NY
ÐÀ NA
(No. 1452)
Quyển
thứ nhất
-ooOoo-
Thành kính đảnh lễ
đức Thế tôn, Ứng cúng, Chánh biến tri.
Tụng
tổng quát.
Sơ minh thọ cận viên
Thứ phân vong nhân vật
Viên đàn tinh hộ câu
Bồ tát tượng ngũ môn.
Tụng tổng quát phần
một.
Cận viên tri nhật số
Giới biệt bất nhập địa
Giới biên ngũ chúng cư
Bất tiệt bì sanh nhục.
Tụng thứ nhất.
Cận viên nam nữ trạng
Phi cận viên vi sư
Nạn đẳng thập vô sư
Mạc thọ ngã thất tuế.
Khi ấy đức Thế Tôn
ở thành Thất La Phiệt (Xá Vệ), rừng Thệ Ða, vườn Cấp
Cô Ðộc, cụ thọ Ô Ba Ly đến gặp Phật, lạy sát hai
chân, ngồi qua một bên, chắp hai tay bạch Phật:
- Thế Tôn! Bí-sô nào
cho người khác thọ cận viên người ấy chuyển đổi căn
(thành nữ), được gọi là thọ đúng pháp không?
Phật dạy:
- Ðúng là thành tựu
thọ cận viên, nhưng nên đưa họ sang ở chỗ Bí-sô ni.
Lại nữa, Bạch Thế
Tôn! Nếu khi Bí-sô đã cho người đàn ông thọ cận viên.
Nhưng người đàn ông này nói tiếng đàn bà, ý muốn như
đàn bà, hình dáng sinh hoạt như đàn bà, người này được
gọi là đắc thọ cận viên không?
Phật dạy:
- Này ông Ô Ba Ly! Người
này đắc cận viên nhưng các Bí-sô bị tội Việt pháp.
- Nếu Bí-sô ni cho người
nữ thọ cận viên, người nữ này lại nói tiếng đàn
ông, ý muốn như đàn ông, hình dáng sinh hoạt như đàn
ông, người này được gọi là đắc cận viên không?
Phật dạy:
- Người này đắc cận
viên. Các Bí-sô ni phạm tội Việt pháp.
Nếu ai lấy người không
thọ cận viên làm thân giáo sư, người này được gọi là
đắc cận viên không?
Phật dạy:
- Người này đắc cận
viên. Các Bí-sô bị tội Việt pháp.
Nếu người nào, thân
có già nạn sự. Tự nói: - Tôi có nạn sự... Các Bí-sô
cho họ thọ cận viên. Người ấy có đắc cận viên không?
Phật dạy:
- Người này không đắc
cận viên. Các Bí-sô mắc tội Việt pháp.
Nếu người nào, thân
không có già nạn sự. Tự nói: - Tôi có già nạn... Các
Bí-sô cho họ thọ cận viên. Người này đắc cận viên
không?
Phật dạy:
- Người này đắc cận
viên. Các Bí-sô bị tội Việt pháp.
Nếu người nào thật
có già nạn sự. Tự nói: - Tôi không có già nạn... Các
Bí-sô cho họ thọ cận viên. Người này đắc cận viên
không?
Phật dạy:
- Người này không đắc
cận viên. Các Bí-sô không phạm.
Nếu người nào thật
không có già nạn sự. Lại tự nói: - Không có. Các Bí-sô
cho họ thọ cận viên. Người này đắc cận viên không?
Phật dạy:
- Người này thật đắc
cận viên.
- Bí-sô nào cho người
xuất gia, chưa cho thọ mười giới mà cho thọ cận viên
ngay. Người này đắc cận viên không?
Phật dạy:
- Ðắc cận viên. Các
Bí-sô phạm tội Việt pháp.
Người nào khi thọ cận
viên, thân giáo sư không hiện diện các Bí-sô cho thọ cận
viên. Người này đắc cận viên không?
Phật dạy:
- Người này đắc cận
viên. Các Bí-sô bị tội Việt pháp.
Người nào khi thọ cận
viên, lại tự phát biểu: Ðừng truyền cho tôi cận viên.
Các Bí-sô cứ cho họ thọ cận viên. Người này đắc cận
viên không?
Phật dạy:
- Người này không đắc
cận viên. Các Bí-sô bị tội Việt pháp.
Như Thế Tôn dạy:
- Người nào đủ bảy
tuổi, có thể đuổi quạ chim nên cho họ xuất gia.
- Bạch Ðại đức! Nếu
có đồng tử tuổi mới lên sáu, có thể đuổi quạ chim
nơi nhà bếp của Tăng. Người này được phép xuất gia
không?
Phật dạy:
- Chỉ cho phép người đủ bảy tuổi, nhỏ
hơn không được.
- Nếu người đủ bảy tuổi nhưng không đuổi
quạ chim được, cho họ xuất gia không?
Phật dạy:
- Không được cho xuất gia những người chưa
đuổi chim quạ được.
Tụng thứ hai.
Nhật số mỗi ưng
tri
Cáo bạch dạ tu giảm
Lục nhật thập bát nhật
Thuyết giới bất ưng tần.
Phật ở thành Thất La
Phạt, các Bà la môn cư sĩ đến gặp các Bí-sô hỏi:
- A Ly Gia (thánh giả)
hôm nay ngày mấy?
Ðáp: - Không biết.
Những người khác thưa
rằng:
- Thánh giả! Các ngoại
đạo đối với việc tính ngày, tháng, năm (nguyên văn là
tính số ngày và lịch các vì sao) họ đều biết rõ. Quý
ngài cũng nên biết rõ về việc này. Tại sao quý ngài
không biết tính ngày, tháng, năm, mà được xuất gia?
Các Bí-sô im lặng
không đáp, đem sự việc này bạch Phật. Phật dạy:
- Từ nay ta cho phép
các Bí-sô biết về cách tính ngày, tháng, năm.
Các Bí-sô đua nhau học
các phép tính ngày, tháng, năm, sinh ra bận rộn, bỏ phế việc
tu thiện nghiệp.
Phật dạy:
- Nên cử một người
học phép tính này.
Các Bí-sô nghe Phật dạy,
không biết cử vị nào cho thích hợp.
Phật dạy:
- Nên cử thượng tọa
thủ chúng phụ trách việc này.
Có vị thượng tọa quên
mất số ngày, bảo vị tri sự, vị này cũng không nhớ.
Phật dạy:
- Nên làm những viên
đất tròn hay thẻ tre, đủ mười lăm cái, mỗi ngày di chuyển
một cái.
Làm như vậy xong có
khi bị gió thổi, thứ tự các vật trên bị đảo lộn.
Phật dạy:
- Nên làm mười lăm thẻ
tre, dài khoảng bốn năm ngón tay một đầu khuyết lỗ, xỏ
xâu treo lên vách nơi mọi người thường qua lại, mỗi ngày
di chuyển một cái.
Khi ấy mọi người đều di chuyển thẻ.
Phật dạy:
- Chỉ có thượng tọa
và tri sự mới được di chuyển thẻ.
Có Bà la môn cư sĩ đến
gặp các Bí-sô hỏi:
- Thánh giả! Hôm nay
ngày mấy?
Ðáp:
- Quý vị nên hỏi thượng
tọa và tri sự.
Những người này nói:
- Quý ngài cũng có thể
tính toán nên biết thì hơn, chỉ sang người khác làm gì?
Các Bí-sô im lặng
không trả lời, đem việc này bạch Phật.
Phật dạy:
- Nên tác bạch cho đại
chúng cùng biết, các Bí-sô gặp nhau chỗ nào cũng tác bạch
cả.
Phật dạy:
- Không được chỗ nào
cũng tác bạch cả. Ngay khi đại chúng tập hợp, kính bạch
ngay trước vị thượng tọa: Ðại chúng nên biết, hôm nay
là ngày... tháng...
Cư sĩ nghe nói như vậy
hỏi:
- Tại sao các người
không nói rõ là: Nửa tháng thuộc hắc hay bạch nguyệt.
Ðáp:
- Không.
Các Bí-sô bạch Phật.
Phật dạy:
- Nói rõ thuộc phần hắc
hay bạch nguyệt của tháng. Phải thuyết minh như vậy. Ngay
sau buổi chiều đại chúng tập họp, bảo một Bí-sô, đến
trước thượng tọa chắp tay đứng, nhất tâm cung kính bạch
như thế này:
- Ðại đức Tăng già
lắng nghe, hôm nay ngày một thuộc hắc nguyệt, quý vị nên
vì thí chủ tạo chùa và Chư thiên hộ chùa cùng thiên thần
cựu trú mà tụng diệu kệ thanh tịnh trong Kinh.
Các Bí-sô tuy ngày nào
cũng cáo bạch nhưng không xưng tên họ của thí chủ tạo
chùa.
Phật dạy:
- Nên xưng tên họ thí
chủ tạo chùa, cũng nên thuyết minh rõ tên họ người thí
chủ cúng ngọ trai, để làm cho các thí chủ kia hoàn thành
ý nguyện phước thiện tăng thêm. Nếu có các thí chủ
khác cũng nên xưng tên như vậy. Ngoài ra Thiên chúng Bát bộ,
Sư Tăng cha mẹ đều phải xưng tên, phổ cập tất cả
chúng sanh đều được tăng trưởng phước lợi.
Các Bí-sô nghe lời dạy
xong, đều nói bài kệ thanh tịnh:
Người thực hành bố
thí
Tất thu hoạch phước lợi
Nếu ưa thích bố thí
Sau sẽ được an lạc
Phước báo của Bồ tát
Vô tận như hư không
Thí kết quả như vậy
Tăng trưởng không ngừng nghỉ.
Có thí chủ thỉnh các
Bí-sô cúng dường, Bí-sô biết vậy nhưng không xưng tên họ
và trú xứ của thí chủ.
Phật dạy:
- Phải chuẩn bị việc
xưng tên họ thí chủ như: Thí chủ... ngày mai sẽ trai Tăng
cúng dường đại chúng ở chỗ...
Có Bà la môn cư sĩ đến
chỗ Bí-sô hỏi:
- Thánh giả! Hôm nay
ngày mấy? Ðáp:
- Ngày mười lăm.
Hỏi:
- Mọi người đều nói
ngày mười bốn. Tại sao quý ngài nói ngày mười lăm, chẳng
lẽ các Bí-sô không biết tính việc giảm ngày hay sao
(tháng thiếu).
Ðáp:
- Không tính.
Các Bí-sô bạch Phật.
Phật dạy:
- Phải tính ngày giảm.
Các Bí-sô vào nửa
tháng nào cũng giảm một ngày. Cư sĩ hỏi:
- Thánh giả! Hôm nay
ngày mấy?
Ðáp:
- Ngày mười bốn.
Hỏi:
- Mọi người đều nói
ngày mười lăm, tại sao nửa tháng nào quý ngài cũng giảm
một ngày vậy.
Các Bí-sô đem việc này
bạch Phật.
Phật dạy:
- Các thầy không được
nửa tháng nào cũng giảm một ngày, cần phải tính toán thời
gian nào đi qua nửa tháng đó mới được giảm ngày (nguyên
chú: Từ mười sáu tháng giêng đếân mười lăm tháng hai
là một tháng. Từ mười sáu tháng hai đếân hết tháng hai
là nửa tháng. Nửa tháng này phải giảm bớt một ngày vì
tháng thiếu. Ngoài ra tương tự như vậy. Nhưng Ðông, Tây
không giống nhau). Như vậy, trong một năm tổng cộng làm
trưởng tịnh có sáu ngày vào nửa tháng mười bốn ngày
và sáu ngày vào nửa tháng mười lăm ngày.
Có Bà la môn cư sĩ đến
hỏi Bí-sô:
- Thánh giả! Bây giờ
tháng mấy?
Ðáp:
- Nay là tháng Thất la
mạt noa (nguyên chú: khoảng
mười sáu tháng năm đến mười lăm tháng sáu).
Họ hỏi tiếp:
- Thánh giả! Mọi người
đều nói là tháng A sa trà (từ mười sáu tháng tư đến
mười lăm tháng năm) tại sao quý vị nói là tháng Thất
la mạt noa. Chẳng lẽ quý vị không tính tháng nhuận hay
sao?
Ðáp:
- Không tính.
Mọi người đều cười
chê.
Các Bí-sô bạch Phật.
Phật dạy:
- Phải tính tháng nhuận.
Năm nào các Bí-sô cũng
tính thêm tháng nhuận. Cư sĩ hỏi:
- Thánh giả! Nay là
tháng mấy?
Ðáp:
- Nay là tháng A sa trà.
Hỏi tiếp:
- Thánh giả! Mọi người
đều nói là tháng Thất la mạt noa. Tại sao quý ngài lại
nói tháng A sa trà. Chẳng lẽ năm nào quý ngài cũng tính
thêm tháng nhuận?
Ðáp:
- Ðúng vậy.
Mọi người đều cười
chê. Các Bí-sô đem việc này bạch Phật. Phật dạy:
- Không được năm nào
cũng tính tháng nhuận. Phải đến sáu năm mới tính tháng
nhuận (nguyên chú: Cứ năm
đến sáu năm tăng thêm ba mươi ngày, đây là cách tính thời
cổ, nay không đồng nhau).
Bấy giờ có một quốc
vương quy định cứ hai năm rưởi tính một tháng nhuận,
các Bí-sô không làm theo. Mọi người cùng nhau chê bai.
Phật dạy:
- Bí-sô phải tùy theo
phép vua để tính tháng nhuận. Nếu quỹ đạo các hành tinh
có sai biệt thì tùy theo sự sai biệt ấy mà thay đổi để
sử dụng cho thích hợp. Thế nên các thầy cần phải biết
phân biệt tính toán năm tháng ngày giờ để cùng sử dụng
với thế gian. Không tạo các điều kiện để ngoại đạo
dựa vào những lý do ấy mà tìm lỗi các thầy.
- Bạch đại đức Thế
Tôn! Bí-sô nào bị trú xứ cử tội thọ học, vị ấy được
thuyết giới không?
Phật dạy:
- Không được.
Tụng thứ ba.
Giới biệt bất các
tịnh
Diệt bất vi yết ma
Thừa không bất trì dục
Giải tiền phương kết hậu.
Phật ở thành Thất La
Phạt. Cụ thọ Ô Ba Ly thưa Thế Tôn:
- Người ở trong
cương giới được nói với người ngoài cương giới rằng
mình thanh tịnh không?
Phật dạy:
- Không được.
- Người ở ngoài cương
giới được nói với người trong cương giới rằng mình
thanh tịnh không?
Phật dạy:
- Không được.
- Người ở trong
cương giới được phép làm yết ma cho người ngoài cương
giới không?
Phật dạy:
- Không được.
- Người ở ngoài cương
giới được phép làm yết ma cho người trong cương giới không?
Phật dạy:
- Không được.
- Người mang dục đi
trên hư không thành mang dục không?
Phật dạy:
- Không thành, phải lấy
dục lại lần nữa.
- Nếu chưa giải cương giới cũ được kết
cương giới mới không?
Phật dạy:
- Không được, phải bạch Tứ yết ma giải giới
cũ, sau đó mới kiết giới mới.
Tụng thứ tư.
Bất thập giới xả
giới
Thọ giới hữu Thế Tôn
Bất việt cập khả việt
Yết ma giã thân tử .
Cụ thọ Ô Ba Ly thưa
Thế Tôn:
- Ðược phép lấy cương
giới không được nhập chung với cương giới khác không?
Phật dạy:
- Không được.
- Có bao nhiêu loại cương
giới không được nhập chung với nhau.
Phật dạy:
- Ðó là Tiểu đàn trường
và chỗ nước ngay trong hiện tại (hiện đình thủy xứ) cương
giới Bí-sô và cương giới Bí-sô ni. Ðây đều không nhập
chung lẫn nhau.
Chỗ nào trước đây
đã kết cương giới, có bao nhiêu trường hợp xả?
Phật dạy:
- Có năm trường hợp:
1. Tất cả đại chúng
đều hoàn tục.
2. Tất cả đại chúng chuyển căn một lúc.
3. Tất cả đại chúng quyết tâm bỏ đi.
4. Tất cả đại chúng chết hết.
5. Bỉnh bạch giới yết ma giải giới.
Ðược phép lấy một
cây làm tiêu tướng cho hai cương giới không?
Phật dạy:
- Mỗi phần giữ một
góc, được phép lấy một cây làm tiêu tướng cho ba hoặc
bốn cương giới. Biết cách tính toán cho bằng nhau, đều
được thành tựu.
Thế Tôn ở nước Ca
Thị, du hành trong nhân gian. Ði đến một chỗ nọ, ngài mỉm
cười. Thường pháp của Thế Tôn là khi ngài mỉm cười,
ngay nơi miệng, phát ra năm loại hào quang xanh, vàng, đỏ,
trắng, hồng, hoặc chiếu xuống dưới, hoặc chiếu lên
trên. Hào quang chiếu xuống tận đến Ðẳng Hoặc địa ngục,
Hắc Thằng địa ngục, Chúng Hợp địa ngục, Hào Khiếu địa
ngục, Ðại Hào Khiếu địa ngục, Thiêu Nhiên địa ngục,
Ðại Thiêu Nhiên địa ngục, Vô Gián địa ngục, Bào Hình
địa ngục, Liên Bào địa ngục, A Tra Tra địa ngục, A Kha
Kha địa ngục, A Hô Lô địa ngục, Thanh Liên Hoa địa ngục,
Hồng Liên Hoa địa ngục, Ðại Hồng Liên Hoa địa ngục, tất
cả những chỗ ấy nếu đang bị nóng bức, đều được mát
mẻ. Nếu đang chịu nước lạnh lẽo thì được ấm áp.
Các loài hữu tình ấy đều được an lạc, chúng đồng nói:
- Ta cùng các người đã
chết chỗ cũ sinh vào chỗ khác ư?
Khi ấy Thế Tôn làm
cho các loài hữu tình ấy đều sinh lòng tín ngưỡng. Ngài
lại hiện tướng khác, chúng thấy tướng ngài đều tự nói:
- Chúng ta nào phải chết
từ chỗ cũ sinh vào chỗ khác đâu, mà nhờ thần lực của
vị đại nhân đặc biệt kia, làm cho thâm tâm chúng ta được
chỗ mát mẽ.
Khi ác hữu tình ấy
sinh tâm kính tín như vậy thì diệt được các thống khổ
ở địa ngục, thọ được thân thắng diệu ở cõi trời
người. Họ sẽ là bậc pháp khí thấy được chân lý. Hào
quang chiếu lên soi thiên chúng cõi trời Tứ Thiên Vương đến
Tam Thập Tam Thiên, Dạ Ma Thiên, Ðổ Sử Ða Thiên, Lạc Biến
Hóa Thiên, Tha Hóa Tự Tại Thiên, Phạm Chúng Thiên, Phạm Phụ
Thiên, Ðại Phạm Thiên, Thiểu Quang Thiên, Vô Lượng Quang
Thiên, Cực Quang Tịnh Thiên, Thiểu Tịnh Thiên, Vô Lượng Tịnh
Thiên, Biến Tịnh Thiên, Vô Vân Thiên, Phước Sanh Thiên, Quảng
Quả Thiên, Vô Phiền Thiên, Vô Nhiệt Thiên, Thiện Hiện
Thiên, Thiện Kiến Thiên, đến Tận Sắc Cứu Cánh Thiên.
Ngay trong hào quang này diễn thuyết các pháp Khổ, Không, Vô
thường, Vô ngã và hai bài kệ:
Ngươi nên cầu xuất
ly
Siêng tu lời Phật dạy
Hàng phục quân sanh tử
Như voi xô nhà cỏ.
Ngay trong pháp luật này
Tinh tấn không phóng dật
Làm cạn biển phiền não
Sẽ thoát khỏi cảnh khổ.
Ánh hào quang sau khi chiếu
khắp cả ba ngàn thế giới, quy tụ lại chỗ Phật. Nếu Thế
Tôn thuyết minh việc quá khứ thì hào quang đi vào sau lưng.
Nếu ngài thuyết minh việc vị lai thì hào quang đi vào ngực.
Nếu ngài thuyết minh việc địa ngục thì hào quang đi vào
dưới chân. Nếu ngài thuyết minh việc bàng sanh thì hào
quang đi gót chân. Nếu ngài thuyết minh việc ngạ quỷ thì
hào quang đi vào ngón chân. Nếu ngài thuyết minh việc người
thì hào quang đi vào đầu gối. Nếu ngài thuyết minh lực
Luân Vương thì hào quang đi vào bàn tay trái. Nếu ngài thuyết
minh về Chuyển Luân Vương thì hào quang đi vào bàn tay phải.
Nếu ngài thuyết minh về trời thì hào quang đi vào rốn. Nếu
ngài thuyết minh về Thanh Văn thì hào quang đi vào miệng. Nếu
ngài thuyết minh về Ðộc Giác thì hào quang đi vào giữa
hai chân mày. Nếu ngài thuyết minh về Chánh Ðẳng Giác thì
hào quang đi vào đỉnh đầu. Bấy giờ hào quang xoay quanh Phật
ba vòng và đi vào đỉnh đầu. Cụ thọ A Nan Ðà chắp tay
cung kính bạch Phật:
- Thế Tôn! Ðức Như
lai Ứng Cúng Chánh Ðẳng Giác an vui mỉm cười, phải có
nhân duyên, liền nói kệ:
Từ miệng tỏa ra nhiều
hào quang
Tràn khắp đại thiên vô số sắc
Chiếu khắp các cõi nước mười phương
Như mặt trời sáng tận hư không
Phật chỉ chúng sinh nhân tối thắng
Trừ được kiêu mạn và ưu sầu
Không duyên thưa hỏi, Phật mỉm cười
Tất có diễn thuyết pháp hy hữu
Thế Tôn xem xét thật rõ ràng
Vì người muốn nghe, giảng chính pháp
Như vua sư tử rống tiếng lớn
Xin vì chúng con quét lòng nghi
Như núi Diệu Cao trong biển lớn
Nếu không nhân duyên không lay động
Ðức Phật từ bi tự tại cười
Vì người khát ngưỡng giảng nhân duyên.
Thế Tôn bảo A Nan
Ðà:
- Ðúng như vậy! Ðúng
như vậy! Chẳng phải không nhân duyên mà đức Như Lai Ứng
Cúng Chánh Ðẳng Giác mỉm cười. Này A Nan Ðà! Ngay tại chỗ
đất này là nơi thời quá khứ đức Phật Ca Nhiếp Ba thuyết
pháp cho chúng đệ tử Thanh văn.
Nghe lời dạy này tôn
giả A Nan Ðà vội vàng lấy y Uất Ða La Tăng (y mặc trên)
xếp làm tư, bạch Phật rằng:
- Thế Tôn! Con đã trải
tòa, ngưỡng mong Thế Tôn tri thời, có thể ngồi ở tòa
này. Con mong ước đất này là chỗ thọ dụng của hai bậc
chánh giác, đó là Phật Ca Nhiếp Ba và Thế Tôn hiện nay.
Phật bảo A Nan Ðà:
- Lành thay! Lành thay!
Ta tuy không bảo nhưng ông tự biết đúng lúc.
Thế Tôn ngồi lên tòa
ấy, bảo A Nan Ðà:
- Ngay tại địa
phương này là chùa của Phật Ca Nhiếp Ba trú ngụ. Các thầy
nên biết: Ðây là chỗ kinh hành, đây là chỗ hành lang nơi
cửa phòng để rửa chân, đây là chỗ tịnh trù, đây là
phòng tắm.
Khi ấy, Ô Ba Ly bạch
Phật:
- Thế Tôn! Như Phật
đã dạy tịnh và bất tịnh địa. Như vậy thế nào gọi
là tịnh, bất tịnh.
Phật dạy:
- Chánh pháp trụ thế
có tịnh và bất tịnh, chánh pháp bị diệt, đều là bất
tịnh.
- Bạch Thế Tôn! Thế
nào là chánh pháp trụ thế, thế nào là bị diệt?
Phật dạy:
- Ô Ba Ly! Nếu còn có
Bỉnh pháp yết ma, có thực hành như lời pháp. Như vậy
được gọi là chánh pháp trụ thế. Nếu không còn Bỉnh
pháp yết ma, không thực hành như lời pháp. Như vậy được
gọi là chánh pháp bị diệt hoại.
Ô Ba Ly bạch Phật:
- Nếu bậc Vô Thượng
đại sư ở ngoài giới, các Bí-sô được Bỉnh pháp yết
ma không?
Phật dạy:
- Không được.
- Nếu đại sư ở trong giới những người khác
được Bỉnh pháp yết ma không?
Phật dạy:
- Ðược!
- Ðược phép lấy Thế
Tôn kể vào túc số tăng hay không?
Phật dạy:
- Không được! Phật bảo
và Tăng bảo thể tánh sai biệt.
- Ngay nơi cương giới không thể vượt qua,
được phép vượt qua không?
Phật dạy:
- Không được.
- Bạch đại dức Thế
Tôn! Có bao nhiêu cương giới không thể vượt qua?
Phật dạy:
- Có năm loại cương
giới: Bí-sô giới, Bí-sô ni giới, Tiểu đàn trường, Hiện
đình thủy xứ, trung gian hai giới.
- Bạch đại đức! Nếu
có hào sâu và sông khe suối lấy làm giới không vượt qua,
làm sao được vượt qua?
Phật dạy:
- Nếu thường xuyên
có cầu, vượt qua không có lỗi. Nếu cầu bị phá hoại,
trong thời gian bao lâu được gọi là không mất giới?
Phật dạy:
- Vừa bằng bảy đêm.
Ðây căn cứ vào trường hợp có tâm lo sửa cầu. Nếu
không có tâm sửa cầu, thì khi cầu hư, liền bị mất giới.
Bí-sô ngay sau khi kiết
giới. Người Bỉnh pháp yết ma bỗng nhiên qua đời, chẳng
biết cương giới có thành tựu không?
Phật dạy:
- Nếu biết tiêu tướng
khi tác pháp yết ma đã tiến hành quá bán. Vị ấy tuy qua
đời nhưng kiết giới vẫn thành tựu. Nếu chưa biết tiêu
tướng, yết ma chưa tiến hành quá bán, vị ấy qua đời,
không thành kiết giới. Bí-sô ni kiết giới có thành tựu
hay không, căn cứ vào đây thì rõ.
Tụng thứ năm:
Ðịa tường đẳng bỉnh
sự,
Kiết giới vô dữ dục
Ðản ư nhất xứ tọa
Ðắc vi tứ yết ma.
Duyên khởi tại thành
Thất La Phạt.
Cụ Thọ Ô Ba Ly bạch
Thế Tôn:
- Người ở trên mặt
đất, cùng người ở trên mặt đất nhưng cách xa nhau, tác
pháp yết ma, vậy tác pháp yết ma thành tựu không?
Phật dạy:
- Không thành, gởi dục
thì thành tựu.
- Ðại đức! Người
ở dưới đất và người trên đầu tường cùng tác pháp yết
ma, vậy tác pháp thành tựu không?
Phật dạy:
- Không thành.
- Ðại đức! Người
ở dưới đất và người ở trên cây cùng tác pháp yết
ma, vậy tác pháp thành tựu không?
Phật dạy:
- Không thành!
- Bạch Ðại đức!
Người ở dưới đất cùng người ở trên không tác pháp yết
ma. Vậy tác pháp thành tựu không?
Phật dạy:
- Không thành. Nên biết
rằng lấy trên cây, trên tường không trung làm đầu đề
đều có bốn trường hợp như vậy.
Như Thế Tôn dạy, có
101 pháp yết ma. Có bao nhiêu pháp cho phép gởi dục, có bao
nhiêu pháp không cho phép gởi dục?
Phật dạy:
- Chỉ trừ kết cương
giới, ngoài ra đều cho phép được gởi dục.
- Ðại đức! Nếu sử
dụng thần biến, huyễn thuật tạo ra tiêu tướng, thành
tiêu tướng không?
Phật dạy:
- Không được! Thần lực huyễn thuật đều
không thực có.
- Nếu lấy mặt trời,
mặt trăng, tinh tú làm tiêu tướng, thành tiêu tướng không?
Phật dạy:
- Không được! Vì mặt
trời mặt trăng, tinh tú không ở một chỗ.
- Nếu lấy sóng nước
làm tiêu tướng, thành tiêu tướng không?
Phật dạy:
- Không thành! Vì sóng
nước luôn luôn thay đổi.
- Nếu Bí-sô đi trên
không, nhận dục thanh tịnh của người khác gởi. Ðây được
gọi là gởi dục thanh tịnh không?
Phật dạy:
- Không thành! Phải lấy
dục lại lần nữa.
- Nếu có một Bí-sô
tác pháp yết ma tại bốn trú xứ, cùng được thành tựu
không?
Phật dạy:
- Nếu tại bốn giới
ấy đều có bốn người và sự hiện tiền (nhân sự hiện
tiền). Mỗi chỗ bố trí ba người. Khi ấy người Bỉnh pháp
hoặc dùng ghế, giường, phản hoặc chiếu đặt trên bốn
giới mà Bỉnh pháp yết ma. Vì người Bỉnh pháp thêm những
người kia thành bốn, đều thành tác pháp. Như vậy, ngay tại
bốn giới có biệt sự phát sinh, được phép làm bảy yết
ma là:
1- Khu tẫn yết ma.
2- Linh bố yết ma.
3- Chiết phục yết ma.
4- Cầu tạ yết ma.
5- Bất kiến tội yết ma.
6- Bất như pháp hối yết ma.
7- Bất xã ác kiến yết ma.
Khi tiến hành các pháp
yết ma này, người Bỉnh pháp ở vị trí của góc bốn cương
giới tiếp cận nhau. Dùng ghế, giường phản, chiếu, đệm
đặt trên vị trí ấy để ngồi. Bỉnh pháp đều thành tựu.
Tụng thứ sáu.
Ðại giới lưỡng dịch
bán
Hạ thủy thượng sơn điên
Dị kiến minh tướng quá
Ngũ chúng thọ thất nhật.
Cụ thọ Ô Ba Ly bạch
Thế Tôn:
- Như Thế Tôn dạy phải
kết đại giới vậy cho phép (mỗi chiều) đại giới rộng
bằng bao nhiêu?
Phật dạy:
- Ðại giới, mỗi chiều
rộng hai du thiện na rưỡi, có thể kết đại giới. (Nguyên
chú du thiện na chừng ba mươi dặm, đây là một trạm ngựa
(dịch). Nói do tuần là sai, muốn cho dễ hiểu nên nói là
trạm ngựa).
- Nếu khoảng cách lớn
hơn hai du thiện na rưởi thì còn trong phạm vi của đại giới
không?
Phật dạy:
- Khoảng cách lớn hơn
hai du thiện na rưởi không còn là đại giới không?
Phật dạy:
- Khoảng cách lớn hơn
hai du thiện na rưởi không còn là đại giới.
- Hướng về phía dưới
vừa bằng bao nhiêu thì được gọi là đại giới?
Phật dạy:
- Ðến ngay chỗ có nước
được gọi là phạm vi đại giới.
- Ngoài phạm vi hai du
thiện na rưởi mới đến chỗ nước, khoảng cách thừa ra
đó được gọi là đại giới không?
Phật dạy:
- Không phải.
- Lên cao bao nhiêu là
phạm vi đại giới?
Phật dạy:
- Cao bằng ngọn cây hoặc
bằng đầu tường, được gọi là thuộc phạm vi đại giới.
- Ðại đức! Từ hai
du thiện na rưởi đến ngọn cây, khoảng thừa ra đó, được
gọi là giới không?
Phật dạy:
- Không phải.
- Ngược lên đỉnh núi,
đến đâu được gọi là trong phạm vi của giới?
Phật dạy:
- Ðến chỗ có nước
(cắt ngang), ngoài phạm vi hai trạm rưởi, vừa đến chỗ
ranh nước, khoảng cách này được gọi là giới không?
Phật dạy:
- Không phải.
- Nếu trong hạ (an cư)
có tăng già phá hoại. Bí-sô nào từ thân hữu như pháp gia
nhập thân hữu phi pháp, như vậy vị ấy phá hạ hay không
phá hạ?
Phật dạy:
- Bí-sô như vậy, thích
thú ác kiến, gia nhập bạn bè ác, đến khi minh tướng xuất
hiện, thành phá hạ. Nếu không thích thú với dị kiến đến
chỗ bạn bè ác. Tuy minh tướng đã xuất hiện nhưng không
gọi phá hạ.
Như Thế Tôn dạy:
- An cư trong hạ, có
duyên sự phải ra ngoài, được cho phép đi trong bảy ngày,
vậy người nào được phép đi?
Phật dạy:
- Có năm chúng được
phép: Bí-sô, Bí-sô ni, Chánh học nữ, Cầu tịch, cầu tịch
nữ.
- Người này được thọ
xuất giới ở đâu?
Phật dạy:
- Vị này có thể ngay
trong cương giới, đối thủ với một Bí-sô, chắp tay đứng
nghiêm trang, thưa như thế này: Cụ thọ nhớ cho, tôi
Bí-sô.... ở tại trú xứ này thọ ba tháng tiền (hay hậu)
an cư. Tôi, Bí-sô tên... mổ giáp... vì tăng già sự xin
pháp thủ trì ra ngoài đại giới bảy ngày. Nếu không nạn
duyên thì tôi trở lại trú xứ này. Hạ này tôi an cư ở
đây. Thưa như vậy ba lần, hoặc có những duyên sự cần
đi một ngày... cho đến sáu ngày đều căn cứ vào phép bảy
ngày để thọ, đầy đủ như chỗ khác.
Tụng thứ bảy.
Ngũ chúng tọa an cư
Thân đẳng thỉnh nhật khứ
Ư kinh hữu nghi vấn
Cầu giải giã ưng hành.
Cụ thọ Ô Ba Ly thưa
Thế Tôn:
- Như Thế Tôn dạy phải
an cư mùa hạ, không biết những ai phải an cư?
Phật dạy:
- Năm chúng đều an
cư. Ấy là: Bí-sô, Bí-sô ni, Chánh học nữ, Cầu tịch, Cầu
tịch nữ. Tại chỗ khuất, đối trước một Bí-sô, ngồi
xổm bạch rằng: "Cụ thọ nhớ cho, hôm nay ngày mười
sáu tháng năm, tăng già an cư mùa hạ. Tôi, Bí-sô tên... cũng
vào ngày mười sáu tháng năm tiền an cư mùa hạ, bằng
tháng trong đại giới của trú xứ này. Trong thời gian này
lấy vị... làm thí chủ, vị... làm người doanh sự, vị...
làm người xem bịnh. Ngay tại trú xứ này nếu có sụp đổ
hư dột, sẽ sửa chữa lại. Ngay trong hạ này, tôi an cư tại
đây, lần thứ hai lần thứ ba cũng bạch như vậy. Hoặc tiền
hay hậu an cư tùy ý nên làm như vậy. Phải biết rằng ni
đối với ni căn cứ Bí-sô mà làm. Cầu tịch phải đối với
Bí-sô mà làm, Chánh học nữ, Cầu tịch nữ đối với Bí-sô
ni mà làm."
Như Thế Tôn dạy:
- Khi Bí-sô tọa an cư,
nếu có duyên sự do Ô Ba Sách Ca (Phật tử nam) mời thỉnh,
được phép đi trong bảy ngày, nếu có duyên sự do ngoại
đạo hay thân tộc mời thỉnh được phép đi không?
Phật dạy:
- Ðược phép.
- Ðối với Tam tạng
có việc nghi ngờ cần phải thỉnh vấn, được phép đi không?
Phật dạy:
- Ðược phép đi.
Bí-sô nào chưa đắc cầu
đắc, chưa giải cầu giải, chưa chứng cầu chứng và có
tâm nghi ngờ, cần phải đi để giải quyết. Vì, những việc
như vậy, được phép thủ trì đi trong bảy ngày không?
Phật dạy:
- Ðược phép. Nếu đi
một hai ngày... đều căn cứ đây mà thi hành.
CĂN BẢN THUYẾT NHẤT
THẾ HỮU BỘ
TỲ NẠI DA
NY ÐÀ NA
- Hết quyển 1 -
-ooOoo-
ÐẠI ÐƯỜNG CẢNH
LONG NĂM THỨ TƯ
Năm Mậu Tuất ngày Nhâm Ngọ 15 tháng 4
(tức đời Ðường Trung Tôn
năm thứ 4, Dương lịch năm 710 -- Người dịch)
1- Kinh thân Tam Tạng
Pháp Sư, Ðại đức Sa-môn Nghĩa Tịnh tuyên dịch Phạn bản
và viết thành chánh văn.
2- Phiên Kinh Sa-môn Thổ
Hỏa La, Ðại đức Ðạt Ma Mạt Ma kiểm chứng nghĩa chữ
Phạn.
3- Phiên Kinh Sa-môn
Trung Thiên Trúc Quốc, Ðại đức Bạc Noa kiểm chứng nghĩa
chữ Phạn.
4- Phiên Kinh Sa-môn Kế
Tân Quốc, Ðại đức Ðạt Ma Nan Ðà kiểm chứng Phạn văn.
5- Phiên Kinh Sa-môn Truy
Châu Ðại Văn Tự, Ðại đức Huệ Chiểu chứng nghĩa.
6- Phiên Kinh Sa-môn Lạc
Châu Sùng Quang Tự, Ðại đức Luật sư Ðạo Lâm chứng nghĩa.
7- Phiên Kinh Sa-môn Phước
Thọ Tự Chủ, Ðại đức Lợi Minh chứng nghĩa.
8- Phiên Kinh Sa-môn Vị
Châu Thái Bình Tự, Ðại đức Luật Sư Ðạo Lạc chứng
nghĩa.
9- Phiên Kinh Sa-môn Ðại
Tiến Phước Tự, Ðại đức Thắng Trang chứng nghĩa.
10- Phiên Kinh Sa-môn Tương
Châu Thiền Hà Tự, Ðại đức Huyền Sức chứng nghĩa bút
thọ.
11- Phiên Kinh Sa-môn Ðại
Tiến Phước Tự, Ðại đức Trí Tích chứng nghĩa chánh tự.
12- Phiên Kinh Sa-môn Ðức
Châu Ðại Văn Tự Chủ Tuệ Suất chứng nghĩa.
13- Phiên Kinh Sa-môn
Tây Lương Châu Bạch Pháp Tự, Ðại đức Tuệ Tích đọc
Phạn bổn.
14- Phiên Kinh Bà la môn
Hữu Kiêu Vệ Dực Phủ Trung Lang Tướng Viên Ngoại Trí Túc
Vệ Thần Lý Thích Ca đọc Phạn bổn.
15- Phiên Kinh Bà la môn
Ðông Thiên Trúc Quốc Tả Thần Vệ Dực Phủ Trung Lang Tướng
Viên Ngoại Trí Ðồng Chánh Viên Thần dịch, Kim Cang chứng
nghĩa.
16- Phiên Kinh Bà la môn
Ðông Thiên Trúc Quốc, Ðại Thủ Lĩnh Thần Y Kim Cang chứng
Phạn bổn.
17- Phiên Kinh Bà la môn
Tả Lĩnh Quân Vệ Trung Lang Tướng Ca Thấp Di La Quốc Vương
Tử Thần A Thuận chứng nghĩa.
18- Phiên Kinh Bà la môn
Ðông Thiên Trúc Quốc Tả Lĩnh Quân Hữu Chấp Kích Trực
Trung Thư Tỉnh Thần Phả Cụ đọc Phạn văn.
19- Phiên Kinh Bà la môn
Long Bá Quốc Ðại Ðạt Quán Tước Ngũ Phẩm Thần Lý Du La
chứng dịch.
20- Kim Tử Quang Lộc Ðại
Phu Thủ Thượng Thư, Tả Bộc Xạ Ðổng Trung Thư Môn Hạ
Tam Phẩm Thượng Trụ Quốc Sứ Thư Quốc Công Vi Thần
Nguyên giám dịch.
21- Thượng Thư Hữu Bộc
Xạ Ðổng Trung Thư Môn Hạ Tam Phẩm Thượng Trụ Quốc Hứa
Quốc Công Thần Tô Hoàn giám dịch.
22- Ðặc Tiến Hành
Thái Tử Thiếu Sư Ðồng Trung Thư Môn Hạ Tam Phẩm Thượng
Trụ Quốc Tống Quốc Công Thần Ðường Hưu Hoàn giám dịch.
23- Ðặc Tiến Thái Tử
Thiếu Bảo Kim Ðương Châu Ðại Ðô Ðốc Ðổng Trung Thư Môn
Hạ Tam Phẩm Giám Tu Quốc Sứ Thượng Trụ Quốc Bành Quốc
Công Thần Vi Ôn giám dịch.
24- Ðặc Tiến Ðồng
Trung Thư Môn Hạ Tam Phẩm Tu Văn Quán Ðại Học Sĩ Giám Tu
Quốc Sứ Thượng Trụ Quốc Triệu Quốc Công Thần Lý Kiều
Bút Thọ Kiêm nhuận sắc.
25- Ðặc Tiến Thị
Trung Giám Tu Quốc Sứ Thượng Trụ Quốc Công Thần Vi An Thạch
giám dịch.
26- Thị Trung Giám Tu Quốc
Sứ Thượng Trụ Quốc Việt Quốc Công Thần Kỷ Xử Nạp
giám dịch.
27- Quang Lộc Ðại Phu
hành Trung Thư Lệnh Tu Văn Quán Ðại Học Sĩ Giám Quốc Sứ
Thượng Trụ Quốc Trình Quốc Công Thần Tông Sở Khách
giám định.
28- Trung Thư Lệnh Giám
Tu Quốc Sứ Thượng Trụ Quốc Ðặng Quốc Công Thần Túc
Chí Trung giám dịch.
29- Phiên Kinh Học Sĩ
Ngân Thanh Quang Lộc Ðại Phu Thủ Binh Bộ Thượng Thư Môn Hạ
Tam Phẩm Tu Văn Quán Ðại Học Sĩ Thượng Trụ Quốc Triệu
Diêu Công Thần Vi tờ lập.
30- Phiên Kinh Học Sĩ
Trung Tán Ðại Phu Thư Trung Thư Thị Lang Ðồng Trung Thư Môn
Hạ Tam Phẩm Trước Tử Bội Kim Ngư Tu Văn Quán Học Sĩ
Thượng Trụ Quốc Thần Triệu Ngạn Chiêu.
31- Phiên Kinh Học Sĩ
Thái Trung Ðại Phu Thủ Bí Thư Giám Viên Ngoại Trí Ðồng
Chánh Viên Tu Quốc Sứ Tu Văn Quán Học Sĩ Thượng Trụ Quốc
Thần Lưu Hiến.
32- Phiên Kinh Học Sĩ
Ngân Thanh Quang Lộc Ðại Phu Hành Trung Thư Thị Lang Tu Văn
Quán Học Sĩ Kiêm Tu Quốc Sứ Thượng Trụ Quốc Thần Thôi
Thực.
33- Phiên Kinh Học Sĩ
Triều Nghị Ðại Phu Thủ Binh Ðô Thị Lang Kiêm Tu Văn Quán
Học Sĩ Tu Quốc Sứ Thượng Trụ Quốc Thần Truơng Thuyết.
34- Phiên Kinh Học Sĩ
Thái Trung Ðại Phu Kiểm Hiệu Binh Ðộ Thị Lang Kỵ Úy Tu Văn
Quán Học Sĩ An Bình Huyện Khai Quốc Tử Thần Thôi Nhật Dụng.
35- Phiên Kinh Học Sĩ
Triều Thỉnh Ðại Phu Thủ Trung Thư Xá Nhân Kiêm Kiểm Giáo
Sử Ðô Thị Lang Tu Văn Quán Học Sĩ Kinh Xa Ðô Úy Thần Lư
Tàng Dụng.
36- Phiên Kinh Học Sĩ
Ngân Thanh Quang Lộc Ðại Phu Hành Lễ Bộ Thị Lang Tu Văn Quán
Học Sĩ Tu Quốc Sứ Thượng Trụ Quốc Tử Nguyên Huyện
Khai Quốc Tử Thần Từ Kiên Trinh.
37- Phiên Kinh Học Sĩ
Chánh Nghị Ðại Phu Hành Quốc Tử Từ Nghiệp Tu Văn Quán Học
Sĩ Thượng Trụ Quốc Thần Quách Sơn Huy.
38- Phiên Kinh Học Sĩ Lễ
Bộ Lang Trung Tu Văn Quán Trực Học Sĩ Khinh Xa Ðô Úy Hà
Ðông Huyện Khai Quốc Nam Thần Bích Tắc.
39- Phiên Kinh Học Sĩ
Chánh Nghị Ðại Phu Tiền Bồ Châu Kinh Sứ Tu Văn Quán Học
Sĩ Thượng Trụ Quốc Cao Bình Huyện Khai Quốc Tử, Thần Từ
Ngạn Bá.
40- Phiên Kinh Học Sĩ
Trung Ðại Phu Hành Trung Thư Xá Nhân Tu Văn Quán Học Sĩ Thượng
Trụ Quốc Thần Lý Hưu.
41- Phiên Kinh Học Sĩ
Trung Thư Xá Nhân Tu Văn Quán Học Sĩ Thượng Tr? Quốc Kim
Khanh Huyện Khai Quốc Dũng Vi Nguyên Ðán.
42- Phiên Kinh Học Sĩ
Trung Ðại Phu Hành Trung Thư Xá Nhân Tu Văn Quán Học Sĩ Thượng
Trụ Quốc Thần Mã Hoài Tố.
43- Phiên Kinh Học Sĩ
Triều Thinh Ðại Phu Thư Cấp Sự Trung Tu Văn Quán Học Sĩ
Thượng Trụ Quốc Thần Lý Thích.
44- Phiên Kinh Học Sĩ
Trung Thư Xá Nhân Tu Văn Quán Học Sĩ Thượng Trụ Quốc Thần
Tô Húc.
45a- Phiên Kinh Học Sĩ
Triều Tán Ðại Phu Thủ Trước Tác Lang Tu Văn Quán Trực Học
Sĩ Kiêm Tu Quốc Sứ Thần Trịnh AÂm.
45b- Phiên Kinh Học Sĩ
Triều Tán Ðại Phu Hành Khởi Cư Lang Tu Văn Quán Trực Học
Sĩ Thượng Hộ Quân Thần Thẩm Thuyên Kỳ.
46- Phiên Kinh Học Sĩ
Triều Thỉnh Ðại Phu Hành Khảo Công Viên Ngoại Lang, Tu Văn
Quán Trực Học Sĩ Thương Khinh Quân Ðô Ðốc Thần Vũ Bình.
47- Phiên Kinh Học Sĩ
Trước Tá Lang, Tu Văn Quán Trực Học Sĩ Thần Diêm Triều
Ẩn.
48- Phiên Kinh Học Sĩ
Tu Văn Quán Trực Học Sĩ Thần Phù Phụng.
49- Thu Thử Bí Thư Tỉnh
Giai Thư Lệnh Sử Thần Triệu Hy lệnh tả.
50- Khổng Mục Quan Văn
Lâm Lang Thiếu Phủ Giám Chưởng Trị Trước Thừa Thần AÂn
Ðình Quy.
51- Phán Quan Triều Tán
Ðại Phu Hành Trước Tác Tả Lang Thần Lưu Lệnh Thực.
52- Sử Kim Tử Quang Lộc
Ðại Phu Hành Bí Thư Giảm Kiểm Hiệu Ðiện Trung Giám Kiêm
Tri.
53- Nội Ngoại Nhàn
Khái Lung Hữu Tam Sử Thượng Trụ Quốc Từ Hiệu Thần
Vương Ung.
-ooOoo-