Ananda, là tân học xuất gia không bao lâu,
mới đến trong Pháp và Luật này, các Tỷ-kheo ấy, này Ananda, thật sự cần
phải khích lệ, cần phải làm cho nhập vào và làm cho an trú trong năm
pháp. Thế nào là trong năm pháp?
2. "Hãy đến, này các Hiền giả, các
Thầy cần phải giữ giới, sống được bảo vệ với sự bảo vệ của giới bổn, đầy
đủ oai nghi chánh hạnh, thấy sợ hãi trong các lỗi nhỏ nhiệm, chấp nhận
và học tập trong các học pháp". Như vậy, họ cần được khích lệ, cần phải
làm cho nhập vào và làm cho an trú trong sự bảo vệ của giới bổn.
3. "Hãy đến, này các Hiền giả, các
Thầy cần phải sống với các căn môn phải được chế ngự, thành tựu với niệm
được phòng hộ, với niệm thận trọng sáng suốt, với ý được khéo phòng hộ,
với tâm được chánh niệm bảo vệ". Như vậy, họ cần được khích lệ, cần
phải làm cho nhập vào, cần làm cho an trú trong sự bảo vệ các căn.
4. "Hãy đến, này các Hiền giả, hãy
nói ít lại, hãy hạn chế lời nói". Như vậy, họ cần được khích lệ, cần
phải làm cho nhập vào, cần làm cho an trú trong sự hạn chế lời nói.
5. "Hãy đến, này các Hiền giả, hãy
là những người sống trong rừng, hãy sử dụng các trú xứ núi rừng cao
nguyên xa vắng". Như vậy, họ cần phải được khích lệ, cần làm cho nhập
vào, cần làm cho an trú trong nếp sống thân viễn ly.
6. "Hãy đến, này các Hiền giả, hãy
có chánh trị kiến, thành tựu chánh kiến". Như vậy, họ cần phải được
khích lệ, cần làm cho nhập vào, cần làm cho an trú trong chánh kiến.
Này Ananda, các Tỷ-kheo nào tân học, xuất gia không bao lâu, mới đến
trong Pháp Luật này, này Ananda, các Tỷ-kheo ấy cần phải được thầy khích
lệ, cần phải làm cho nhập vào, cần làm cho an trú trong năm pháp này.
(V) (115) Xan Lẫn
1. - Thành tựu năm pháp, này các
Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo-ni tương xứng như vậy bị rơi vào địa ngục. Thế nào
là năm?
2. Xan tham về chỗ ở, xan tham về sự
giúp đỡ các gia đình, xan tham về các vật dụng được cúng dường, xan
tham tán thán, xan tham về pháp.
Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo-ni tương xứng
như vậy bị rơi vào địa ngục.
3. Thành tựu năm pháp, này các
Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo-ni tương xứng như vậy được sanh lên cõi Trời. Thế
nào là năm?
4. Không xan tham về chỗ ở, không
xan tham về sự giúp đỡ các gia đình, không xan tham về các vật dụng được
cúng dường, không xan tham về tán thán, không xan tham về pháp.
Thành tựu năm pháp, này các Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo-ni tương xứng như
vậy được sanh lên cõi Trời.
(VI)
(116) Tán Thán
1. - Thành tựu năm pháp này, này các
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-ni tương xứng như vậy bị rơi vào địa ngục. Thế nào là
năm?
2. Không suy xét, không thẩm sát,
tán thán người không đáng được tán thán; không suy xét, không thẩm sát,
không tán thán người đáng được tán thán; không suy xét, không thẩm sát,
đặt lòng tin vào những chỗ không đáng được tịnh tín; không suy xét,
không thẩm sát, không đặt lòng tin vào những chỗ đáng được tịnh tín; bác
bỏ các vật dụng tín thí.
Do thành tựu năm pháp này, Tỷ-kheo-ni như vậy tương xứng bị rơi vào
địa ngục.
3. Thành tựu năm pháp này, này các
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-ni tương xứng như vậy được sanh lên cõi Trời. Thế nào
là năm?
Có suy xét, có thẩm sát, không tán thán người không đáng được tán
thán; có suy xét, có thẩm sát, tán thán người đáng được tán thán; có suy
xét, có thẩm sát, không đặt lòng tin vào những chỗ không đáng được tịnh
tín; có suy xét, có thẩm sát, đặt lòng tin vào những chỗ đáng được tịnh
tín; không bác bỏ các vật dụng tín thí.
Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-ni như vậy tương
xứng được sanh lên cõi Trời.
(VII) (117) Ganh Tỵ
1. - Thành tựu năm pháp này, này các
Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo-ni như vậy tương xứng bị rơi vào địa ngục. Thế nào
là năm?
2. Không suy xét, không thẩm sát,
tán thán người không đáng được tán thán; không suy xét, không thẩm sát,
không tán thán người đáng được tán thán; ganh tị; xan tham; bác bỏ các
vật dụng tín thí.
Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo-ni như vậy tương
xứng bị rơi vào địa ngục.
3. Thành tựu năm pháp này, này các
Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo-ni như vậy tương xứng được sanh lên cõi Trời.
4. Có suy xét, có thẩm sát, không
tán thán người không đáng được tán thán; có suy xét, có thẩm sát, tán
thán người đáng được tán thán; không có ganh tị; không có xan tham;
không bác bỏ các vật tín thí.
Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo-ni như vậy tương
xứng được sanh lên cõi Trời.
(VIII) (118) Tri Kiến
1. - Thành tựu năm pháp này, này các
Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo-ni như vậy tương xứng bị rơi vào địa ngục. Thế nào
là năm?
2. Không suy xét, không thẩm sát,
tán thán người không đáng được tán thán; không suy xét, không thẩm sát,
không tán thán người đáng được tán thán; có tà kiến; có tà tư duy; bác
bỏ các vật tín thí.
Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo-ni như vậy tương
xứng bị rơi vào địa ngục.
3. Thành tựu năm pháp này, này các
Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo-ni như vậy tương xứng được sanh lên cõi Trời. Thế
nào là năm?
Có suy xét, có thẩm sát, không tán thán người không đáng được tán
thán; có suy xét, có thẩm sát, tán thán người đáng được tán thán; có
chánh tri kiến; có chánh tư duy; không bác bỏ các vật tín thí.
Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo-ni như vậy tương
xứng được sanh lên cõi Trời.
(IX) (119) Lời Nói
...(Giống như kinh số 118 ở trên, chỉ có khác trong kinh này: tà
tinh tấn, tà niệm thế cho tà tri kiến, tà tư duy và chánh tinh tấn,
chánh niệm thế cho chánh tri kiến, chánh tư duy của kinh trước).
(X) (120) Tinh Tấn
...(Giống như kinh số 118) ở trên, chỉ có khác trong kinh này: tà
tinh tấn, tà niệm thế cho tà tri kiến, tà tư duy và chánh tinh tấn,
chánh niệm thế cho chánh tri kiến, chánh tư duy của kinh trước).
XIII. Phẩm Bệnh
(I) (121) Người Bệnh
1.
Một thời, Thế Tôn trú ở Vesàlì, tạo Ðại
Lâm, giảng đường có nóc nhọn. Rồi Thế Tôn vào buổi chiều, từ Thiền tịnh
đứng dậy, đi đến hành lang người bệnh. Thế Tôn thấy một Tỷ-kheo ốm yếu
bệnh hoạn, thấy vậy ngồi xuống trên chỗ đã soạn sẵn. Sau khi ngồi, Thế
Tôn bảo các Tỷ-kheo:
- Này các Tỷ-kheo, nếu năm pháp này không rời bỏ một kẻ ốm yếu bệnh
hoạn, thời người ấy được chờ đợi như sau: Không bao lâu, do đoạn diệt
các lậu hoặc, ngay trong hiện tại, với thắng trí sẽ chứng ngộ, chứng đạt
và an trú vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát. Thế nào là năm?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị
Tỷ-kheo sống quán bất tịnh trên thân, với tưởng ghê gớm đối với các món
ăn, với tưởng không thích thú đối với tất cả thế giới, quán vô thường
trong tất cả hành, và nội tâm khéo an trú trong tưởng về chết.
- Này các Tỷ-kheo, nếu năm pháp này không rời bỏ một kẻ ốm yếu bệnh
hoạn, thời người ấy được chờ đợi như sau: Không bao lâu, do đoạn diệt
các lậu hoặc, ngay trong hiện tại, với thắng trí sẽ chứng ngộ, chứng đạt
và an trú vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát.
(II) (122) Niệm Xứ
1. - Tỷ-kheo hay Tỷ-kheo-ni nào, này
các Tỷ-kheo, tu tập làm cho sung mãn năm pháp, một trong hai quả sau
đây được chờ đợi cho vị ấy: Ngay trong hiện tại, được chánh trí, hay nếu
có dư y, chứng quả Bất hoàn. Thế nào là năm?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị
Tỷ-kheo nội tâm niệm được khéo an trú với trí tuệ về sự sanh diệt của
các pháp; sống quán bất tịnh trên thân, với tưởng ghê tởm đối với các
món ăn, với tưởng không thích thú đối với tất cả thế giới, quán vô
thường đối với tất cả hành.
Tỷ-kheo hay Tỷ-kheo-ni nào, này các Tỷ-kheo, tu tập năm pháp này, làm
cho sung mãn năm pháp này, một trong hai quả sau đây được chờ đợi cho
vị ấy: Ngay trong hiện tại, được chánh trí, hay nếu có dư y, chứng quả
Bất hoàn.
(III) (123) Săn Sóc Bệnh
1. - Thành tựu năm pháp này, này các
Tỷ-kheo, một người bị bệnh tự săn sóc bệnh không được tốt đẹp. Thế nào
là năm?
2. Làm điều không thích đáng; không
biết vừa phải trong khi chữa trị; không sử dụng thuốc; với người săn sóc
bệnh muốn lợi ích (cho mình, cho người bệnh); không có như thật nói rõ
bệnh hoạn: Khi tăng tiến là tăng tiến như vậy, khi giảm thiểu là giảm
thiểu như vậy, khi đứng lại là đứng lại như vậy; đối với các khổ thọ
thuộc về thân khởi lên, khốc liệt, cường liệt, mãnh liệt, không thích
thú, không thích ý, đoạt mạng, khó lòng nhẫn thọ.
Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo, kẻ bị bệnh không săn sóc
bệnh mình cho được tốt đẹp.
3. Thành tựu năm pháp này, này các
Tỷ-kheo, một người bị bệnh là người săn sóc bệnh mình được tốt đẹp. Thế
nào là năm?
4. Làm điều thích đáng; biết vừa
phải trong khi chữa trị; có sử dụng thuốc; với người săn sóc bệnh muốn
lợi ích (cho mình); như thật nói rõ bệnh hoạn: Khi tăng tiến là tăng
tiến như vậy, khi giảm thiểu là giảm thiểu như vậy, khi đứng lại là đứng
lại như vậy; đối với các khổ thọ thuộc về thân khởi lên khốc liệt,
cường liệt, mãnh liệt, không thích thú, không thích ý, đoạt mạng, có thể
nhẫn chịu.
Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo, một người bị bệnh là người
săn sóc bệnh mình được tốt đẹp.
(IV) (124) Săn Sóc Bệnh (2)
1. - Thành tựu năm pháp này, này các
Tỷ-kheo, một người săn sóc bệnh không đủ khả năng để săn sóc người
bệnh. Thế nào là năm?
2. Không có năng lực pha thuốc;
không biết cái gì thích đáng, cái gì không thích đáng; đưa cái gì không
thích đáng, không đưa cái gì thích đáng, vì muốn lợi ích vật chất, săn
sóc người bệnh, không phải vì lòng từ, cảm thấy ghê tởm khi phải dọn
phân, nước tiểu, đồ mửa ra, hay đờm; không có năng lực thỉnh thoảng với
pháp thoại trình bày, khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ người
bệnh.
Thành tựu năm pháp này, một người săn sóc bệnh không đủ khả năng để
săn sóc người bệnh.
3. Thành tựu năm pháp này, này các
Tỷ-kheo, một người săn sóc bệnh có đủ khả năng để săn sóc người bệnh.
Thế nào là năm?
4. Có năng lực pha thuốc; biết cái
gì thích đáng, cái gì không thích đáng; đưa cái gì thích đáng, không đưa
cái gì không thích đáng, vì lòng từ săn sóc người bệnh, không vì lợi
ích vật chất, không cảm thấy ghê tởm khi phải dọn phân, nước tiểu, đồ
mửa ra, hay đờm; có năng lực thỉnh thoảng với pháp thoại trình bày,
khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ người bệnh.
Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo, một người săn sóc bệnh có đủ
khả năng để săn sóc người bệnh.
(V) (125) Tuổi Thọ (1)
1. - Năm pháp này, này các Tỷ-kheo,
không gia tăng tuổi thọ. Thế nào là năm?
2. Làm việc không thích đáng, không
biết vừa phải trong việc thích đáng, ăn các đồ không tiêu hóa, du hành
phi thời, và sống không Phạm hạnh.
Năm pháp này, này các Tỷ-kheo, không gia tăng tuổi thọ.
3. Năm pháp này, này các Tỷ-kheo,
gia tăng tuổi thọ. Thế nào là năm?
4. Làm việc thích đáng, biết vừa
phải trong việc thích đáng, ăn các đồ ăn tiêu hóa, du hành phải thời, và
sống Phạm hạnh.
Năm pháp này, này các Tỷ-kheo, gia tăng tuổi thọ.
(VI) (126) Tuổi Thọ (2)
(...Như kinh trên, chỉ khác hai pháp sau cùng du hành phi thời và
sống không Phạm hạnh được thế vào với ác giới và bạn bè ác. Và hai thiện
pháp du hành phải thời và sống Phạm hạnh được thế vào với có giới và
bạn bè thiện...).
(VII) (127) Sống Biệt Lập
1. - Thành tựu năm pháp này, vị
Tỷ-kheo không đủ điều kiện để sống biệt lập chúng Tăng. Thế nào là năm?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
không tự vừa đủ với y nhận được chỗ này chỗ kia; không tự vừa đủ với đồ
ăn khất thực nhận được chỗ này chỗ kia; không tự vừa đủ với sàng tọa
nhận được chỗ này chỗ kia; không tự vừa đủ với dược phẩm trị bệnh nhận
được chỗ này chỗ kia; và sống với nhiều tư duy về dục.
Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo không đủ điều
kiện để sống biệt lập chúng Tăng.
3. Thành tựu năm pháp này, này các
Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo đủ điều kiện để sống biệt lập với chúng Tăng. Thế
nào là năm?
4. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
tự vừa đủ với y nhận được chỗ này chỗ kia; tự vừa đủ với đồ ăn khất thực
nhận được chỗ này chỗ này; tự vừa đủ với sàng tọa nhận được chỗ này chỗ
kia; tự vừa đủ với dược phẩm nhận được chỗ này chỗ kia; sống nhiều tư
duy về viễn ly.
Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đủ điều kiện để sống
biệt lập với chúng Tăng.
(VIII) (128) Các Ðiều Khổ Cho Sa Môn
1. - Có năm điều khổ này cho Sa-môn.
Thế nào là năm?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo không tự
vừa đủ với y nhận được chỗ này chỗ kia; không tự vừa đủ với đồ ăn khất
thực nhận được chỗ này chỗ kia; không tự vừa đủ với sàng tọa nhận được
chỗ này chỗ kia; không tự vừa đủ với dược phẩm trị bệnh nhận được chỗ
này chỗ kia; sống không vui thích trong Phạm hạnh.
Này các Tỷ-kheo, có năm điều khổ này cho Sa-môn.
3. Có năm an lạc này, này các
Tỷ-kheo, cho Sa-môn. Thế nào là năm?
4. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
tự vừa đủ với y nhận được chỗ này chỗ kia; tự vừa đủ với đồ ăn khất thực
nhận được chỗ này chỗ kia; tự vừa đủ với sàng tọa nhận được chỗ này chỗ
kia; tự vừa đủ với dược phẩm trị bệnh nhận được chỗ này chỗ kia; sống
vui thích trong Phạm hạnh.
Này các Tỷ-kheo, có năm an lạc này cho vị Sa-môn.
(IX) (129) Ngũ Nghịch
1. - Có năm nghịch tội này, này các
Tỷ-kheo, đưa đến đọa xứ, đưa đến địa ngục, không có thể chữa trị. Thế
nào là năm?
2. Ðoạt mạng mẹ, đoạt mạng cha, đoạt
mạng vị A-la-hán, với ác tâm làm Như Lai chảy máu, phá hòa hợp Tăng.
Này các Tỷ-kheo, năm pháp ngũ nghịch này, đưa đến đọa xứ, đưa đến địa
ngục, không thể chữa trị.
(X) (130) Thành Tựu
1. - Này các Tỷ-kheo, có năm điều
tổn thất này. Thế nào là năm?
2. Tổn thất bà con, tổn thất tài
sản, tổn thất tật bệnh, tổn thất giới, tổn thất tri kiến. Này các
Tỷ-kheo, không do nhân tổn thất bà con, hay không do nhân tổn thất tài
sản, hay không do nhân tổn thất bệnh hoạn mà các loài hữu tình sau khi
thân hoại mạng chung sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Này các
Tỷ-kheo, chính do nhân tổn thất giới, hay tổn thất tri kiến mà các loài
hữu tình sau khi thân hoại mạng chung sanh vào cõi dữ, ác thú, địa ngục.
Này các Tỷ-kheo, có năm tổn thất này.
3. Này các Tỷ-kheo, có năm thành tựu
này. Thế nào là năm?
4. Thành tựu bà con, thành tựu tài
sản, thành tựu vô bệnh, thành tựu giới, thành tựu tri kiến. Này các
Tỷ-kheo, không do nhân thành tựu bà con, hay không do nhân thành tựu tài
sản, hay không do nhân thành tựu vô bệnh, mà các loài hữu tình sau khi
thân hoại mạng chung sanh được lên cõi lành, Thiên giới, cõi đời này.
Này các Tỷ-kheo, do nhân thành tựu giới hay do nhân thành tựu tri kiến,
mà các loài hữu tình sau khi thân hoại mạng chung được sanh lên cõi
lành, Thiên giới, cõi đời này.
Này các Tỷ-kheo, có năm thành tựu này.
XIV. Phẩm Vua
(I) (131) Chuyển Luân Vương
1.
- Thành tựu năm chi phần, này các
Tỷ-kheo, vua Chuyển Luân chuyển bánh xe với pháp; bánh xe ấy không một
bàn tay ai có thể chuyển ngược lại, dầu là con của người thù địch. Thế
nào là năm?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, vua
Chuyển Luân biết nghĩa, biết pháp, biết vừa phải, biết thời và biết hội
chúng.
Thành tựu năm chi phần, này các Tỷ-kheo, vua Chuyển Luân chuyển bánh
xe với pháp; bánh xe ấy, không một bàn tay ai có thể chuyển ngược lại,
dầu là con của người thù địch.
3. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, thành
tựu năm pháp, Như Lai, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác chuyển Pháp luân Vô
thượng với pháp; bánh xe ấy, không do một ai ở đời có thể chuyển ngược
lại, dầu là Sa-môn, Bà-la-môn, Thiên, Ma, Phạm thiên hay bất cứ ai ở
đời. Thế nào là năm?
4. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Như Lai,
bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác biết nghĩa, biết pháp, biết vừa phải, biết
thời và biết hội chúng.
Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo, Như Lai, bậc A-la-hán, Chánh
Ðẳng Giác chuyển Pháp luân Vô Thượng với pháp; bánh xe ấy, không một ai
có thể chuyển ngược lại, dầu là Sa-môn, Bà-la-môn, Thiên, Ma, Phạm
thiên hay bất cứ ai ở đời.
(II) (132) Chuyển Luân Vương (2)
1. - Thành tựu năm chi phần, này các
Tỷ-kheo, con trưởng vua Chuyển Luân tiếp tục chuyển vận bánh xe pháp do
phụ vương đã chuyển vận; bánh xe ấy, không một bàn tay ai có thể chuyển
ngược lại, dầu là con của người thù địch. Thế nào là năm?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, con
trưởng vua Chuyển Luân biết nghĩa, biết pháp, biết vừa phải, biết thời
và biết hội chúng.
Thành tựu năm chi phần này, này các Tỷ-kheo, con trưởng vua Chuyển
Luân tiếp tục chuyển vận bánh xe pháp do phụ vương đã chuyển vận; bánh
xe ấy, không một bàn tay ai có thể chuyển ngược lại, dầu là con của
người thù địch.
3. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo,
Sàriputta thành tựu năm pháp chơn chánh tiếp tục chuyển vận Vô thượng
pháp luân do Như Lai đã chuyển vận; bánh xe ấy, không do một ai có thể
chuyển ngược lại, dầu là Sa-môn, Bà-la-môn, Thiên, Ma, Phạm thiên hay
bất cứ ai ở đời. Thế nào là năm?
4. Ở đây, này các Tỷ-kheo Sàriputta
biết nghĩa lợi, biết pháp, biết vừa đủ, biết thời và biết hội chúng.
Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo, Sàriputta chơn chánh tiếp
tục chuyển vận Vô thượng pháp luân do Như Lai đã chuyển vận; bánh xe ấy,
không do một ai có thể chuyển ngược lại, dầu là Sa-môn, Bà-la-môn,
Thiên, Ma, Phạm thiên hay bất cứ ai ở đời.
(III) (133) Chuyển Luân Vương (3)
1. - Này các Tỷ-kheo, ai là vua
Chuyển Luân đúng pháp pháp vương, vị ấy chuyển vận bánh xe không phải
không thuộc của vua.
Khi nghe nói vậy, một vị Tỷ-kheo bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, ai là vua cho vua Chuyển Luân đúng pháp pháp vương?
- Chính là pháp, này Tỷ-kheo.
Thế Tôn nói vậy.
2. - Ở đây, này Tỷ-kheo, vua Chuyển
Luân đúng pháp pháp vương, y cứ pháp, tôn kính pháp, kính trọng pháp,
tôn trọng pháp, lấy pháp làm tràng phan, lấy pháp làm ngọn cờ, lấy pháp
làm tăng thượng. Vị này sắp đặt một sự phòng hộ, bảo vệ, chế ngự đúng
pháp cho dân chúng trong nước.
3. Lại nữa, này Tỷ-kheo, vua Chuyển
Luân đúng pháp pháp vương, y cứ pháp, tôn kính pháp, kính trọng pháp,
tôn trọng pháp, lấy pháp làm tràng phan, lấy pháp làm ngọn cờ, lấy pháp
làm tăng thượng. Vị này sắp đặt một sự phòng hộ, bảo vệ, chế ngự đúng
pháp cho các Sát-đế-lỵ, tùy hành, cho quân đội, cho các Bà-la-môn gia
chủ, cho dân chúng thị trấn và quốc độ, cho các Sa-môn, Bà-la-môn, cho
các loài thú và loài chim.
Như vậy, này Tỷ-kheo, vua Chuyển Luân đúng pháp pháp vương ấy, y cứ
pháp, tôn kính pháp, kính trọng pháp, tôn trọng pháp, lấy pháp làm tràng
phan, lấy pháp làm ngọn cờ, lấy pháp làm tăng thượng, sau khi sắp đặt
một sự phòng hộ, bảo vệ, chế ngự đúng pháp cho dân chúng trong nước. Sau
khi sắp đặt một sự phòng hộ bảo vệ, chế ngự đúng pháp cho các
Sát-đế-lỵ, tùy tùng, cho quân đội, cho các Bà-la-môn gia chủ, cho dân
chúng chấn và quốc độ, cho các Sa-môn, Bà-la-môn, cho các loài thú và
loài chim, vị ấy chuyển vận bánh xe với pháp; bánh xe ấy, không một bàn
tay ai có thể chuyển ngược lại dầu là con của người thù địch.
Cũng vậy, này Tỷ-kheo, Như Lai, bậc A-la-hán Chánh Ðẳng Giác đúng
pháp pháp vương, y cứ pháp, tôn kính pháp, kính trọng pháp, tôn trọng
pháp, lấy pháp làm tràng phan, lấy pháp làm ngọn cờ, lấy pháp làm tăng
thượng, sắp đặt một sự phòng hộ, bảo vệ, chế ngự đúng pháp giữa các hàng
Tỷ kheo: Thân nghiệp như vậy cần phải thực hành, thân nghiệp như vậy
không nên thực hành; khẩu nghiệp như vậy cần phải thực hành, khẩu nghiệp
như vậy không nên thực hành; ý nghiệp như vậy cần phải thực hành, ý
nghiệp như vậy không nên thực hành; mạng sống như vậy cần phải thực
hành, mạng sống như vậy không nên thực hành; làng, thị trấn như vậy cần
phải đi đến; làng, thị trấn như vậy không nên đi đến.
4. Lại nữa, này Tỷ-kheo, Như Lai,
bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác đúng pháp pháp vương, y cứ pháp, tôn kính
pháp, kính trọng pháp, tôn trọng pháp, lấy pháp làm tràng phan, lấy pháp
làm ngọn cờ, lấy pháp làm tăng thượng, sắp đặt một sự phòng hộ, bảo vệ,
chế ngự đúng pháp giữa các Tỷ-kheo, giữa các Tỷ-kheo-ni, giữa các nam
cư sĩ, giữa các nữ cư sĩ: Thân nghiệp như vậy cần phải thực hành, thân
nghiệp như vậy không nên thực hành; khẩu nghiệp như vậy cần phải thực
hành, khẩu nghiệp như vậy không nên thực hành; ý nghiệp như vậy cần phải
thực hành, ý nghiệp như vậy không nên thực hành; mạng sống như vậy cần
phải thực hành, mạng sống như vậy không nên thực hành; làng, thị trấn
như vậy cần phải đi đến; làng, thị trấn như vậy không nên đi đến.
Như vậy, này Tỷ-kheo, Như Lai, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác đúng
pháp pháp vương y cứ pháp, tôn kính pháp, kính trọng pháp, tôn trọng
pháp, lấy pháp làm tràng phan, lấy pháp làm ngọn cờ, lấy pháp làm tăng
thượng, sắp đặt một sự phòng hộ, bảo vệ, chế ngự đúng pháp giữa các
Tỷ-kheo, sau khi sắp đặt một sự phòng hộ, bảo vệ, chê ngự đúng pháp giữa
các Tỷ-kheo ni, sau khi sắp đặt một sự bảo vệ, phòng hộ đúng pháp giữa
các nam cư sĩ, sau khi sắp đặt một sự bảo vệ, phòng hộ đúng pháp giữa
các nữ cư sĩ, Như Lai làm cho chuyển vận Vô thượng pháp luân với pháp,
bánh xe ấy không một Sa-môn hay Bà-la-môn, Thiên Ma hay Phạm thiên, hay
bất cứ ai ở đời có thể chuyển ngược lại.
(IV) (134) Tại Mỗi Phương Hướng
1. - Thành tựu năm chi phần, này các
Tỷ-kheo, vua Sát-đế-lỵ đã làm lễ quán đảnh sống tại phương hướng nào,
vị ấy sống trong lĩnh vực mình chiếm đoạt được. Thế nào là năm?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, vua
Sát-đế-lỵ đã làm lễ quán đảnh, thiện sanh cả từ mẫu hệ và phụ hệ, huyết
thống thanh tịnh cho đến bảy đời tổ phụ, không một vết nhơ nào, một dèm
pha nào về vấn đề huyết thống thọ sanh; là nhà giàu có, đại phú, sung
túc tài sản, ngân khố, kho lúa sung mãn; có uy lực, đầy đủ bốn loại binh
chủng trung thành và sẵn sàng tuân lệnh. Vị tư lệnh là bậc Hiền trí,
tinh luyện, sáng suốt và có suy tư về những vấn đề quá khứ, vị lai, hiện
tại. Và bốn pháp này khiến danh xưng vị ấy được chín muồi. Thành tựu
với pháp danh xưng thứ năm này, tại phương hướng nào vị ấy trú ở, vị ấy
sống trong lãnh vực mình chiếm đoạt được. Vì sao? Vì như vậy là địa hạt
của những người thắng trận.
Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, thành tựu nam pháp, Tỷ-kheo sống tại
phương hướng nào, vị ấy sống với tâm giải thoát. Thế nào là năm?
3. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
có giới, sống hộ trì với sự hộ trì của giới bổn, đầy đủ oai nghi chánh
hạnh, thấy sợ hãi trong các lỗi nhỏ nhiệm, chấp nhận, và học tập trong
các học pháp. Như vậy giống như vua Sát-đế-lỵ đã làm lễ quán đảnh, đầy
đủ về thọ sanh. Vị ấy là bậc nghe nhiều, thọ trì điều được nghe, tích
tập điều được nghe, đối với các pháp sơ thiện, trung thiện, hậu thiện,
có nghĩa, có văn, tán thán Phạm hạnh hoàn toàn viên mãn thanh tịnh, đối
với các pháp như vậy được nghe nhiều, được thọ trì, được ghi nhớ nhờ đọc
nhiều lần, chuyên ý quan sát, khéo thể nhập nhờ chánh kiến. Giống như
vua Sát-đế-lỵ đã làm lễ quán đảnh, giàu có, đại phú, sung túc tài sản,
ngân khố, kho lúa sung mãn, sống tinh cần, tinh tấn đoạn trừ các pháp
bất thiện, thành tựu các thiện
pháp, nỗ lực, kiên trì, không từ bỏ gánh nặng đối với các thiện pháp.
Giống như vua Sát-đế-lỵ đã làm lễ quán đảnh, đầy đủ uy lực, có trí tuệ,
thành tựu với trí tuệ về sanh diệt, với sự thể nhập thuộc bậc Thánh vào
con đường đưa đến đoạn tận khổ đau. Giống như vua Sát-đế-lỵ đã làm lễ
quán đảnh, đầy đủ với vị tư lệnh. Bốn pháp này khiến sự giải thoát của
vị ấy được chín muồi. Thành tựu với pháp giải thoát thứ năm này, vị ấy
trú tại phương hướng nào, vị ấy trú với tâm giải thoát. Vì sao? Vì như
vậy, này các Tỷ-kheo, đây là (địa hạt) của những tâm giải thoát.
(V) (135) Mục Ðích(1)
1. - Thành tựu năm chi phần, này các
Tỷ-kheo, con trưởng của vua Sát-đế-lỵ đã làm lễ quán đảnh có hy vọng về
quốc độ. Thế nào là năm?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, con
trưởng của vua Sát-đế-l. đã làm lễ quán đảnh, thiện sanh cả từ mẫu hệ và
phụ hệ, huyết thống thanh tịnh cho đến bảy đời tổ phụ, không một vết
nhơ nào, một dèm pha nào về vấn đề huyết thống thọ sanh; đẹp trai, khả
ái, làm đẹp lòng mọi người với dung sắc thù thắng như hoa sen, được cha
mẹ thương yêu ưa thích, được dân chúng quốc độ thị trấn thương yêu ưa
thích; đối với các nghề nghiệp thuộc vua Sát-đế-lỵ đã làm lễ quán đảnh,
như nghề voi, ngựa, xe, cung và chuôi gươm, vị ấy hoàn toàn được huấn
luyện. Vị ấy suy nghĩ như sau: "Ta được thiện sanh cả từ mẫu hệ và phụ
hệ, huyết thống thanh tịnh cho đến bảy đời tổ phụ, không một vết nhơ
nào, một dèm pha nào về vấn đề huyết thống thọ sanh; tại sao ta lại
không đặt hy vọng về quốc độ? Ta đẹp
trai, khả ái, làm đẹp lòng mọi người với dung sắc thù thắng như hoa sen,
tại sao ta lại không đặt hy vọng về quốc độ? Ta được cha mẹ thương yêu
ưa thích, tại sao ta lại không đặt hy vọng về quốc độ? Ta được dân chúng
quốc độ thị trấn thương yêu ưa thích, tại sao ta lại không đặt hy vọng
về quốc độ? Ðối với các nghề nghiệp thuộc vua Sát-đế-lỵ đã làm lễ quán
đảnh như nghề voi, ngựa xe, cung và chuôi gươm ta hoàn toàn được huấn
luyện, tại sao ta lại không đặt hy vọng về quốc độ?"
Thành tựu năm chi phần này, này các Tỷ-kheo, con trưởng của vua
Sát-đế-lỵ đã làm lễ quán đảnh đặt hy vọng vào quốc độ. Cũng vậy, này các
Tỷ-kheo, thành tựu năm pháp, Tỷ-kheo đặt hy vọng vào sự đoạn diệt các
lậu hoặc. Thế nào là năm?
3. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ kheo
có lòng tin ở sự giác ngộ của Như Lai: "Ðây là Thế Tôn, bậc A-la-hán,
Chánh Ðẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ,
Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn". Tỷ-kheo ấy ít bệnh,
ít não, sự tiêu hóa được điều hòa, không lạnh quá, không nóng quá, trung
bình, hợp với tinh tấn. Tỷ-kheo ấy không lừa đảo, dối gạt, nêu rõ tự
mình như chân đối với bậc Ðạo sư, đối với các vị sáng suốt, hay đối với
các vị đồng Phạm hạnh. Tỷ-kheo ấy sống tinh cần tinh tấn, từ bỏ các pháp
bất thiện, thành tựu với các thiện pháp. Tỷ-kheo ấy có trí tuệ, thành
tựu trí tuệ hướng đến sanh diệt các pháp, Thành tựu sự thể nhập thuộc
bậc Thánh, đưa đến chân chánh đoạn diệt khổ đau. Vị ấy suy nghĩ như sau:
"Ta có lòng tin ở sự giác ngộ
của Như Lai: "Ðây là Thế Tôn, bậc A-la-hán,...Phật, Thế Tôn". Tại sao ta
lại không đặt hy vọng vào sự đoạn diệt các lậu hoặc? Ta ít bệnh, ít
não, sự tiêu hóa được điều hòa, không lạnh quá, không nóng quá, trung
bình, hợp với tinh tấn, tại sao ta lại không đặt hy vọng vào sự đoạn
diệt các lậu hoặc. Ta không lừa đảo, dối gạt, nêu rõ tự mình như chân
đối với bậc Ðạo sư, đối với các vị sáng suốt, hay đối với các vị đồng
Phạm hạnh, tại sao ta lại không đặt hy vọng vào sự đoạn diệt các lậu
hoặc?. Ta sống tinh cần tinh tấn, từ bỏ các pháp bất thiện, thành tựu
các thiện pháp, nỗ lực, kiên trì, không từ bỏ gánh nặng đối với các
thiện pháp, tại sao ta lại không đặt hy vọng vào sự đoạn diệt các lậu
hoặc? Ta có trí tuệ, thành tựu trí tuệ hướng đến sanh diệt của các pháp,
thành tựu
sự thể nhập thuộc bậc Thánh, đưa đến chơn chánh đoạn diệt khổ đau, tại
sao ta lại không đặt hy vọng vào sự đoạn diệt các lậu hoặc?"
Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đặt hy vọng và sự
đoạn diệt các lậu hoặc.
(VI) (136) Mục Ðích (2)
1. - Thành tựu năm chi phần, này các
Tỷ-kheo, con trưởng của vua Sát-đế-lỵ đã làm lễ quán đảnh đặt hy vọng
về phó vương. Thế nào là năm?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, con
trưởng của vua Sát-đế-lỵ đã làm lễ quán đảnh, thiện sanh cả từ mẫu hệ và
phụ hệ, huyết thống thanh tịnh cho đến bảy đời tổ phụ, không một vết
nhơ nào, một dèm pha nào về vấn đề huyết thống thọ sanh; đẹp trai, khả
ái, làm đẹp lòng mọi người với dung sắc thù thắng như hoa sen; được cha
mẹ thương yêu, ưa thích; được quân đội thương yêu, ưa thích; có trí tuệ,
thiện xảo, thông minh, có khả năng suy nghĩ những vấn đề quá khứ, tương
lai, hiện tại. Vị ấy suy nghĩ như sau: "Ta được thiện sanh cả từ mẫu hệ
và phụ hệ, huyết thống thanh tịnh cho đến bảy đời tổ phụ, không một vết
nhơ nào, một dèm pha nào về vấn đề huyết thống thọ sanh; tại sao ta lại
không đặt hy vọng vào địa vương phó vương? Ta đẹp trai, khả ái, làm đẹp
lòng mọi người với dung sắc
thù thắng như hoa sen, tại sao ta lại không đặt hy vọng vào địa vị phó
vương? Ta được cha mẹ thương yêu, ưa thích, tại sao ta lại không đặt hy
vọng vào địa vị phó vương? Ta được quân đội thương yêu, ưa thích; tại
sao ta lại không đặt hy vọng vào địa vị phó vương? Ta là bậc có trí tuệ,
thiện xảo, thông minh, có khả năng suy nghĩ những vấn đề quá khứ, tương
lai, hiện tại; tại sao ta lại không đặt hy vọng vào địa vị phó vương?".
Thành tựu năm chi phần này, này các Tỷ-kheo, con trưởng của vua
Sát-đế-lỵ đã làm lễ quán đảnh đặt hy vọng vào địa vị phó vương. Cũng
vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo thành tựu năm pháp đặt hy vọng vào sự đoạn
diệt các lậu hoặc. Thế nào là năm?
3. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Vị
Tỷ-kheo có giới, sống hộ trì với sự hộ trì của giới bổn, đầy đủ oai nghi
chánh hạnh, thấy sợ hãi trong các lỗi nhỏ nhiệm, chấp nhận, và học tập
trong các học pháp; là bậc nghe nhiều, giữ gìn điều được nghe, tích tập
điều được nghe, đối với các pháp sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, có
nghĩa, có văn, tán thán Phạm hạnh hoàn toàn viên mãn thanh tịnh, đối với
các pháp như vậy, được nghe nhiều, được thọ trì, đã được ghi nhớ nhờ
đọc tụng, chuyên ý quán sát, khéo thể nhập nhờ chánh kiến; đối với Bốn
niệm xứ, tâm khéo an trú; vị ấy sống tinh cần tinh tấn đoạn trừ các pháp
bất thiện, làm cho thành tựu các thiện pháp, nỗ lực, kiên trì, không từ
bỏ gánh nặng đối với các thiện pháp; có trí tuệ, thành tựu trí tuệ về
sanh diệt, với sự thể nhập thuộc
bậc Thánh vào con đường đưa đến đoạn tận khổ đau. Vị ấy suy nghĩ như
sau: "Ta có giới, sống hộ trì với sự hộ trì của giới bổn, đầy đủ oai
nghi chánh hạnh, thấy sợ hãi trong các lỗi nhỏ nhiệm, ta chấp nhận và
học tập các thiện pháp; tại sao ta lại không đặt hy vọng vào sự hoại
diệt các lậu hoặc? Ta là người nghe nhiều, gìn giữ điều được nghe, tích
tập điều được nghe. Ðối với các pháp sơ thiện, trung thiện, hậu thiện,
có nghĩa, có văn, tán thán Phạm hạnh hoàn toàn viên mãn thanh tịnh, đối
với các pháp như vậy, ta được nghe nhiều, được thọ trì, được ghi nhớ nhờ
đọc tụng, chuyên ý quán sát, khéo thể nhập nhờ chánh kiến; tại sao ta
lại không đặt hy vọng vào sự hoại diệt các lậu hoặc? Ta khéo an trú tâm
ta vào Bốn niệm xứ; tại sao ta lại không đặt hy vọng vào sự hoại diệt
các
lậu hoặc? Ta sống tinh cần tinh tấn, đoạn trừ các pháp bất thiện, làm
cho thành tựu các thiện pháp, nỗ lực, kiên trì, không từ bỏ gánh nặng
đối với các thiện pháp; tại sao ta lại không đặt hy vọng vào sự hoại
diệt các lậu hoặc? Ta là bậc có trí tuệ, thành tựu trí tuệ về sanh diệt,
với sự thể nhập thuộc bậc Thánh vào con đường đưa đến đoạn tận khổ đau;
tại sao ta lại không đặt hy vọng vào sự hoại diệt các lậu hoặc?"
Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đặt hy vọng vào sự
hoại diệt các lậu hoặc.
(VII) (137) Ngủ Rất Ít
1. - Năm hạng người này, này các
Tỷ-kheo, ban đêm ngủ ít, thức nhiều. Thế nào là năm?
2. Người đàn bà, này các Tỷ-kheo,
thao thức đến đàn ông, ban đêm ngủ ít thức nhiều. Người đàn ông, này các
Tỷ-kheo, thao thức đến đàn bà, ban đêm ngủ ít thức nhiều. Người ăn
trộm, này các Tỷ-kheo, thao thức đến đồ ăn trộm, ban đêm ngủ ít thức
nhiều. Vị vua, này các Tỷ-kheo, lo lắng các công việc của vua, ban đêm
ngủ ít thức nhiều. Vị Tỷ-kheo, này các Tỷ-kheo, thao thức đến ly hệ
phược, ban đêm ngủ ít thức nhiều.
Năm hạng người này, này các Tỷ-kheo, ban đêm ngủ ít thức nhiều.
(VIII) (138) Ăn Các Ðồ Thực Vật
1. - Thành tựu năm chi phần, này các
Tỷ-kheo, một con voi của vua ăn đồ ăn nhiều, choán chiếm nhiều chỗ,
vung vãi đại tiện, nắm giữ thẻ đồ ăn được gọi là con voi của vua. Thế
nào là năm?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, con voi
của vua không kham nhẫn các sắc, không kham nhẫn các tiếng, không kham
nhẫn các hương, không kham nhẫn các vị, không kham nhẫn các xúc.
Thành tựu năm chi phần, này các Tỷ-kheo, một con voi của vua ăn đồ ăn
nhiều, choán chiếm nhiều chỗ, vung vãi đại tiện, nắm giữ thẻ đồ ăn được
gọi là con voi của vua. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, thành tựu năm pháp,
Tỷ-kheo ăn đồ ăn nhiều, choán chiếm nhiều chỗ, làm đổ giường nằm và nắm
giữ thẻ đồ ăn, được xem chỉ là một Tỷ-kheo. Thế nào là năm?
3. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
không kham nhẫn các sắc, không kham nhẫn các tiếng, không kham nhẫn các
hương, không kham nhẫn các vị, không kham nhẫn các xúc.
Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo ăn đồ ăn nhiều,
choán chiếm nhiều chỗ, làm đổ giường nằm và nắm giữ phiếu đồ ăn, vị ấy
được gọi chỉ là một Tỷ-kheo.
(IX) (139) Không Có Thể Kham Nhẫn
1. - Thành tựu năm chi phần, này các
Tỷ-kheo, con voi của vua không xứng đáng cho vua, không là tài sản của
vua không được xem là một biểu tượng của vua. Thế nào là năm?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, con voi
của vua không kham nhẫn các sắc, không kham nhẫn các tiếng, không kham
nhẫn các hương, không kham nhẫn các vị, không kham nhẫn các xúc. Và này
các Tỷ-kheo, thế nào là con voi của vua không kham nhẫn các sắc?
3. Ở đây, này các Tỷ-kheo, con voi
của vua, khi đi đến chiến trận, thấy đoàn voi hay thấy đoàn ngựa, hay
thấy đoàn xe, hay thấy đoàn bộ binh đã chùn chân, rủn chí, không còn can
đảm, không thể tham gia chiến trận. Như vậy, này các Tỷ-kheo, con voi
của vua không kham nhẫn đối với các sắc. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
con voi của vua không kham nhẫn các tiếng?
4. Ở đây, này các Tỷ-kheo, con voi
của vua, đi đến chiến trận, khi nghe tiếng voi, nghe tiếng ngựa, nghe
tiếng xe, nghe tiếng bộ binh, hay nghe tiếng trống lớn, thanh la, tiếng
tù và, tiếng trống nhỏ, liền chùn chân, rủn chí, không còn can đảm,
không thể tham gia chiến trận. Như vậy, này các Tỷ-kheo, con voi của vua
không kham nhẫn các tiếng. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là con voi của
vua không kham nhẫn các hương?
5. Ở đây, này các Tỷ-kheo, con voi
của vua đi đến chiến trận, khi đó ngửi mùi phân và nước tiểu của các con
voi của vua thuộc loại quý chủng đã quen chiến trận, liền chùn chân,
rủn chí, không còn can đảm, không thể tham gia chiến trận. Như vậy, này
các Tỷ-kheo, là con voi của vua không kham nhẫn các hương. Và này các
Tỷ-kheo, thế nào là con voi của vua không kham nhẫn các vị?
6. Ở đây, này các Tỷ-kheo, con voi
của vua khi đi đến chiến trận, chán ngấy một máng cỏ và nước, hay chán
ngấy hai, ba, bốn hay năm máng cỏ và nước, liền chùn chân, rủn chí,
không còn can đảm, không thể tham gia chiến trận. Như vậy, này các
Tỷ-kheo, là con voi của vua không kham nhẫn các vị. Và này các Tỷ-kheo,
thế nào là con voi của vua không kham nhẫn các xúc?
7. Ở đây, này các Tỷ-kheo, con voi
của vua đi đến chiến trận, khi bị trúng một mũi tên, hay hai, hay ba,
hay bốn, hay năm mũi tên, liền chùn chân, rủn chí, không còn can đảm,
không thể tham gia chiến trận. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là con voi của
vua không kham nhẫn các xúc.
Thành tựu năm chi phần, này các Tỷ-kheo, một con voi của vua không
xứng đáng của vua, không là tài sản của vua, không được xem là một biểu
tượng của vua. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, một vị Tỷ-kheo thành tựu năm
pháp không đáng cung kính, không đáng tôn trọng, không đáng cúng dường,
không đáng chắp tay, không còn là phước điền vô thượng ở đời. Thế nào là
năm?
8. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
không kham nhẫn các sắc, không kham nhẫn các tiếng, không kham nhẫn các
hương, không kham nhẫn các vị, không kham nhẫn các xúc. Và này các
Tỷ-kheo, thế nào là vị Tỷ-kheo không kham nhẫn các sắc?
9. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
khi mắt thấy sắc liền tham đắm các sắc khả ái, tâm không thể định tĩnh.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo không kham nhẫn các sắc. Và này các
Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo không kham nhẫn các tiếng?
10. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
khi tai nghe tiếng liền tham đắm các tiếng khả ái, tâm không thể định
tĩnh. Như vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo không kham nhẫn các tiếng. Và
này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo không kham nhẫn các hương?
11. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
khi mũi ngửi hương liền tham đắm các hương khả ái, tâm không thể định
tĩnh. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo không kham nhẫn các hương. Và
này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo không kham nhẫn các vị?
12. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
khi lưỡi nếm vị liền tham đắm các vị khả ái, tâm không thể định tĩnh.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo không kham nhẫn các vị. Và này các
Tỷ-kheo, thế nào là vị Tỷ-kheo không kham nhẫn các xúc?
13. Ở đây, này Tỷ-kheo, Tỷ-kheo khi
thân cảm xúc liền tham đắm các xúc khả ái, tâm không thể định tĩnh. Như
vậy, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo không kham nhẫn các xúc.
Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo không đáng được cung
kính, không đáng được tôn trọng, không đáng được cúng dường, không đáng
được chắp tay, không còn là vô thượng phước điền ở đời.
14. Thành tựu năm chi phần, này các
Tỷ-kheo, con voi của vua xứng đáng cho vua dùng, là tài sản của vua, và
được xem là một biểu tượng của vua. Thế nào là năm?
15. Ở đây, này các Tỷ-kheo, con voi
của vua kham nhẫn các sắc, kham nhẫn các tiếng, kham nhẫn các hương,
kham nhẫn các vị, kham nhẫn các xúc. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là con
voi của vua kham nhẫn các sắc?
16. Ở đây, này các Tỷ-kheo, con voi
của vua, đi đến chiến trận, khi thấy đoàn voi hay khi thấy đoàn ngựa,
hay khi thấy đoàn xe, hay khi thấy đoàn bộ binh, liền không chùn chân,
rủn chí, có đủ can đảm, có thể tham gia chiến trận. Như vậy, này các
Tỷ-kheo, con voi của vua kham nhẫn các sắc. Và thế nào, này các Tỷ-kheo,
con voi của vua kham nhẫn các tiếng?
17. Ở đây, này các Tỷ-kheo, con voi
của vua, đi đến chiến trận, khi nghe tiếng voi, hay khi nghe tiếng ngựa,
hay khi nghe tiếng xe, hay khi nghe tiếng bộ binh, hay khi nghe tiếng
trống lớn, thanh la, tù và, trống nhỏ, không chùn chân, không rủn chí,
có đủ can đảm, có thể tham gia chiến trận. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là
con voi của vua kham nhẫn các tiếng. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là con
voi của vua kham nhẫn các hương?
18. Ở đây, này các Tỷ-kheo, con voi
của vua đi đến chiến trận, đối với các con voi của vua thuộc loại quý
chủng, quen thuộc chiến trận, khi nó ngửi mùi phân và nước tiểu của
những con voi ấy, nó không chùn chân, không rủn chí, có đủ can đảm, có
thể tham gia chiến trận. Như vậy, này các Tỷ-kheo, con voi của vua kham
nhẫn các hương. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là con voi của vua kham nhẫn
các vị?
19. Ở đây, này các Tỷ-kheo, con voi
của vua đi đến chiến trận, khinh miệt một máng cỏ và nước, hoặc hai,
hoặc ba, hoặc bốn hoặc năm máng cỏ và nước, không chùn chân, không rủn
chí, có đủ can đảm, có thể tham gia chiến trận. Như vậy, này các
Tỷ-kheo, con voi của vua kham nhẫn các vị. Và này các Tỷ-kheo, thế nào
là con voi của vua kham nhẫn các xúc?
20. Ở đây, này các Tỷ-kheo, con voi
của vua đi đến chiến trận, khi bị một mũi tên bắn trúng, hoặc hai, hoặc
ba, hoặc bốn, hoặc năm, không chùn chân, không rủn chí, có đủ can đảm,
có thể tham gia chiến trận. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là con voi của vua
kham nhẫn các xúc.
Thành tựu năm chi phần này, này các Tỷ-kheo, con voi của vua xứng
đáng cho vua, là tài sản của vua, và được gọi là biểu tượng của vua.
Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, thành tựu năm pháp, vị Tỷ-kheo đáng được cung
kính, đáng được tôn trọng, đáng được cúng dường, đáng được chắp tay, là
vô thượng phước điền ở đời. Thế nào là năm?
21. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
kham nhẫn các sắc, kham nhẫn các tiếng, kham nhẫn các hương, kham nhẫn
các vị, kham nhẫn các xúc. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo kham
nhẫn các sắc?
22. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
khi mắt thấy sắc, không tham đắm các sắc khả ái, có thể giữ tâm định
tĩnh. Như vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo kham nhẫn các sắc. Và này các
Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo kham nhẫn các tiếng?
23. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
khi tai nghe tiếng, không tham đắm các tiếng khả ái, có thể giữ tâm định
tĩnh. Như vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo kham nhẫn các tiếng. Và này các
Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo kham nhẫn các hương?
24. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
khi mũi ngửi các hương, không tham đắm các hương khả ái, có thể giữ tâm
định tĩnh. Như vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo kham nhẫn các hương. Và này
các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo kham nhẫn các vị?
25. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
khi lưỡi nếm các vị, không tham đắm các vị khả ái, có thể giữ tâm định
tĩnh. Như vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo kham nhẫn các vị. Và thế nào,
này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo kham nhẫn các xúc?
26. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
khi thân cảm các xúc, không tham đắm các xúc khả ái, có thể giữ tâm định
tĩnh. Như vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo kham nhẫn các xúc.
Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo, đáng được cung kính, đáng
được tôn trọng, đáng được cúng dường, đáng được chắp tay, là vô thượng
phước điền ở đời.
(X) (140) Biết Nghe
1. - Thành tựu năm pháp này, này các
Tỷ-kheo, con voi của vua xứng đáng cho vua, là tài sản của vua, và được
xem là một biểu tượng của vua. Thế nào là năm?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, con voi
của vua biết nghe, biết sát hại, biết phòng hộ, biết kham nhẫn, biết đi
đến. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là con voi của vua biết nghe?
3. Ở đây, này các Tỷ-kheo, con voi
của vua, khi người nài sai làm một công tác hoặc đã làm từ trước, hoặc
chưa làm từ trước, nhiệt tâm tác ý, hoàn toàn chú tâm, lóng tai và nghe.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, là con voi của vua biết nghe. Và này các
Tỷ-kheo, thế nào là con voi của vua biết sát hại?
4. Ở đây, này các Tỷ-kheo, con voi
của vua đi đến chiến trận, giết voi, giết kẻ cưỡi voi, giết ngựa, giết
kẻ cưỡi ngựa, phá xe, giết kẻ cưỡi xe, giết các bộ binh. Như vậy, này
các Tỷ-kheo, là con voi của vua biết sát hại. Và này các Tỷ-kheo, thế
nào là con voi của vua biết phòng hộ?
5. Ở đây, này các Tỷ-kheo, đi đến
chiến trận, con voi của vua phòng hộ phần thân trước, phòng hộ phần thân
sau, phòng hộ đầu, phòng hộ tai, phòng hộ ngà, phòng hộ vòi, phòng hộ
đuôi, phòng hộ người cưỡi voi. Như vậy, này các Tỷ-kheo, con voi của vua
biết phòng hộ. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là con voi của vua biết kham
nhẫn?
6. Ở đây, này các Tỷ-kheo, con voi
của vua khi lâm trận, kham nhẫn bị thương đâm, kham nhẫn bị kiếm đâm,
kham nhẫn bị trúng tên, kham nhẫn các thứ tiếng, như tiếng trống lớn,
tiếng thanh la, tiếng tù và, tiếng trống nhỏ. Như vậy, này các Tỷ-kheo,
con voi của vua biết kham nhẫn. Này các Tỷ-kheo, thế nào là con voi của
vua biết đi đến?
7. Ở đây, này các Tỷ-kheo, con voi
của vua, khi người nài (huấn luyện voi) sai đi về hướng nào, hoặc trước
kia đã có đi, hay trước kia chưa có đi, liền mau mắn đi về chỗ ấy. Như
vậy, này các Tỷ-kheo, con voi của vua biết đi đến.
Thành tựu năm chi phần này, này các Tỷ-kheo, con voi của vua xứng
đáng là của vua, là tài sản của vua, và được gọi là một biểu tượng của
vua. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, thành tựu năm pháp, vị Tỷ-kheo xứng đáng
được cung kính, xứng đáng được tôn trọng, xứng đáng được cúng dường,
xứng đáng được chắp tay, là vô thượng phước điền ở đời. Thế nào là năm?
8. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
là người biết nghe, biết sát hại, biết phòng hộ, biết kham nhẫn, biết đi
đến. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo biết nghe?
9. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
khi Pháp và Luật do Như Lai thuyết được thuyết giảng, nhiệt tâm, tác ý,
hoàn toàn chú tâm lắng tai nghe pháp. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là
Tỷ-kheo biết nghe. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo biết sát hại?
10. Ở dây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
đối với các dục tâm đã khởi lên, không có gìn giữ, nhưng từ bỏ, gột
sạch, làm cho hoại diệt, làm cho đi đến không hiện hữu; đối với sân tầm
đã sanh...đối với các hại tầm đã sanh...đối với các pháp ác, bất thiện
đã sanh hay chưa sanh, không có gìn giữ nhưng từ bỏ, gột sạch, làm cho
hoại diệt, làm cho đi đến không hiện hữu. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là
Tỷ-kheo biết sát hại. Và thế nào, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo biết phòng
hộ?
11. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
khi mắt thấy sắc, không nắm giữ tướng chung, không nắm giữ tướng riêng.
Những nguyên nhân gì vì nhãn căn không được bảo vệ, khiến cho tham ái,
ưu bi, các ác bất thiện pháp khởi lên, Tỷ-kheo tự chế ngự nguyên nhân ấy
hộ trì nhãn căn, thực hành sự hộ trì nhãn căn. Khi tai nghe tiếng...khi
mũi ngửi hương...khi lưỡi nếm vị...khi thân cảm xúc...khi ý nhận thức
các pháp, vị ấy không nắm giữ tướng chung, không nắm giữ tướng riêng.
Những nguyên nhân gì vì ý căn không được chế ngự, khiến cho tham ái, ưu
bi, các ác bất thiện pháp khởi lên, Tỷ-kheo chế ngự nguyên nhân ấy, hộ
trì ý căn, thực hành sự hộ trì ý căn. Như vậy, này các Ty-kheo, là
Tỷ-kheo biết phòng hộ. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo biết kham
nhẫn?
12. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
kham nhẫn lạnh, nóng, đói khát, sự xúc phạm của ruồi, muỗi, gió, sức
nóng mặt trời, các loài bò sát, những cách nói mạ lỵ, phỉ báng, các cảm
thọ về thân, những cảm thọ thống khổ, khốc liệt, nhói đau, chói đau,
không sung sướng, không thích thú, chết điếng người. Như vậy, này các
Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo kham nhẫn. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là vị Tỷ-kheo
biết đi đến?
13. Ở đây, này các Tỷ-kheo, phương
hướng nào trước kia chưa từng đi, tại đây mọi hành được chỉ tịnh, mọi
sanh y được từ bỏ, ái được đoạn diệt, ly tham, hoại diệt, Niết-bàn, vị
ấy đi đến chỗ ấy một cách mau chóng. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là vị
Tỷ-kheo biết đi đến.
Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đáng được cung kính,
đáng được tôn trọng, đáng được cúng dường, đáng được chắp tay, là phước
điền vô thượng ở đời.
XV. Phẫm Tikandaki
(I)
(141) Cho Là Khinh
1.
- Năm hạng người này, này các Tỷ-kheo,
có mặt, hiện hữu ở đời. Thế nào là năm?
2. Sau khi cho, khinh rẽ; sau khi
cùng sống, khinh rẽ; miệng nuốt tất cả; người không vững chắc; người ám
độn ngu si. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là người sau khi cho, khinh
miệt?
3. Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng
người cho người khác các đồ nhu yếu như y áo, đồ ăn khất thực, sàng tọa,
dược phẩm trị bệnh. Vị ấy suy nghĩ: "Ta là người cho, người này là
người nhận". Sau khi cho, vị ấy khinh rẽ (người nhận).
Như vậy, này các Tỷ-kheo, là hạng người sau khi cho, khinh rẽ. Và này
các Tỷ-kheo, thế nào là hạng người, sau khi sống chung, khinh rẽ?
4. Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng
người cùng sống với người, hai hay ba năm. Do sống với người ấy, vị ấy
khinh rẽ người ấy.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, là hạng người sau khi sống chung, khinh rẽ.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hạng người miệng nuốt tất cả?
5. Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người
khi nghe người ta tán thán hay chỉ trích người khác, liền mau mắn thích
thú.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, là hạng người miệng nuốt tất cả. Và này các
Tỷ-kheo, thế nào là hạng người không vững chắc?
6. Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người
có lòng tin nhỏ bé, có lòng tín ngưỡng nhỏ bé, có lòng ái mộ nhỏ bé, có
tịnh tín nhỏ bé.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, là hạng người không vững chắc. Và này các
Tỷ-kheo, thế nào là hạng người ám độn ngu si?
7. Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người
không biết các pháp thiện, bất thiện, không biết các pháp tội, không
tội, không biết các pháp hạ liệt, thù thắng, không biết các pháp dự phần
đen trắng.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, là hạng người ám độn ngu si.
Năm hạng người này, này các Tỷ-kheo, có mặt, hiện hữu ở đời.
(II) (142) Làm Sai Lạc
1. - Có năm hạng người này, này các
Tỷ-kheo, có mặt, hiện hữu ở đời. Thế nào là năm?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người
làm điều vi phạm và hối hận, không như thật biết tâm giải thoát, tuệ
giải thoát ấy; chính ở đây, các pháp ác bất thiện ấy khởi lên được đoạn
diệt, không có dư tàn. Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người làm điều vi
phạm, nhưng không hối hận, không như thật biết tâm giải thoát, tuệ giải
thoát ấy; chính ở đây, các pháp ác bất thiện ấy khởi lên được đoạn diệt,
không có dư tàn. Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng người không làm điều
vi phạm, có hối hận, không như thật biết tâm giải thoát, tuệ giải thoát
ấy; chính ở đây, các pháp ác bất thiện ấy khởi lên được đoạn diệt, không
có dư tàn. Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng người không làm điều vi
phạm, không có hối hận, không như thật biết tâm giải thoát, tuệ giải
thoát ấy; chính ở đây, các pháp ác
bất thiện ấy khởi lên được đoạn diệt, không có dư tàn. Ở đây, này các
Tỷ-kheo, có hạng người không làm điều vi phạm, không có hối hận, và như
thật biết tâm giải thoát, tuệ giải thoát ấy; chính ở đây, các pháp ác
bất thiện ấy khởi lên được đoạn diệt, không có dư tàn.
3. Ở đây, này các Tỷ-kheo, hạng
người này làm điều vi phạm và hối hận, không như thật biết tâm giải
thoát, tuệ giải thoát ấy; chính ở đây, các pháp ác bất thiện ấy khởi lên
được đoạn diệt không có dư tàn. Hạng người này cần phải được nói như
sau: "Các lậu hoặc được sanh do làm điều vi phạm đã có mặt nơi Tôn giả.
Các lậu hoặc được sanh do hối hận được tăng trưởng. Lành thay, nếu Tôn
giả sau khi đoạn tận các lậu hoặc được sanh do làm điều vi phạm, sau khi
loại bỏ các lậu hoặc được sanh do hối hận, hãy tu tập tâm và tuệ! Như
vậy, Tôn giả sẽ trở thành đồng đẳng với hạng người thứ năm ấy".
Ở đây, này các Tỷ-kheo, hạng người làm điều vi phạm, nhưng không hối
hận, và không như thật rõ biết tâm giải thoát, tuệ giải thoát ấy; chính ở
đây các pháp ác bất thiện ấy đã sanh, được đoạn diệt không có dư tàn.
Người này cần phải được nói như sau: "Các lậu hoặc được sanh do làm điều
vi phạm đã có mặt nơi Tôn giả. Các lậu hoặc được sanh do hối hận không
có tăng trưởng. Lành thay, nếu Tôn giả sau khi đoạn tận các lậu hoặc
được sanh do làm điều vi phạm, hãy tu tập tâm và tuệ! Như vậy, Tôn giả
sẽ trở thành đồng đẳng với hạng người thứ năm ấy".
Ở đây, này các Tỷ-kheo, hạng người này không làm điều vi phạm, có hối
hận, không như thật biết tâm giải thoát, tuệ giải thoát ấy; chính ở đây
các pháp ác bất thiện ấy đã sanh, được đoạn diệt không có dư tàn. Người
này cần phải được nói như sau: "Các lậu hoặc được sanh do làm điều vi
phạm không có mặt nơi Tôn giả. Các lậu hoặc được sanh do hối hận có tăng
trưởng. Lành thay, nếu Tôn giả sau khi loại bỏ các lậu hoặc được sanh
do hối hận, hãy tu tập tâm giải thoát, tuệ giải thoát! Như vậy, Tôn giả
sẽ trở thành đồng đẳng với hạng người thứ năm ấy".
Ở đây, này các Tỷ-kheo, hạng người này không làm điều vi phạm, không
hối hận, không như thật biết tâm giải thoát, tuệ giải thoát ấy; chính ở
đây các pháp ác bất thiện ấy đã sanh được đoạn diệt không có dư tàn.
Người này cần phải được nói như sau: "Các lậu hoặc được sanh do làm điều
vi phạm không có mặt nơi Tôn giả. Các lậu hoặc được sanh do hối hận
không có tăng trưởng. Lành thay, Tôn giả hãy tu tập tâm và tuệ! Như vậy,
Tôn giả sẽ trở thành đồng đẳng với hạng người thứ năm ấy".
Như vậy, này các Tỷ-kheo, bốn hạng người này, với hạng người thứ năm
được giáo giới như vậy, được khuyên dạy như vậy, dần dần đạt đến sự đoạn
diệt các lậu hoặc.
(III) (143) Tại Ðền Sàrandada
1. Một thời, Thế Tôn trú ở Vesàlì,
tại Ðại Lâm, chỗ giảng đường có nóc nhọn. Rồi Thế Tôn vào buổi sáng đắp
y, cầm y bát, đi vào Vesàlì để khất thực.
Lúc bấy giờ, khoảng 500 người Licchavì đang ngồi tụ họp tài đền
Sàrandada, và câu chuyện sau đây được khởi lên:
2. "Sự hiện hữu của năm châu báu khó
tìm được ở đời. Thế nào là năm?
Sự hiện hữu của voi báu khó tìm được ở đời; Sự hiện hữu của ngựa báu
khó tìm được ở đời; Sự hiện hữu của ngọc báu khó tìm được ở đời; Sự hiện
hữu của nữ báu khó tìm được ở đời; Sự hiện hữu của cư sĩ báu khó tìm
được ở đời.
Sự hiện hữu của năm châu báu này khó tìm được ở đời".
3. Rồi các người Licchavì ấy đặt một
người ở trên đường và nói:
- Này Bạn, khi nào Bạn thấy Thế Tôn đi đến, hãy báo cho chúng tôi
biết.
Người ấy thấy Thế Tôn từ xa đi đến, thấy vậy, liền đi đến các người
Licchavì và nói:
- Thưa Quý vị, Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác ấy đã đến. Nay
Quý vị hãy làm những gì Quý vị nghĩ là hợp thời!
Rồi các người Licchavì ấy đi đến Thế Tôn, sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn
rồi đứng một bên. Ðứng một bên, các người Licchavì ấy bạch Thế Tôn:
- Lành thay, bạch Thế Tôn, nếu Thế Tôn đi đến đền Sàrandada vì lòng
thương tưởng chúng con!
Thế Tôn im lặng nhận lời. Rồi Thế Tôn đi đến đền Sàrandada, sau khi
đến, ngồi xuống trên chỗ đã soạn sẵn. Sau khi ngồi, Thế Tôn nói với các
người Licchavì ấy:
- Này các Licchavì, hôm nay các Ông ngồi tụ họp, nói đến vấn đề gì?
Và vấn đền gì giữa các Ông đã bị gián đoạn?
- Ở đây, bạch Thế Tôn, chúng con đang ngồi tụ họp, vấn đề này được
khởi lên: "Sự hiện hữu của năm châu báu khó tìm được ở đời. Và thế nào
là năm? Sự hiện hữu của voi báu khó tìm được ở đời; Sự hiện hữu của ngựa
báu khó tìm được ở đời; Sự hiện hữu của ngọc báu khó tìm được ở đời; Sự
hiện hữu của nữ báu khó tìm được ở đời; Sự hiện hữu của cư sĩ báu khó
tìm được ở đời. Sự hiện hữu của năm châu báu này khó tìm được ở đời!".
4. - Ðối với các Ông, người Licchavì
đang thiên nặng về dục, cuộc nói chuyện y cứ trên đục được khởi lên.
Này các Licchavì, sự hiện hữu của năm châu báu khó tìm được ở đời. Và
thế nào là năm?
Sự hiện hữu của Như Lai, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác khó tìm được ở
đời. Hạng người có thể thuyết giảng Pháp và Luật do Như Lai tuyên bố
khó tìm được ở đời. Người hiểu được lời thuyết giảng về Pháp là Luật do
Như Lai tuyên bố khó tìm được ở đời. Người đem thực hành các pháp và tùy
pháp được hiểu từ lời thuyết giảng về Pháp và Luật do Như Lai tuyên bố
khó tìm được ở đời. Người biết ơn, và nhớ ơn khó tìm được ở đời.
Sự hiện hữu của năm châu báu này, này các Licchavì, khó tìm được ở
đời.
(IV) (144) Tại Rừng Tikandaki
1. Một thời, Thế Tôn trú ở Sàketa,
tại rừng Tikandaki. Rồi Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo:
- Này các Tỷ-kheo!
- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Các vị Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau:
2. - Lành thay, này các Tỷ-kheo, nếu
Tỷ-kheo thỉnh thoảng sống với tưởng ghê tởm đối với các vật không ghê
tởm! Lành thay, này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo thỉnh thoảng sống với tưởng
không ghê tởm đối với vật ghê tởm! Lành thay, này các Tỷ-kheo, nếu
Tỷ-kheo thỉnh thoảng sống với tưởng ghê tởm đối với các vật không ghê
tởm và ghê tởm! Lành thay, này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo
thỉnh thoảng sống với tưởng không ghê tởm đối với các vật ghê tởm và
không ghê tởm! Lành thay, này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo sau khi từ bỏ cả
hai vật không ghê tởm và ghê tởm, trú xả, chánh niệm tỉnh giác! Và này
các Tỷ-kheo, do duyên lợi ích gì, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo có thể trú
với tưởng ghê tởm đối với vật không ghê tởm?
3. "Mong rằng, đối với các pháp khả
ái, tham chớ có khởi lên nơi ta". Do duyên lợi ích này, này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo nên sống với tưởng ghê tởm đối với vật không ghê tởm. Và này
các Tỷ-kheo, do duyên lợi ích thế nào, Tỷ-kheo nên sống với tưởng không
ghê tởm đối với vật ghê tởm?
4. "Mong rằng đối với các pháp đáng
sân hận, lòng sân chớ có khởi lên nơi ta" Do duyên lợi ích này, này các
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nên sống với tưởng không ghê tởm đối với vật ghê tởm.
Và này các Tỷ-kheo, do duyên lợi ích thế nào, Tỷ-kheo nên sống với tưởng
ghê tởm đối với vật không ghê tởm, và ghê tởm?
5. "Mong rằng đối với các pháp khả
ái, lòng tham chớ có khởi lên nơi ta. Mong rằng đối với các pháp đáng
sân hận, lòng sân chớ có khởi lên nơi ta". Do duyên lợi ích này, này các
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nên sống với tưởng ghê tởm đối với vật không ghê tởm
và ghê tởm. Và này các Tỷ-kheo, do duyên lợi ích thế nào, Tỷ-kheo nên
sống với tưởng không ghê tởm đối với vật ghê tởm và không ghê tởm?
6. "Mong rằng đối với các pháp đáng
được sân hận, lòng sân chớ khởi lên nơi ta". Do duyên lợi ích này, này
các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nên sống với tưởng không ghê tởm đối với vật ghê
tởm và không ghê tởm. Và này các Tỷ-kheo, do duyên lợi ích thế nào,
Tỷ-kheo sau khi từ bỏ cả hai vật không ghê tởm và ghê tởm, trú xả, chánh
niệm tỉnh giác?
7. "Mong rằng dầu là vật gì, tại chỗ
nào và như thế nào, đối với các pháp khả ái, lòng tham chớ có khởi lên
nơi ta! Mong rằng dầu là vật gì, tại chỗ nào là như thế nào, đối với các
pháp đáng được sân hận, lòng sân chớ có khởi lên nơi ta! Mong rằng dầu
là vật gì, tại chỗ nào và như thế nào, đối với các pháp có thể làm cho
si mê, lòng si không khởi lên nơi ta!" do duyên lợi ích này, này các
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo sau khi từ bỏ cả hai vật không ghê tởm và ghê tởm, trú
xả, chánh niệm tỉnh giác.
(V) (145) Con Ðường Ðến Ðịa Ngục
1. - Thành tựu năm pháp này, này các
Tỷ-kheo, như vậy tương xứng bị quăng vào địa ngục. Thế nào là năm?
2. Sát sanh, lấy của không cho, tà
hạnh trong các dục, nói láo, đắm say trong rượu men, rượu nấy.
Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo, như vậy tương xứng bị quăng
vào địa ngục.
3. Thành tựu năm pháp này, này các
Tỷ-kheo, như vậy tương xứng được sanh lên Thiên giới. Thế nào là năm?
4. Từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của
không cho, từ bỏ tà hạnh trong các dục, từ bỏ nói láo, từ bỏ đắm say
rượu men, rượu nấu.
Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo, như vậy tương xứng được sanh
lên Thiên giới.
(VI) (146) Người Bạn
1. - Thành tựu năm pháp này, này các
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo không đáng được làm bạn. Thế nào là năm?
2. Bảo làm việc đồng áng; ưa thích
kiện tụng; chống đối các Tỷ-kheo lãnh đạo; sống đời sống không có mục
đích, kéo dài đời sống như vậy; không có khả năng thỉnh thoảng trình
bày, khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ với một bài thuyết
pháp.
Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo không đáng được làm
bạn.
3. - Thành tựu năm pháp này, này các
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đáng được làm một người bạn. Thế nào là năm?
4. Không bảo làm việc đồng áng;
không ưa thích kiện tụng; không chống đối các Tỷ-kheo lãnh đạo; không
sống đời sống không có mục đích, không kéo dài đời sống như vậy; có khả
năng thỉnh thoảng trình bày, khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan
hỷ với một bài thuyết pháp.
Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đáng được làm bạn.
(VII) (147) Bố Thí Không Xứng Bậc Chân Nhân
1. - Có năm loại bố thí này, này các
Tỷ-kheo, không xứng bậc Chân nhân. Thế nào là năm?
2. Bố thí không cung kính, bố thí
không suy nghĩ, bố thí không tự tay mình, bố thí đồ quăng bỏ, bố thí
không nghĩ đến tương lai.
Các pháp này, này các Tỷ-kheo, là năm loại bố thí không xứng bậc Chân
nhân.
3. Năm loại bố thí này, này các
Tỷ-kheo, là loại bố thí xứng bậc Chân nhân. Thế nào là năm?
4. Bố thí có cung kính, bố thí có
suy nghĩ, bố thí tự tay mình, bố thí đồ không quăng bỏ, bố thí có nghĩ
đến tương lai.
Các pháp này, này các Tỷ-kheo, là năm loại bố thí xứng bậc Chân nhân.
(VIII) (148) Bố Thí Xứng Bậc Chân Nhân
1. - Này các Tỷ-kheo, có năm loại bố
thí này xứng bậc Chân nhân. Thế nào là năm?
2. Bố thí có lòng tin, bố thí có
kính trọng, bố thí đúng thời, bố thí với tâm không gượng ép, bố thí
không làm thương tổn mình và người.
Này các Tỷ-kheo, sau khi bố thí với lòng tin chỗ nào, chỗ nào, quả dị
thục của sự bố thí ấy đem lại kết quả: Người ấy được giàu sang, đại
phú, tài sản sung mãn, đẹp trai, dễ ngó, có thành tín và thành tựu dung
sắc thì thắng như hoa sen.
Và này các Tỷ-kheo, sau khi bố thí có cung kính, chỗ nào, chỗ nào,
quả dị thục của sự bố thí ấy đem lại kết quả: Người ấy được giàu sang,
đại phú, tài sản sung mãn; và các con trai, các bà vợ, các người nô tỳ,
các người đưa tin, các người làm công, những người ấy đều sẵn sàng vâng
theo người ấy, họ lóng tai và phục vụ với tâm hiểu biết.
Và này các Tỷ-kheo, sau khi bố thí đúng thời, chỗ nào, chỗ nào, quả
dị thục của sự bố thí ấy đem lại kết quả: Người ấy được giàu sang, đại
phú, tài sản sung mãn; và các vật dụng đến với người ấy đúng thời và
sung túc.
Và này các Tỷ-kheo, sau khi bố thí với tâm không gượng ép, chỗ nào,
chỗ nào, quả dị thục của sự bố thí ấy đem lại kết quả: Người ấy được
giàu sang, đại phú, tài sản sung mãn, và hướng tâm thụ hưởng đầy đủ năm
dục công đức.
Và này các Tỷ-kheo, sau khi bố thí không làm thương tổn mình và
người, chỗ nào, chỗ nào, quả dị thục của sự bố thí ấy đem lại kết quả:
Người ấy được giàu sang, đại phú, tài sản sung mãn; và không một tai nạn
nào từ đâu đến, đến với tài sản của người ấy, hoặc từ lửa, từ nước, từ
vua, từ ăn trộm, từ các người thù địch hay từ các người thừa tự.
Này các Tỷ-kheo, có năm loại bố thí xứng bậc Chân nhân này.
(IX) (149) Thời Giải Thoát
1. - Có năm pháp này, này các
Tỷ-kheo, đưa đến sự thối đọa cho Tỷ-kheo đã chứng được thời giải thoát.
Thế nào là năm?
2. Ưa thích làm việc (về thân), ưa
thích nói chuyện, ưa thích ngủ, ưa thích hội chúng, không quan sát tâm
như đã được giải thoát.
Năm pháp này, này các Tỷ-kheo, đưa đến sự thối đọa cho Tỷ-kheo đã
chứng thời giải thoát.
3. Năm pháp này, này các Tỷ-kheo,
không đưa đến sự thối đọa cho vị Tỷ-kheo đã chứng được thời giải thoát.
Thế nào là năm?
4. Không ưa thích làm việc (về
thân), không ưa thích nói chuyện, không ưa thích ngủ, không ưa thích hội
chúng, có quan sát tâm như đã được giải thoát.
Năm pháp này, này các Tỷ-kheo, không đưa đến sự thối đọa cho Tỷ-kheo
đã chứng thời giải thoát.
(X) (150) Thời Giải Thoát
1. - Năm pháp này, này các Tỷ-kheo,
đưa đến sự thối đọa cho Tỷ-kheo đã chứng thời giải thoát. Thế nào là
năm?
2. Ưa thích làm việc (về thân), ưa
thích nói chuyện, ưa thích ngủ, không chế ngự các căn, không biết tiết
độ trong ăn uống.
Năm pháp này, này các Tỷ-kheo, đưa đến sự thối đọa cho Tỷ-kheo đã
chứng được thời giải thoát.
3. - Năm pháp này, này các Tỷ-kheo,
không đưa đến sự thối đọa cho Tỷ-kheo đã chứng thời giải thoát. Thế nào
là năm?
4. Không ưa thích làm việc (về
thân), không ưa thích nói chuyện, không ưa thích ngủ, chế ngự các căn,
biết tiết độ trong ăn uống.
Năm pháp này, này các Tỷ-kheo, không đưa đến sự thối đọa cho Tỷ-kheo
đã chứng được thời giải thoát.
XVI. Phẩm Diệu Pháp
(I) (151) Quyết Ðịnh Tánh Về Diệu Pháp (1)
1.
Thành tựu năm pháp, này các Tỷ-kheo, một
người nghe diệu pháp không có thể nhập vào quyết định tánh, chánh tánh
trong các thiện pháp. Thế nào là năm?
2. Khinh lời thuyết giảng, khinh
người thuyết giảng, khinh tự mình, nghe pháp với tâm tán loạn, không
nhứt tâm và không như lý tác ý.
Thành tựu năm pháp, này các Tỷ-kheo, người nghe diệu pháp không có
thể nhập vào quyết định tánh, chánh tánh trong các thiện pháp.
3. Thành tựu năm pháp này, này các
Tỷ-kheo, một người nghe diệu pháp có thể nhập vào quyết định tánh, chánh
tánh trong các thiện pháp. Thế nào là năm?
4. Không khinh lời thuyết giảng,
không khinh người thuyết giảng, không khinh tự mình, nghe pháp với tâm
không loạn, nhứt tâm và như lý tác ý.
Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo, người nghe diệu pháp có thể
nhập vào quyết định tánh, chánh tánh trong các thiện pháp.
(II) (152) Quyết Ðịnh Tánh Về Diệu Pháp (2)
1. Thành tựu năm pháp, này các
Tỷ-kheo, một người nghe diệu pháp không có thể nhập vào quyết định tánh,
chánh tánh trong các thiện pháp. Thế nào là năm?
2. Khinh lời thuyết giảng, khinh
người thuyết giảng, khinh tự mình, ác tuệ; đần độn, câm điếc, không tác ý
hiểu biết đối với những vấn đề không hiểu biết.
3. Thành tựu năm pháp này, này các
Tỷ-kheo, một người nghe diệu pháp có thể nhập vào quyết định tánh, chánh
tánh trong các thiện pháp. Thế nào là năm?
4. Không khinh lời thuyết giảng,
không khinh người thuyết giảng, không khinh tự mình, có trí tuệ; không
đần độn, không câm điếc, tác ý hiểu biết đối với những vấn đề không hiểu
biết.
Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo, người nghe diệu pháp có thể
nhập vào quyết định tánh, chánh tánh trong các thiện pháp.
(II) (153) Quyết Ðịnh Tánh Về Diệu Pháp (3)
1. Thành tựu năm pháp này, này các
Tỷ-kheo, một người nghe diệu pháp không có thể nhập vào quyết định tánh,
chánh tánh trong các thiện pháp. Thế nào là năm?
2. Nghe pháp với tâm chê bai, với
tâm bị chê bai ám ảnh; nghe pháp với tâm cật nạn, tìm tòi khuyết điểm;
trong khi pháp được giảng, tâm bị choáng váng, bị chai sạn; ác tuệ; đần
độn, câm điếc, không tác ý hiểu biết đối với những vấn đề không hiểu
biết.
Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo, một người nghe diệu pháp
không có thể nhập vào quyết định tánh, chánh tánh trong các thiện pháp.
3. Thành tựu năm pháp này, này các
Tỷ-kheo, một người nghe diệu pháp có thể nhập vào quyết định tánh, chánh
tánh trong các thiện pháp. Thế nào là năm?
4. Nghe pháp với tâm không chê bai,
không bị chê bai ám ảnh; nghe pháp với tâm không cật nạn, không tìm tòi
khuyết điểm; trong khi pháp được giảng, tâm không bị choáng váng, không
bị chai sạn; có trí tuệ; không đần độn, không câm điếc, tác ý hiểu biết
đối với những vấn đề không hiểu biết.
Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo, người nghe diệu pháp có thể
nhập vào quyết định tánh, chánh tánh trong các thiện pháp.
(IV) (154) Diệu Pháp Hỗn Loạn (1)
1. - Năm pháp này, này các Tỷ-kheo,
đưa đến diệu pháp hỗn loạn, biến mất. Thế nào là năm?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, các
Tỷ-kheo không cẩn trọng nghe pháp; không cẩn trọng học thuộc lòng pháp;
không cẩn trọng thọ trì pháp; không cẩn trọng quan sát ý nghĩa các pháp
được thọ trì; không cẩn trọng thực hành pháp và tùy pháp sau khi hiểu ý
nghĩa và hiểu pháp.
Năm pháp này, này các Tỷ-kheo, đưa đến diệu pháp hỗn loạn, biến mất.
3. - Năm pháp này, này các Tỷ-kheo,
đưa đến diệu pháp an trú, không hỗn loạn, không biến mất. Thế nào là
năm?
4. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
cẩn trọng nghe pháp; cẩn trọng học thuộc lòng pháp; cẩn trọng thọ trì
pháp; cẩn trọng quan sát ý nghĩa các pháp được thọ trì; cẩn trọng thực
hành pháp và tùy pháp sau khi hiểu ý nghĩa và hiểu pháp.
Năm pháp này, này các Tỷ-kheo, đưa đến diệu pháp an trú, không hỗn
loạn, không biến mất.
(V) (155) Diệu Pháp Hỗn Loạn (2)
1. - Năm pháp này, này các Tỷ-kheo,
đưa đến diệu pháp hỗn loạn, và biến mất. Thế nào là năm?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, các
Tỷ-kheo không học thuộc lòng Khế kinh, ứng tụng, Ký thuyết, Phúng tụng,
Không hỏi tự nói, Như thị thuyết, Bổn sanh, Vị tằng hữu pháp, Trí giải
hay Phương quảng. Ðây là pháp thứ nhất, này các Tỷ-kheo, đưa đến diệu
pháp hỗn loạn và biến mất.
3. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, các
Tỷ-kheo không thuyết pháp một cách rộng rãi như đã được nghe, như đã
được học thuộc lòng. Ðây là pháp thứ hai, này các Tỷ-kheo, đưa đến diệu
pháp hỗn loạn và biến mất.
4. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, các
Tỷ-kheo không để cho các người khác nói pháp một cách rộng rãi như đã
được nghe, như đã được học thuộc lòng. Ðây là pháp thứ ba, này các
Tỷ-kheo, đưa đến diệu pháp hỗn loạn và biến mất.
5. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, các
Tỷ-kheo không có đọc tụng pháp một cách rộng rãi như đã được nghe, như
đã được học thuộc lòng. Ðây là pháp thứ tư, này các Tỷ-kheo, đưa đến
diệu pháp hỗn loạn và biến mất.
6. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, các
Tỷ-kheo với tâm không tùy tầm, không tùy tứ, với ý không tùy quán pháp
như đã được nghe, như đã được học thuộc lòng. Ðây là pháp thứ năm, này
các Tỷ-kheo, đưa đến diệu pháp hỗn loạn và biến mất.
Năm pháp này, này các Tỷ-kheo, đưa đến diệu pháp hỗn loạn, và biến
mất.
7. Năm pháp này, này các Tỷ-kheo,
không đưa đến diệu pháp an trú, không hỗn loạn, không biến mất. Thế nào
là năm?
8. Ở đây, này các Tỷ-kheo, các
Tỷ-kheo học thuộc lòng pháp, Khế kinh, ứng tụng, Ký thuyết, Phúng tụng,
Không hỏi tự nói, Như thị thuyết, Bổn sanh, Vị tằng hữu pháp, Trí giải
hay Phương quảng. Ðây là pháp thứ nhất, này các Tỷ-kheo, đưa đến diệu
pháp an trú, không hỗn loạn, không biến mất.
9. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, các
Tỷ-kheo thuyết pháp một cách rộng rãi như đã được nghe, như đã được học
thuộc lòng. Ðây là pháp thứ hai, này các Tỷ-kheo, đưa đến diệu pháp an
trú, không hỗn loạn và không biến mất.
10. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, các
Tỷ-kheo để cho các người khác nói pháp một cách rộng rãi như đã được
nghe, như đã được học thuộc lòng. Ðây là pháp thứ ba, này các Tỷ-kheo,
đưa đến diệu pháp được an trú, không hỗn loạn và không biến mất.
11. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, các
Tỷ-kheo đọc tụng pháp một cách rộng rãi như đã được nghe, như đã được
học thuộc lòng. Ðây là pháp thứ tư, này các Tỷ-kheo, đưa đến diệu pháp
an trú, không hỗn loạn và không biến mất.
6. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, các
Tỷ-kheo với tùy tầm, tùy tứ, với ý tùy quán pháp như đã được nghe, như
đã được học thuộc lòng. Ðây là pháp thứ năm, này các Tỷ-kheo, đưa đến
diệu pháp an trú, không hỗn loạn, không biến mất.
Năm pháp này, này các Tỷ-kheo, đưa đến diệu pháp an trú, không hỗn
loạn, không biến mất.
(VI) (156) Diệu Pháp Hỗn Loạn (3)
1. - Năm pháp này, này các Tỷ-kheo,
đưa đến diệu pháp hỗn loạn, và biến mất. Thế nào là năm?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, các
Tỷ-kheo học thuộc lòng kinh điển bị nắm giữ sai lạc, với những văn cú
đặt sai lầm. Này các Tỷ-kheo, với văn cú đặt sai lầm, ý nghĩa bị hướng
dẫn sai lạc. Ðây là pháp thứ nhất, này các Tỷ-kheo, đưa đến diệu pháp
hỗn loạn và biến mất.
3. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, các
Tỷ-kheo là những người khó nói, đầy đủ những tánh khiến họ trở thành khó
nói, khó kham nhẫn, không cung kính đón nhận khi được giảng dạy. Ðây là
pháp thứ hai, này các Tỷ-kheo, khiến diệu pháp hỗn loạn và biết mất.
4. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, đối với
các Tỷ-kheo nghe nhiều Thánh giáo được trao truyền, là bậc trì Pháp,
trì Luật, trì Toát yếu, các vị ấy không cẩn trọng để cho các người khác
nói pháp. Do duyên này của họ, Khế kinh như bị đứt gốc, không còn là chỗ
nương tựa. Ðây là pháp thứ ba, này các Tỷ-kheo, đưa đến diệu pháp hỗn
loạn và biến mất.
5. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, các
Tỷ-kheo trưởng lão là những vị sống đầy đủ, biếng nhác, dẫn đầu trong
thối đọa, từ bỏ gánh nặng viễn ly, không có hăng hái tinh tấn để chứng
đạt những gì chưa chúng đạt, chứng đắc những gì chưa chứng đắc, chứng
ngộ những gì chưa chứng ngộ. Và quần chúng về sau sẽ đi theo tri kiến
của họ. Họ cũng sẽ trở thành những người sống đầy đủ, biếng nhác, dẫn
đầu trong thối đọa, từ bỏ gánh nặng viễn ly, sẽ không hăng hái tinh tấn
để chứng đạt những gì chưa chúng đạt, chứng đắc những gì chưa chứng đắc,
chứng ngộ những gì chưa chứng ngộ. Ðây là pháp thứ tư, này các Tỷ-kheo,
đưa đến diệu pháp hỗn loạn và biến mất.
6. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, chúng
Tăng bị chia rẽ. Khi chúng Tăng bị chia rẽ, này các Tỷ-kheo, có sự mắng
nhiếc lẫn nhau, có sự đấu khẩu lẫn nhau, có sử thanh trừng lẫn nhau, có
sự tẩn xuất lẫn nhau. Ai không có tịnh tín không tìm được tịnh tín, và
những ai có tịnh tín có thể đổi khác. Ðây là pháp thứ năm, này các
Tỷ-kheo, đưa đến diệu pháp hỗn loạn và biến mất.
Năm pháp này, này các Tỷ-kheo, đưa đến diệu pháp hỗn loạn, và biến
mất.
7. Năm pháp này, này các Tỷ-kheo,
đưa đến diệu pháp an trú, không hỗn loạn, không biến mất. Thế nào là
năm?
8. Ở đây, này các Tỷ-kheo, các
Tỷ-kheo học thuộc lòng kinh điển được nắm giữ tốt đẹp, với những văn cú
được phối trí chơn chánh và ý nghĩa được hướng dẫn chơn chánh. Ðây là
pháp thứ nhất, này các Tỷ-kheo, đưa đến diệu pháp an trú, không hỗn
loạn, không biết mất.
9. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, các
Tỷ-kheo là những người dễ nói, dễ kham nhẫn, cung kính đón nhận khi được
giảng dạy. Ðây là pháp thứ hai, này các Tỷ-kheo, đưa đến diệu pháp an
trú, không hỗn loạn, không biến mất.
10. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, đối
với các Tỷ-kheo nghe nhiều Thánh giáo được trao truyền, là bậc trì Pháp,
trì Luật, trì Toát yếu, các vị ấy cẩn trọng để cho các người khác nói
pháp. Do duyên này của họ, kinh điển không bị đứt gốc, là chỗ nương tựa.
Ðây là pháp thứ ba, này các Tỷ-kheo, đưa đến diệu pháp an trú, không
hỗn loạn, không biến mất.
11. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, các
Tỷ-kheo trưởng lão không sống đầy đủ, không biếng nhác, từ bỏ gánh nặng
đọa lạc, dẫn đầu trong đời sống viễn ly, hăng hái tinh tấn để chứng đạt
những gì chưa chúng đạt, chứng đắc những gì chưa chứng đắc, chứng ngộ
những gì chưa chứng ngộ. Và quần chúng về sau sẽ đi theo tri kiến của
họ. Họ cũng sẽ trở thành những người không sống đầy đủ, không biếng
nhác, từ bỏ gánh nặng đọa lạc, dẫn đầu trong đời sống viễn ly, hăng hái
tinh tấn để chứng đạt những gì chưa chúng đạt, chứng đắc những gì chưa
chứng đắc, chứng ngộ những gì chưa chứng ngộ. Ðây là pháp thứ tư, này
các Tỷ-kheo, đưa đến diệu pháp được an trú, không hỗn loạn, không biến
mất.
12. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, chúng
Tăng hòa hợp, hoan hỷ, không tranh luận, cùng một giáo lý, sống an ổn.
Khi chúng Tăng hòa hợp, này các Tỷ-kheo, không có sự mắng nhiếc lẫn
nhau, không có sự đấu khẩu lẫn nhau, không có sự thanh trừng lẫn nhau
không có sự tẩn xuất lẫn nhau. Ai không có tịnh tín tìm được tịnh tín,
và những ai có tịnh tín không có đổi khác. Ðây là pháp thứ năm, này các
Tỷ-kheo, đưa đến diệu pháp được an trú, không hỗn loạn, không biến mất.
Năm pháp này, này các Tỷ-kheo, đưa đến diệu pháp an trú, không hỗn
loạn, không biến mất.
(VII) (157) Ác Thuyết
1. - Lời nói của năm hạng người, này
các Tỷ-kheo, là ác thuyết, khi có sự đối chứng giữa người và người. Thế
nào là năm?
2. Nói về tín với người không tin,
này các Tỷ-kheo, là ác thuyết; nói về giới với người ác giới là ác
thuyết; nói về nghe nhiều với người nghe ít là ác thuyết; nói về bố thí
với người xan tham là ác thuyết; nói về trí tuệ với người ác tuệ là ác
thuyết. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là nói về tín với người không tin là
ác thuyết?
3. Người không tin, này các Tỷ-kheo,
khi được nói về lòng tin liền tức tối, phẫn nộ, hiềm khích, mất bình
tĩnh, biểu lộ phẫn nộ, sân hận, phiền muộn. Vì sao? Vì rằng vị ấy không
thấy tự mình có đầy đủ lòng tin, do nhân duyên ấy, không có hỷ và hân
hoan. Do vậy, nói về tín với người không có lòng tin là ác thuyết. Và
này các Tỷ-kheo, tại sao nói về giới với người ác giới là ác thuyết?
4. Người ác giới, này các Tỷ-kheo,
khi được nói về giới liền tức tối, phẫn nộ...Vì sao? Vì rằng vị ấy không
thấy tự mình có đầy đủ giới, do nhân duyên ấy, không có hỷ và hân hoan.
Do vậy, nói về giới với người ác giới là ác thuyết. Và này các Tỷ-kheo,
tại sao nói về nghe nhiều với người nghe ít là ác thuyết?
5. Người nghe ít, này các Tỷ-kheo,
khi được nói đến nghe nhiều liền tức tối, phẫn nộ...Vì sao? Vì rằng vị
ấy không thấy tự mình có đầy đủ nghe nhiều, do nhân duyên ấy, không có
hỷ và hân hoan. Do vậy, nói về nghe nhiều với người nghe ít là ác
thuyết. Và này các Tỷ-kheo, tại sao nói về bố thí với người xan tham là
ác thuyết?
6. Người xan tham, này các Tỷ-kheo,
khi được nói về bố thí liền tức tối, phẫn nộ...Vì sao? Vì rằng vị ấy
không thấy tự mình có đầy đủ bố thí, do nhân duyên ấy, không có hỷ và
hân hoan. Do vậy, nói về bố thí với người xan tham là ác thuyết. Và này
các Tỷ-kheo, tại sao nói về tuệ với người ác tuệ là ác thuyết?
7. Người ác tuệ, này các Tỷ-kheo,
khi được nói đến trí tuệ liền tức tối, phẫn nộ...Vì sao? Vì rằng vị ấy
không thấy tự mình có đầy đủ trí tuệ, do nhân duyên ấy, không có hỷ và
hân hoan. Do vậy, nói về trí tuệ với người ác tuệ là ác thuyết.
Lời nói của năm hạng người này là ác thuyết, khi có sự đối chứng giữa
người và người.
8. Lời nói của năm hạng người này là
thiện thuyết, khi có sự đối chứng giữa người và người. Thế nào là năm?
9. Thuyết về tín cho người có lòng
tin, này các Tỷ-kheo, là thiện thuyết; thuyết về giới cho người giữ giới
là thiện thuyết; thuyết về nghe nhiều cho người nghe nhiều là thiện
thuyết; thuyết về bố thí cho người bố thí là thiện thuyết; thuyết về trí
tuệ cho người trí tuệ là thiện thuyết. Và này các Tỷ-kheo, tại sao
thuyết về lòng tin cho người có lòng tin là thiện thuyết?
10. Người có lòng tin, này các
Tỷ-kheo, khi được nói đến lòng tin thì không tức tối, không phẫn nộ,
không hiềm khích, không mất bình tĩnh, không biểu lộ phẫn nộ, sân hận,
phiền muộn. Vì sao? Vì rằng vị ấy thấy tự mình có đầy đủ lòng tin, do
nhân duyên ấy, có hỷ và hân hoan. Do vậy, nói về tín với người có lòng
tin là thiện thuyết. Và này các Tỷ-kheo, tại sao nói về giới cho người
giữ giới là thiện thuyết?
11. Người giữ giới, này các Tỷ-kheo,
khi được nói đến về giới thì không tức tối, không phẫn nộ, không hiềm
khích, không mất bình tĩnh, không biểu lộ phẫn nộ, không sân hận, không
phiền muộn. Vì sao? Vì rằng vị ấy thấy tự mình có đầy đủ giới, do nhân
duyên ấy, có hỷ và hân hoan. Do vậy, nói về giới với người có giữ giới
là thiện thuyết. Và này các Tỷ-kheo, tại sao nói về nghe nhiều cho người
nghe nhiều là thiện thuyết?
12. Người nghe nhiều, này các
Tỷ-kheo, khi được nói đến nghe nhiều thì không tức tối, không phẫn nộ,
không hiềm khích...không phiền muộn. Vì sao? Vì rằng vị ấy thấy tự mình
có nghe nhiều, do nhân duyên ấy, có hỷ và hân hoan. Do vậy, nói về nghe
nhiều với người có nghe nhiều là thiện thuyết. Và này các Tỷ-kheo, tại
sao nói về bố thí cho người bố thí là thiện thuyết?
13. Người bố thí, này các Tỷ-kheo,
khi được nói đến bố thí thì không tức tối, không phẫn nộ, không hiềm
khích...không phiền muộn. Vì sao? Vì rằng vị ấy thấy tự mình có bố thí,
do nhân duyên ấy, có hỷ và hân hoan. Do vậy, nói về bố thí với người có
bố thí là thiện thuyết. Và này các Tỷ-kheo, tại sao nói về trí tuệ cho
người có trí tuệ là thiện thuyết?
14. Người trí tuệ, này các Tỷ-kheo,
khi được nói đến trí tuệ thì không tức tối...không phiền muộn. Vì sao?
Vì rằng vị ấy thấy tự mình có trí tuệ, do nhân duyên ấy, có hỷ và hân
hoan. Do vậy, nói về trí tuệ với người có trí tuệ là thiện thuyết.
Lời thuyết của năm hạng người này, này các Tỷ-kheo, là thiện thuyết
khi có sự đối chứng giữa người và người.
VIII (158) Sợ Hãi
Quang Pham1. - Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo rơi
vào trong sợ hãi. Thế nào là năm?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
không có lòng tin, giữ ác giới, nghe ít, biếng nhác và ác tuệ.
Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo rơi vào trong sợ
hãi.
3. Thành tựu năm pháp này, này các
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo không có sợ hãi. Thế nào là năm?
4. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
có lòng tin, có giới, có nghe nhiều, tinh cần tinh tấn, có trí tuệ.
Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo không có sợ hãi.
(IX) (159) Tôn Gỉa Udàyi
1. Một thời, Thế Tôn trú ở Kosambì,
tại khu vườn Ghosita. Lúc bấy giờ, Tôn giả Udàyi có hội chúng cư sĩ đông
đảo đoanh vây đang ngồi thuyết pháp. Tôn giả Ananda thấy Tôn giả Udàyi
có hội chúng đông đảo đoanh vây đang ngồi thuyết pháp, sau khi thấy, đi
đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi
xuống một bên, Tôn giả Ananda bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, Tôn giả Udàyi có hội chúng cư sĩ đông đảo đoanh vây
đang ngồi thuyết pháp.
- Này Ananda, thật không dễ gì để thuyết pháp cho các người khác. Ðể
thuyết pháp cho các người khác, này Ananda, sau khi nội tâm an trú được
năm pháp, mới nên thuyết pháp cho các người khác. Thế nào là năm?
2. "Ta sẽ thuyết pháp tuần tự",
thuyết pháp cho người khác cần phải suy nghĩ như vậy. "Ta sẽ thuyết với
mắt nhìn vào pháp môn", thuyết pháp cho người khác cần phải suy nghĩ như
vậy. "Ta sẽ thuyết vì lòng từ mẫn", thuyết pháp cho người khác cần phải
suy nghĩ như vậy. "Ta sẽ thuyết pháp, không phải vì tài vật", thuyết
pháp cho người khác cần phải suy nghĩ như vậy. "Ta sẽ thuyết pháp, không
làm thương tổn cho mình và cho người". Thuyết pháp cho người khác cần
phải suy nghĩ như vậy.
- Này Ananda, thật không dễ gì để thuyết pháp cho các người khác. Ðể
thuyết pháp cho các người khác, này Ananda, sau nội tâm an trú được năm
pháp, mới nên thuyết pháp cho các người khác.
(X) (160) Khó Trừ Khử
1. - Năm pháp này khởi lên, này các
Tỷ-kheo, thật khó trừ khử. Thế nào là năm?
2. Tham khởi lên, thật khó trừ khử;
sân khởi lên, thật khó trừ khử; si khởi lên, thật khó trừ khử; ham nói
khởi lên, thật khó trừ khử; tâm lang thang thật khó trừ khử.
Năm pháp này đã khởi lên, này các Tỷ-kheo, thật khó trừ khử.
XVII. Phẩm Hiềm Hận
(I) (161) Trừ Khử Hiềm Hận (1)
1.
- Có năm trừ khử hiềm hận này, này các
Tỷ-kheo, ở đây, vị Tỷ-kheo có hiềm hận khởi lên cần phải được trừ khử
một cách hoàn toàn. Thế nào là năm?
2. Trong người nào, này các Tỷ-kheo,
hiềm hận được sanh, trong người ấy, từ cần phải tu tập. Như vậy trong
người ấy, hiềm hận cần phải trừ khử.
3. Trong người nào, hiềm hận được
sanh, trong người ấy, bi cần phải tu tập. Như vậy trong người ấy, hiềm
hận cần phải trừ khử.
4. Trong người nào, hiềm hận được
sanh, trong người ấy xả cần phải tu tập. Như vậy trong người ấy hiềm hận
cần phải trừ khử.
5. Trong người nào, này các Tỷ-kheo,
hiềm hận được sanh, trong người ấy, vô niệm, vô tác ý cần được thực
hiện. Như vậy trong người ấy hiềm hận cần phải trừ khử.
6. Trong người nào, này các Tỷ-kheo,
hiềm hận được sanh, trong người ấy, sự kiện nghiệp do mình tạo cần phải
an lập là: "Tôn giả là chủ của nghiệp, là thừa tự của nghiệp, là khởi
nguyên của nghiệp, là bà con của nghiệp, là chỗ nương tựa của nghiệp.
Phàm nghiệp thiện hay ác được làm Tôn giả sẽ là người thừa tự nghiệp
ấy". Như vậy, trong người ấy, hiềm hận cần phải được trừ khử.
Này các Tỷ-kheo, có năm trừ khử hiềm hận này, ở đây, hiềm hận khởi
lên cho Tỷ-kheo cần phải trừ khử một cách hoàn toàn.
(II) (162) Trừ Khử Hiềm Hận (2)
1. Ở đây, Tôn giả Sàriputta gọi các
Tỷ-kheo:
- Này các Hiền giả Tỷ-kheo.
- Thưa Hiền giả.
Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Tôn giả Sàriputta. Tôn giả Sàriputta nói như
sau:
2. - Này các Hiền giả, có năm trừ
khử hiềm hận này, ở đây, hiềm hận khởi lên cho Tỷ-kheo cần phải được trừ
khử một cách hoàn toàn. Thế nào là năm?
3. Ở đây, này các Hiền giả, có người
thân hành không thanh tịnh, khẩu hành thanh tịnh, trong người như vậy,
này các Hiền giả, hiềm hận cần phải trừ khử.
4. Ở đây, này các Hiền giả, có người
khẩu hành không thanh tịnh, thân hành thanh tịnh, trong người như vậy,
này các Hiền giả, hiềm hận cần phải trừ khử.
5. Ở đây, này các Hiền giả, có người
thân hành không thanh tịnh, khẩu hành không thanh tịnh, nhưng thỉnh
thoảng tâm được mở rộng, tâm được tịnh tín, trong người như vậy, này các
Hiền giả, hiềm hận cần phải trừ khử.
6. Ở đây, này các Hiền giả, có người
thân hành không thanh tịnh, khẩu hành không thanh tịnh, và thỉnh thoảng
không được tâm rộng mở, không được tâm tịnh tín, trong người như vậy,
này các Hiền giả, hiềm hận cần phải trừ khử.
7. Ở đây, này các Hiền giả, có người
thân hành thanh tịnh, khẩu hành thanh tịnh, và thỉnh thoảng tâm được
rộng mở, tâm được tịnh tín, trong người như vậy, này các Hiền giả, hiềm
hận cần phải trừ khử.
8. Ở đây, này các Hiền giả, người
này thân hành không thanh tịnh, khẩu hành thanh tịnh. Như thế nào, trong
người ấy hiềm hận cần được trừ khử?
9. Ví như, này các Hiền giả, Tỷ-kheo
mặc áo lượm từ đống rác, thấy một tấm vải (liệng ở đống rác) trên con
đường xe đi, liền lấy chân trái chận lại, lấy chăn mặt kéo tấm vải cho
rộng ra, đoạn nào là đoạn chánh, làm cho nó có thể sử dụng được rồi cầm
lấy mang đi. Cũng vậy, này các Hiền giả, người này, với thân hành không
thanh tịnh, với khẩu hành thanh tịnh; những cái gì thuộc về thân hành
không thanh tịnh; lúc bấy giờ vị ấy không nên tác ý; còn những gì thuộc
khẩu hành thanh tịnh, lúc bấy giờ vị ấy nên tác ý. Như vậy, trong người
ấy hiềm hận cần phải trừ khử.
10. Ở đây, này các Hiền giả, người
này với khẩu hành không thanh tịnh, với thân hành thanh tịnh. Như thế
nào, trong người ấy hiềm hận cần phải trừ khử?
11. Ví như, này các Hiền giả, một hồ
nước đầy bùn và cây lau. Rồi một người đi đến bị nóng nhiệt não, bị
nóng bức bách, mệt mỏi, thèm uống nước, khát nước. Người ấy ngụp lặn
trong hồ nước ấy, lấy hai tay gạt ra ngoài bùn và lá cây, lấy bàn tay
bụm nước lại, uống rồi ra đi. Cũng vậy, này các Hiền giả, người này, với
khẩu hành không thanh tịnh, với thân hành thanh tịnh; những cái gì
thuộc về khẩu hành không thanh tịnh; lúc bấy giờ vị ấy không nên tác ý;
còn những gì thuộc thân hành thanh tịnh, lúc bấy giờ vị ấy nên tác ý.
Như vậy, trong người ấy hiềm hận cần phải trừ khử.
12. Ở đây, này các Hiền giả, người
này với thân hành không thanh tịnh, với khẩu hành không thanh tịnh,
thỉnh thoảng tâm được rộng mở, tâm được tịnh tín. Như thế nào, trong
người ấy hiềm hận cần phải trừ khử?
13. - Ví như, này các Hiền giả, ít
nước trong dấu chân của con bò. Rồi một người đi đến bị nóng nhiệt não,
bị nóng bức bách, mệt mỏi, thèm uống nước, khát nước. Người ấy suy nghĩ
như sau: "Một ít nước này trong dấu chân con bò, nếu ta uống với núm tay
hay với cái chén, ta sẽ làm nước ấy dao động và di động, khiến nước
không thể uống được. Vậy ta hãy gieo mình xuống với cả bốn thân phần
uống nước rồi ra đi". Rồi người ấy gieo mình xuống với cả bốn thân phần,
uống nước rồi ra đi. Cũng vậy, này các Hiền giả, người này với thân
hành không thanh tịnh, với khẩu hành không thanh tịnh, với tâm thỉnh
thoảng được mở rộng và tịnh tín; những cái gì thuộc thân hành không
thanh tịnh, lúc bấy giờ vị ấy không nên tác ý; những cái gì thuộc khẩu
hành không thanh tịnh, lúc bấy giờ vị
ấy không nên tác ý; những cái gì thuộc tâm thỉnh thoảng được rộng mở và
sáng suốt, lúc bấy giờ vị ấy nên tác ý. Như vậy trong người ấy hiền hận
cần phải trừ khử.
14. Ở đây, này các Hiền giả, người
này với thân hành không thanh tịnh, với khẩu hành không thanh tịnh và
thỉnh thoảng tâm không được rộng mở và tịnh tín. Như thế nào, trong
người ấy hiềm hận cần phải trừ khử?
15. - Ví như, này các Hiền giả, có
người đau bệnh, khổ đau, bị trọng bệnh, đang đi giữa đường, có làng xa
trước mặt, có làng xa sau lưng, nó không có được các đồ ăn thích đáng,
nó không có được các dược phẩm trị bệnh thích đáng, không có được sự
giúp đỡ thích đáng, không có người hướng dẫn đưa đến tận cuối làng.
Một người khác cũng đang đi trên đường thấy người ấy. Người này đối
với người ấy khởi lên lòng từ, khởi lên lòng thương tưởng, khởi lên lòng
từ mẫn: "Ôi, mong rằng người này được các đồ ăn thích đáng, được các
dược phẩm trị bị thích đáng, được các sự giúp đỡ thích đáng, được người
hướng dẫn đi đến cuối làng". Vì sao? Vì mong rằng người này ở đây không
bị suy tổn, tử vong. Cũng vậy, này các hiền giả, người này với thân hành
không thanh tịnh, với khẩu hành không thanh tịnh, lại thỉnh thoảng tâm
không được mở rộng và tịnh tín, người như vậy cần phải khởi lên lòng từ,
cần phải khởi lên lòng thương tưởng, cần phải khởi lên lòng từ mẫn:
"Ôi, mong rằng Tôn Giả này, sau khi đoạn tân thân ác hành cần phải tu
tập thân thiện hành, sau khi đoạn tận khẩu ác hành cần phải tu tập
khẩu thiện hành, sau khi đoạn tận ý ác hành cần phải tu tập ý thiện
hành". Vì sao? Vì mong rằng Tôn giả ấy sau khi thân hoại mạng chung,
không sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Như vậy trong người ấy
hiềm hận cần phải trừ khử.
16. Ở đây, này các Hiền giả, người
này với thân hành thanh tịnh, khẩu hành thanh tịnh, lại thỉnh thoảng tâm
được rộng mở và tịnh tín. Như thế nào, trong người ấy hiềm hận cần phải
trừ khử?
17. Ví như, này các Hiền giả, một hồ
sen có nước trong, có nước ngọt, có nước mát, có nước trong sáng, có bờ
hồ khéo sắp đặt đẹp đẽ và được nhiều loại cây che bóng. Rồi một người
đi đến bị nóng nhiệt não, bị nóng bức bách, mệt mỏi, thèm uống nước,
khát nước. Người ấy sau khi lặn xuống trong hồ sen ấy, sau khi tắm rửa,
uống nước, nó ra khỏi hồ, liền qua ngồi hay nằm dưới bóng cây. Cũng vậy,
này các hiền giả, người này với thân hành thanh tịnh, với khẩu hành
thanh tịnh, lại thỉnh thoảng tâm được cởi mở tịnh tín. Những gì thuộc
thân hành thanh tịnh, lúc bấy giờ cần phải tác ý; những gì thuộc khẩu
hành thanh tịnh, lúc bấy giờ cần phải tác ý và điều gì thỉnh thoảng tâm
được rộng mở và tịnh tín, lúc bấy giờ cần phải được tác ý. Như vậy trong
người ấy hiềm hận cần phải trừ
khử.
Này các Hiền giả, có năm trừ khử hiềm hận này, ở đây Tỷ-kheo có hiềm
hận khởi lên cần phải trừ khử một cách hoàn toàn.
(III) (163) Cuộc Nói Chuyện
1. Tại đấy, Tôn giả Sàriputta gọi
các Tỷ-kheo:
- Này các hiền giả Tỷ-kheo.
- Thưa Hiền giả.
Các vị Tỷ-kheo ấy vâng đáp Tôn giả Sàriputta. Tôn giả Sàriputta nói
như sau:
2.
... (Giống như kinh số 65 ở trước).
(IV) (164) Một Ví Dụ
(Tôn giả Sàriputta nói lại kinh số 66 ở trước).
(V) (165) Những Câu Hỏi
1. Tại đấy, Tôn giả Sàriputta gọi
các Tỷ-kheo... (như trên)...
2. Này các Hiền giả, ai hỏi một
người khác câu hỏi gì, tất cả đều nằm trong năm trường hợp này, hay một
trong năm trường hợp này. Thế nào là năm?
3. Do đần độn ngu si, hỏi người khác
câu hỏi; do ác dục, tham dục, hỏi người khác câu hỏi; khinh thường, hỏi
người khác câu hỏi; với tâm muốn hiểu biết, hỏi người khác câu hỏi, với
tâm phân vân hỏi người khác câu hỏi, nghĩ rằng nếu do ta hỏi, vị ấy trả
lời đúng đắn, thời như vậy tốt đẹp, nhưng nếu do ta hỏi, vị ấy trả lời
không chân chánh, thời ta sẽ trả lời chân chánh cho vị ấy.
Này các Hiền giả, ai hỏi một người khác câu hỏi gì đều nằm trong năm
trường hợp này, hay một trong năm trường hợp này. Này các Hiền giả, ta
với tâm như vậy hỏi người khác câu hỏi. Nếu do ta hỏi, người ấy trả lời
một cách chân chánh,, thời như vậy thật tốt đẹp.
Nếu ta hỏi và vị ấy trả lời không chơn chánh, thời ta sẽ trả lời chơn
chánh.
(VI) (166) Diệt Thọ Tưởng Ðịnh
1. Tại đấy, Tôn giả Sàriputta bảo
các Tỷ-kheo:...(như trên)...
2. Ở đây, này các Hiền giả, Tỷ-kheo
đầy đủ giới, đầy đủ định, đầy đủ tuệ có thể nhập vào một cách hoàn toàn
và xuất khỏi Diệt thọ tưởng định; sự kiện này có thể xảy ra. Nếu ngay
trong hiện tại, vị ấy không đạt được chánh trí, thời vị ấy chắc chắn
vượt khỏi cộng trú với chư Thiên, ăn các món ăn đoàn thực, được sanh với
thân do ý làm ra, (với điều kiện) vị ấy có thể nhập vào và xuất khỏi
Diệt thọ tưởng định; sự kiện này có xảy ra.
Khi được nói vậy, Tôn giả Udàyi nói với Tôn giả Sàriputta:
- Không có sự kiện này, thưa Hiền giả Sàriputta, không có trường hợp
này: "Rằng vị Tỷ-kheo chắc chắn vượt khỏi cọng trú với chư Thiên, ăn các
món ăn đoàn thực, được sanh với thân do ý làm ra, vị ấy có thể nhập vào
xuất khỏi Diệt thọ tưởng định"; sự kiện này không xảy ra.
Lần thứ hai... Lần thứ ba, Tôn giả Sàriputta bảo các Tỷ-kheo:
- Ở đây, này các Hiền giả, Tỷ-kheo đầy đủ giới, đầy đủ định, đầy đủ
tuệ có thể nhập vào và xuất khỏi Diệt thọ tưởng định; sự kiện này có xảy
ra. Nếu ngay trong hiện tại, vị ấy không đạt được chánh trí, thời vị ấy
chắc chắn vượt khỏi cọng trú với chư Thiên, ăn các món ăn đoàn thực,
được sanh với thân do ý làm ra, (với điều kiện) vị ấy có thể nhập vào và
xuất khỏi Diệt thọ tưởng định; sự kiện này có xảy ra.
Lần thứ ba, Tôn giả Udàyi nói với Tôn giả Sàriputta:
- Không có sự kiện này, thưa Hiền giả Sàriputta: "Không có trường hợp
này rằng vị Tỷ-kheo chắc chắn vượt khỏi cọng trú với chư Thiên, ăn các
món ăn đoàn thực, được sanh với thân do ý làm ra, với điều kiện vị ấy có
thể nhập vào và xuất khỏi Diệt thọ tưởng định"; sự kiện này không xảy
ra.
3. Rồi Tôn giả Sàriputta suy nghĩ
như sau: "Cho đến lần thứ ba, Tôn giả Udàyi phản kháng ta và không một
Tỷ-kheo nào tùy hỷ ta, vậy ta hãy đi đến Thế Tôn". Rồi Tôn giả Sàriputta
đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn, rồi ngồi xuống một bên.
Ngồi xuống một bên, Tôn giả Sàriputta bảo các Tỷ-kheo:
- Ở đây, này các chư Hiền, Tỷ-kheo đầy đủ giới, đầy đủ định, đầy đủ
tuệ... (với điều kiện) vị ấy có thể nhập vào và xuất khỏi Diệt thọ tưởng
định; sự kiện này có thể xảy ra...
Lần thứ ba, Tôn giả Udàyi nói với Tôn giả Sàriputta:
-- Không có sự kiện này, thưa Hiền giả Sàriputta, không có trường hợp
này, rằng: "Tỷ-kheo chắc chắn vượt khỏi cọng trú với chư Thiên, ăn các
món ăn đoàn thực và được sanh với thân do ý làm ra, (với điều kiện) vị
ấy có thể nhập vào và xuất khỏi Diệt thọ tưởng định"; sự kiện này không
xảy ra.
4. Rồi Tôn giả Sàriputta suy nghĩ
như sau: "Trước mặt Thế Tôn, Tôn giả Udàyi cho đến ba lần phản kháng ta
và không một Tỷ-kheo nào tùy hỷ ta, vậy ta hãy im lặng". Rồi Tôn giả
Sàriputta giữ im lặng. Rồi Thế Tôn bảo Tôn giả Udàyi:
- Này Udàyi, Thầy đi đến kết luận ai có thân do ý làm ra?
- Bạch Thế Tôn, có Chư Thiên vô sắc, do tưởng làm ra.
- Này Udàyi, Thầy nghĩ thế nào mà nói lên câu nói của kẻ ngu, không
thông minh sáng suốt?
5. Rồi Thế Tôn bảo Tôn giả Ananda:
- Này Ananda, các Thầy có thể nhìn một cách thản nhiên khi một
Tỷ-kheo trưởng lão bị làm phiền não như vậy. Này Ananda, lòng từ bi
không có thể khởi lên một khi Tỷ-kheo trưởng lão bị làm phiền não! (mà
các Thầy không có phản ứng).
Rồi Thế Tôn bảo các Tỷ-kheo:
- Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đầy đủ giới, đầy đủ định, đầy đủ
tuệ có thể nhập vào và xuất khỏi Diệt thọ tưởng định; sự kiện này có thể
xảy ra. Nếu ngay trong hiện tại, không thể đạt được chánh trí, vị ấy
chắc chắn vượt khỏi cộng trú với chư Thiên, ăn các món ăn đoàn thực,
được sanh với thân do ý làm ra, (với điều kiện) vị ấy có thể nhập vào và
xuất khỏi Diệt thọ tưởng định; sự kiện này có xảy ra.
Thế Tôn nói như vậy. Sau khi nói như vậy, bậc Thiện Thệ từ chỗ ngồi
đứng dậy, đi vào tinh xá.
6. Rồi Tôn giả Ananda, sau khi Thế
Tôn đi không bao lâu, đi đến Tôn giả Upavàna, sau khi đến, nói với Tôn
giả Upavàna:
- Ở đây, này Hiền giả Upavàna, một số người làm phiền não Tỷ-kheo
trưởng lão và chúng ta không ai đặt câu hỏi. Do vậy, thật không có gì kỳ
lạ, thưa Hiền giả, rằng Thế Tôn, vào buổi chiều, sau khi từ chỗ Thiền
tịnh đứng dậy, nêu lên vấn đề này và sự việc như thế nào, kể lại cho Tôn
giả Upavàna nghe tất cả. Nay chúng ta cảm thấy sợ hãi.
7. Rồi Thế Tôn, vào buổi chiều, từ
chỗ ngồi đứng dậy, đi đến ngôi giảng đường, sau khi đến liền ngồi trên
chỗ đã soạn sẵn. Sau khi ngồi, Thế Tôn nói với Tôn giả Upanàva:
- Này Upavàna, thành tựu bao nhiêu pháp, Tỷ-kheo trưởng lão được các
đồng Phạm hạnh ái mộ, thích ý, tôn trọng và noi gương tu tập?
- Bạch Thế Tôn, thành tựu năm pháp, Tỷ-kheo trưởng lão được các đồng
Phạm hạnh ái mộ, thích ý, tôn trọng và được noi gương tu tập. Thế nào là
năm?
8. Ở đây, bạch Thế Tôn, vị Tỷ-kheo
trưởng lão giữ giới, sống được bảo vệ với sự bảo vệ của giới bổn, đầy đủ
oai nghi chánh hạnh, thấy sự sợ hãi trong các tội nhỏ nhiệm, chấp nhận
và học tập các học pháp, nghe nhiều, thọ trì điều được nghe, tích tập
điều được nghe. Các pháp nào sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, có nghĩa,
có văn, đề cao đời sống Phạm hạnh hoàn toàn đầy đủ thanh tịnh, những
pháp ấy, vị ấy đã nghe nhiều, đã nắm giữ, đã ghi nhớ nhờ đọc nhiều lần,
chuyên ý quán sát, khéo thành tựu nhờ chánh kiến; thiện ngôn dùng lời
thiện ngôn, lời nói tao nhã, ý nghĩa minh bạch, giọng nói không bập bẹ,
phều phào, giải thích nghĩa lý minh xác, chứng được không khó khăn,
chứng được không mệt nhọc, chứng được không phí sức bốn Thiền, thuộc
tăng thượng tâm, đem đến hiện tại
lạc trú. Do đoạn tận các lậu hoặc, vị ấy tự mình với thắng trí chứng
ngộ, chứng đạt và an trú ngay trong hiện tại vô lậu tâm giải thoát, tuệ
giải thoát.
Thành tựu năm pháp này, bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo trưởng lão đối với các
đồng Phạm hạnh ái mộ, ưa thích , tôn trọng và được noi gương tu tập.
9. - Lành thay, lành thay, này
Upavàna! Thành tựu năm pháp này, Tỷ-kheo trưởng lão đối với các đồng
Phạm hạnh ái mộ, ưa thích , tôn trọng và được noi gương tu tập. Nếu
Tỷ-kheo trưởng lão không có được năm pháp này, thời có phải các đồng
Phạm hạnh cung kính, tôn trọng, đảnh lễ, cúng dường vị ấy vì răng rụng,
tóc bạc và da nhăn. Do vậy, này Upavana, do năm pháp này có hiện hữu
trong Tỷ-kheo trưởng lão, cho nên các đồng Phạm hạnh cung kính, tôn
trọng, đảnh lễ, cúng dường vị ấy.
(VII) (167) Buộc Tội
1. Tại đấy, Tôn giả Sàriputta bảo
các Tỷ-kheo:
- Này các Hiền giả, khi Tỷ-kheo buộc tội muốn buộc tội người khác,
hãy an trú nội tâm năm pháp rồi hãy buộc tội. Thế nào là năm?
2. "Tôi sẽ nói đúng thời, không phải
phi thời"; "Tôi sẽ nói chơn thật, không phải phi chơn"; "Tôi sẽ nói nhu
hòa, không phải thô bạo"; "Tôi sẽ nói liên hệ đến lợi ích, không phải
lời không liên hệ đến lợi ích"; "Tôi sẽ nói với từ tâm, không phải sân
tâm".
Này các Hiền giả, khi vị Tỷ-kheo buộc tội muốn buộc tội người khác,
hãy an trú nội tâm năm pháp rồi hãy buộc tội người khác.
3. Ở đây, này các Hiền giả, tôi thấy
có người bị buộc tội phi thời, nhưng phản ứng không đúng thời; có người
bị buộc tội phi chơn và có phản ứng không chơn thực; bị buộc tội thô
bạo và có phản ứng không nhu hòa; bị buộc tội không liên hệ đến lợi ích
và có phản ứng không liên hệ đến lợi ích; bị buộc tội với sân tâm và có
phản ứng không có từ tâm.
4. Tỷ-kheo buộc tội phi pháp, có năm
lý do không cần sắp đặt sám hối: "Tôn giả bị buộc tội phi thời, không
đúng thời, như vậy vừa đủ để Tôn giả không sám hối"; "Tôn giả bị buộc
tội phi chơn, không phải chơn thực, như vậy vừa đủ để Tôn giả không sám
hối"; "Tôn giả bị buộc tội thô bạo, không có nhu hòa, như vậy vừa đủ để
Tôn giả không sám hối"; "Tôn giả bị buộc tôi không liên hệ đến lợi ích,
không phải liên hệ đến lợi ích, như vậy vừa đủ để Tôn giả không sám
hối"; "Tôn giả bị buộc tội với sân tâm, không với từ tâm, như vậy vừa đủ
để Tôn giả không sám hối".
Tỷ-kheo bị buộc tội một cách phi pháp, có năm lý do này không cần
phải sắp đặt sám hối.
5. Tỷ-kheo buộc tội phi pháp, có năm
lý do cần sắp đặt sám hối: "Hiền giả đã buộc tội phi thời, không phải
đúng thời, như vậy vừa đủ để Hiền giả sám hối"; "Hiền giả đã buộc tội
phi chơn, không phải chơn thực, như vậy vừa đủ để Hiền giả sám hối";
"Hiền giả đã buộc tội một cách thô bạo, không có nhu hòa, như vậy vừa đủ
để Hiền giả sám hối"; "Tôn giả đã buộc tôi liên hệ đến lợi ích, không
phải liên hệ đến lợi ích, như vậy vừa đủ để Hiền giả sám hối"; "Hiền giả
đã buộc tội với sân tâm, không với từ tâm, như vậy vừa đủ để Hiền giả
sám hối".
Tỷ-kheo buộc tội phi pháp, này các Hiền giả, có năm lý do này cần
phải sắp đặt sám hối. Vì sao? Vì rằng nhờ vậy không một Tỷ-kheo nào khác
nghĩ rằng có thể buộc tội phi chơn.
6. Ở đây, này các Hiền giả, tôi thấy
có người bị buộc tội đúng thời, không phản ứng phi thời; bị buộc tội
chơn thực, không phản ứng phi chơn; bị buộc tội nhu hòa, không phản ứng
thô bạo; bị buộc tội liên hệ đến lợi ích, không phản ứng không liên hệ
đến lợi ích, bị buộc tội với từ tâm, không phản ứng với sân tâm.
7. Tỷ-kheo, này các Hiền giả, bị
buộc tội đúng pháp có năm lý do cần phải sắp đặt sám hối: "Tôn giả bị
buộc tội đúng thời, không phải phi thời, như vậy vừa đủ để Tôn giả sám
hối"; "Tôn giả bị buộc tội chơn thực, không phải phi chơn thực, như vậy
vừa đủ để Tôn giả sám hối"; "Tôn giả bị buộc tội nhu hòa không thô bạo,
như vậy vừa đủ để Tôn giả sám hối"; "Tôn giả bị buộc tội liên hệ đến lợi
ích, không phải không liên hệ đến lợi ích, như vậy vừa đủ để Tôn giả
sám hối"; "Tôn giả bị buộc tội với từ tâm, không phải với sân tâm, như
vậy vừa đủ để Tôn giả sám hối".
Tỷ-kheo bị buộc tội đúng pháp có năm lý do này, cần phải sắp đặt sám
hối.
8. Tỷ-kheo, này các Hiền giả, buộc
tội đúng pháp có năm lý do để không phải sắp đặt sám hối: "Hiền giả buộc
tội đúng thời, không phải phi thời, như vậy vừa đủ để Hiền giả không
sám hối"; "Hiền giả bị buộc tội chơn thực, không phải phi chơn thực, như
vậy vừa đủ để Hiền giả không sám hối"; "Hiền giả bị buộc tội nhu hoà,
không phải thô bạo, như vậy vừa đủ để hiền giả không sám hối"; "Hiền giả
bị buộc tôi không liên hệ đến lợi ích, không phải liên hệ đến lợi ích,
như vậy vừa đủ để Hiền giả không sám hối"; "Hiền giả bị buộc tội với từ
tâm, không với sân tâm, như vậy vừa đủ để Hiền giả không sám hối".
Này các Hiền giả, Tỷ-kheo buộc tội đúng pháp, do năm lý do này không
cần phải sắp đặt sám hối. Vì sao? Vì nhờ vậy, các Tỷ-kheo khác nghĩ rằng
buộc tội cần phải đúng pháp.
9. Người bị buộc tội, thưa các Hiền
giả, cần phải an trú trong hai pháp: chơn thực và bất động. Này các Hiền
giả, nếu các người khác buộc tội tôi, đúng thời hay phi thời, chơn thực
hay phi chơn, nhu hòa hay thô bạo, liên hệ đến lợi ích hay không liên
hệ đến lợi ích, với từ tâm hay với sân tâm, thì cần phải an trú trong
hai pháp: Chơn thực và bất động. Nếu tôi biết: "Pháp này có trong tôi",
nếu tôi nghĩ là "có", tôi sẽ nói: "Pháp này có trong tôi". Nếu tôi biết:
"Pháp này không có trong tôi", nếu tôi nghĩ là "không có", tôi sẽ nói:
"Pháp này không có trong tôi".
10. Thế Tôn nói:
- Như vậy này Sàriputta, khi Thầy nói như vậy, ở đây có một số người
ngu nào không có khả năng nắm được vấn đề?
11. - Bạch Thế Tôn, những người nào
không có lòng tin, với mục đích mưu sống, không vì lòng tin xuất gia từ
bỏ gia đình; sống không gia đình, những người xảo trá, lường gạt, hư
ngụy, mất thăng bằng, cao mạn, dao động, lắm lời, nói phô tạp nhạp,
không hộ trì các căn, ăn uống không tiết độ, không chú tâm cảnh giác,
thờ ơ với Sa-môn hạnh, không tôn kính học tập, sống quá đầy đủ, uể oải,
đi đầu trong thối thất, từ bỏ gánh nặng, viễn ly, biếng nhác, tinh cần
thấp kém, thất niệm, không tỉnh giác, không định tâm, tâm tán loạn, liệt
tuệ, câm ngọng; khi con nói như vậy, họ không có khả năng nắm được vấn
đề. Nhưng các thiện nam tử, bạch Thế Tôn, vì lòng tin xuất gia từ bỏ gia
đình, sống không gia đình, không xảo trá, lường gạt, không hư ngụy,
không mất thăng bằng, không cao
mạn, không dao động, không lắm lời, không nói thô tạp nhạp, hộ trì các
căn, ăn uống có tiết độ, chú tâm cảnh giác, không thờ ơ với Sa-môn hạnh,
tôn kính học tập, không sống quá đầy đủ, không uể oải, từ bỏ gánh nặng
đọa lạc, đi đầu trong đời sống viễn ly, tinh cần tinh tất, siêng năng,
an trú chánh niệm tỉnh giác, định tĩnh, nhất tâm, có trí tuệ, không câm
ngọng. Khi con nói như vậy, các vị này có khả năng nắm giữ vấn đề.
12. - Này Sàriputta, các Thầy không
vì lòng tin xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình. liệt tuệ, câm
ngọng, hãy để họ một bên. Nhưng này Sàriputta, những thiện nam tử, vì
lòng tin xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình... không câm
ngọng, hãy nói chuyện với họ. Hãy giáo giới các vị đồng Phạm hạnh, hãy
giảng dạy, này Sàriputta, các vị đồng Phạm hạnh nghĩ rằng: "Sau khi giúp
ra khỏi diệu pháp, tôi an trú các vị đồng Phạm hạnh trong diệu pháp".
Này Sariputta hãy như vậy học tập.
(VIII) (168) Giới
(Ngài Sàriputta nói lại kinh số 24, phẩm III).
(IX) (169) Ðưa Ðến Biết
1. Rồi Tôn giả Ananda đi đến Tôn giả
Sàriputta; sau khi đến, nói lên với Tôn giả Sàriputta những lời chào
đón hỏi thăm. Sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu liền
ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Tôn giả Ananda thưa với Tôn giả
Sàriputta:
2. - Cho đến như thế nào, thưa Hiền
giả Sàriputta, Tỷ-kheo mau chóng đi đến hiểu biết đối với thiện pháp, sự
nắm giữ của vị ấy là khéo nắm giữ, nắm giữ nhiều và không quên điều đã
nắm giữ.
- Tôn giả Ananda là vị nghe nhiều, mong Tôn giả Ananda hãy nói lên.
- Vậy thưa Hiền giả Sàriputta, hãy khéo tác ý, tôi sẽ nói.
- Thưa vâng, Hiền giả.
Tôn giả Sàriputta vâng đáp Tôn giả Ananda. Tôn giả Ananda nói như
sau:
3. Ở đây, thưa Hiền giả Sàriputta,
có Tỷ-kheo thiện xảo về ý nghĩa, thiện xảo về pháp, thiện xảo về căn cú,
thiện xảo về địa phương ngữ, thiện xảo về liên hệ trước sau. Cho đến
như vậy, thưa Hiền giả Sàriputta, Tỷ-kheo mau chóng đi đến hiểu biết đối
với các thiện pháp, sự nắm giữ của vị ấy là khéo nắm giữ, nắm giữ
nhiều, và không quên điều đã nắm giữ.
- Thật là vi diệu, thưa Hiền giả! thật là hy hữu, thưa Hiền giả! Khó
nói thay, điều này được Tôn giả Ananda nói lên. Chúng tôi tin rằng Tôn
giả Ananda thành tựu năm pháp này. Tôn giả Ananda thiện xảo về nghĩa,
thiện xảo về pháp, thiện xảo về văn cú, thiện xảo về địa phương ngữ,
thiện xảo về liên hệ trước sau.
(X)
(170) Bhaddaji
1. Một thời, Tôn giả Ananda trú ở
Kosambì, tại khu vườn Ghosita. Rồi Tôn giả Bhaddaji đi đến Tôn giả
Ananda những lời chào đón hỏi thăm, sau khi nói lên những lời chào đón
hỏi thăm thân hữu, liền ngồi xuống một bên. Tôn giả Ananda nói với Tôn
giả Bhaddaji đang ngồi một bên.
2. - Thưa Hiền giả Bhaddaji, cái gì
là tối thượng trong những điều được thấy? Cái gì là tối thượng trong
những điều được nghe? Cái gì là tối thượng trong các lạc? Cái gì là tối
thượng trong những điều được tưởng? Cái gì là tối thượng trong các hữu?
- Thưa Hiền giả, có Phạm Thiên, là bậc tối thắng (Tự thắng), là bậc
vô địch, bậc biến nhãn, tự tại đối với tất cả loại hữu tình. Thấy Phạm
Thiên là tối thượng trong những điều được thấy. Thưa Hiền giả, có chư
Thiên Quang Âm tràn đầy và biến mãn an lạc. Khi nào và chỗ nào họ thốt
lên lời cảm hứng ngữ: "Ôi sung sướng thay! Ôi sung sướng thay!" Ai nghe
tiếng ấy, có là sự nghe tối thượng. Thưa Hiền giả, có chư Thiên Biến
Tịnh, họ sống thoải mái trong tịch tịnh, họ cảm giác lạc thọ. Ðây là lạc
tối thượng. Thưa Hiền giả, có chư Thiên đạt được Vô sở hữu xứ. Ðây là
tưởng vô thượng. Thưa Hiền giả, có chư Thiên đạt được Phi tưởng phi phi
tưởng xứ. Ðây là hữu tối thượng.
3. - Lời nói của Tôn giả Bhaddaji,
đây là lời của quần chúng.
- Tôn giả Ananda là vị nghe nhiều. Tôn giả Ananda hãy nói lên.
- Vậy này Hiền giả Bhaddaji, hãy nghe và khéo tác ý, tôi sẽ nói.
- Thưa vâng, Hiền giả.
Tôn giả Bhaddaji vâng đáp Tôn giả Ananda. Tôn giả Ananda nói như sau:
- Khi người ta nhìn, này Hiền giả, không có gián đoạn, các lậu hoặc
được đoạn trừ, như vậy là sự thấy tối thượng. Khi người ta nghe không có
gián đoạn, các lậu hoặc được đoạn trừ, như vậy là sự nghe tối thượng.
Khi người ta cảm giác lạc thọ không có gián đoạn, các lậu hoặc được đoạn
trừ, như vậy là an lạc tối thượng. Khi người ta cảm tưởng không có gián
đoạn, các lậu hoặc được đoạn trừ, như vậy là tưởng tối thượng. Khi
người ta hiện hữu không có gián đoạn, các lậu hoặc được đoạn trừ, như
vậy là hữu tối thượng.
XVIII. Phẩm Nam Cư Sĩ
(I) (171) Sợ Hãi
1.
Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại
Jetavana, khu vườn ông Anàthapindika. Taị đấy, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo:
- Này các Tỷ-kheo.
- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau:
2. - Thành tựu năm pháp này, này các
Tỷ-kheo, nam cư sĩ rơi vào sợ hãi. Thế nào là năm? Sát sanh, lấy của
không cho, tà hạnh trong các dục, nói láo, đắm say rượu men, rượu nấu.
Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo, nam cư sĩ rơi vào sợ hãi.
3. - Thành tựu năm pháp này, này các
Tỷ-kheo, nam cư sĩ không có sợ hãi. Thế nào là năm? Từ bỏ sát sanh, từ
bỏ lấy của không cho, từ bỏ tà hạnh trong các dục, từ bỏ nói láo, từ bỏ
đắm say rượu men, rượu nấu.
Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo, nam cư sĩ không có sợ hãi.
(II) (172) Không Sợ Hãi
1. - Thành tựu năm pháp, này các
Tỷ-kheo, nam cư sĩ sống trong gia đình có sự sợ hãi. Thế nào là năm? Sát
sanh...đắm say rượu men, rượu nấu.
Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo, nam cư sĩ sống ở gia đình có
sợ hãi.
2. - Thành tựu năm pháp, này các
Tỷ-kheo, nam cư sĩ sống trong gia đình không có sợ hãi. Thế nào là năm?
Từ bỏ sát sanh...từ bỏ đắm say rượu men, rượu nấu.
Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo, nam cư sĩ sống ở gia đình
không có sợ hãi.
(III) (173) Ðịa Ngục
1. - Thành tựu năm pháp, này các
Tỷ-kheo, nam cư sĩ như vậy tương xứng bị rơi vào địa ngục. Thế nào là
năm? Sát sanh...đắm say rượu men, rượu nấu.
Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo, nam cư sĩ như vậy tương xứng
bị rơi vào địa ngục.
2. - Thành tựu năm pháp, này các
Tỷ-kheo, nam cư sĩ như vậy tương xứng được sanh lên cõi Trời. Thế nào là
năm? Từ bỏ sát sanh...từ bỏ đắm say rượu men, rượu nấu.
Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo, nam cư sĩ như vậy tương xứng
được sanh lên cõi Trời.
(IV) (174) Sợ Hâi Hận Thù
1. Rồi gia chủ Anàthapindika đi đến
Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Thế Tôn
nói với gia chủ Anàthapindika đang ngồi xuống một bên:
2. - Này Gia chủ, ai không đoạn tận
năm sợ hãi hận thù, được gọi là ác giới và sanh vào địa ngục. Thế nào là
năm? Sát sanh, lấy của không cho, tả hạnh trong các dục, nói láo, đắm
say rượu men, rượu nấu.
Này Gia chủ, ai không đoạn tận năm sợ hãi hận thù này, được gọi là ác
giới và sanh vào địa ngục.
3. - Này Gia chủ, ai đoạn tận năm sợ
hãi hận thù, được gọi là có giới và sanh lên cõi Trời. Thế nào là năm?
Sát sanh, lấy của không cho...đắm say rượu men, rượu nấu.
Này Gia chủ, ai đoạn tận năm sợ hãi hận thù này, được gọi là có giới
và sanh lên cõi Trời.
4. Này Gia chủ, do duyên sát sanh,
người sát sanh hiện tại sanh khởi sợ hãi hận thù, đời sau sanh khởi sợ
hãi hận thù, tâm cảm thọ khổ ưu. Từ bỏ sát sanh, hiện tại không sanh
khởi sợ hãi hận thù, đời sau không sanh khởi sợ hãi hận thù, tâm không
cảm thọ khổ ưu. Người từ bỏ sát sanh, như vậy, sợ hãi hận thù ấy được
tịnh chỉ.
5. Này Gia chủ, người lấy của không
cho...Này Gia chủ, người có tà hạnh trong các dục...Này Gia chủ, người
nói láo...Này Gia chủ, người đắm say rượu men, rượu nấu, do duyên đắm
say rượu men, rượu nấu, hiện tại sanh khởi sợ hãi hận thù, đời sau sanh
khởi sợ hãi hận thù, tâm cảm thọ khổ ưu. Từ bỏ đắm say rượu men, rượu
nấu, hiện tại không sanh khởi sợ hãi hận thù, đời sau không sanh khởi sợ
hãi hận thù, tâm không cảm thọ khổ ưu. Người từ bỏ đắm say rượu men,
rượu nấu, như vậy, sợ hãi hận thù ấy được tịnh chỉ.
Ai sát hại sanh linh,
Và nói láo ở đời,
Lấy của cải không cho,
Ði đến vợ người khác,
Và người mãi đắm say,
Uống rượu men, rượu nấu,
Không đoạn năm hận thù,
Ðược gọi là ác giới,
Mạng chung, sanh ác tuệ,
Bị rơi vào địa ngục.
Ai không hại sanh linh,
Không nói láo ở đời,
Không lấy của không cho,
Không đi đến vợ người,
Người nào không đắm say,
Rượu men và rượu nấu,
Ðoạn tận năm hận thù,
Ðược gọi là có giới,
Mạng chung, sanh trí tuệ,
Ðược sanh lên cõi lành.
(V) (175) Kẻ Bị Vất Bỏ
1. - Thành tựu năm pháp, này các
Tỷ-kheo, nam cư sĩ là kẻ bị vất bỏ khỏi giới nam cư sĩ, là cấu uế cho
nam cư sĩ, là tối hạ liệt cho nam cư sĩ. Thế nào là năm?
Không tin; ác giới; đoán tương lai với những nghi lễ đặc biệt; tin
tưởng điềm lành; không tin hành động; tìm kiếm ngoài (Tăng chúng) người
xứng đáng tôn trọng và tại đấy phục vụ trước.
Thành tựu năm pháp, này các Tỷ-kheo, man cư sĩ là kẻ bị vất bỏ khỏi
giới nam cư sĩ, là cấu uế cho nam cư sĩ, là tối hạ liệt cho nam cư sĩ.
2. Thành tựu năm pháp, này các
Tỷ-kheo, một nam cư sĩ là hòn ngọc trong giới nam cư sĩ, là hoa sen hồng
trong giới nam cư sĩ, là hoa sen trắng trong giới nam cư sĩ. Thế nào là
năm?
Có lòng tin; có giới; không đoán tương lai với những nghi lễ đặc
biệt; không tin tưởng điềm lành; tin tưởng ở hành động; không tìm kiếm
ngoài Tăng chúng người xứng đáng tôn trọng và tại đấy phục vụ trước.
Thành tựu năm pháp, này các Tỷ-kheo, một nam cư sĩ là hòn ngọc trong
giới nam cư sĩ, là hoa sen hồng trong giới nam cư sĩ, là hoa sen trắng
trong giới nam cư sĩ.
(VI) (176) Hoan Hỷ
1. Rồi Gia chủ Anàthapindika với
khoảng năm trăm nam cư sĩ đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn
rồi ngồi xuống một bên. Thế Tôn nói với Gia chủ Anàthapindika đang ngồi
xuống một bên:
2. - Này Gia chủ, Ông đã cung cấp
cho chúng Tỷ-kheo các vật dụng cần thiết như y, đồ ăn khất thực, sàng
tọa, dược phẩm trị bệnh. Nhưng Ông chớ có bằng lòng với ý nghĩ: "Chúng
ta đã cung cấp cho chúng Tỷ-kheo các vật dụng cần thiết như y, đồ ăn
khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh". Do vậy, này Gia chủ, Ông cần
phải học tập như sau:
3. "Với phương tiện nào chúng ta
thỉnh thoảng đạt được và an trú hỷ do viễn ly sanh" Như vậy, này Gia
chủ, Ông cần phải học tập.
4. Ðược nghe nói như vậy, Tôn giả
Sàriputta bạch Thế Tôn:
- Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn! Thật hy hữu thay, bạch Thế Tôn!
Khéo nói thay là lời nói này của Thế Tôn: "Này Gia chủ, Ông đã cung cấp
cho chúng Tỷ-kheo các vật dụng cần thiết như y, đồ ăn khất thực, sàng
tọa, dược phẩm trị bệnh. Nhưng Ông chớ có bằng lòng với ý nghĩ: "Chúng
ta đã cung cấp cho chúng Tỷ-kheo các vật dụng cần thiết như y, đồ ăn
khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh". Do vậy, Ông cần phải học tập
như sau: "Với phương tiện nào chúng ta thỉnh thoảng đạt được và an trú
hỷ do viễn ly sanh!" Như vậy, này Gia chủ, Ông cần phải học tập". Bạch
Thế Tôn, khi nào Thánh đệ tử đạt đến và an trú hỷ do viễn ly sanh, trong
thời gian ấy, năm sự việc không xảy ra: Khổ và ưu liên hệ đến dục trong
thời gian ấy không khởi lên cho người ấy. Lạc và hỷ liên hệ đến dục
trong thời gian ấy không khởi lên cho người ấy. Khổ và ưu liên hệ đến
bất thiện trong thời gian ấy không khởi lên cho người ấy. Lạc và hỷ liên
hệ đến bất thiện trong thời gian ấy không khởi lên cho người ấy. Khổ và
ưu liên hệ đến thiện, trong thời gian ấy không khởi lên cho người ấy.
Bạch Thế Tôn, khi nào Thánh đệ tử đạt đến và an trú hỷ do viễn ly sanh,
trong thời gian ấy, năm sự việc này không xảy ra.
- Lành thay, lành thay, này Sàriputta, trong khi Thánh đệ tử đạt được
và an trú hỷ do viễn ly sanh, trong thời gian ấy, năm sự kiện không xảy
ra cho người ấy: Khổ và ưu liên hệ đến dục trong thời gian ấy không xảy
ra cho người ấy. Lạc và hỷ liên hệ đến dục trong thời gian ấy không xảy
ra cho người ấy. Khổ và ưu liên hệ đến bất thiện trong thời gian ấy
không xảy ra cho người ấy. Lạc và hỷ liên hệ đến bất thiện trong thời
gian ấy không xảy ra cho người ấy. Khổ và ưu liên hệ đến thiện, trong
thời gian ấy không xảy ra cho người ấy. Này Sàriputta, trong khi vị
Thánh đệ tử đạt đến và an trú hỷ do viễn ly sanh, trong thời gian ấy,
năm sự kiện này không xảy ra cho người ấy.
(VII) (177) Người Buôn Bán
1. - Có năm nghề buôn bán này, này
các Tỷ-kheo, một nam cư sĩ không nên làm. Thế nào là năm? Buôn bán đao
kiếm, buôn bán người, buôn bán thịt, buôn bán rượu, buôn bán thuốc độc.
Có năm nghề buôn bán này, này các Tỷ-kheo, một nam cư sĩ không nên
làm.
(VIII)
(178) Các Vua
1. - Các Thầy nghĩ thế nào, này các
Tỷ-kheo, các Thầy có thấy hay có nghe như sau không: "Người này đoạn tận
sát sanh, từ bỏ sát sanh. Rồi do nhân từ bỏ sát sanh, các vua bắt người
ấy sát hại hay bắt trói, hay tẩn xuất, hay làm gì người ấy tùy theo ý
muốn"?
- Thưa không, bạch Thế Tôn.
- Lành thay, này các Tỷ-kheo! Ta cũng không thấy, cũng không nghe như
sau: "Người này đoạn tận sát sanh, từ bỏ sát sanh. Rồi do nhân từ bỏ
sát sanh, các vua bắt người ấy sát hại hay bắt trói, hay tẩn xuất, hay
làm gì người ấy tùy theo ý muốn!" Nhưng nếu có người nói về ác nghiệp
của người ấy như sau: "Người này sát hại sinh mạng của nữ nhân hay nam
nhân". Rồi các vua bắt người ấy, do nhân sát hại sinh mạng, sát hại hay
bắt trói, hay tẩn xuất, hay làm gì người ấy tùy theo ý muốn". Các Thầy
có thấy như vậy, hay nghe như vậy chăng?
- Bạch Thế Tôn, chúng con có thấy và nghe như vậy. Và sẽ được nghe
như vậy nữa.
2. - Này các Tỷ-kheo, các Thầy nghĩ
thế nào, các Thầy có thấy hay có nghe như sau không: "Người này đoạn tận
lấy của không cho, từ bỏ lấy của không cho. Rồi các vua bắt người ấy,
do nhân từ bỏ lấy của không cho, sát hại hay bắt trói, hay tẩn xuất, hay
làm gì người ấy tùy theo ý muốn"?
- Thưa không, bạch Thế Tôn.
- Lành thay, này các Tỷ-kheo! Ta cũng không thấy, cũng không nghe như
sau: "Người này đoạn tận lấy của không cho, từ bỏ lấy của không cho.
Rồi các vua bắt người ấy, do nhân từ bỏ lấy của không cho, sát hại hay
bắt trói, hay tẩn xuất, hay làm gì người ấy tùy theo ý muốn". Nhưng nếu
có người nói về ác nghiệp của người ấy như sau: "Người này lấy của không
cho gọi là ăn trộm, từ làng hay từ khu rừng. Rồi các vua bắt người ấy,
do duyên lấy của không cho, sát hại hay bắt trói, hay tẩn xuất, hay làm
gì người ấy tùy theo ý muốn". Các Thầy có thấy như vậy, hay nghe như vậy
chăng?
- Bạch Thế Tôn, chúng con có thấy và có nghe như vậy. Và sẽ được nghe
như vậy nữa.
3. - Các Thầy nghĩ thế nào, này các
Tỷ-kheo, các Thầy có thấy hay có nghe như sau không: "Người này đoạn tận
tà hạnh trong các dục, từ bỏ tà hạnh trong các dục. Rồi các vua bắt
người ấy, do nhân từ bỏ tà hạnh trong các dục, sát hại, hay bắt trói,
hay tẩn xuất, hay làm gì người ấy tùy theo ý muốn"?
- Thưa không, bạch Thế Tôn.
- Lành thay, này các Tỷ-kheo! Ta cũng không thấy, cũng không nghe như
sau: "Người này đoạn tận tà hạnh trong các dục, từ bỏ tà hạnh trong các
dục. Rồi các vua bắt người ấy, do nhân từ bỏ tà hạnh trong các dục, sát
hại hay bắt trói, hay tẩn xuất, hay làm gì người ấy tùy theo ý muốn!"
Nhưng nếu có người nói về ác nghiệp của người ấy như sau: "Người này có
tà hạnh với những người đàn bà của người khác, với những thiếu nữ của
người khác. Rồi các vua bắt người ấy, do nhân tà hạnh trong các dục, sát
hại hay bắt trói, hay tẩn xuất, hay làm gì người ấy tùy theo ý muốn".
Các Thầy có thấy như vậy, hay có nghe như vậy chăng?
- Bạch Thế Tôn, chúng con có thấy và có nghe như vậy. Và sẽ được nghe
như vậy nữa.
4. - Này các Tỷ-kheo, các Thầy nghĩ
thế nào, các Thầy có thấy và có nghe như sau không: "Người này đoạn tận
nói láo, từ bỏ nói láo. Rồi các vua bắt người ấy, do nhân từ bỏ nói láo,
sát hại, hay bắt trói, hay tẩn xuất, hay làm gì người ấy tùy theo ý
muốn"?
- Thưa không, bạch Thế Tôn.
- Lành thay, này các Tỷ-kheo! Ta cũng không thấy, cũng không nghe như
sau: "Người này đoạn tận nói láo, từ bỏ nói láo. Rồi các vua chúa bắt
người ấy, do nhân từ bỏ nói láo, sát hại hay bắt trói, hay tẩn xuất, hay
làm gì người ấy tùy theo ý muốn". Nhưng nếu có người nói về ác nghiệp
của người ấy như sau: "Người này do nói láo, phá hoại hạnh phúc của
người gia chủ hay con người gia chủ". Rồi các vua bắt người ấy, và do
nhân nói láo, sát hại hay bắt trói, hay tẩn xuất, hay làm gì người ấy
tùy theo ý muốn". Các Thầy có thấy như vậy hay có nghe như vậy chăng?
- Bạch Thế Tôn, chúng con có thấy và nghe như vậy. Và sẽ được nghe
như vậy nữa.
5. - Này các Tỷ-kheo, các Thầy nghĩ
thế nào, các Thầy có thấy hay có nghe như sau không: "Người này đoạn tận
đắm say rượu men, rượu nấu. Rồi các vua bắt người ấy, do nhân từ bỏ đắm
say rượu men, rượu nấu, sát hại, bắt trói, hay tẩn xuất, hay làm gì
người ấy tùy theo ý muốn"?
- Thưa không, bạch Thế Tôn.
- Lành thay, này các Tỷ-kheo! Ta cũng không thấy, cũng không nghe như
sau: "Người này đoạn tận đắm say rượu men rượu nấu. Rồi các vua chúa
bắt người ấy, do nhân từ bỏ đắm say rượu men rượu nấu, sát hại, hay bắt
trói, hay tẩn xuất, hay làm gì người ấy tùy theo ý muốn". Nhưng nếu có
người nói về ác nghiệp của người ấy như sau: "Người này do đắm say rượu
men rượu nấu, lấy của không cho, gọi là ăn trộm từ làng hay từ khu rừng;
người này do nhân đắm say rượu men rượu nấu, có tà hạnh đối với những
nữ nhân của các người khác, đối với các thiếu nữ của những người khác;
người này do nhân đắm say rượu men rượu nấu, nói láo, phá hoại hạnh phúc
người gia chủ hay con người gia chủ. Rồi các vua bắt người ấy, do nhân
đắm say rượu men rượu nấu, sát hại hay bắt trói, hay tẩn xuất,
hay làm gì người ấy tùy theo ý muốn". Các Thầy có thấy như vậy, có nghe
như vậy chăng?
- Bạch Thế Tôn, chúng con có thấy, có nghe như vậy và sẽ được nghe
như vậy nữa.
(IX) (179) Gia Chủ
1. Gia chủ Anàthapindika với khoảng
500 nam cư sĩ đoanh vây, đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn
rồi ngồi xuống một bên. Thế Tôn bảo Tôn giả Sàriputta:
2. - Này Sàriputta, Thầy có biết
người gia chủ mặc áo trắng nào mà sở hành được bảo vệ trong năm học
giới, và có được không khó khăn, có được không mệt nhọc, có được không
phí sức bốn tăng thượng tâm hiện tại lạc trú, nếu vị ấy muốn, có thể tự
đáp về mình như sau: "Ta sẽ đoạn tận địa ngục, đoạn tận loài bàng sanh,
đoạn tận loài ngạ quỷ, đoạn tận cõi dữ, ác thú, đọa xứ. Ta là bậc Dự
lưu, không còn phải thối đọa, quyết chắc đạt được Chánh giác"? Sở hành
được bảo vệ trong năm học giới nào?
3. Ở đây, này Sàriputta, Thánh đệ tử
từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho, từ bỏ tà hạnh trong các dục,
từ bỏ nói láo, từ bỏ đắm say rượu men, rượu nấu. Sở hành được bảo vệ
trong năm học giới này.
Vị ấy có được không khó khăn, có được không mệt nhọc, có được không
phí sức bốn tăng thượng tâm hiện tại lạc trú nào?
4. Ở đây, này Sàriputta, vị Thánh đệ
tử có lòng tịnh tín bất động đối với Đức Phật: "Thế Tôn là bậc
A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô
Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn". Ðây là
tăng thượng tâm hiện tại lạc trú thứ nhất đã chứng được nhờ làm cho
thanh tịnh tâm chưa được thanh tịnh, làm cho trong sáng tâm chưa được
trong sáng.
5. Lại nữa, này Sàriputta, vị Thánh
đệ tử thành tựu lòng tịnh tín bất động đối với Pháp: "Pháp được Thế Tôn
khéo thuyết, thiết thực hiện tại, không có thời gian, đến để mà thấy, có
khả năng hướng thượng, được kẻ trí tự mình giác hiểu". Ðây là tăng
thượng tâm hiện tại lạc trú thứ hai đã chứng được nhờ làm cho thanh tịnh
tâm chưa được thanh tịnh, làm cho trong sáng tâm chưa được trong sáng.
6. Lại nữa, này Sàriputta, vị Thánh
đệ tử thành tựu lòng tịnh tín bất động đối với chúng Tăng: "Diệu hạnh là
chúng đệ tử Thế Tôn! Trực hạnh là chúng đệ tử Thế Tôn! ứng lý hạnh là
chúng đệ tử Thế Tôn! Chơn chánh hạnh là chúng đệ tử Thế Tôn! Tức là bốn
đôi tám chúng. Chúng đệ tử Thế Tôn đáng được cung kính, đáng được tôn
trọng, đáng được cúng dường, đáng được chắp tay, là phước điền vô thượng
ở đời". Ðây là tăng thượng tâm hiện tại lạc trú thứ ba đã chứng được
nhờ làm cho thanh tịnh tâm chưa được thanh tịnh, làm cho trong sáng tâm
chưa được trong sáng.
7. Lại nữa, này Sàriputta, vị Thánh
đệ tử thành tựu giới được bậc Thánh ái kính, không có bể vụn, không bị
sức mẻ, không tì vết, không ô nhiễm, đem lại giải thoát, được người trí
tán thán, làm cho an lạc, hướng đến Thiền định. Ðây là tăng thượng tâm
hiện tại lạc trú thứ ba đã chứng được nhờ làm cho thanh tịnh tâm chưa
được thanh tịnh, làm cho trong sáng tâm chưa được trong sáng.
Bốn tăng thượng tâm hiện tại lạc trú này được chứng đắc không khó
khăn, chứng đắc không mệt nhọc, chứng đắc không phí sức.
8. Này Sàriputta, người gia chủ mặc
áo trắng nào mà Thầy biết sở hành được bảo vệ trong năm học giới, và có
được không khó khăn, có được không mệt nhọc, có được không phí sức bốn
tăng thượng tâm hiện tại lạc trú; nếu vị ấy muốn, có thể tự đáp về mình
như sau: "Ta đã đoạn tận địa ngục, đoạn tận loài bàng sanh, đoạn tận
loài ngạ quỷ, đoạn tận cõi dữ, ác thú, đọa xứ. Ta là bậc Dự lưu, không
còn phải thối đọa, quyết chắc đạt được Chánh giác".
Thấy sợ hãi địa ngục,
Hãy tránh xa điều ác,
Khéo chấp nhận Chánh pháp,
Bậc Hiền trí tránh xa,
Không hại các chúng sanh,
Những vật có nỗ lực,
Biết không có nói láo,
Không lấy của không cho,
Tự bằng lòng vợ mình,
Tránh xa vợ người khác,
Người biết không uống rượu,
Khiến tâm trí mê loạn,
Hãy tùy niệm đến Phật,
Hãy tùy niệm đến Pháp,
Hãy tu tâm không sân,
Hãy tu tâm nhiêu ích,
Ðể xứng đáng được sanh,
Cảnh giới các chư Thiên,
Cầu công đức lợi ích,
Hãy cung cấp vật thí,
Trước thí bậc Chí thiện,
Mới mong có quả lớn,
Này Sàriputta,
Ta sẽ nói cho Thầy,
Các bậc Chí thiện ấy,
Thầy hãy lắng nghe ta,
Như trong một đàn bò,
Có con đen, trắng, đỏ,
Màu hung hay có đốm,
Có con màu bồ câu,
Dầu con bò màu gì,
Kiếm được con bò thuần,
Con vật kéo sức mạnh,
Ðẹp, lanh và hăng hái,
Mặc kệ nó màu gì,
Liền mắc vào gánh nặng,
Cũng vậy, giữa loài Người,
Dầu có sinh chỗ nào,
Hoàng tộc, Bà-la-môn,
Thương gia hay nô bộc,
Kẻ không có giai cấp,
Hay hạ cấp đổ phân,
Giữa những người như vậy,
Ai điều phục, thuần thục,
Ngay thẳng, đủ giới đức,
Nói thực, biết tàm quý,
Sanh tử đã đoạn tận,
Phạm hạnh được vẹn toàn,
Gánh nặng đã hạ xuống,
Không còn bị trói buộc,
Việc cần làm đã làm,
Không còn bị lậu hoặc,
Ðã đến bờ bên kia,
Không chấp trước tịch tịnh,
Phước điền ấy vô cấu,
Quả lớn đáng cúng dường.
Những kẻ ngu không biết,
Thiếu trí, ít nghe nhiều,
Chỉ bố thí bên ngoài,
Không đến gần kẻ thiện,
Những ai gần kẻ thiện,
Có tuệ, tôn bậc Hiền,
Họ tin bậc Thiện Thệ,
An trú tận gốc rễ,
Sanh Thiên hay ở đây,
Ðược sanh gia đình tốt,
Bậc trí tuần tự tiến,
Chứng được cảnh Niết-bàn.
(X) (180) Gavesì, Người Tầm Cầu
1. Một thời, Thế Tôn đang đi du hành
giữa dân chúng Kosala cùng với đại chúng Tỷ-kheo. Trong khi đang đi
trên đường, Thế Tôn thấy một chỗ có khóm rừng cây sàla to lớn; thấy vậy,
Ngài bước xuống đường, đi đến khóm rừng cây sàla ấy, đi sâu vào rừng
sàla ấy, và tại một địa điểm, Ngài mỉm cười. Rồi Tôn giả Ananda suy
nghĩ: "Do nhân gì, do duyên gì, Thế Tôn tỏ lộ mỉm cười? Không phải không
có duyên cớ, các Như Lai tỏ lộ mỉm cười". Rồi Tôn giả Ananda bạch Thế
Tôn:
- Bạch Thế Tôn, do nhân gì, do duyên gì, Thế Tôn tỏ lộ mỉm cười?
Không phải không có duyên cớ, các Như Lai tỏ lộ mỉm cười.
2. - Thuở xưa, này Ananda, tại địa
điểm này, có một thành phố phồn thịnh, giàu có và dân cư đông đúc. Tại
thành phố ấy, này Ananda, Thế Tôn Kassapa, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác
ở gần đây. Này Ananda, Gavesì là một nam cư sĩ của Thế Tôn Kassapa, bậc
A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, nhưng giữ giới không được viên mãn. Rồi này
Ananda, có khoảng 500 nam cư sĩ được cư sĩ Gavesì thuyết pháp và khích
lệ, các người này giữ giới luật không được viên mãn. Rồi này Ananda, nam
cư sĩ Gavesì suy nghĩ như sau: "Ta giúp đỡ rất nhiều 500 vị nam cư sĩ
này. Ta đi trước, ta khích lệ họ, nhưng ta giữ giới luật không được viên
mãn. Như vậy là đồng đẳng giống nhau, không có gì trội hơn, nhiều hơn.
Vậy ta hãy làm cái gì trội hơn, nhiều hơn". Rồi này Ananda, nam cư sĩ
Gavesì đi đến 500 nam cư sĩ
ấy; sau khi đến, nói với 500 nam cư sĩ ấy như sau: "Này các Tôn giả, bắt
đầu từ hôm nay, ta sẽ thọ trì viên mãn trong các giới luật ".
Rồi này Ananda, 500 nam cư sĩ ấy suy nghĩ như sau: "Tôn giả Gavesì đã
giúp đỡ chúng ta rất nhiều, đã đi trước, đã khích lệ chúng ta. Tôn giả
Gavesì sẽ gìn giữ viên mãn trong các giới luật. Tại sao chúng ta lại
không như vậy?". Rồi này Ananda, 500 nam cư sĩ ấy đi đến nam cư sĩ
Gavesì; sau khi đến, nói với nam cư sĩ Gàvesi: "Bắt đầu tư hôm nay, thưa
Tôn giả Gavesì, chúng tôi sẽ thọ trì viên mãn trong các giới luật".
Rồi này Ananda, nam cư sĩ Gavesì suy nghĩ như sau: "Ta giúp đỡ rất
nhiều cho 500 nam cư sĩ này, ta đi trước, ta khích lệ họ. Và năm trăm
nam cư sĩ này gìn giữ viên mãn trong các giới luật, như vậy là đồng đẳng
giống nhau, không có gì trội hơn, nhiều hơn. Vậy ta hãy làm cái gì trội
hơn, nhiều hơn". Rồi này Ananda, nam cư sĩ Gavesì đi đến 500 nam cư sĩ
ấy; sau khi đến, nói với 500 vị nam cư sĩ ấy như sau: "Bắt đầu từ ngày
hôm nay, này các Tôn giả, ta sẽ thọ trì Phạm hạnh, sống viễn ly, từ bỏ
dâm dục hạ liệt".
Rồi này Ananda, 500 nam cư sĩ ấy suy nghĩ như sau: "Tôn giả Gavesì
giúp đỡ chúng ta rất nhiều, đã đi trước và khích lệ chúng ta. Và Tôn giả
Gavesì sẽ hành Phạm hạnh, sống viễn ly, từ bỏ dâm dục hạ liệt. Tại sao
chúng ta lại không như vậy?". Rồi này Ananda, 500 nam cư sĩ ấy đi đến
nam cư sĩ Gavesì; sau khi đến, nói với nam cư sĩ Gàvesi: "Bắt đầu tư hôm
nay, thưa Tôn giả Gavesì, chúng tôi sẽ thọ trì Phạm hạnh, sống viễn ly,
từ bỏ dâm dục hèn hạ".
Rồi nam cư sĩ Gavesì suy nghĩ như sau: "Ta giúp đỡ rất nhiều cho 500
nam cư sĩ này, ta đi trước, ta khích lệ họ. Ta giữ gìn viên mãn trong
các giới luật, 500 nam cư sĩ này giữ gìn viên mãn trong các giới luật.
Và ta hành Phạm hạnh, sống viễn ly, từ bỏ dâm dục hạ liệt. Và 500 nam cư
sĩ này hành Phạm hạnh, sống viễn ly, từ bỏ dâm dục hạ liệt. Như vậy là
đồng đẳng giống nhau, không có gì trội hơn, nhiều hơn. Vậy ta hãy làm
cái gì trội hơn, nhiều hơn". Rồi này Ananda, nam cư sĩ Gavesì đi đến 500
nam cư sĩ ấy; sau khi đến, nói với 500 vị nam cư sĩ ấy như sau: "Bắt
đầu từ ngày hôm nay, này các Tôn giả, ta sẽ ăn mỗi ngày một bữa, không
ăn ban đêm, từ bỏ ăn phi thời".
Rồi này Ananda, 500 nam cư sĩ ấy suy nghĩ như sau: "Tôn giả Gavesì
giúp đỡ chúng ta rất nhiều, đã đi trước và khích lệ chúng ta. Tôn giả
Gavesì sẽ ăn mỗi ngày một bữa, không ăn ban đêm, từ bỏ ăn phi thời. Tại
sao chúng ta lại không như vậy?". Rồi này Ananda, 500 nam cư sĩ ấy đi
đến nam cư sĩ Gavesì; sau khi đến, nói với nam cư sĩ Gàvesi: "Bắt đầu tư
hôm nay, thưa Tôn giả Gavesì, 500 nam cư sĩ này sẽ thọ trì ăn mỗi ngày
một bữa, không ăn ban đêm, từ bỏ ăn phi thời".
Rồi này Ananda, nam cư sĩ Gavesì suy nghĩ như sau: "Ta giúp đỡ cho
500 nam cư sĩ này rất nhiều. Ta đã đi trước và khích lệ họ. Nay ta giữ
gìn viên mãn trong các giới luật, 500 nam cư sĩ này giữ gìn viên mãn
trong các giới luật. Ta hành Phạm hạnh, sống viễn ly, từ bỏ dâm dục hèn
hạ, 500 nam cư sĩ này hành Phạm hạnh, sống viễn ly, từ bỏ dâm dục hèn
hạ. Ta ăn mỗi ngày một bữa, không ăn ban đêm, từ bỏ ăn phi thời. 500 nam
cư sĩ này cũng ăn mỗi ngày một bữa, không ăn ban đêm, từ bỏ ăn phi
thời. Như vậy là có sự đồng đẳng giống nhau, không có gì trội hơn, nhiều
hơn. Vậy ta hãy làm cái gì trội hơn, nhiều hơn". Rồi này Ananda, Tôn
giả Gavesì đi đến Thế Tôn Kassapa; bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, sau
khi đến, bạch với Thế Tôn Kassapa, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác:
- Bạch Thế Tôn, hãy cho con xuất gia với Thế Tôn, hãy cho con thọ đại
giới".
Rồi này Ananda, nam cư sĩ Gavesì được xuất gia với Thế Tôn Kassapa,
bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, được thọ đại giới. Ðược thọ đại giới
không bao lâu này Ananda, Tỷ-kheo Gavesì sống một mình, an tịnh, không
phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần và không bao lâu, vị này chứng được mục
đính tối cao mà các thiện nam tử xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không
gia đình hướng đến. Ðó là vô thượng cứu cánh Phạm hạnh, vị này ngay
trong hiện tại tự mình chứng ngộ với thắng trí, chứng đạt và an trú. Và
vị ấy xác chứng: "Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, các điều nên làm đã
làm, không còn trở lui trạng thái này nữa". Và này Ananda, 500 nam cư sĩ
ấy suy nghĩ như sau: "Tỷ-kheo Gavesì giúp đỡ chúng ta rất nhiều, đã đi
trước và khích lệ chúng ta. Nay Tôn giả Gavesì đã cạo bỏ râu tóc, đắp áo
cà-sa, sẽ xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Tại sao chúng
ta lại không như vậy?" Rồi này Ananda, 500 nam cư sĩ ấy đi đến Thế Tôn
Kassapa, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, sau khi đến, bạch Thế Tôn
Kassapa, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác:
- "Bạch Thế Tôn, hãy cho chúng con xuất gia với Thế Tôn, cho chúng
con thọ đại giới".
Và này Ananda, năm trăm nam cư sĩ ấy được xuất gia với Thế Tôn
Kassapa, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, được thọ đại giới. Rồi này
Ananda, Tỷ-kheo Gavesì suy nghĩ như sau: "Ta đã chứng minh được vô
thượng giải thoát này không khó khăn, chứng được không mệt nhọc, chứng
được không phí sức. Mong rằng 500 vị Tỷ-kheo ấy có thể chứng minh được
vô thượng giải thoát này không khó khăn, chứng được không mệt nhọc,
chứng được không phí sức". Rồi này Ananda, 500 vị Tỷ-kheo ấy sống an
tịnh, không phóng dật, nhiệt tâm tinh cần, không bao lâu, các vị ấy
chứng được mục đích tối cao mà các thiện nam tử xuất gia, từ bỏ gia
đình, sống không gia đình hướng đến. Ðó là vô thượng cứu cánh Phạm hạnh,
các vị ấy ngay trong hiện tại, tự mình chứng ngộ với thắng trí, chứng
đạt và an trú. Và các
vị ấy xác chứng: "Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, việc phải làm đã làm,
không còn trở lui trạng thái này nữa".
3. Như vậy, này Ananda, 500 vị
Tỷ-kheo ấy, do Gavesì cầm đầu, trong khi tinh tấn đạt đến những gì cao
hơn nữa, những gì tối thắng hơn nữa, đã chứng ngộ vô thượng giải thoát.
Do vậy, này Ananda, cần phải học tập như sau:
4. "Hãy tinh tấn để đạt đến những gì
cao hơn nữa, tối thắng hơn nữa, chúng ta sẽ chứng ngộ vô thượng giải
thoát".
Như vậy, này Ananda, các Thầy cần phải học tập.
XIX. Phẩm Rừng
(I) (181) Rừng
1.
- Có năm hạng người này sống ở rừng. Thế
nào là năm?
2. Hạng đần độn ngu si sống ở rừng;
hạng ác dục, ác tánh sống ở rừng; hạng kiêu mạn loạn tâm sống ở rừng;
hạng ở rừng vì được nghe Thế Tôn và các đệ tử Phật tán thán; hạng vì ít
dục, vì biết đủ, vì đoạn giảm, vì viễn ly, vì cầu thiện hành này sống ở
rừng;
Này các Tỷ-kheo, có năm hạng người này sống ở rừng.
3. Trong năm hạng người này sống ở
rừng, này các Tỷ-kheo, hạng sống ở rừng vì ít dục, vì biết đủ, vì đoạn
giảm, vì viễn ly, vì cầu thiện hành này sống ở rừng. Hạng người này
trong năm hạng người ấy là đệ nhất, là tối thắng, là thượng thủ, là tối
thượng, là tối diệu.
Ví như này các Tỷ-kheo, từ con bò có sữa, từ sữa có lạc, từ lạc có
sanh tô, từ sanh tô có thục tô, từ thục tô có đề hồ. Ðây được gọi là đệ
nhất. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, trong năm hạng người sống ở rừng, này
các Tỷ-kheo, hạng sống ở rừng vì ít dục, vì biết đủ, vì đoạn giảm, vì
viễn ly, vì cầu thiện hành này ăn từ bình bát. Hạng người này trong năm
hạng người ấy là đệ nhất, là tối thắng, là thượng thủ, là tối thượng, là
tối diệu.
(II - IX) (182 - 189) Các Hạng Người Khác
1. - Này các Tỷ-kheo, năm hạng người
mặc y nhặt từ đống rác này...
2. Này các Tỷ-kheo, năm hạng người
sống dưới gốc cây này...
3. Này các Tỷ-kheo, năm hạng người
sống ở nghĩa địa này...
4. Này các Tỷ-kheo, năm hạng người
sống ở ngoài trời này...
5. Này các Tỷ-kheo, năm hạng người
ngồi không chịu nằm này...
6. Này các Tỷ-kheo, năm hạng người
nằm bất cứ chỗ nào được mời này...
7. Này các Tỷ-kheo, năm hạng người
chỉ ngồi ăn một lần này...
8. Này các Tỷ-kheo, năm hạng người
theo hạnh ăn xong, sau không ăn nữa...
(X) (190) Ăn Từ Bình Bát.
1. - Này các Tỷ-kheo, có năm hạng
người ăn từ bình bát này. Thế nào là năm?
2. Hạng đần độn ngu si ăn từ bình
bát; hạng ác dục ác tánh ăn từ bình bát; hạng kiêu mạn loạn tâm ăn từ
bình bát; hạng ăn từ bình bát vì được nghe Thế Tôn và các đệ tử Phật tán
thán; hạng vì ít dục, vì biết đủ, vì đoạn giảm, vì viễn ly, vì cầu
thiện hành này ăn từ bình bát.
Này các Tỷ-kheo, có năm hạng người ăn từ bình bát này.
3. Trong năm hạng người này ăn từ
bình bát này, này các Tỷ-kheo, hạng ăn từ bình bát vì ít dục, vì biết
đủ, vì đoạn giảm, vì viễn ly, vì cầu thiện hành này ăn từ bình bát. Hạng
người này trong năm hạng người ấy là đệ nhất, là tối thắng, là thượng
thủ, là tối thượng, là tối diệu.
Ví như này các Tỷ-kheo, từ con bò có sữa, từ sữa có lạc, từ lạc có
sanh tô, từ sanh tô có thục tô, từ thục tô có đề hồ. Ðây được gọi là đệ
nhất. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, trong năm hạng người này ăn từ bình
bát, này các Tỷ-kheo, hạng ăn từ bình bát vì ít dục, vì biết đủ, vì đoạn
giảm, vì viễn ly, vì cầu thiện hành này ăn từ bình bát. Hạng người này
trong năm hạng người ấy là đệ nhất, là tối thắng, là thượng thủ, là tối
thượng, là tối diệu.
XX. Phẩm Bà-La-Môn
(I) (191) Ví Dụ Con Chó
1.
Có năm cựu Bà-la-môn pháp này, này các
Tỷ-kheo, nay được thấy giữa các con chó, không được thấy giữa các
Bà-la-môn. Thế nào là năm?
2. Thuở xưa, này các Tỷ-kheo, các
nam Bà-la-môn chỉ đi đến nữ Bà-la-môn, không đến phi nữ Bà-la-môn. Ngày
nay, này các Tỷ-kheo, các nam Bà-la-môn đi đến Bà-la-môn đi đến nữ
Bà-la-môn, cũng đi đến phi nữ Bà-la-môn. Ngày nay, này các Tỷ-kheo, các
con chó đực chỉ đi đến con chó cái, không đi đến không phải con chó cái.
Ðây là cựu Bà-la-môn pháp thứ nhất, này các Tỷ-kheo, nay chỉ được thấy
giữa các loài chó, không thấy được giữa các Bà-la-môn.
2. Thuở xưa, này các Tỷ-kheo, các
nam Bà-la-môn chỉ đi đến nữ Bà-la-môn trong thời có thể thụ thai, không
có đi trong thời kỳ không thể thụ thai. Ngày nay, này các Tỷ-kheo, các
nam Bà-la-môn đi đến nữ Bà-la-môn trong thời có thể thụ thai và cũng
trong thời không thể thụ thai. Ngày nay, này các Tỷ-kheo, các con chó
đực chỉ đi đến con chó cái trong thời có thể thụ thai, không đi đến
trong thời kỳ không thể thụ thai. Ðây là cựu Bà-la-môn pháp thứ hai, này
các Tỷ-kheo, nay chỉ được thấy giữa các loài chó, không thấy được giữa
các Bà-la-môn.
4. Thuở xưa, này các Tỷ-kheo, các
nam Bà-la-môn không mua, không bán nữ Bà-la-môn cọng trú trong tình
tương ái, tiếp tục trong sự thuận hòa. Ngày nay, này các Tỷ-kheo, các
nam Bà-la-môn mua và bán nữ Bà-la-môn, cọng trú trong tình tương ái,
tiếp tục trong sự thuận hòa. Ngày nay, này các Tỷ-kheo, các con chó đực
không mua, không bán con chó cái cọng trú trong tình tương ái, tiếp tục
trong sự thuận hòa. Ðây là cựu Bà-la-môn pháp thứ ba, này các Tỷ-kheo,
nay chỉ được thấy giữa các loài chó, không thấy được giữa các Bà-la-môn.
5. Thuở xưa, này các Tỷ-kheo, các
Bà-la-môn không cất chứa tài sản, ngũ cốc, bạc và vàng. Ngày nay, này
các Tỷ-kheo, các Bà-la-môn cất chứa tài sản, ngũ cốc, bạc và vàng. Ngày
nay, này các Tỷ-kheo, các loài chó không cất chứa tài sản, ngũ cốc, bạc
và vàng. Ðây là cựu Bà-la-môn pháp thứ tư, này các Tỷ-kheo, nay chỉ được
thấy giữa các loài chó, không được thấy giữa các Bà-la-môn.
6. Thuở xưa, này các Tỷ-kheo, các
Bà-la-môn vào buổi chiều tìm đồ ăn buổi chiều, vào buổi sáng tìm đồ ăn
buổi sáng. Ngày nay, này các Tỷ-kheo, các Bà-la-môn ăn cho đến no nê
thỏa bụng, rồi lấy các đồ ăn còn lại và mang đi. Ngày nay, này các
Tỷ-kheo, các con chó, vào buổi chiều tìm đồ ăn buổi chiều, vào buổi sáng
tìm đồ ăn buổi sáng. Ðây là cựu Bà-la-môn pháp thứ năm, này các
Tỷ-kheo, nay chỉ được thấy giữa các loài chó, không được thấy giữa các
Bà-la-môn.
Năm cựu Bà-la-môn pháp này, này các Tỷ-kheo, nay được thấy giữa các
loài chó, không được thấy giữa các Bà-la-môn.
(II)
(192) Ba-La-Môn Dona
1. Rồi Bà-la-môn Dona đi đến Thế
Tôn, sau khi đến, nói lên với Thế Tôn những lời chào đón hỏi thăm, sau
khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu, rồi ngồi xuống một
bên. Ngồi xuống một bên, Bà-la-môn Dona bạch Thế Tôn:
2. - Thưa Tôn giả Gotama, tôi có
nghe như sau: "Sa-môn Gotama không đảnh lễ, hay không đứng dậy, hay
không mời ghế các vị Bà-la-môn già yếu, tuổi lớn, trưởng lão, đời đã
được trải qua, đã đến đoạn cuối cuộc đời." Thưa Tôn giả Gotama, sự thể
là như vậy; Tôn giả Gotama không đảnh lễ, hay không đứng dậy, hay không
mời ghế các vị Bà-la-môn già yếu, tuổi lớn, trưởng lão, đời đã được trải
qua, đã đến đoạn cuối cuộc đời. Như vậy, thưa Tôn giả Gotama, thật là
không tốt đẹp.
- Này Dona, Ông có tự cho mình là Bà-la-môn không?
- Thưa Tôn giả Gotama, nếu có ai nói một cách chân chánh, vị ấy phải
nói rằng: "Vị Bà-la-môn thiện sanh cả từ mẫu hệ và phụ hệ, huyết thống
thanh tịnh cho đến bảy đời tổ phụ, không một vết nhơ nào, một dèm pha
nào về vấn đề huyết thống thọ sanh; là nhà phúng tụng, nhà trì chú,
thông hiểu ba tập Vedà với danh nghĩa, lễ nghi, ngữ nguyên, chú giải và
lịch sử truyền thống là thứ năm, thông hiểu ngử pháp và văn phạm, biện
tài về thuận thế (tự nhiên học) và tướng của vị Ðại nhân". Thưa Tôn giả
Gotama, nói về tôi, nói một cách chơn chánh là nói như vầy. Thưa Tôn giả
Gotama, tôi là Bà-la-môn, thiện sanh cả từ mẫu hệ đến phụ hệ, huyết
thống thanh tịnh cho đến bảy đời tổ phụ, không một vết nhơ nào, một dèm
pha nào về vấn đề huyết thống thọ sanh; là nhà phúng tụng, nhà trì chú,
thông hiểu ba tập Vedà với danh nghĩa, lễ nghi, ngữ nguyên, chú giải và
lịch sử truyền thống là thứ năm, thông hiểu ngữ pháp và văn phạm, biện
tài về thuận thế và tướng của vị Ðại nhân.
- Này Dona, có phải các vị Bà-la-môn thời xưa, những vị ẩn sĩ giữa
các Bà-la-môn, những tác giả các chú thuật, những nhà tụng tán các chú
thuật đã hát, đã nói lên, đã sưu tầm những Thánh cú mà nay những
Bà-la-môn hiện tại cũng hát lên, nói lên, đọc lên giống như các vị tước
đã làm? Những vị ẩn sĩ ấy tên là Atthaka, Vàmaka, Vàmadeva, Vessàmitta,
Yamadaggi, Angìrasa, Bharadvàja, Vàsettha, Kassapa, Bhagu. Những vị ấy
tuyên bố có năm hạng Bà-la-môn này: "Ðồng đẳng với Phạm thiên, đồng đẳng
với chư Thiên, các vị biết giới hạn, các vị vượt lên giới hạn và thứ
năm là Bà-la-môn bị vứt bỏ". Này Dona, Ông là ai giữa các vị ấy?
- Thưa Tôn giả Gotama, chúng tôi không biết năm vị Bà-la-môn này.
Nhưng chúng tôi biết chúng tôi là Bà-la-môn. Lành thay, nếu Tôn giả
Gotama thuyết pháp cho tôi để tôi biết được năm vị Bà-la-môn này.
- Vậy này Bà-la-môn, hãy nghe và khéo tác ý, ta sẽ nói.
- Thưa vâng, Tôn giả.
Bà-la-môn Dona vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau:
3. - Thế nào, này Dona, là Bà-la-môn
đồng đẳng với Phạm Thiên?
Ở đây, này Dona, vị Bà-la-môn thiện sanh cả từ mẫu hệ đến phụ hệ,
huyết thống thanh tịnh cho đến bảy đời tổ phụ, không một vết nhơ nào,
một dèm pha nào về vấn đề huyết thống thọ sanh. Vị ấy trong 48 năm sống
Phạm hạnh đồng trinh, học tập chân ngôn (chú thuật). Sau khi sống 48 năm
Phạm hạnh đồng trinh, sau khi học tập chân ngôn, vị ấy tìm kiếm tài sản
Ðạo Sư cho bậc Ðạo Sư một cách đúng pháp, không phải phi pháp. Ở đây,
này Dona, pháp là gì? Không phải nhờ cày bừa, không phải nhờ buôn bán,
không phải nhờ chăn bò, không phải do cung tên, không phải do làm người
của vua, không phải do một nghề gì khác, hoàn toàn chỉ do khất thực,
không khinh thường bình bát của người khất sĩ. Sau khi giao lại tài sản
Ðạo sư,cho bậc Ðạo sư, sau khi cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà sà, vị ấy
xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Vị ấy xuất gia như vậy,
biến mãn một phương với tâm câu hữu với từ, cũng vậy, phương thứ hai,
cũng vậy, cũng vậy phương thứ ba, cũng vậy phương thứ tư. Như vậy cùng
khắp thế giới, trên, dưới, bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp vô
biên giới, vị ấy an trú biến mãn với tâm câu hữu với từ, quảng đại, vô
biên, không hận, không sân. Với tâm câu hữu với bi... với hỷ... với xả.
Cũng vậy phương thứ hai, cũng vậy phương thứ ba, cũng vậy phương thứ tư.
Như vậy cùng khắp thế giới, trên, dưới, bề ngang, hết thảy phương xứ,
cùng khắp vô biên giới, vị ấy an trú biến mãn với tâm câu hữu với xã,
quảng đại, vô biên, không hận, không sân. Vị ấy, sau khi tụ tập bốn phạm
trú này, khi thân hoại mạng chung, được sanh thiện phú Phạm thiên
giới. Như vậy, này Dona, là vị Bà-la-môn đồng đẳng với Phạm Thiên.
4. Và này Dona, thế nào là Bà-la-môn
đồng đẳng với Chư Thiên?
Ở đây, này Dona, Bà-la-môn thiện sanh cả tử mẫu hệ và phụ hệ, huyết
thống thanh tịnh cho đến bảy đời tổ phụ, không một vết nhơ nào, một gièm
pha nào về vấn đề huyết thống thọ sanh. Vị ấy trong 48 năm sống Phạm
hạnh đồng trinh, học tập châm ngôn. Sau khi sống 48 năm Phạm hạnh đồng
trinh, sau khi học tập chân ngôn, vị ấy tìm kiếm tài sản Ðạo Sư cho vị
Ðạo Sư một cách đúng pháp, không phải phi pháp. Ở đây, này Dona, pháp là
gì? Không phải nhờ cày bừa, không phải nhờ buôn bán, không phải nhờ
chăn bò, không phải do cung tên, không phải do làm người của vua, không
phải do một nghề gì khác, hoàn toàn chỉ do khất thực, không khinh thường
bình bát của người khất sĩ. Sau khi giao lại tài sản Ðạo sư cho bậc Ðạo
sư, vị ấy đi tìm vợ một cách đúng pháp, không phải phi pháp. Và này
Dona, ở đây, pháp là gì? Không phải do mua, không phải do bán, nhưng chỉ
với một nữ Bà-la-môn đã được nước tưới lên, vị ấy đi đến nữ Bà-la-môn,
không đi đến nữ Sát-đế-lỵ, nữ Tỳ-xá, nữ Thủ-đà, nữ Chiên-đà-la, nữ săn
bắn, nữ đan tre, nữ làm xe, nữ thổ dân, không đi đến người đàn bà có
mang, không đi đến người đàn bà cho con bú, không đi đến người đàn bà
trong thời kỳ không thể thụ thai. Và này Dona, vì sao người Bà-la-môn
không đi đến người đàn bà có mang? Này Dona, nếu người Bà-la-môn đi đến
người đàn bà có mang, thời đứa đồng nam hay đồng nữ được sanh hoàn toàn
bị ô uế; do vậy, này Dona, vị Bà-la-môn không đi đến người đàn bà có
mang. Và vì sao, này Dona, Bà-la-môn không đi đến người đàn bà cho con
bú? Này Dona, nếu Bà-la-môn đi đến người đàn bà cho con bú, thời này
Dona, đứa đồng nam hay đồng nữ bú sữa không được thanh tịnh; do vậy, này
Dona, vị Bà-la-môn không đi đến người đàn bà cho con bú. Và vì sao, này
Dona, Bà-la-môn không đi đến người đàn bà trong thời kỳ không thể thụ
thai? Này Dona, nếu vị Bà-la-môn đi đến người đàn bà trong thời không
thể thụ thai, thời nữ Bà-la-môn ấy trở thành một phương tiện để thỏa
lòng dục, để vui đùa, để thỏa thích. Nữ Bà-la-môn đối với nam Bà-la-môn
chỉ có mục đích đẻ con. Vị ấy từ dâm dục (đúng pháp) sinh con rồi, liền
cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia
đình. Vị ấy xuất gia như vậy, ly dục, ly pháp bất thiện... chứng đạt và
an trú Thiền thứ tư. Vị ấy, sau khi tu tập bốn Thiền, sau khi thân hoại
mạng chung, được sanh lên cõi lành, Thiên giới, cõi đời này. Như
vậy, này Dona, là Bà-la-môn đồng đẳng với chư Thiên.
5. Và thế nào, này Dona, là một
Bà-la-môn có giới hạn?
Ở đây, này Dona, Bà-la-môn thiện sanh cả từ mẫu hệ và phụ hệ, huyết
thống thanh tịnh cho đến bảy đời tổ phụ, không một vết nhơ nào, một gièm
pha nào về vấn đề huyết thống thọ sanh. Vị ấy trong 48 năm sống Phạm
hạnh đồng trinh, học tập chân ngôn. Sau khi sống 48 năm Phạm hạnh đồng
trinh, sau khi học tập chân ngôn, vị ấy tìm kiếm tài sản Ðạo Sư cho vị
Ðạo Sư một cách đúng pháp, không phải phi pháp. Ở đây, này Dona, pháp là
gì? Không phải nhờ cày bừa, không phải nhờ buôn bán, không phải nhờ
chăn bò, không phải do cung tên, không phải do làm người của vua, không
phải do một nghề gì khác, hoàn toàn chỉ do khất thực, không khinh thường
bình bát của người khất sĩ. Sau khi giao lại tài sản Ðạo sư cho bậc Ðạo
sư, vị ấy đi tìm vợ một cách đúng pháp, không phải phi pháp. Và này
Dona, ở đây, pháp là gì? Không phải do mua, không phải do bán, nhưng chỉ
với một nữ Bà-la-môn đã được nước tưới lên, vị ấy đi đến nữ Bà-la-môn,
không đi đến nữ Sát-đế-lỵ, nữ Tỳ-xá, nữ Thủ-đà, nữ Chiên-đà-la, nữ săn
bắn, nữ đan tre, nữ làm xe, nữ thổ dân, không đi đến người đàn bà có
mang, không đi đến người đàn bà cho con bú, không đi đến người đàn bà
trong thời kỳ không thể thụ thai. Và này Dona, vì sao người Bà-la-môn
không đi đến người đàn bà có mang? Này Dona, nếu vị Bà-la-môn đi đến
người đàn bà có mang...(như trên)...Nữ Bà-la-môn đối với nam Bà-la-môn
chỉ có mục đích đẻ con. Vị ấy từ dâm dục (đúng pháp) sinh con rồi, do ưa
thích con nít, sống trong gia đình, không xuất gia từ bỏ gia đình, sống
không gia đình. Cho đến sự giới hạn của các Bà-la-môn thời xưa, vị ấy
đứng tại đấy, không vượt qua giới hạn ấy. Cho đến giới hạn của các
Bà-la-môn thời xưa, vị ấy đứng ở đấy, không vượt qua giới hạn ấy. Này
Dona, do vậy Bà-la-môn được gọi là có giới hạn. Như vậy, này Dona, là
Bà-la-môn có giới hạn.
6. Và này Dona, thế nào là một
Bà-la-môn vượt qua giới hạn?
Ở đây, này Dona, Bà-la-môn thiện sanh cả từ mẫu hệ và phụ hệ... về
vấn đề huyết thống thọ sanh. Vị ấy trong 48 năm sống Phạm hạnh đồng
trinh, học tập chân ngôn. Sau khi sống 48 năm Phạm hạnh đồng trinh, sau
khi học tập chân ngôn, vị ấy tìm kiếm tài sản Ðạo Sư cho vị Ðạo Sư một
cách đúng pháp, không phải phi pháp. Ở đây, này Dona, pháp là gì? Không
phải nhờ cày bừa, không phải nhờ buôn bán, không phải nhờ chăn bò, không
phải do cung tên, không phải do làm người của vua, không phải do một
nghề gì khác, hoàn toàn chỉ do khất thực, không khinh thường bình bát
của người khất sĩ. Sau khi giao lại tài sản Ðạo sư cho bậc Ðạo sư, vị ấy
đi tìm vợ một cách đúng pháp và phi pháp. Do mua, do bán với nữ
Bà-la-môn được nước tưới lên, vị ấy đi đến nữ Bà-la-môn, cũng đi đến nữ
Sát-đế-lỵ, cũng đi đến nữ Tỳ-xá, cũng đi đến nữ Thủ-đà, cũng đi đến nữ
Chiên-đà-la, cũng đi đến nữ săn bắn, cũng đi đến nữ đan tre, cũng đi đến
nữ làm xe, cũng đi đến nữ thổ dân, cũng đi đến người đàn bà có mang,
cũng đi đến người đàn bà đang cho con bú, cũng đi đến người đàn bà trong
thời kỳ không thể thụ thai. Nữ Bà-la-môn đối với vị ấy là phương tiện
để thỏa lòng dục, để vui đùa, để thỏa thích. Nữ Bà-la-môn đối với nam
Bà-la-môn có mục đích đẻ con. Cho đến sự giới hạn của các Bà-la-môn thời
xưa, vị ấy không đứng tại đấy, vị ấy vượt qua giới hạn ấy. Cho đến giới
hạn của các Bà-la-môn thời xưa, vị ấy không đứng ở đấy, vị ấy vượt qua
giới hạn ấy. Này Dona, do vậy Bà-la-môn được gọi vị đã vượt qua giới
hạn. Như vậy, này Dona, là Bà-la-môn vượt qua giới hạn.
7. Và này Dona, thế nào là Bà-la-môn
Chiên-đà-la?
Ở đây, này Dona, Bà-la-môn thiện sanh cả từ mẫu hệ và phụ hệ, huyết
thống thanh tịnh cho đến bảy đời tổ phụ, không một vết nhơ nào, một gièm
pha nào về vấn đề huyết thống thọ sanh. Vị ấy trong 48 năm sống Phạm
hạnh đồng trinh, học tập chân ngôn. Sau khi sống 48 năm Phạm hạnh đồng
trinh, sau khi học tập chân ngôn, vị ấy tìm kiếm tài sản Ðạo Sư cho vị
Ðạo Sư một cách đúng pháp và phi pháp. Ở đây, này Dona, pháp là gì?
Không phải nhờ cày bừa, không phải nhờ buôn bán, không phải nhờ chăn bò,
không phải do cung tên, không phải do làm người của vua, không phải do
một nghề gì khác, hoàn toàn chỉ do khất thực, không khinh thường bình
bát của người khất sĩ. Sau khi giao lại tài sản Ðạo sư cho bậc Ðạo sư,
vị ấy đi tìm vợ một cách đúng pháp và phi pháp. Do mua, do bán với nữ
Bà-la-môn được nước tưới lên, vị ấy đi đến nữ Bà-la-môn, cũng đi đến nữ
Sát-đế-lỵ, cũng đi đến nữ Tỳ-xá, cũng đi đến nữ Thủ-đà, cũng đi đến nữ
Chiên-đà-la, cũng đi đến nữ săn bắn, cũng đi đến nữ đan tre, cũng đi đến
nữ làm xe, cũng đi đến nữ thổ dân, cũng đi đến người đàn bà có mang,
cũng đi đến người đàn bà đang cho con bú, cũng đi đến người đàn bà trong
thời kỳ không thể thụ thai. Nữ Bà-la-môn đối với vị ấy là phương tiện
để thỏa lòng dục, để vui đùa, để thỏa thích. Nữ Bà-la-môn đối với nam
Bà-la-môn có mục đích đẻ con. Vị ấy để nuôi mạng sống, làm tất nghề. Rồi
các Bà-la-môn nói với vị ấy như sau: "Sao Tôn giả tự cho mình là
Bà-la-môn, lại làm tất cả nghề để nuôi mạng sống?" Vị ấy trả lời như
sau: "Như lửa đốt vật sạch, cũng đốt vật nhớp, nhưng không phải vì vậy
mà
ngọn lửa bị uế nhiễm". Cũng vậy, này các Tôn giả, nếu Bà-la-môn làm tất
cả nghề để nuôi mạng sống, nhưng không phải vì vậy mà Bà-la-môn bị uế
nhiễm. Vì làm tất cả nghề để nuôi mạng sống, này Dona, nên Bà-la-môn
được gọi là Bà-la-môn Chiên-đà-la. Như vậy, này Dona, là Bà-la-môn
Chiên-đà-la.
8. Này Dona, có phải các Bà-la-môn
thời xưa, những vị ẩn sĩ giữa các Bà-la-môn, những tác giả các chú
thuật, những nhà tụng tán các chú thuật đã hát, đã nói lên, đã sưu tầm
những Thánh cú mà nay, những Bà-la-môn hiện tại cũng hát lên, đọc lên
giống như các vị trước đã làm. Những vị ấy tên là Atthaka, Vàmaka,
Vàmadeva, Vessàmitta, Yamadaggi, Angìrasa, Bhàradvàja, Vàsettha,
Kassapa, Bhagu. Những vị ấy tuyên bố có năm hạng Bà-la-môn này: "Vị đồng
đẳng với Phạm thiên, vị đồng đẳng với chư Thiên, các vị có giới hạn,
các vị vượt lên giới hạn và thứ năm là Bà-la-môn Chiên-đà-la". Này Dona,
Ông là ai giữa các vị ấy?
- Như vậy, thưa Tôn giả Gotama, chúng con chưa thành tựu đầy đủ
Bà-la-môn Chiên-đà-la. Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama! Thật hy hữu
thay, Tôn giả Gotama!... Mong Tôn giả Gotama nhận con làm đệ tử cư sĩ.
Từ nay cho đến mạng chung con trọn đời quy ngưỡng.
(III)
(193) Bà-La-Môn Sangarava
1. Rồi Bà-la-môn Sangàrava đi đến
Thế Tôn, sau khi đến, nói với Thế Tôn những lời chào đón hỏi thăm, sau
khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu, liền ngồi xuống một
bên. Ngồi xuống một bên, Bà-la-môn Sangàrava thưa với Thế Tôn:
2. - Do nhân gì, do duyên gì, thưa
Tôn giả Gotama, có khi các chú thuật học thuộc lòng lâu ngày (đọc tụng)
lại không thể nhớ lên được, còn nói gì các chú thuật không được học
thuộc lòng? Do nhân gì, do duyên gì, thưa Tôn giả Gotama, có khi các chú
thuật không học thuộc lòng lâu ngày (đọc tụng) lại nhớ lên được, còn
nói gì các chú thuật đã được học thuộc lòng!
3. - Này Bà-la-môn, khi trú với tâm
bị dục tham xâm chiếm, bị dục tham chi phối, và không như thật biết rõ
sự xuất ly khỏi dục tham đã khởi lên; trong khi ấy, người ấy không như
thật biết và thấy lợi ích của mình, trong khi ấy, người ấy không như
thật biết và thấy lợi ích của người; trong khi ấy, không như thật biết
và thấy lợi ích cả hai, cho nên các chú thuật được học thuộc lòng lâu
ngày lại không thể nhớ lên được, còn nói gì các chú thuật không được học
thuộc lòng!
Ví như, này Bà-la-môn, một bát nước trộn lẫn với thuốc nhuộm gôm lặc,
hay màu đỏ tía, hay màu xanh hay màu vàng và ở đây, một người có mắt
muốn ngắm nghía bóng mặt của mình, không có thể như thật biết được, thấy
được. Cũng vậy, này Bà-la-môn, trong khi trú với tâm bị dục tham xâm
chiếm, bị dục tham chi phối, không như thật rõ biết sự xuất ly khỏi dục
tham đã khởi lên; trong khi ấy, người ấy không như thật biết và thấy lợi
ích của mình; trong khi ấy, không như thật biết và thấy lợi ích của
người; trong khi ấy, không như thật biết và thấy được lợi ích của cả
hai, cho nên các chú thuật được học thuộc lòng lâu ngày lại không nhớ
lên được, còn nói gì các chú thuật không được học thuộc lòng!
4. Lại nữa, này Bà-la-môn, khi trú
với tâm bị sân xâm chiếm, bị sân chi phối, không như thật biết sự xuất
ly khỏi sân đã khởi lên; trong khi ấy, người ấy không như thật biết và
thấy lợi ích của mình; trong khi ấy, không như thật biết và thấy lợi ích
của người; trong khi ấy, không như thật biết và thấy được lợi ích của
cả hai, cho nên các chú thuật được học thuộc lòng lâu ngày lại không thể
nhớ lên được, còn nói gì các chú thuật không được học thuộc lòng!
Ví như, này Bà-la-môn, một bát nước được lửa đun sôi, sôi lên sùng
sục, sôi lên cuồn cuộn. Ở đây, một người có mắt muốn ngắm nghía bóng mặt
của mình, không thể như thật biết và thấy được. Cũng vậy, này
Bà-la-môn, trong khi trú với tâm bị sân xâm chiếm...cho nên các chú
thuật được học thuộc lòng lâu ngày lại không nhớ lên được, còn nói gì
các chú thuật không được học thuộc lòng!
5. Lại nữa, này Bà-la-môn, khi trú
với tâm bị hôn trầm thụy miên xâm chiếm, bị hôn trầm thụy miên chi phối,
không như thật biết sự xuất ly khỏi hôn trầm thụy miên, đã khởi lên;
trong khi ấy, người ấy không như thật biết và thấy lợi ích của mình;
trong khi ấy, không như thật biết và thấy lợi ích của người; trong khi
ấy, không như thật biết và thấy được lợi ích của cả hai, cho nên các chú
thuật được học thuộc lòng lâu ngày lại không thể nhớ lên được, còn nói
gì các chú thuật không được học thuộc lòng!
Ví như, này Bà-la-môn, một bát nước bị rong rêu che phủ. Ở đây, một
người có mắt muốn ngắm nghía khuôn mặt của mình, không thể như thật biết
và thấy được. Cũng vậy, này Bà-la-môn, trong khi trú với tâm bị hôn
trầm thụy miên xâm chiếm... còn nói gì các chú thuật không được học
thuộc lòng!
6. Lại nữa, này Bà-la-môn, khi trú
với tâm bị trạo hối xâm chiếm, bị trạo hối chi phối, không như thật biết
sự xuất ly khỏi trạo hối đã khởi lên; trong khi ấy, người ấy không như
thật biết và thấy lợi ích của mình; trong khi ấy, không như thật biết và
thấy lợi ích của người; trong khi ấy, không như thật biết và thấy được
lợi ích của cả hai, cho nên các chú thuật được học thuộc lòng lâu ngày
lại không thể nhớ lên được, còn nói gì các chú thuật không được học
thuộc lòng!
Ví như, này Bà-la-môn, một bát nước bị gió thổi, dao động, chấn động,
nổi sóng. Ở đây, một người có mắt muốn ngắm nghía khuôn mặt của mình,
không thể như thật biết được và thấy được. Cũng vậy, này Bà-la-môn,
trong khi trú với tâm bị trạo hối xâm chiếm... còn nói gì các chú thuật
không được học thuộc lòng!
7. Lại nữa, này Bà-la-môn, khi trú
với tâm bị nghi hoặc xâm chiếm, bị nghi hoặc chi phối, không như thật
biết sự xuất ly ra khỏi nghi hoặc đã khởi lên; trong khi ấy, người ấy
không như thật biết và thấy lợi ích của mình; trong khi ấy, không như
thật biết và thấy lợi ích của người; trong khi ấy, không như thật biết
và thấy được lợi ích của cả hai, cho nên các chú thuật được học thuộc
lòng lâu ngày lại không thể nhớ lên được, còn nói gì các chú thuật không
được học thuộc lòng!
Ví như, này Bà-la-môn, một bát nước bị khuấy động, khuấy đục, khuấy
bùn, đặt trong bóng tối. Ở đây, một người có mắt muốn ngắm nghía khuôn
mặt của mình, không thể như thật biết được và thấy được. Cũng vậy, này
Bà-la-môn, trong khi trú với tâm bị nghi hoặc xâm chiếm, bị nghi hoặc
chi phối... còn nói gì các chú thuật không được học thuộc lòng!
8. Lại nữa, này Bà-la-môn, khi trú
với tâm không bị dục tham xâm chiếm, không bị dục tham chi phối, lại như
thật rõ biết sự xuất ly của các dục tham đã khởi lên; trong khi ấy, như
thật biết và thấy lợi ích của mình; trong khi ấy, như thật biết và thấy
lợi ích của người; trong khi ấy, như thật biết và thấy được lợi ích của
cả hai, cho nên các chú thuật không được học thuộc lòng lâu ngày được
nhớ lên, còn nói gì các chú thuật đã được học thuộc lòng!
Ví như, này Bà-la-môn, một bát nước không trộn lẫn với thuốc nhuộm
hoặc gôm lặc, hay màu đỏ tía, hay màu xanh, hay màu vàng, và ở đây, một
người có mắt muốn ngắm nghía khuôn mặt của mình, có thể như thật biết
được và thấy được. Cũng vậy, này Bà-la-môn, trong khi trú với tâm không
bị dục tham xâm chiếm... còn nói gì các chú thuật đã được học thuộc
lòng!
9. Lại nữa, này Bà-la-môn, khi trú
với tâm không bị sân xâm chiếm... còn nói gì các chú thuật đã được học
thuộc lòng!
Ví như, này Bà-la-môn, một bát nước không bị lửa đun sôi, không sôi
lên sùng sục, không sôi lên cuồn cuộn. Ở đây, một người có mắt muốn ngắm
nghía khuôn mặt của mình, có thể như thật biết được và thấy được. Cũng
vậy, này Bà-la-môn, trong khi trú với tâm không bị sân xâm chiếm, không
bị sân chi phối... còn nói gì các chú thuật đã được học thuộc lòng!
10. Lại nữa, này Bà-la-môn, khi trú
với tâm không bị hôn trầm thụy miên xâm chiếm, không bị hôn trầm thụy
miên chi phối... còn nói gì các chú thuật đã được học thuộc lòng!
Ví như, này Bà-la-môn, một bát nước không bị rong rêu che phủ. Ở đây,
một người có mắt muốn ngắm nghía khuôn mặt của mình, có thể như thật
biết được và thấy được. Cũng vậy, này Bà-la-môn, trong khi trú với tâm
không bị hôn trầm thụy miên xâm chiếm, không bị hôn trầm thụy miên chi
phối... còn nói gì các chú thuật đã được học thuộc lòng!
11. Lại nữa, này Bà-la-môn, khi trú
với tâm không bị trạo hối xâm chiếm, không bị trạo hối chi phối... còn
nói gì các chú thuật đã được học thuộc lòng!
Ví như, này Bà-la-môn, một bát nước không bị gió thổi, không bị dao
động, không bị chấn động, không bị nổi sóng. Ở đây, một người có mắt
muốn ngắm nghía khuôn mặt của mình, có thể như thật biết được và thấy
được. Cũng vậy, này Bà-la-môn, trong khi trú với tâm không bị trạo hối
miên xâm chiếm, không bị trạo hối chi phối... còn nói gì các chú thuật
đã được học thuộc lòng!
12. Lại nữa, này Bà-la-môn, khi trú
với tâm không bị nghi hoặc xâm chiếm, không bị nghi hoặc chi phối... còn
nói gì các chú thuật không được học thuộc lòng!
Ví như, này Bà-la-môn, một bát nước thuần tịnh, trong sáng không bọ
khuấy động, đặt giữa ánh sáng. Ở đây, một người có mắt muốn ngắm bóng
mặt của mình, có thể như thật biết và thấy được. Cũng vậy, này
Bà-la-môn, trong khi trú với tâm không bị nghi hoặc xâm chiếm, không bị
nghi hoặc chi phối và như thật biết sự xuất ly ra khỏi nghi hoặc đã khởi
lên; trong khi ấy, như thật biết và thấy lợi ích của mình; trong khi ấy
như thật biết và thấy lợi ích của người; trong khi ấy, như thật biết và
thấy lợi ích cả hai. Cho nên các chú thuật không được học thuộc lòng
lâu ngày được nhớ lên, còn nói gì các chú thuật đã được học thuộc lòng!
Ðây là nhân, đây là duyên, này Bà-la-môn, có khi các chú thuật không
được học thuộc lòng lâu ngày, lại có thể nhớ lên được, còn nói gì các
chú thuật đã được học thuộc lòng!
13. Khi được nói vậy, Bà-la-môn
Sangàrava bạch Thế Tôn:
- Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn...từ này cho đến mạng chung, con
trọn đời quy ngưỡng.
(IV)
(194) Ba La Môn Kàranapàli
1. Một thời, Thế Tôn trú ở Vesàlì,
tại Mahàvana, chỗ giảng đường có nóc nhọn. Lúc bấy giờ, Bà-la-môn
Kàranapàli đang xây dựng nhà cho Licchavì. Bà-la-môn Kàranapàli thấy
Bà-la-môn Pingiyàni từ đường xa đi đến, sau khi thấy, liền nói với
Bà-la-môn Pingiyàni:
- Tôn giả Pingiyàni đi từ đâu đến sớm như vậy?
- Thưa Tôn giả, tôi đi từ chỗ Sa-môn Gotama về.
- Tôn giả Pingiyàni nghĩ thế nào về trí tuệ sáng suốt của Sa-môn
Gotama? Ngài có nghĩ vị ấy là một bậc Hiền trí chăng?
- Tôi là ai, thưa Tôn giả, lại có thể biết được trí tuệ sáng suốt của
Sa-môn Gotama. Chỉ có ai như vị ấy, mới có thể biết được trí tuệ sáng
suốt của Sa-môn Gotama.
Thật là cao thượng lời Tôn giả Pingiyàni tán thán Sa-môn Gotama. "Tôi
là ai, thưa Tôn giả, lại có thể nói lời tán thán Sa-môn Gotama". Ðược
tán thán bởi những bậc được tán thán là Tôn giả Gotama, bậc tối thắng
giữa chư Thiên và loài Người. Tôn giả Pingyiàni thấy những lợi ích gì
lại cực lực tin tưởng Sa-môn Gotama như vậy?
- Thưa Tôn giả, ví như một người đã thỏa mãn với vị ngọt tối thượng
sẽ không còn thèm muốn các vị ngọt hạ liệt khác. Cũng vậy, thưa Tôn giả,
khi đã nghe pháp của Tôn giả Gotama, như Khế kinh, Phúng tụng, Ký
thuyết, Vị tằng hữu pháp.., thời không còn thèm muốn các lý thuyết của
những người khác, của các Sa-môn, Bà-la-môn thấp kém. Ví như, thưa Tôn
giả, một người bị đói lả và mệt mỏi, tìm được một bánh mật, cứ mỗi miếng
vị ấy được nếm, cứ mỗi miếng vị ấy được thưởng thức vị ngọt thuần nhất.
Cũng vậy, thưa Tôn giả, khi đã được nghe pháp của Tôn giả Gotama, như
Khế kinh, Phúng tụng, Ký thuyết, Vị tằng hữu pháp...vị ấy được hoan hỷ,
tâm được tịnh tín. Ví như, thưa Tôn giả, một người tìm được một cành cây
chiên-đàn, chiên-đàn vàng hay chiên-đàn đỏ, chỗ nào người ấy ngửi
hoặc từ nơi rễ, hoặc từ nơi chặng giữa, hoặc từ nơi ngọn, người ấy được
hương thơm thuần diệu. Cũng vậy, thưa Tôn giả, khi đã được nghe pháp của
Tôn giả Gotama, như Khế kinh, Phúng tụng, Ký thuyết, Vị tằng hữu
pháp...thời vị ấy được thưởng thức hân hoan, được thưởng thức hoan hỷ.
Ví như, thưa Tôn giả, một người bị bệnh, khổ đau, bị trọng bệnh, rồi có
vị lương y lập tức chữa cho khỏi bệnh. Cũng vậy, thưa Tôn giả, khi đã
được nghe pháp của Tôn giả Gotama, như Khế kinh, Phúng tụng, Ký thuyết,
Vị tằng hữu pháp...khi ấy, sầu bi khổ ưu não đi đến tiêu diệt. Ví như,
thưa Tôn giả, một hồ sen, có nước trong, có nước ngọt, có nước mát, có
nước mát trong, có bờ hồ khéo sắp đặt, đẹp đẽ, rồi một người đi đến, bị
nóng nhiệt não, bị nóng bức bách, mệt mỏi, thèm uống nước, khát nước.
Người ấy, sau khi lặn xuống trong hồ sen ấy, sau khi tắm rửa, uống nước,
tất cả khổ cực mệt mỏi, nhiệt não đều được lắng dịu. Cũng vậy, thưa Tôn
giả, khi đã được nghe pháp của Tôn giả Gotama, như Khế kinh, Phúng
tụng, Ký thuyết, Vị tằng hữu pháp...khi ấy tất cả khổ cực, mệt mỏi,
nhiệt não đều được chỉ tức.
2. Khi được nói vậy, Bà-la-môn
Karanapàli từ chỗ ngồi đứng dậy, đắp thượng y qua một bên vai, đầu gối
bên phải quỳ trên mặt đất, chắp tay hướng đến Thế Tôn, và ba lần thốt
lên lời cảm hứng sau đây:
- Ðảnh lễ Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác! Ðảnh lễ Thế Tôn,
bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác! Ðảnh lễ Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng
Giác!
- Thật vi diệu thay, Tôn giả Pingiyàni! Thật vi diệu thay, Tôn giả
Pingiyàni! Thưa Tôn giả Pingiyàni, như người dựng đứng lại những gì bị
quăng ngã xuống, phơi bày ra những gì bị che kín, chỉ đường cho những kẻ
đi lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối để những ai có mắt có thể
thấy sắc. Cũng vậy, Chánh pháp đã được Thế Tôn dùng nhiều phương tiện
trình bày giải thích. Thưa Tôn giả Pingiyàni, con nay xin quy y Tôn giả
Gotama, quy y Pháp và chúng Tỷ-kheo. Tôn giả Pingyàni hãy chấp nhận con
làm đệ tử cư sĩ, từ nay cho đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng.
(V)
(195) Bà La Môn Pingiyani
1. Một thời, Thế Tôn trú ở Vesàlì,
tại Mahàvana, chỗ giảng đường có nóc nhọn, có khoảng 500 người Licchavi
hầu hạ Thế Tôn. Một số người Licchavi toàn xanh, màu sắc xanh, mặc vải
màu xanh, mang đồ trang sức màu xanh. Một số người Licchavi toàn vàng,
màu sắc vàng, mặc vải màu vàng, mang đồ trang sức màu vàng. Một số người
Licchavi toàn đỏ, màu sắc đỏ, mặc vải màu đỏ, mang đồ trang sức màu đỏ.
Một số người Licchavi toàn trắng, màu sắc trắng, mặc vải màu trắng,
mang đồ trang sức màu trắng. Nhưng thật sự Thế Tôn đã chói sáng với dung
sắc và sự huy hoàng. Rồi Bà-la-môn Pingiyàni từ chỗ ngồi đứng dậy, đắp
thượng y vào một bên vai, chắp tay hướng đến Thế Tôn và bạch Thế Tôn:
- Ðiều này được nói lên cho con, bạch Thế Tôn! Ðiều này được nói lên
cho con, bạch Thế Tôn!
-
Hãy nói lên, này Pingiyàni!
Thế Tôn nói như vậy. Rồi Bà-la-môn Pingiyàni trước mặt Thế Tôn, nói
lên bài kệ thích đáng:
Như loại hoa sen hồng,
Buổi sáng hương ngào ngạt,
Khi đóa hoa càng nở,
Hương thơm càng ngát hương.
Xem Angìrasa,
Chiếu hào quang sáng chói,
Chói sáng thật rực rỡ,
Như mặt trời trên không.
Rồi các người Licchavi ấy đem 500 thượng y dâng đắp cho Bà-la-môn
Pingiyàni. Và Bà-la-môn Pingiyàni đem 500 thượng y ấy dâng đắp cho Thế
Tôn. Thế Tôn nói với các vị ấy:
2. - Này các Licchavì, sự xuất hiện
của năm châu báu khó tìm được ở đời. Thế nào là năm?
3. Sự xuất hiện của Như Lai, bậc
A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác khó tìm được ở đời. Người thuyết được Pháp
Luật do Như Lai tuyên bố khó tìm được ở đời. Người hiểu được Pháp Luật
do Như Lai tuyên bố khó tìm được ở đời. Người thực hành pháp và tùy
pháp, sau khi đã hiểu rõ lời thuyết giảng về Pháp và Luật do Như Lai
tuyên thuyết, khó tìm được ở đời. Người biết ơn, nhớ ơn khó tìm được ở
đời.
Này các Licchavi, sự xuất hiện của năm loại châu báu này khó tìm được
ở đời.
(VI) (196) Mộng
1. - Trước khi Như Lai, bậc
A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác được giác ngộ, này các Tỷ-kheo, khi chưa chánh
đẳng giác, còn là Bồ-tát, có năm mộng lớn hiện ra. Thế nào là năm?
2. Này các Tỷ-kheo, trước khi Như
Lai, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác được giác ngộ, khi chưa chánh đẳng
giác, còn là Bồ-tát mộng thấy đất lớn này là giường lớn, Tuyết sơn, vua
các loài núi là các gối, tay trái đặt nằm trên biển phía Ðông, tay mặt
nằm trên biển phía Tây, hai chân nằm trên biển phía Nam. Trước khi Như
Lai, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác được giác ngộ, khi chưa chánh đẳng
giác, còn là Bồ-tát, mộng lớn thứ nhất này được hiện ra.
3. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, trước
khi Như Lai, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác được giác ngộ, khi chưa chánh
đẳng giác, còn là Bồ-tát mộng thấy từ nơi lỗ rún, cỏ tiriya mọc ra, mọc
cho đến khi chạm đến trời rồi mới dừng lại. Trước khi Như Lai, bậc
A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác được giác ngộ, khi chưa chánh đẳng giác, còn
là Bồ-tát, mộng lớn thứ hai này được hiện ra.
4. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, trước
khi Như Lai, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác được giác ngộ, khi chưa chánh
đẳng giác, còn là Bồ-tát mộng thấy các con sâu trắng, đầu đen, bò ra từ
chân cho đến đầu gối và che đậy chúng. Trước khi Như Lai, bậc A-la-hán,
Chánh Ðẳng Giác được giác ngộ, khi chưa chánh đẳng giác, còn là Bồ-tát,
mộng lớn thứ ba này được hiện ra.
5. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, trước
khi Như Lai, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác được giác ngộ, khi chưa chánh
đẳng giác, còn là Bồ-tát mộng thấy bốn con chim màu sắc khác nhau, từ
bốn phương bay đến, rơi xuống chân Ngài và trở thành trắng toát. Trước
khi Như Lai, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác được giác ngộ, khi chưa chánh
đẳng giác, còn là Bồ-tát, mộng lớn thứ tư này được hiện ra.
6. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, trước
khi Như Lai, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác được giác ngộ, khi chưa chánh
đẳng giác, còn là Bồ-tát mộng thấy Ngài đi kinh hành qua lại trên hòn
núi đầy phân, nhưng không bị nhớp vì phân. Trước khi Như Lai, bậc
A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác được giác ngộ, khi chưa chánh đẳng giác, còn
là Bồ-tát, mộng lớn thứ năm này được hiện ra.
7. Này các Tỷ-kheo, trước khi Như
Lai, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác được giác ngộ, khi chưa chánh đẳng
giác, còn là Bồ-tát mộng thấy quả đất lớn này làm giường nằm lớn, núi
Tuyết sơn, vua các loài núi làm các gối, tay trái đặt nằm trên biển phía
Ðông, tay mặt nằm trên biển phía Tây, hai chân đặt nằm trên biển phía
Nam. Này các Tỷ-kheo, đối với Như Lai, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác
Ngài chứng được Vô thượng Chánh giác ngộ, Chánh Ðẳng Giác. Trong khi
Ngài Chánh Ðẳng giác ngộ, mộng lớn thứ nhất này được hiện ra.
8. Này các Tỷ-kheo, trước khi Như
Lai, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác được giác ngộ, khi chưa chánh đẳng
giác, còn là Bồ-tát mộng thấy từ nơi lỗ rún, cỏ tiriya mọc ra, mọc cho
đến khi chạm đến trời rồi mới dừng lại. Này các Tỷ-kheo, đối với Như
Lai, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, Thánh đạo tám ngành được hoàn toàn
giác ngộ và khéo tuyên bố cho chư Thiên và loài Người. Trong khi Ngài
chánh giác ngộ, mộng lớn thứ hai này được hiện ra.
9. Này các Tỷ-kheo, trước khi Như
Lai, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác được giác ngộ, khi chưa chánh đẳng
giác, còn là Bồ-tát mộng thấy các con sâu trắng, đầu đen, bò ra từ chân
cho đến đầu gối và che đậy chúng. Này các Tỷ-kheo, nhiều gia chủ bận áo
trắng quy y Như Lai cho đến trọn đời. Trong khi Ngài chánh giác ngộ,
mộng lớn thứ ba này được hiện ra.
10. Này các Tỷ-kheo, trước khi Như
Lai, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác được giác ngộ, khi chưa chánh đẳng
giác, còn là Bồ-tát mộng thấy bốn con chim màu sắc khác nhau, từ bốn
phương bay đến, rơi xuống chân Ngài và trở thành trắng toát. Bốn giai
cấp này, này các Tỷ-kheo, Sát-đế-ly, Bà-la-môn, Tỳ-xá, Thủ-đà, sau khi
xuất gia, từ bỏ gia đình sống không gia đình trong Pháp và Luật do Như
Lai tuyên thuyết, các vị ấy chứng ngộ vô thượng giải thoát. Trong khi
Ngài chánh giác ngộ, mộng lớn thứ tư này được hiện ra.
11. Này các Tỷ-kheo, trước khi Như
Lai, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác được giác ngộ, khi chưa chánh đẳng
giác, còn là Bồ-tát mộng thấy Ngài đi kinh hành qua lại trên hòn núi đầy
phân, nhưng không bị nhớp vì phân. Này các Tỷ-kheo, Thế Tôn được các
vật dụng cần thiết như y, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh.
Và ở đây, Như Lai thọ hưởng không bị trói buộc không bị tham đắm, không
bị mê say, thấy sự nguy hại có trí tuệ và xuất ly. Trong khi Ngài chánh
giác ngộ, mộng lớn thứ năm này được hiện ra.
Này các Tỷ-kheo, trước khi Như Lai, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác
được giác ngộ, trước khi thành Chánh Ðẳng Giác, còn là Bồ-tát năm mộng
lớn này được hiện ra.
(VII) (197) Mưa
1. - Có năm chướng ngại cho mưa này,
các người đoán tướng không biết được, ở đây, mắt của những người đoán
tướng không thể kham nhẫn. Thế nào là năm?
2. Trên hư không, này các Tỷ-kheo,
hỏa giới phẫn nộ, do vậy các mây đã khởi lên bị tán loạn. Này các
Tỷ-kheo, đây là chướng ngại thứ nhất cho mưa, các người đoán tướng không
biết được, ở đây mắt của những người đoán tưởng không thể kham nhẫn.
3. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, trên hư
không, phong giới phẫn nộ, do vậy các mây đã khởi lên bị tán loạn. Này
các Tỷ-kheo, đây là chướng ngại thứ hai cho mưa, các người đoán tướng
không biết được, mắt của những người đoán tưởng không thể kham nhẫn.
4. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Ràhu,
vua các loài A-tu-la dùng tay thây lấy nước rồi đổ xuống biển lớn. Này
các Tỷ-kheo, đây là chướng ngại thứ ba cho mưa, các người đoán tướng
không biết được, mắt của những người đoán tưởng không thể kham nhẫn.
5. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, chư
Thiên của các loại mây đem mưa trở thành biếng nhác. Ðây là chướng ngại
thứ tư cho mưa, các người đoán tướng không biết được, mắt của những
người đoán tưởng không thể kham nhẫn.
6. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, khi
loài Người trở thành phi pháp, này các Tỷ-kheo, đây là chướng ngại thứ
năm cho mưa, các người đoán tướng không biết được, mắt của những người
đoán tưởng không thể kham nhẫn.
Này các Tỷ-kheo, có năm chướng ngại cho mưa này, các người đoán tướng
không biết được, ở đây mắt của những người đoán tưởng không thể kham
nhẫn.
(VIII) (198) Lời Nói
1. - Thành tựu năm chi phần, này các
Tỷ-kheo, các lời là thiện thuyết, không phải ác thuyết, không có phạm
tội và không bị những người có trí chỉ trích. Thế nào là năm?
2. Nói đúng thời, nói đúng sự thật,
nói lời nhu hòa, nói lời liên hệ đến lợi ích, nói với lời từ tâm.
Thành tựu năm chi phần, này các Tỷ-kheo, các lời là thiện thuyết,
không phải ác thuyết, không có phạm tội và không bị những người có trí
chỉ trích.
(IX)
(199) Gia Ðình
1. - Khi nào, này các Tỷ-kheo, các
người xuất gia giữ giới đi đến với gia đình, tại đấy các người do năm
trường hợp, được nhiều công đức. Thế nào là năm?
2. Khi nào, này các Tỷ-kheo, các
người xuất gia giữ giới đi đến với gia đình, các người sau khi thấy họ
tâm được tịnh tín. Này các Tỷ-kheo, như vậy là đưa đến cõi Trời, và gia
đình ấy trong lúc ấy đã bước được trên con đường ấy.
3. Khi nào, này các Tỷ-kheo, các
người xuất gia giữ giới đi đến với gia đình, các người đứng dậy, đảnh lễ
họ, mời họ ngồi. Này các Tỷ-kheo, như vậy đưa đến được sanh vào các gia
đình cao sang, và gia đình ấy trong lúc ấy đã bước được trên con đường
ấy.
4. Khi nào, này các Tỷ-kheo, các
người xuất gia giữ giới đi đến với gia đình, các người từ bỏ cấu uế của
xan tham. Này các Tỷ-kheo, như vậy đưa đến đại uy lực, và gia đình ấy
trong lúc ấy, đã bước được trên con đường ấy.
5. Khi nào, này các Tỷ-kheo, các
người xuất gia giữ giới đi đến với gia đình, các người tùy theo khả
năng, tùy theo năng lực, san sẻ vật bố thí. Này các Tỷ-kheo, như vậy đưa
đến tài sản lớn, và gia đình ấy trong lúc ấy đã bước được trên con
đường ấy.
6. Khi nào, này các Tỷ-kheo, các
người xuất gia giữ giới đi đến với gia đình, các người hỏi những câu
hỏi, đặt những câu hỏi, nghe pháp. Này các Tỷ-kheo, như vậy đưa đến đại
trí tuệ, và gia đình ấy trong lúc ấy đã bước được trên con đường ấy.
Khi nào, này các Tỷ-kheo, các người xuất gia giữ giới đi đến với gia
đình, tại đấy các người do năm trường hợp này được nhiều công đức.
(X) (200) Xuất Ly
1. - Này các Tỷ-kheo, có năm giới
đưa đến xuất ly này. Thế nào là năm?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
tác ý về dục tâm không phấn chấn trong các dục, không tịnh tín, không an
trú, không quyết định. Nhưng khi tác ý đến viễn ly, tâm liền phấn chấn
trong viễn ly, được tịnh tín, được an trú, được quyết định. Tâm ấy của
vị ấy là khéo làm, khéo tụ tập, khéo tăng trưởng, khéo giải thoát, khéo
không liên hệ đến dục. Và do duyên với dục, khởi lên các lậu hoặc não
hại, nhiệt não, vị ấy giải thoát khỏi chúng, không cảm giác thọ ấy. Ðây
gọi là xuất ly khỏi cái dục.
3. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
tác ý về sân, tâm không phấn chấn trong sân, không tịnh tín, không an
trú, không quyết định. Nhưng khi tác ý đến vô sân, tâm liền phấn chấn
trong vô sân, được tịnh tín, được an trú, được quyết định. Tâm ấy của vị
ấy là khéo làm, khéo tụ tập, khéo tăng trưởng, khéo giải thoát, khéo
không liên hệ đến sân. Và do duyên với sân, khởi lên các lậu hoặc não
hại, nhiệt não, vị ấy giải thoát khỏi chúng, không cảm giác thọ ấy. Ðây
gọi là xuất ly khỏi sân.
4. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
tác ý về hại, tâm không phấn chấn trong hại, không tịnh tín, không an
trú, không quyết định. Nhưng khi tác ý đến vô hại, tâm liền phấn chấn
trong vô hại, được tịnh tín, được an trú, được quyết định. Tâm ấy của vị
ấy là khéo làm, khéo tụ tập, khéo tăng trưởng, khéo giải thoát, khéo
không liên hệ đến hại. Và do duyên với hại, khởi lên các lậu hoặc não
hại, nhiệt não, vị ấy giải thoát khỏi chúng, không cảm giác thọ ấy. Ðây
gọi là xuất ly ra khỏi hại.
5. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
tác ý về sắc, tâm không phấn chấn trong sắc, không tịnh tín, không an
trú, không quyết định. Nhưng khi tác ý đến vô sắc, tâm liền phấn chấn
trong vô sắc, được tịnh tín, được an trú, được quyết định. Tâm ấy của vị
ấy là khéo làm, khéo tụ tập, khéo tăng trưởng, khéo giải thoát, khéo
không liên hệ đến sắc. Và do duyên với sắc, khởi lên các lậu hoặc não
hại, nhiệt não, vị ấy giải thoát khỏi chúng, không cảm giác thọ ấy. Ðây
gọi là xuất ly ra khỏi sắc.
6. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
tác ý về có thân, tâm không phấn chấn trong có thân, không tịnh tín,
không an trú, không quyết định. Nhưng khi tác ý đến đoạn diệt có thân,
tâm liền phấn chấn trong đoạn diệt có thân, được tịnh tín, được an trú,
được quyết định. Tâm ấy của vị ấy là khéo làm, khéo tụ tập, khéo tăng
trưởng, khéo giải thoát, khéo không liên hệ đến có thân. Và do duyên với
có thân, khởi lên các lậu hoặc não hại, nhiệt não, vị ấy giải thoát
khỏi chúng, không cảm giác thọ ấy. Ðây gọi là xuất ly khỏi có thân.
Ðối với vị ấy, dục hỷ không có tùy miên, sân hỷ không có tùy miên,
hại hỷ không có tùy miên, sắc hỷ không có tùy miên, hữu thân hỷ không có
tùy miên. Vị ấy không có tùy miên đối với dục hỷ, không có tùy miên đối
với sân hỷ, không có tùy miên đối với hại hỷ, không có tùy miên đối với
sắc hỷ, không có tùy miên đối với hữu thân hỷ. Này các Tỷ-kheo, đây gọi
là Tỷ-kheo được giải thoát khỏi tùy miên, đã chặt đứt khát ái, giải tỏa
kiết sử, do chánh pháp nhiếp phục kiêu mạn, đoạn tận khổ đau.
Này các Tỷ-kheo, có năm giới đưa đến xuất ly này.
XXI. Phẩm Kimbila
(I)
(201) Kimbila
1.
Một thời, Thế Tôn trú ở Kimbilà, tại
Veluvana. Rồi Tôn giả Kimbila đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế
Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Tôn giả kimbila bạch Thế
Tôn:
2. - Do nhân gì, do duyên gì, bạch
Thế Tôn, sau khi Như Lai nhập diệt, Chánh pháp không được an trú lâu
ngày?
- Ở đây, này Kimbila, khi Như Lai nhập diệt, các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-ni,
nam cư sĩ, nữ cư sĩ sống không tôn trọng, không vâng lời bậc Ðạo sư;
sống không tôn trọng, không vâng lời Pháp; sống không tôn trọng, không
vâng lời chúng Tăng; sống không tôn trọng, không vâng lời học pháp; sống
không tôn trọng, không vâng lời lẫn nhau. Do nhân này, do duyên này,
này Kimbila, khi Như Lai nhập diệt, diệu pháp không được an trú lâu
ngày.
3. Do nhân gì, do duyên gì, bạch Thế
Tôn, sau khi Như Lai nhập diệt, Chánh pháp được an trú lâu ngày?
- Ở đây, này Kimbila, khi Như Lai nhập diệt, các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-ni,
nam cư sĩ, nữ cư sĩ sống tôn trọng và vâng lời bậc Ðạo sư; sống tôn
trọng và vâng lời Pháp; sống tôn trọng và vâng lời chúng Tăng; sống tôn
trọng và vâng lời học pháp; sống tôn trọng và vâng lời lẫn nhau. Ðây là
nhân, đây là duyên, này Kimbila, khi Như Lai nhập diệt, diệu pháp được
tồn tại lâu dài.
(II)
(202) Nghe Pháp
1. - Này các Tỷ-kheo, nghe pháp có
năm lợi ích này. Thế nào là năm?
2. Ðược nghe điều chưa nghe, làm cho
trong sạch điều được nghe, đoạn trừ nghi, làm cho tri kiến chánh trực,
làm cho tâm tịnh tín.
Này các Tỷ-kheo, nghe pháp có năm lợi ích này.
(III) (203) Con Ngựa Thuần
1. Thành tựu năm chi phần, này các
Tỷ-kheo, một con ngựa hiền thiện thuần chủng của vua, xứng đáng là của
vua, là tài sản của vua và được gọi là biểu tượng của vua. Thế nào là
năm?
2. Trực hành, chạy nhanh, nhu nhuyến
lanh lẹ, nhẫn nhục, hiền lành. Thành tựu năm chi phần, này các Tỷ-kheo,
một con ngựa hiền thiện thuần chủng của vua, xứng đáng là của vua, là
tài sản của vua và được gọi là biểu tượng của vua.
3. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, thành
tựu năm pháp, Tỷ-kheo đáng được cung kính, đáng được tôn trọng, đáng
được cúng đường, đáng được chắp tay, là vô thượng phước điền ở đời. Thế
nào là năm?
4. Trực hành, chạy nhanh, nhu nhuyến
lanh lẹ, nhẫn nhục, hiền lành.
Thành tựu năm pháp, Tỷ-kheo đáng được cung kính, đáng được tôn trọng,
đáng được cúng đường, đáng được chắp tay, là vô thượng phước điền ở
đời.
(IV) (204) Các Sức Mạnh
1. - Này các Tỷ-kheo, có năm sức
mạnh này. Thế nào là năm?
2. Tín lực, tàm lực, quý lực, tinh
tấn lực, tuệ lực.
Này các Tỷ-kheo, có năm sức mạnh này.
(V)
(205) Tâm Hoang Vu
1. - Này các Tỷ-kheo, có năm tâm
hoang vu này. Thế nào là năm?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
nghi ngờ bậc Ðạo Sư, do dự, không quyết đoán, không có tịnh tín. Này các
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào nghi ngờ bậc Ðạo Sư, do dự, không quyết đoán,
không có tịnh tín, thời tâm của vị này không hướng về nỗ lực, chuyên
cần, kiên trì, tinh tấn. Như vậy là tâm hoang vu thứ nhất.
3. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
nghi ngờ Pháp... nghi ngờ Tăng... nghi ngờ học pháp... phẫn nộ đối với
các vị đồng Phạm hạnh, không có hoan hỷ, tâm tư chống đối cứng rắn. Này
các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào phẫn nộ đối với các vị đồng Phạm hạnh, không có
hoan hỷ, tâm tư chống đối cứng rắn, thời tâm của vị này không hướng về
nỗ lực, chuyên cần, kiên trì, tinh tấn. Như vậy là tâm hoang vu thứ năm.
Này các Tỷ-kheo, có năm tâm hoang vu này.
(VI) (206) Tâm Triền Phược
1. Này các Tỷ-kheo, có năm tâm triền
phược này. Thế nào là năm?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
đối với cái dục, không phải không tham ái, không phải không dục cầu,
không phải không ái luyến, không phải không khao khát, không phải không
nhiệt não, không phải không khát ái. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào đối
với cái dục, không phải không tham ái... không phải không khát ái, tâm
của vị ấy không hướng về nổ lực, chuyên cần, kiên trì, tinh tấn. Nếu tâm
của ai không hướng về nổ lực, chuyên cần, kiên trì, tinh tấn, như vậy
là tâm triền phược thứ nhất.
3. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, vị
Tỷ-kheo đối với thân không phải không tham ái... đối với sắc... Tỷ-kheo
nào ăn cho đến thỏa thê, cho đến bụng chứa đầy, sống thiên nặng về khoái
lạc sàng tọa, về khoái lạc ngủ nghỉ, về khoái lạc thụy miên, Tỷ-kheo
nào sống Phạm hạnh với mong cầu được sanh Thiên giới, với ý nghĩ: "Ta
với giới này, với hạnh này, với khổ hạnh này, với Phạm hạnh này sẽ được
sanh làm chư Thiên này hay chư Thiên khác!". Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
nào sống Phạm hạnh... như vậy là tâm triền phược thứ năm.
Này các Tỷ-kheo, có năm tâm triền phược này.
(VII)
(207) Cháo
1. - Này các Tỷ-kheo, có năm lợi ích
này của cháo. Thế nào là năm?
2. Trị đói, trừ khát, điều hòa
phong, làm sạch bọng đái (hay thuyết quản) và tiêu hóa các đồ ăn sống
còn lại.
Này các Tỷ-kheo, có năm lợi ích này của cháo.
(VII) (208) Tăm Xiả Răng
1. - Này các Tỷ-kheo, có năm điều
nguy hại do không dùng tăm xỉa răng. Thế nào là năm?
2. Con mắt bị ảnh hưởng, miệng hôi
thúi, thần kinh vị không trong sạch, nước mật và đàm dính vào đồ ăn, ăn
không thấy ngon.
Này các Tỷ-kheo, có năm điều nguy hại này do không dùng tăm xỉa răng.
3. Này các Tỷ-kheo, có năm điều lợi
ích nhờ dùng tăm xỉa răng. Thế nào là năm?
4. Con mắt không bị ảnh hưởng, miệng
không hôi thúi, thần kinh vị được trong sạch, nước mật và đàm không
dính vào đồ ăn, ăn thấy ngon.
Này các Tỷ-kheo, có năm điều lợi ích nhờ dùng tăm xỉa răng.
(IX) (209) Thuyết Pháp Với Giọng Ca
1. - Này các Tỷ-kheo, có năm điều
nguy hại với người thuyết pháp với giọng ca kéo dài. Thế nào là năm?
2. Tự mình say đắm trong âm giọng
ấy; người khác say đắm trong âm giọng ấy; các người gia chủ phê bình:
"Như chúng ta hát, cũng vậy, các Sa-môn Thích tử này ca hát"; vì vị ấy
cố gắng rèn luyện cho âm thanh điêu luyện nên định bị gián đoạn; các thế
hệ sau bắt chước.
Này các Tỷ-kheo, có năm điều nguy hại với người thuyết pháp với giọng
ca kéo dài.
(X) (210) Thất Niệm
1. - Này các Tỷ-kheo, có năm nguy
hại này đối với người thất niệm, không tỉnh giác rơi vào giấc ngủ. Thế
nào là năm?
2. Ngủ một cách khổ sở; thức dậy một
cách khổ sở; thấy ác mộng; chư Thiên không phòng hộ; bất tịnh chảy ra,
mộng tinh, di tinh.
Này các Tỷ-kheo, có năm nguy hại này đối với người thất niệm, không
tỉnh giác rơi vào giấc ngủ.
3. Này các Tỷ-kheo, có năm lợi ích
này đối với người trú niệm, tỉnh giác rơi vào giấc ngủ. Thế nào là năm?
4. Ngủ một các ngon lành; thức dậy
một cách ngon lành; không thấy ác mộng; chư Thiên phòng hộ; bất tịnh
không chảy ra.
Này các Tỷ-kheo, có năm lợi ích này đối với người trú niệm, tỉnh giác
rơi vào giấc ngủ.
XXII. Phẩm Mắng Nhiếc
(I) (211) Mắng Nhiếc
1.
- Tỷ-kheo nào, này các Tỷ-kheo, mắng
nhiếc, mạ lỵ, các vị tu Phạm hạnh, phỉ báng bậc Thánh, vị ấy được chờ
đợi năm sự nguy hại. Thế nào là năm?
2. Phạm tội bị tẩn xuất, chặt đứt
con đường hướng thượng; hay phạm một tội nhiễm; hay cảm xúc bệnh hoạn
trầm trọng; khi mạng chung tâm bị mê loạn; sau khi thân hoại mạng chung,
sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục.
Tỷ-kheo nào, này các Tỷ-kheo, mắng nhiếc, mạ lỵ, các vị tu Phạm hạnh,
phỉ báng bậc Thánh, vị ấy được chờ đợi năm sự nguy hại này.
(II) (212) Ðấu Tranh
1. - Tỷ-kheo nào, này các Tỷ-kheo,
là người gây ra cãi cọ, là người gây ra tranh luận, là người gây ra đấu
tranh, là người gây ra các cuộc đấu khẩu, là người gây ra kiện tụng
trong Tăng chúng. Vị ấy được chờ đợi năm sự nguy hại. Thế nào là năm?
2. Không chứng điều chưa chứng được;
thối thất điều đã chứng được; tiếng ác đồn khắp; khi mạng chung, tâm bị
mê loạn; sau khi thân hoại mạng chung, sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ,
địa ngục.
Tỷ-kheo nào, này các Tỷ-kheo, là người gây ra cãi cọ, là người gây ra
tranh luận, là người gây ra đấu tranh, là người gây ra đấu khẩu, là
người gây ra kiện tụng trong Tăng chúng. Vị ấy được chờ đợi năm sự nguy
hại này.
(III) (213) Ác Giới, Phá Giới
1. - Này các Tỷ-kheo, có năm sự nguy
hại này cho kẻ ác giới, phá giới. Thế nào là năm?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, kẻ ác
giới, phá giới, do nhân phóng dật, bị tổn thất tài sản lớn. Này các
Tỷ-kheo, đây là sự nguy hại thứ nhất cho kẻ ác giới, phá giới.
3. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, đối với
kẻ ác giới, phá giới, tiếng ác đồn xa. Này các Tỷ-kheo, đây là sự nguy
hại thứ hai cho kẻ ác giới, phá giới.
4. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, kẻ ác
giới, phá giới, khi đến hội chúng nào, hoặc hội chúng Sát-đế-ly, hoặc
hội chúng Bà-la-môn, hoặc hội chúng Gia chủ, hoặc hội chúng Sa-môn, vị
ấy đi đến hội chúng ấy, có sợ hãi, có hoang mang. Này các Tỷ-kheo, đây
là sự nguy hại thứ ba cho kẻ ác giới, phá giới.
5. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, kẻ ác
giới, phá giới, khi mạng chung, tâm bị mê loạn. Này các Tỷ-kheo, đây là
sự nguy hại thứ tư cho kẻ ác giới, phá giới.
6. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, kẻ ác
giới, phá giới sau khi thân hoại mạng chung, sanh vào cõi dữ ác thú, đọa
xứ, địa ngục. Này các Tỷ-kheo, đây là sự nguy hại thứ năm cho kẻ ác
giới, phá giới.
Này các Tỷ-kheo, có năm sự nguy hại này cho kẻ ác giới, phá giới.
7. Này các Tỷ-kheo, có năm lợi ích
cho vị có giới, đầy đủ giới. Thế nào là năm?
8. Ở đây, này các Tỷ-kheo, người giữ
giới, đầy đủ giới, do nhân không phóng dật, thâu được tài sản lớn. Này
các Tỷ-kheo, đây là lợi ích thứ nhất cho vị giữ giới, đầy đủ giới.
9. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, với
người giữ giới, đầy đủ giới, tiếng lành đồn xa. Này các Tỷ-kheo, đây là
lợi ích thứ hai cho kẻ giữ giới, đầy đủ giới.
10. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, người
giữ giới, đầy đủ giới, có đi đến hội chúng nào, hoặc hội chúng
Sát-đế-ly, hoặc hội chúng Bà-la-môn, hoặc hội chúng Gia chủ, hoặc hội
chúng Sa-môn, vị ấy đi hội chúng không sợ hãi, không hoang mang. Này các
Tỷ-kheo, đây là sự lợi ích thứ ba cho người giữ giới, đầy đủ giới.
11. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, người
giữ giới, đầy đủ giới, khi mạng chung, tâm không bị mê loạn. Này các
Tỷ-kheo, đây là sự lợi ích thứ tư cho người giữ giới, đầy đủ giới.
12. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, người
giữ giới, đầy đủ giới khi thân hoại mạng chung, được sanh lên cõi lành,
Thiên giới, cõi đời này. Này các Tỷ-kheo, đây là sự nguy hại thứ năm cho
người giữ giới, đầy đủ giới.
Này các Tỷ-kheo, có năm sự lợi ích này cho vị giữ giới, đầy đủ giới.
(IV) (214) Người Nói Nhiều
1. - Có năm nguy hại này cho người
nói nhiều. Thế nào là năm?
2. Nói láo; nói lời hai lưỡi; nói
lời độc ác; nói lời phù phiếm; sau khi thân hoại hạng chung, sanh vào
cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục.
Này các Tỷ-kheo, có năm nguy hại này cho người nói nhiều.
3. Này các Tỷ-kheo, có năm lợi ích
này cho người nói vừa phải. Thế nào là năm?
4. Không nói láo; không nói hai
lưỡi; không nói lời độc ác; không nói lời phù phiếm; sau khi thân hoại
hạng chung, sanh vào thiện thú, Thiên giới, cõi đời này.
Này các Tỷ-kheo, có năm lợi ích này cho người nói vừa phải.
(V) (215) Không Kham Nhẫn (1)
1. - Có năm nguy hại này cho người
không kham nhẫn. Thế nào là năm?
2. Quần chúng không ái mộ, không ưa
thích; nhiều người hận thù; nhiều người tránh né; khi mạng chung, tâm bị
mê loạn; sau khi thân hoại mạng chung; sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ,
địa ngục.
Này các Tỷ-kheo, có năm nguy hại này cho người không kham nhẫn.
3. Này các Tỷ-kheo, có năm lợi ích
này cho người có kham nhẫn. Thế nào là năm?
4. Quần chúng ái mộ, ưa thích; không
có người hận thù; không có nhiều người tránh né; khi mạng chung, tâm
không bị mê loạn; sau khi thân hoại mạng chung, được sanh vào thiện thú,
Thiên giới, cõi đời này.
Này các Tỷ-kheo, có năm lợi ích này cho người có kham nhẫn.
(VI) (216) Không Kham Nhẫn (2)
(Như kinh trên, số 215, chỉ thế vào mục 2: thay câu" nhiều người hận
thù, nhiều người tránh né", bằng câu "là người hung bạo, là người không
hối quá".)
(VII) (217) Không Tịnh Tín (1)
1. - Có năm nguy hại này, này các
Tỷ-kheo, cho người không tịnh tín. Thế nào là năm?
2. Tự mình chỉ trích mình; bậc có
trí sau khi suy xét, quở trách; tiếng ác đồn xa; khi mạng chung, tâm bị
mê loạn; sau khi thân hoại mạng chung, sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ
địa ngục.
Này các Tỷ-kheo, có năm nguy hại này, cho người không có tịnh tín.
3. Có năm lợi ích này, này các
Tỷ-kheo, cho người có tịnh tín. Thế nào là năm?
4. Tự mình không chỉ trích mình; bậc
có trí sau khi suy xét, tán thán tiếng lành đồn xa; khi mạng chung, tâm
không mê loạn; sau khi thân hoại mạng chung, được sanh lên thiện Thú,
Thiên giới, cõi đời này.
Này các Tỷ-kheo, có năm lợi ích này, cho người có tịnh tín.
(VIII) (218) Không Tịnh Tín (2)
1. - Có năm nguy hại này, này các
Tỷ-kheo, cho kẻ không tịnh tín. Thế nào là năm?
2. Những tư tưởng bất tín không được
tịnh tín; một số tư tưởng đã tịnh tín có thể đổi khác; không làm theo
lời dạy của bậc Ðạo Sư; thế hệ tiếp bắt chước tà kiến; tâm không được
tịnh tín.
Này các Tỷ-kheo, có năm nguy hại này, cho người không có tịnh tín.
3. Có năm lợi ích này, này các
Tỷ-kheo, cho người có tịnh tín. Thế nào là năm?
4. Những tư tưởng bất tín được tịnh
tín; những tư tưởng tịnh tín được tăng trưởng; lời dạy của bậc Ðạo Sư
được làm theo; thế hệ tiếp bắt chước theo tri kiến; tâm được tịnh tín.
Này các Tỷ-kheo, có năm lợi ích này, cho người có tịnh tín.
(IX) (219) Lửa
1. - Này các Tỷ-kheo, có năm nguy
hại này trong lửa. Thế nào là năm?
2. Có hại cho mắt; tổn hại dung sắc;
tổn hại sức mạnh; quần chúng tụ họp tăng trưởng; các câu chuyện về bàng
sanh được nói lên.
Này các Tỷ-kheo, có năm nguy hại này trong lửa.
(X) (220) Tại Madhurà
1. - Có năm nguy hại này tại
Madhurà. Thế nào là năm?
2. Không bằng phẳng; nhiều bụi bặm;
có chó dữ; có các loại dạ xoa bạo ngược; đồ ăn khất thực khó kiếm.
Này các Tỷ-kheo, có năm nguy hại này ở Madhurà.
XXIII. Phẩm Du Hành Dài
(I)
(221) Du Hành Dài
1.
- Có năm điều nguy hại này, này các
Tỷ-kheo, cho người sống du hành dài, du hành không có mục đích. Thế nào
là năm?
2. Không nghe điều chưa được nghe;
không làm cho thanh tịnh điều đã được nghe; có sợ hãi một phần điều đã
được nghe; cảm xúc bệnh hoạn trầm trọng; không có bạn bè.
Có năm điều nguy hại này, này các Tỷ-kheo, cho người sống du hành
dài, du hành không có mục đích.
3. Này các Tỷ-kheo, có năm lợi ích
này cho người sống có mục đích. Thế nào là năm?
4. Nghe điều chưa được nghe; làm cho
thanh tịnh điều đã được nghe; không có sợ hãi một phần điều đã được
nghe; không cảm xúc bệnh hoạn trầm trọng; có bạn bè.
Này các Tỷ-kheo, có năm lợi ích này cho người sống có mục đích.
(II)
(222) Du Hành Dài (2)
(Giống như kinh 221, chỉ có khác là thay vì: "Không nghe điều chưa
được nghe, không làm cho thanh tịnh điều đã được nghe, có sợ hãi một
phần điều đã được nghe", thời được thế vào "Không chứng đắc điều chưa
được chứng đắc, không làm cho thanh tịnh điều đã được chứng đắc, không
có sợ hãi một phần điều đã được chứng đắc..." với những thay đổi cần
thiết).
(III) (223) Sống Quá Lâu (1)
1. - Có năm nguy hại này, này các
Tỷ-kheo, nếu sống quá lâu tại một chỗ. Thế nào là năm?
2. Ðồ dùng nhiều, cất chứa nhiều đồ
dùng; nhiều dược phẩm, cất chứa nhiều dược phẩm; nhiều việc làm, nhiều
công việc phải làm, không khéo léo trong những công việc gì phải làm;
sống lẫn lộn với gia chủ xuất gia, tùy thuận trong sự liên hệ với gia
chủ; và khi ra đi bỏ trú xứ ấy, ra đi với sự luyến tiếc.
Này các Tỷ-kheo, đó là năm nguy hại nếu sống quá lâu tại một chỗ.
3. Có năm lợi ích này, này các
Tỷ-kheo, nếu sống đồng đều tại mỗi chỗ. Thế nào là năm?
4. Ðồ dùng không nhiều, không cất
chứa nhiều đồ dùng; dược phẩm không nhiều, không cất chứa nhiều dược
phẩm; không có nhiều việc làm, không nhiều công việc phải làm, khéo léo
trong những công việc phải làm; không sống lẫn lộn với gia chủ xuất gia,
không tùy thuận trong sự liên hệ với gia chủ; và khi ra đi bỏ trú xứ
ấy, ra đi không với sự luyến tiếc.
Này các Tỷ-kheo, đó là năm lợi ích nếu sống đồng đều tại một chỗ.
(IV) (224) Sống Quá Lâu (2)
1. - Có năm nguy hại này, này các
Tỷ-kheo, nếu sống quá lâu tại một chỗ. Thế nào là năm?
2. Xan tham đối với trú xứ; xan tham
đối với gia đình; xan tham đối với đồ vật cúng dường; xan tham đối với
công đức; xan tham đối với pháp.
Có năm nguy hại này, này các Tỷ-kheo, nếu sống quá lâu tại một chỗ.
3. Có năm lợi ích này, này các
Tỷ-kheo, nếu sống đồng đều tại mỗi chỗ. Thế nào là năm?
4. Không xan tham đối với trú xứ;
không xan tham đối với gia đình; không xan tham đối với đồ được cúng
dường; không xan tham đối với công đức; không xan tham đối với pháp.
Có năm lợi ích này, này các Tỷ-kheo, nếu sống đồng đều tại một chỗ.
(V) (225) Viếng Thăm Gia Ðình(1)
1. - Có năm nguy hại này, này các
Tỷ-kheo, cho người viếng thăm gia đình. Thế nào là năm?
2. Phạm lỗi không mời mà đến; phạm
lỗi ngồi một mình; phạm lỗi ngồi chỗ kín đáo; phạm lỗi thuyết pháp cho
nữ nhân hơn năm, sáu chữ; sống với nhiều suy tư về dục.
Này các Tỷ-kheo, có năm nguy hại này cho người viếng thăm gia đình.
(VI) (226) Viếng Thăm Gia Ðình (2)
1. - Có năm nguy hại này, này các
Tỷ-kheo, đối với vị Tỷ-kheo sống liên hệ quá nhiều với các gia đình. Thế
nào là năm?
2. Luôn luôn thấy nữ nhân; do thấy,
nên có liên hệ; do có liên hệ nên có sự thân mật; do có sự thân mật nên
có cơ hội (để tư thông); khi tâm đã có tư thông, thời được chờ đợi như
sau: Sẽ không có hoan hỷ sống Phạm hạnh; hay sẽ rơi vào trong một tội
nhiễm ô; hay từ bỏ học giới; trở lui lại đời sống thế tục.
Này các Tỷ-kheo, đây là năm nguy hại đối với vị Tỷ-kheo sống liên hệ
quá nhiều với các gia đình.
(VII) (227) Tài Sản
1. - Này các Tỷ-kheo, có năm nguy
hại này trong các tài sản. Thế nào là năm?
2. Tài sản bị nguy hiểm về lửa; bị
nguy hiểm về nước; bị nguy hiểm về vua; bị nguy hiểm về trộm cướp; bị
nguy hiểm về các người thừa tự không khả ái.
Này các Tỷ-kheo, có năm nguy hại này trong các tài sản.
3. Này các Tỷ-kheo, có năm lợi ích
này trong các tài sản. Thế nào là năm?
4. Nhờ tài sản, tự làm cho được an
lạc, hoan hỷ và chơn chánh duy trì sự an lạc ấy; làm cho mẹ cha được an
lạc, hoan hỷ và chơn chánh duy trì sự an lạc ấy; làm cho vợ con, các
người phục vụ, các người làm công được an lạc, hoan hỷ và chơn chánh duy
trì sự an lạc ấy; làm cho bạn bè thân hữu được an lạc, hoan hỷ và chơn
chánh duy trì sự an lạc ấy; đối với các vị Sa-môn, Bà-la-môn, cung cấp
các sự cúng dường hướng thượng, đưa đến sự an lạc, dị thục liên hệ đến
cõi trời và dẫn lên Thiên giới.
Này các Tỷ-kheo, có năm lợi ích này trong các tài sản.
(VIII) (228) Bữa Ăn
1. - Có năm nguy hại này, này các
Tỷ-kheo, trong gia đình ăn cơm phi thời sau giờ ngọ. Thế nào là năm?
2. Ðối với các khách đến thăm, không
cúng dường đúng thời; đối với chư Thiên lãnh thọ các vật cúng, không
cúng dường đúng thời; đối với các Sa-môn, Bà-la-môn, chỉ ăn mỗi ngày một
bữa, không ăn ban đêm, từ bỏ ăn phi thời, không cúng dường đúng thời;
các người phục vụ, người làm công, làm công việc không được thoải mái;
lại nữa, khi còn ăn phi thời, thời các món ăn thiếu chất bổ dưỡng.
Này các Tỷ-kheo, đây là năm nguy hại trong gia đình ăn cơm quá chiều,
sau giờ ngọ.
3. Có năm lợi ích này, này các
Tỷ-kheo, trong gia đình ăn cơm đúng thời. Thế nào là năm?
4. Ðối với các khách đến thăm, cúng
dường đúng thời; đối với chư Thiên lãnh thọ các vật cúng, cúng dường
đúng thời; đối với các Sa-môn, Bà-la-môn, chỉ ăn mỗi ngày một bữa, không
ăn ban đêm, từ bỏ ăn phi thời, cúng dường đúng thời; các người phục vụ,
người làm công, làm công việc được thoải mái; lại nữa, khi ăn đúng
thời, thời các món ăn đầy đủ chất bổ dưỡng.
Có năm lợi ích này, này các Tỷ-kheo, trong gia đình ăn cơm đúng thời.
(IX) (229) Rắn Ðen (1)
1. - Này các Tỷ-kheo, có năm nguy
hại này trong con rắn đen. Thế nào là năm?
2. Không thanh thịnh, hôi thúi, sợ
hãi rụt rè, đáng sợ hãi, làm hại bạn.
Này các Tỷ-kheo, có năm nguy hại này trong con rắn đen.
3. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, có năm
nguy hại này trong nữ nhân. Thế nào là năm?
4. Không thanh thịnh, hôi thúi, sợ
hãi rụt rè, đáng sợ hãi, làm hại bạn.
Này các Tỷ-kheo, có năm nguy hại này trong nữ nhân.
(X) (230) Rắn Ðen (2)
1. - Này các Tỷ-kheo, có năm nguy
hại này trong con rắn đen. Thế nào là năm?
2. Phẫn nộ, hiềm hận, có nọc đọc,
lưỡi chia hai, làm hại bạn.
Này các Tỷ-kheo, có năm nguy hại này trong con rắn đen.
3. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, có năm
nguy hại này trong nữ nhân. Thế nào là năm?
4. Phẫn nộ, hiềm hận, có nọc độ,
lưỡi chia hai, làm hại bạn.
5. Ở đây, này các Tỷ-kheo, nọc đọc
của nữ nhân là như sau: Này các Tỷ-kheo, nữ nhân phần lớn hay tham đắm. Ở
đây, này các Tỷ-kheo, lưỡi chia hai của nữ nhân là như sau: Này các
Tỷ-kheo, nữ nhân phần lớn nói hai lưỡi. Ở đây, này các Tỷ-kheo, nữ nhân
làm hại bạn như sau: Này các Tỷ-kheo, nữ nhân phần lớn ngoại tình!
Này các Tỷ-kheo, có năm nguy hại này trong nữ nhân.
XXIV. Phẩm Trú Tại Chỗ
(I) (231) Trú Tại Chỗ
1.
- Thành tựu năm pháp này, này các
Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo trú tại chỗ trở thành không đáng được làm gương để
tụ tập. Thế nào là năm?
2. Không đầy đủ về uy nghi, không
đầy đủ về trách nhiệm; không nghe nhiều, không thọ trì điều được nghe;
không biết sống đoạn giảm, không ưa thích sống Thiền tịnh; lời nói không
hiền thiện, không là người nói lời hiền thiện; ác tuệ, đần độn, câm
điếc.
Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo trú tại chỗ trở
thành không đáng được làm gương để tụ tập.
3. Thành tựu năm pháp này, này các
Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo trú tại chỗ trở thành đáng được làm gương để tụ tập.
Thế nào là năm?
4. Ðầy đủ về uy nghi, đầy đủ về
trách nhiệm; nghe nhiều, thọ trì điều được nghe; biết sống đoạn giảm, ưa
thích Thiền tịnh; lời nói hiền thiện, là người nói lời hiền thiện; có
trí tuệ, không đần độn, không câm điếc.
Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo trú tại chỗ trở
thành đáng được làm gương để tụ tập.
(II) (232) Ðược Ái Mộ
1. - Thành tựu năm pháp này, này các
Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo trú tại chỗ được các vị đồng Phạm hạnh ái mộ, ưa
thích, kính trọng, và đáng được làm gương để bắt chước. Thế nào là năm?
2. Có giới, sống được bảo vệ với sự
bảo vệ của giới bổn, đầy đủ oai nghi chánh hạnh, thấy sợ hãi trong các
tội nhỏ nhiệm, chấp nhận và học tập các học pháp; nghe nhiều, thọ trì
điều được nghe, tích tập điều được nghe; các pháp nào sơ thiện, trung
thiện, hậu thiện, có nghĩa, có văn, đề cao đời sống Phạm hạnh hoàn toàn
đầy đủ thanh tịnh, những pháp ấy, vị ấy đã nghe nhiều, đã nắm giữ, đã
ghi nhớ nhờ đọc nhiều lần, chuyên ý quan sát, khéo thành tựu nhờ chánh
kiến; thiện ngôn, dùng lời thiện ngôn, nói lời tao nhã, ý nghĩa minh
bạch, giọng nói không bập bẹ phều phào, giải thích nghĩa lý minh xác;
chứng được không có khó khăn, chứng được không có mệt nhọc, chứng được
không có phí sức bốn Thiền, thuộc tăng thượng tâm, đem đến hiện tại lạc
trú; do đoạn tận các lậu hoặc vị ấy
tự mình với thắng trí chứng ngộ, chứng đạt và an trú ngay trong hiện tại
vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát.
Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo trú tại chỗ được
các vị đồng Phạm hạnh ái mộ, ưa thích, kính trọng, và đáng được làm
gương để tu tập.
(III)
(233) Làm Cho Chói Sáng
1. - Thành tựu năm pháp này, này các
Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo trú tại chỗ làm chói sáng chỗ ấy. Thế nào là năm?
2. Có giới sống được bảo vệ với sự
bảo vệ của giới bổn... và học tập trong các học pháp; nghe nhiều... khéo
thành tựu nhờ chánh kiến; thiện ngôn, dùng lời thiện ngôn... giải thích
nghĩa lý minh xác; có năng lực với pháp thoại nêu rõ, khích lệ, làm cho
phấn khởi, làm cho hoan hỷ những người đến yết kiến; chứng được không
khó khăn, chứng được không mệt nhọc, chứng được không phí sức bốn Thiền,
thuộc tăng thượng tâm, hiện tại lạc trú.
Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo trú tại chỗ làm
chói sáng chỗ ấy.
(IV) (234) Giúp Ðỡ Nhiều
1. - Thành tựu năm pháp này, này các
Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo trú tại chỗ giúp đỡ rất nhiều cho trú xứ ấy. Thế
nào là năm?
2. Có giới... và học tập trong các
học pháp; nghe nhiều... khéo thành tựu nhờ chánh kiến; vị ấy sữa chữa
những gì bị gãy, bị hủy hoại. Khi đại chúng Tỷ-kheo đi đến từ nhiều địa
phương khác nhau, vị ấy nói với các gia chủ đi đến như sau: "Nay đại
chúng Tỷ-kheo đã đến từ nhiều địa phương khác nhau. Các vị hãy làm các
phước đức. Nay là thời làm các phước đức"; chứng được không khó khăn,
chứng được không mệt nhọc, chứng được không phí sức bốn Thiền, thuộc
tăng thượng tâm, hiện tại lạc trú.
Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo trú tại chỗ giúp
đỡ rất nhiều cho trú xứ ấy.
(V) (235) Có Lòng Từ Mẫn
1. - Thành tựu năm pháp này, này các
Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo trú tại chỗ có lòng từ mẫn đối với các gia chủ. Thế
nào là năm?
2. Khích lệ tăng thượng giới; khiến
chúng sống theo gương pháp; khi đến thăm người bệnh, an trú niệm cho
người bệnh như sau: "Các vị hãy an trú niệm vào hướng đến quả A-la-hán";
khi đại chúng Tỷ-kheo đi đến từ nhiều địa phương khác nhau, vị ấy nói
với các gia chủ đi đến như sau: "Nay đại chúng Tỷ-kheo đã đến từ nhiều
địa phương khác nhau. Các vị hãy làm các phước đức. Nay là thời làm các
phước đức"; họ có cúng dường các món ăn gì, hoặc thô hoặc tế, tự mình
thọ dụng, không làm cho của tín thí rơi rớt.
Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo trú tại chỗ có
lòng từ mẫn đối với các gia chủ.
(VI) (236) Không Tán Thán Tương Xứng
1. - Thành tựu năm pháp, Tỷ-kheo trú
tại chỗ như vậy tương xứng bị rơi vào địa ngục. Thế nào là năm?
2. Không có suy xét, không thẩm sát,
tán thán người không đáng được tán thán; không suy xét, không thẩm sát,
không tán thán người đáng được tán thán; không suy xét, không thẩm sát,
đặt lòng tin (làm rõ ràng) vào những chỗ không đáng được tịnh tín;
không suy xét, không thẩm sát, không đặt lòng tin vào những chỗ đáng
được tịnh tín; làm rơi rớt các vật tín thí.
Do thành tựu năm pháp, Tỷ-kheo trú tại chỗ như vậy tương xứng bị rơi
vào địa ngục.
3. Thành tựu năm pháp, này các
Tỷ-kheo trú tại chỗ như vậy tương xứng sanh lên cõi trời. Thế nào là
năm?
4. Có suy xét, có thẩm sát, không
tán thán người không đáng được tán thán; có suy xét, có thẩm sát, tán
thán người đáng được tán thán; có suy xét, có thẩm sát, không đặt lòng
tin vào những chỗ đáng được tịnh tín; có suy xét, có thẩm sát, đặt lòng
tin vào những chỗ đáng được tịnh tín; không làm rơi rớt các vật tín thí.
Thành tựu năm pháp, này các Tỷ-kheo trú tại chỗ như vậy tương xứng
sanh lên cõi trời.
(VII)
(237) Xan Tham (1)
1. - Thành tựu năm pháp, này các
Tỷ-kheo trú tại chỗ như vậy tương xứng bị rơi vào địa ngục. Thế nào là
năm?
2. Không suy xét, không thẩm sát,
tán thán người không đáng được tán thán; không suy xét, không thẩm sát,
không tán thán người đáng được tán thán; xan tham trú xứ, tham đắm trú
xứ; xan tham gia đình, tham đắm gia đình; làm cho rơi rớt các vật tín
thí.
Thành tựu năm pháp, Tỷ-kheo trú tại chỗ như vậy tương xứng bị rơi vào
địa ngục.
3. Thành tựu năm pháp, này các
Tỷ-kheo trú tại chỗ như vậy tương xứng sanh lên cõi trời. Thế nào là
năm?
4. Có suy xét, có thẩm sát, không
tán thán người không đáng được tán thán; có suy xét, có thẩm sát, tán
thán người đáng được tán thán; không xan tham trú xứ, không tham đắm trú
xứ; không xan tham gia đình, không tham đắm gia đình; không làm cho rơi
rớt các vật tín thí.
Thành tựu năm pháp, này các Tỷ-kheo, Tỷ Kheo trú tại chỗ như vậy
tương xứng sanh lên cõi trời.
(VIII)
(238) Xan Tham (2)
(Như kinh 237, bỏ "tham đắm trú xứ", bỏ "tham đắm gia đình", thay thế
"làm cho rơi rớt vật thí" bằng "xan tham lợi dưỡng". Phần sau có những
thay đổi cần thiết.)
(IX)
(239) Xan Tham (3)
1. - Thành tựu năm pháp, này các
Tỷ-kheo, Tỷ kheo trú tại chỗ như vậy tương xứng bị rơi vào địa ngục. Thế
nào là năm?
2. Xan tham chỗ ở, xan tham gia
đình, xan tham lợi dưỡng, xan tham tán thán, làm cho các vật tín thí rơi
rớt.
Thành tựu năm pháp, này các Tỷ-kheo, Tỷ kheo trú tại chỗ như vậy
tương xứng bị rơi vào địa ngục.
3. Thành tựu năm pháp, này các
Tỷ-kheo, Tỷ kheo trú tại chỗ như vậy tương xứng sanh lên cõi trời. Thế
nào là năm?
4. Không xan tham chỗ ở, không xan
tham gia đình, không xan tham lợi dưỡng, không xan tham tán thán, không
làm cho vật tín thí rơi rớt.
Thành tựu năm pháp, này các Tỷ-kheo , Tỷ kheo trú tại chỗ như vậy
tương xứng sanh lên cõi trời.
(X)
(240) Xan Tham (4)
(Hoàn toàn giống như kinh 239, chỉ khác pháp thứ năm là "xan tham
pháp", thế cho "làm cho vật tín thí rơi rớt".)
XXV. Phẩm Ác Hành
(I) (241) Người Ác Hành (1)
1.
- Này các Tỷ-kheo, có năm nguy hại này
cho người ác hành. Thế nào là năm?
2. Tự mình chỉ trích mình; sau khi
suy xét, các bậc trí quở trách; tiếng ác đồn khắp; khi mạng chung, tâm
bị mê loạn; sau khi thân hoại mạng chung, sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa
xứ, địa ngục.
Này các Tỷ-kheo, có năm nguy hại này cho người ác hành.
3. Này các Tỷ-kheo, có năm lợi ích
này cho người thiện hành. Thế nào là năm?
4. Tự mình không chỉ trích mình; sau
khi suy xét, các bậc trí tán thán; tiếng tốt đồn khắp; khi mạng chung,
tâm không bị mê loạn; sau khi thân hoại mạng chung, sanh vào thiện thú,
thiên giới, cõi đời này.
Này các Tỷ-kheo, có năm lợi ích này cho người thiện hành.
(II-IV) (242 - 244) Người Ác Hành (2)
1. - Này các Tỷ-kheo, có năm nguy
hại này cho người thân ác hành... cho người khẩu ác hành... cho người ý
ác hành (giống như kinh 241 với những thay đổi cần thiết).
(V) (245) Người Ác Hành (3)
(Như kinh 241 chỉ thay hai đoạn sau: "Từ bỏ diệu pháp, an trú phi
diệu pháp", với những thay đổi cần thiết).
(VI - VII) (246-248) Người Ác Hành (4)
1. - Có năm nguy hại này, này các
Tỷ-kheo, cho người thân ác hành... cho người thân thiện hành... cho
người khẩu ác hành... cho người khẩu thiện hành... người ý ác hành...
cho người ý thiện hành.
2. Từ mình không chỉ trích mình; sau
khi suy xét, các bậc trí tán thán; tiếng tốt đồn khắp; từ bỏ phi diệu
pháp; an trú diệu pháp.
Có năm lợi ích này, này các Tỷ-kheo, cho người ý thiện hành.
(IX) (248) Nghĩa Ðịa
1. - Này các Tỷ-kheo, có năm nguy
hại này trong nghĩa địa. Thế nào là năm?
2. Bất tịnh, hôi thúi, đáng sợ hãi,
trú xứ các phi nhân hung bạo, làm cho quần chúng than khóc.
Này các Tỷ-kheo, có năm nguy hại này trong nghĩa địa.
3. Này các Tỷ-kheo, có năm nguy hại
này trong người được ví như nghĩa địa. Thế nào là năm?
4. Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người
thành tựu thân nghiệp bất tịnh, thành tựu khẩu nghiệp bất tịnh, thành
tựu ý nghiệp bất tịnh. Ta nói rằng đây là sự bất tịnh của người ấy. Ví
như, này các Tỷ-kheo, sự bất tịnh ấy của nghĩa địa. Ta nói rằng, này các
Tỷ-kheo, người này giống như ví dụ ấy.
5. Ai thành tựu thân nghiệp bất
tịnh, thành tựu khẩu nghiệp bất tịnh, thành tựu ý nghiệp bất tịnh, tiếng
ác được đồn khắp. Ta nói rằng đây là mùi hôi thúi của người ấy. Ví như,
này các Tỷ-kheo, mùi hôi thúi ấy của nghĩa địa. Ta nói rằng, này các
Tỷ-kheo, người này giống như ví dụ ấy.
6. Với vị thành tựu thân nghiệp bất
tịnh, thành tựu khẩu nghiệp bất tịnh, thành tựu ý nghiệp bất tịnh, các
vị thuần tịnh đồng Phạm hạnh tránh né đứng xa. Ta nói rằng đây là sự
đáng sợ hãi của người ấy. Ví như, này các Tỷ-kheo, sự đáng sợ hãi của
nghĩa địa. Ta nói rằng, này các Tỷ-kheo, người này giống như ví dụ ấy.
7. Ai thành tựu thân nghiệp bất
tịnh, thành tựu khẩu nghiệp bất tịnh, thành tựu ý nghiệp bất tịnh, sống
chung với những hạng người cũng đồng chung với nếp sống ấy. Ta nói rằng
đây là trú xứ hung bạo của người ấy. Ví như, này các Tỷ-kheo, trú xứ các
phi nhân hung bạo của nghĩa địa, Ta nói rằng, này các Tỷ-kheo, người
này giống như ví dụ ấy.
8. Với vị thành tựu thân nghiệp bất
tịnh, thành tựu khẩu nghiệp bất tịnh, thành tựu ý nghiệp bất tịnh này,
các vị thuần tịnh đồng Phạm hạnh thấy vậy trở thành bất mãn và nói: "Ôi
thật là khổ cho chúng tôi, chúng tôi phải chung sống với những người như
vậy". Ta nói rằng đây là làm cho quần chúng than khóc của người ấy. Ví
như này các Tỷ-kheo, nghĩa địa là chỗ làm cho nhiều người than khóc, Ta
nói rằng, này các Tỷ-kheo, người này giống như ví dụ ấy.
Ðây là năm nguy hại, này các Tỷ-kheo, trong người được ví như nghĩa
địa.
(X) (250) Tịnh Tín Ðối Với Một Người
1. - Có năm nguy hại này, này các
Tỷ-kheo, trong lòng tịnh tín đối với một người. Thế nào là năm?
2. Trong người nào, này các Tỷ-kheo,
một người có lòng tịnh tín, và người ấy rơi vào một tội phạm, và tùy
theo tội phạm ấy, chúng Tăng ngưng chức vị ấy. Người này suy nghĩ:
"Người mà ta ái mộ ưa thích, vị ấy bị chúng Tăng ngưng chức", và người
này không còn nhiều tịnh tín đối với các Tỷ-kheo, người này không có
liên hệ với các Tỷ-kheo khác. Do không liên hệ với các Tỷ-kheo khác,
người này không nghe diệu pháp. Do không nghe diệu pháp, người này thối
đọa khỏi Chánh pháp. Ðây là nguy hại thứ nhất, này các Tỷ-kheo, trong sự
tịnh tín đối với một người.
3. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, trong
người nào, một người có lòng tịnh tín, và vị ấy rơi vào một tội phạm, và
tùy theo tội phạm ấy, chúng Tăng bắt vị ấy ngồi vào phía cuối. Người
này suy nghĩ: "Người mà ta ái mộ ưa thích, vị ấy bị chúng Tăng bắt ra
ngồi phía cuối", và người này không còn nhiều tịnh tín đối với các
Tỷ-kheo. Do không còn nhiều tịnh tín đối với các Tỷ-kheo, người này
không có liên hệ đến các Tỷ-kheo khác. Do không liên hệ với các Tỷ-kheo
khác, người này không nghe diệu pháp. Do không nghe diệu pháp, người này
thối đọa khỏi Chánh pháp. Ðây là nguy hại thứ hai, này các Tỷ-kheo,
trong sự tịnh tín đối với một người.
4. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, trong
người nào, một người có lòng tịnh tín, rồi người ấy đi vào một địa
phương khác...người ấy bị loạn tâm...người ấy mạng chung. Người này suy
nghĩ: "Người mà ta ái mộ ưa thích, vị ấy mạng chung". Người này không
liên hệ đến các Tỷ-kheo khác. Do không liên hệ với các Tỷ-kheo khác,
người này không nghe diệu pháp. Do không nghe diệu pháp, người này thối
đọa khỏi Chánh pháp. Ðây là nguy hại thứ năm, này các Tỷ-kheo, trong sự
tịnh tín đối với một người.
XXVI. Phẩm Cụ Túc Giới
(251) Cụ Túc Giới
1.
- Thành tựu năm pháp này, này các
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo cần được trao cụ túc giới. Thế nào là năm?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
thành tựu vô học giới uẩn, thành tựu vô học định uẩn, thành tựu vô học
tuệ uẩn, thành tựu vô học giải thoát uẩn, thành tựu vô học giải thoát
tri kiến uẩn.
Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo cần được trao cụ túc
giới.
(252 - 253) Che Chở Và Phục Vụ
1. - Thành tựu năm pháp, này các
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo cần phải cho sở y chỉ...cần phải được một Sa-di làm thị
giả. Thế nào là năm?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
thành tựu vô học giới uẩn, thành tựu vô học định uẩn, thành tựu vô học
tuệ uẩn, thành tựu vô học giải thoát uẩn, thành tựu vô học giải thoát
tri kiến uẩn.
Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo cần phải được một
sa-di làm thị giả.
(254)
Xan Tham
1. - Này các Tỷ-kheo, có năm xan
tham này. Thế nào là năm?
2. Xan tham trú xứ, xan tham gia
đình, xan tham lợi dưỡng, xan tham tán thán, xan tham pháp.
Này các Tỷ-kheo, có năm xan tham này. Trong năm xan tham này, này các
Tỷ-kheo, cái này là tối hạ liệt, tức là xan tham pháp.
(255) Phạm Hạnh
1. - Do đoạn tận, cắt đứt năm xan
tham, này các Tỷ-kheo, Phạm hạnh được thực hiện. Thế nào là năm?
2. Do đoạn tận, cắt đứt xan tham trú
xứ, Phạm hạnh được thực hiện. Do đoạn tận, cắt đứt xan tham gia
đình...xan tham lợi dưỡng...xan tham tán thán...xan tham pháp, Phạm hạnh
được thực hiện.
Do đoạn tận, cắt đứt năm xan tham này, này các Tỷ-kheo, Phạm hạnh
được thực hiện.
(256) Thiền
1. - Do không đoạn tận năm pháp này,
này các Tỷ-kheo, không có thể chứng đạt và an trú sơ Thiền. Thế nào là
năm?
2. Xan tham trú xứ, xan tham gia
đình, xan tham lợi dưỡng, xan tham tán thán, xan tham pháp.
Do không đoạn tận năm pháp này, này các Tỷ-kheo, không có thể chứng
đạt và an trú sơ Thiền.
3. Do đoạn tận năm pháp này, này các
Tỷ-kheo, có thể chứng đạt và an trú sơ Thiền. Thế nào là năm?
4. Xan tham trú xứ, xan tham gia
đình, xan tham lợi dưỡng, xan tham tán thán, xan tham pháp.
Do đoạn tận năm pháp này, này các Tỷ-kheo, có thể chứng đạt và an trú
sơ Thiền.
(257 - 263) Thiền và Thánh Quả (1)
1. - Do không đoạn tận năm pháp này,
này các Tỷ-kheo, không có thể chứng đạt và an trú Thiền thứ hai...
Thiền thứ ba... Thiền thứ tư... không thể có giác ngộ Dự lưu quả... Nhất
lai quả... Bất lai quả... A-la-hán quả. Thế nào là năm?
2. Xan tham trú xứ, xan tham gia
đình, xan tham lợi dưỡng, xan tham tán thán, xan tham pháp.
Do không đoạn tận năm pháp này, này các Tỷ-kheo, không có thể chứng
ngộ A-la-hán quả.
3. Do đoạn tận năm pháp này, này các
Tỷ-kheo, có thể chứng đạt và an trú Thiền thứ hai... Thiền thứ ba...
Thiền thứ tư... có thể chứng ngộ Dự lưu quả... Nhất lai... Bất lai...
A-la-hán quả. Thế nào là năm?
Do đoạn tận năm pháp này, này các Tỷ-kheo, có thể chứng ngộ A-la-hán
quả.
(264 - 271) Thiền và Thánh Quả (2)
(Như các kinh trên, chỉ thay pháp thứ năm xan tham pháp bằng không
biết ơn, không nhớ ơn)...
(272) Người Tri Phạn (Coi bữa ăn)
1. - Thành tựu năm pháp này, này các
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo không được lựa chọn là người tri phạn. Thế nào là năm?
2. Ði đến dục, đi đến sân, đi đến
si, đi đến sợ hãi, không biết chỉ định và không chỉ định.
Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo không được lựa chọn
là người tri phạn.
3. Thành tựu năm pháp này, này các
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo được lựa chọn là người tri phạn. Thế nào là năm?
4. Không đi đến dục, không đi đến
sân, không đi đến si, không đi đến sợ hãi, biết chỉ định và không chỉ
định.
Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo được lựa chọn là
người tri phạn.
(273 - 277) Tri Phạn
1. - Thành tựu năm pháp này, này các
Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo đã được lựa chọn là tri phạn, thời không nên gửi
đi... được lựa chọn, nên gửi đi... cần phải biết là một người ngu... cần
phải biết là một người trí... tự mình xử sự như kẻ bị mất gốc, bị
thương tích... tự mình xử sự không như người bị mất gốc, bị thương
tích... như vậy tương xứng bị rơi vào địa ngục... như vậy tương xứng
được sanh lên Thiên giới... Thế nào là năm?
2. Không đi đến dục, không đi đến
sân, không đi đến si, không đi đến sợ hãi, biết chỉ định và không chỉ
định.
Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo, người tri phạn như vậy tương
xứng được sanh lên Thiên giới.
(278 - 342) Các Người Khác
1. - Thành tựu năm pháp, này các
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo không nên lựa chọn là người chỉ định phân phối sàng
tọa, nên lựa chọn là người phân phối sàng tọa... không biết phân phối và
không phân phối... biết phân phối và không phân phối... không nên lựa
chọn là người giữ kho... nên lựa chọn là người giữ kho... không biết bảo
vệ và không bảo vệ... biết bảo vệ và không bảo vệ... không nên lựa chọn
là người nhận y... nên lựa chọn là người nhận y... không biết lấy và
không lấy... biết lấy và không lấy... không nên lựa chọn là người chia
y... nên lựa chọn là người chia y... không nên lựa chọn là người chia
cháo... nên lựa chọn là người chia cháo... không nên lựa chọn là người
chia trái... nên lựa chọn là người chia trái... không nên lựa chọn là
người chia bánh... nên lựa chọn là
người chia bánh... không biết chia và không chia... biết chia và không
chia... không nên lựa chọn là người phân phát các vật dụng nhỏ nhặt...
nên lựa chọn là người phân phát các vật dụng nhỏ nhặt... không biết phân
phát và không phân phát... biết phân phát và không phân phát... không
nên lựa chọn là người lãnh thọ nội y... nên lựa chọn là người lãnh thọ
nội y... không nên lựa chọn là người nhận lấy bình bát... nên lựa chọn
là người nhận lấy bình bát... không biết nhận lấy và không nhận lấy...
biết nhận lấy và không nhận lấy... không nên lựa chọn là người quản đốc
người làm vườn... nên lựa chọn là người quản đốc người làm vườn... không
nên lựa chọn là người giám sát Sa-di... nên lựa chọn là người giám sát
Sa-di... được lựa chọn không nên gửi đi... được lựa chọn nên gửi
đi... cần phải biết là một người ngu... cần phải biết là một người Hiền
trí... tự xử sự như kẻ bị mất gốc, bị thương tích... tự xử sự như không
bị mất gốc, không bị thương tích... như vậy tương xứng rơi vào địa
ngục... như vậy tương xứng được sanh lên Thiên giới... Thế nào là năm?
2. Không đi đến dục, không đi đến
sân, không đi đến si, không đi đến sợ hãi, biết gửi đi và không gửi đi.
Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo, người giám sát Sa-di như vậy
tương xứng bị rơi vào địa ngục.
(343) Năm Pháp (1)
1. - Thành tựu năm pháp này, này các
Tỷ-kheo, như vậy tương xứng bị rơi vào địa ngục. Thế nào là năm?
2. Sát sanh; lấy của không cho; sống
không Phạm hạnh; nói láo; đắm say rượu men, rượu nấu.
Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo như vậy tương xứng
bị rơi vào địa ngục.
3. Thành tựu năm pháp, này các
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo như vậy tương xứng được sanh lên cõi Trời. Thế nào là
năm?
4. Từ bỏ sát sanh; từ bỏ lấy của
không cho; từ bỏ không Phạm hạnh; từ bỏ nói láo; từ bỏ đắm say rượu men,
rượu nấu.
Thành tựu năm pháp, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo như vậy tương xứng được
sanh lên Thiên giới.
(344 - 350) Năm Pháp (2)
1. - Thành tựu năm pháp, này các
Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo ni... vị chánh học nữ... vị nam Sa-di... vị nữ
sa-di, vị nam cư sĩ, vị nữ cư sĩ như vậy tương xứng bị rơi vào địa ngục.
Thế nào là năm?
2
- 4 (như kinh 343, với những thay đổi cần thiết).
(351 - 360) Năm Pháp (3)
1. - Thành tựu năm pháp, này các
Tỷ-kheo, vị tà mạng ngoại đạo ly hệ... đệ tử trọc đầu... bện tóc... các
du sĩ... các đệ tử của Magandika... kẻ theo phái cầm chỉa ba... người
theo phái không phản đối... người theo phái Gotama... người theo thiện
pháp, như vậy tương xứng bị rơi vào địa ngục. Thế nào là năm?
2. Sát sanh, lấy của không cho,
không có Phạm hạnh, nói láo, đắm say rượu men, rượu nấu.
Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo, người theo thiện pháp như
vậy tương xứng bị rơi vào địa ngục.
(361)
Tham (1)
1. - Muốn thắng tri tham, này các
Tỷ-kheo, năm pháp cần phải tu tập. Thế nào là năm?
2. Bất tịnh tưởng, tư tưởng, nguy
hại tưởng, tưởng yếm ly đối với đồ ăn, tưởng không có gì đáng ai lạc ở
đời.
Muốn thắng tri tham, này các Tỷ-kheo, năm pháp này cần phải tu tập.
(362
- 363) Tham (2)
1. - Muốn thắng tri tham, này các
Tỷ-kheo, năm pháp cần phải tu tập. Thế nào là năm?
2. Vô thường tưởng, vô ngã tưởng, tử
tưởng, tưởng yếm ly đối với đồ ăn, tưởng không có gì đáng ai lạc ở
đời...Vô thường tưởng, khổ tưởng trong vô thường, vô ngã tưởng trong
khổ, tưởng từ bỏ, tưởng ly tham.
Muốn thắng tri tham, này các Tỷ-kheo, năm pháp này cần phải tu tập.
(364
- 365) Tham (3)
1. - Muốn thắng tri tham, này các
Tỷ-kheo, năm pháp này cần phải tu tập. Thế nào là năm?
2. Tín căn, tấn căn, niệm căn, định
căn, tuệ căn... Tín lực, tấn lực, niệm lực, định lực, tuệ lực.
Muốn thắng tri tham, này các Tỷ-kheo, năm pháp này cần phải tu tập.
(366
- 400) Tham (4)
1. - Này các Tỷ-kheo, muốn biến tri
tham... muốn đoạn diệt... muốn đoạn tận... muốn hủy diệt... muốn hoại
diệt... muốn ly tham... muốn diệt tận... muốn xả bỏ... muốn từ bỏ tham,
năm pháp này cần phải tu tập...
Muốn biến tri... muốn đoạn diệt... muốn đoạn tận... muốn hủy diệt...
muốn hoại diệt... muốn ly tham... muốn diệt tận... muốn xả bỏ... muốn từ
bỏ sân... si... phẫn nộ... hiềm hận... giả dối... não hại... tật đố...
xan tham... man trá... phản trắc... cứng đầu... cuồng nhiệt... mạn...
quá mạn... kiêu căng... phóng dật... ,năm pháp này cần phải tu tập.