BÍ-SÔ-NI
GIỚI KINH
(No. 1455)
Một
quyển
-ooOoo-
Thành kính đảnh lễ
đức Thế tôn, Ứng cúng, Chánh biến tri.
Bài tựa giới kinh:
Kinh Biệt giải thoát
khó được nghe
Trải qua vô lượng, vô số kiếp
Khó được đọc tụng và thọ trì
Hiểu được, thực hành thật khó thay!
Vui thay! Có chư Phật ra đời
Vui thay! Pháp vi diệu được giảng
Vui thay! Tăng già cùng hiểu biết
Vui thay! Hòa hợp và tiến tu
Vui thay! Ðược gặp bậc Thánh nhân
Vui thay! Ðược thân cận bậc ấy
Nếu không gặp những kẻ ngu si
Ðó thật chính là vui mãi mãi
Vui thay! Ðược thấy người trì giới
Vui thay! Ðược gặp bậc đa văn
Gặp bậc La-hán là vui thật
Vì không còn tạo nghiệp luân hồi
Vui thay! Ðược bước sang bờ kia
Vui thay! Chiến thắng bằng chánh pháp
Chứng đắc chánh tuệ, sinh quả Thánh
Trừ hết ngã mạn là vui nhất
Ai có năng lực ý quyết định
Hàng phục tham dục, đủ đa văn
Từ trẻ đến già sống trong rừng
Ưa thích tịch tịnh nơi lan-nhã
Chư Ðại đức! Mùa Xuân
sắp tàn, đã qua... ngày. Hiện nay, với thời gian còn
lại...ngày. Già chết lại xâm lấn, mạng sống lại giảm
dần. Giáo pháp của đấng Ðạo sư không bao lâu nữa sẽ
không còn.
Chư Ðại đức! Phải
tinh tấn tỉnh giác, chớ phóng dật. Nhờ không phóng dật,
chắc chắn chứng được quả vị Như Lai, Ứng cúng, Chánh
đẳng giác, huống chi các giác phẩm thiện pháp khác.
Ðại đức Tăng già!
Những việc gì phải làm trước? - Chúng Thanh văn của đức
Phật thì ít cầu, ít sự. Người chưa thọ cận viên thì
đi ra ngoài. Các Bí-sô ni không đến có thuyết dục và
thanh tịnh không?
(Người mang dục ra trước
đây trình bày).
Cung kính chắp hai tay
Lạy Thích Ca sư tử
Biệt giải thoát điều phục
Tôi nói, ngài khéo nghe
Nghe xong, phải làm đúng
Như Ðại tiên đã dạy
Ðối với các tội nhỏ
Cũng dõng mãnh hộ trì
Tâm ngựa khó chế ngự
Luôn quản thúc chặt chẽ
Giới luật như dàm sắt
Có trăm vuốt bén nhọn
Người làm trái giới luật
Nghe dạy liền chấm dứt
Ðại sĩ như ngựa giỏi
Sẽ thoát trận phiền não
Người nào không dàm này
Không thể được an vui
Bị trận phiền não vây
Mê chuyển trong sinh tử.
Ðại đức Tăng già
lắng nghe! Hôm nay ngày mười bốn, thuộc hắc nguyệt (hay
ngày mười lăm thuộc bạch nguyệt) Tăng già cử hành lễ
Bao-sái-đà. Nếu thời gian thích hợp đối với Bí-sô ni Tăng,
Bí-sô ni Tăng đồng ý Bí-sô ni Tăng cử hành Bao-sái-đà,
thuyết giới kinh Ba-la-đề-mộc-xoa. Ðây là lời tác bạch.
Chư Ðại đức! Tôi
xin cử hành pháp Bao-sái-đà, thuyết minh giới kinh Ba-la-đề-mộc-xoa.
Quý vị hãy lắng nghe, suy nghĩ, ghi nhớ kỹ, nếu có phạm
phải phát lộ, không phạm thì im lặng. Vì im lặng nên
biết các Ðại đức thanh tịnh. Nếu khi khác được hỏi
đến, quý vị phải trả lời đúng sự thật. Trước chúng
Bí-sô ni thù thắng này, tôi xin hỏi ba lần, phải đáp đúng
sự thật. Bí-sô ni nào tự biết có phạm mà không phát
lộ thì mắc tội dối trá.
Chư Ðại đức! Ðức
Phật dạy: Cố ý dối trá là pháp chướng ngại đạo.
Vậy nên Bí-sô ni nào mong cầu sự thanh tịnh, cần phải phát
lộ. Phát lộ thì an lạc. Không phát lộ thì không an lạc.
Chư Ðại đức! Tôi đã
thuyết phần tựa của giới kinh. Xin hỏi các Ðại đức:
"Trong chúng này
thanh tịnh không?" (Hỏi ba lần)
"Chư Ðại đức!
Trong chúng này thanh tịnh vì im lặng. Tôi ghi xin nhận như
vậy".
I.- Tám pháp
Ba-la-thị-ca (Pàràjika)
Chư Ðại đức! Ðây là
tám pháp Ba-la-thị-ca, mỗi nửa tháng được nói ra từ
giới kinh.
Tụng tóm lược:
Bất tịnh, bất dữ
thủ
Ðoạn nhân, xưng thượng pháp
Xúc bát sự phúc tùy
Tư giai bất cộng trú.
1- Giới thứ nhất:
Bất tịnh hạnh
Bí-sô ni nào cùng thọ
đắc học xứ như các Bí-sô ni khác, không xả học xứ,
học xứ bị yếu kém, không tự nói ra, làm hạnh bất
tịnh, giao hợp với người khác, kể cả loài bàng sinh, Bí-sô
ni này phạm Ba-la-thị-ca, không được sống chung.
2- Giới thứ hai: Trộm
cắp
Bí-sô ni nào tại xóm
làng hay chỗ vắng, với tâm trộm cắp cố ý lấy vật người
khác không cho. Khi trộm cắp như vậy, bị vua hay quan lớn
bắt giữ, hoặc giết, trói, đuổi đi, trách mắng: "Này
người kia, ngươi là kẻ giặc ngu si không biết gì nên
trộm cắp như vậy". Bí-sô ni trộm cắp như vậy phạm
Ba-la-thị-ca, không được sống chung.
3.- Giới thứ ba: Giết
người
Bí-sô ni nào đối
với người hay thai nhi, cố ý tự tay giết chết, hoặc
cầm dao đưa cho họ, hoặc nhờ người khác cầm dao giết,
hoặc khuyến khích họ chết, tán thán họ chết, nói rằng:
"Này người kia,
với tội lỗi này còn hy vọng gì nữa, bị chìm trong bất
tịnh, ác xấu, vậy sống làm gì? Ngươi nên chết đi!
Chết hay hơn là sống".
Tùy theo tâm niệm của
mình, dùng những lời khác nhau nói, khuyến khích họ chết.
Người kia chết vì những lý do ấy, Bí-sô ni này phạm
Ba-la-thị-ca, không được sống chung.
4.- Giới thứ tư: Ðại
vọng ngữ
Bí-sô ni nào thật không
biết không hiểu, hoàn toàn tự biết rõ mình không chứng
pháp thượng nhân là tri kiến an lạc thù thắng mà bậc Thánh
giả tịch tịnh chứng ngộ, lại tự tuyên bố: "Ta
thấy, ta biết".
Vị ấy vào một lúc
khác, hoặc bị hỏi, hoặc không bị hỏi, muốn tự thanh
tịnh, tự nói lên:
"Này các cụ thọ,
tôi thật không thấy, không biết, lại tự nói có thấy, có
biết".
Nói lời dối trá
vọng ngữ, trừ tăng thượng mạn, Bí-sô ni này phạm
Ba-la-thị-ca, không được sống chung.
5- Giới thứ năm: Nhiễm tâm xoa chạm
Bí-sô ni nào có tâm ô
nhiễm, cùng đàn ông có tâm ô nhiễm, tự hành động với
cảm giác thích thú từ nách trở xuống, từ đầu gối
trở lên, bằng cách hai bên cọ xát nhau. Nếu cùng nhau cọ
xát mạnh với những hành động như vậy, Bí-sô ni này
phạm Ba-la-thị-ca, không được sống chung.
6- Giới thứ sáu:
Nhiễm tâm tám sự
Bí-sô ni nào có tâm
nhiễm ô, cùng người nam có tâm nhiễm ô, hành động trạo
cử, đùa giỡn, cười cợt, chỉ chỗ ở, hẹn giờ gặp
nhau, biểu hiện tướng trạng, trao nhau tình cảm qua lại như
vợ chồng, nằm với nhau tại nơi có thể hành dâm, Bí-sô
ni nào làm tám việc như trên với tâm thích thú, phạm
Ba-la-thị-ca, không được sống chung.
7- Giới thứ bảy:
Giấu cho tội nặng
Bí-sô ni nào trước đây
biết Bí-sô ni kia đã phạm tội tha thắng, nhưng không nói
ra. Sau đó, Bí-sô ni kia hoặc chết đi, hoặc hoàn tục,
hoặc bỏ đi nơi khác, vị này mới nói ra:
"Ni chúng nên
biết, trước đây tôi đã biết Bí-sô ni kia phạm tội tha
thắng".
Ðối với sự việc như
thế, Bí-sô ni này phạm Ba-la-thị-ca, không được sống
chung.
8- Giới thứ tám: Theo
kẻ bị xả trí
Bí-sô ni nào biết rõ
vị Bí-sô kia đã bị Tăng hòa hợp tác Yết-ma xả trí và
chúng Bí-sô ni tác pháp không kính lễ vị ấy. Bí-sô kia
ngay trong trú xứ của Tăng biểu hiện tướng trạng cung kính,
cầu mong sự giúp đỡ, ngay trong cương giới cầu xin Tăng
giải Yết-ma xả trí, Bí-sô ni kia lại thưa với Bí-sô ấy
rằng:
"Thánh giả, không
cần tại trú xứ của Tăng biểu hiện thái độ cung kính
cầu mong sự giúp đỡ, ngay trong cương giới cầu xin Tăng
giải Yết-ma xả trí. Con sẽ vì thánh giả cung cấp y bát và
các vật dụng khác luôn luôn đầy đủ. Ngài có thể an tâm
tụng niệm tùy ý".
Khi ấy, các Bí-sô ni nên
bảo Bí-sô ni ấy:
"Người không
biết là chúng Tăng đã tác Yết-ma xả trí với người ấy
hay sao?, và chúng Bí-sô ni đã tác pháp không lễ kính. Vị
Bí-sô ấy đã có tâm khiêm cung, ngay trong cương giới cầu
xin tác Yết-ma bải bỏ Yết-ma xả trí. Người lại cung
cấp y bát các vật.... để không thiếu thốn. Người hãy
từ bỏ hành động theo kẻ xấu ấy".
Khi các Bí-sô ni can gián
như vậy, vị ấy từ bỏ thì tốt. Nếu không từ bỏ
phải ba lần ân cần can gián nghiêm chỉnh, làm theo đúng giáo
pháp để sửa trị, để khiến cho vị ấy từ bỏ hành động
kia. Từ bỏ thì tốt, nếu không từ bỏ, Bí-sô ni này
phạm Ba-la-thị-ca, không được sống chung.
PHẦN KẾT:
Các Ðại đức! Tôi đã
thuyết xong tám pháp tha thắng, Bí-sô ni nào phạm vào một
tội nào trong tám pháp này thì không được sống chung với
các Bí-sô ni khác. Cũng như trước kia, sau khi phạm tội tha
thắng cũng vậy, không được sống chung.
Nay tôi xin hỏi các Ðại
đức:
"Trong chúng này
thanh tịnh không?" (Hỏi ba lần)
"Các Ðại đức!
Trong chúng này thanh tịnh vì im lặng. Tôi xin ghi nhận như
vậy".
II.-
20 pháp Tăng-già-phạt-thi-sa:
(Sanghadisesa)
Chư Ðại đức! Ðây là
20 pháp Tăng-già-phạt-thi-sa, mỗi nửa tháng được nói ra
từ giới kinh.
Tụng tóm lược:
Mưu giá cập nhị báng
Nhị nhiễm tinh tứ độc
Phu khí, khế tác giải
Nhị tránh tạp độc trú
Phá tăng dữ tùy bạn
Ô gia tinh ác tánh
Chúng giáo hữu nhị thập
Bát tam gián ưng tri.
1. Bí-sô ni nào làm mai
mối, lấy ý người nam đến nói với người nữ, lấy ý
người nữ nói cho người nam. Nếu họ thành vợ chồng hay
tư thông được với nhau, dù chỉ trong thời gian ngắn, Tăng-già-phạt-thi-sa.
2. Bí-sô ni nào vì lòng
sân hận, cố ý đối với Bí-sô ni thanh tịnh, vu báng vị
ấy phạm pháp Ba-la-thị-ca không căn cứ, vì mục đích phá
phạm hạnh của vị ấy. Vào lúc khác, dù được hỏi hay
không được hỏi, biết rõ đây là sự vu báng Bí-sô ni kia
không căn cứ, do lòng sân hận nên nói ra lời ấy, Tăng-già-phạt-thi-sa.
3. Bí-sô ni nào vì lòng
sân hận, cố ý đối với Bí-sô ni thanh tịnh dùng một
phần khác không phải pháp Ba-la-thị-ca để vu báng vì
muốn phá hoại tịnh hạnh của vị ấy. Vào lúc khác, vị
ấy được hỏi hay không được hỏi đến, biết rõ đây là
pháp thuộc phần sự khác, dùng chút ít pháp tương tự để
vu báng. Bí-sô ni kia vì sân hận nói ra lời ấy, Tăng-già-phạt-thi-sa.
4. Bí-sô ni nào với tâm
nhiễm ô, quan hệ cùng nam tử có tâm nhiễm ô, cùng nhau
nhận lãnh bất cứ vật gì, Tăng già phạt thi-sa.
5. Bí-sô ni nào nói
với Bí-sô ni khác rằng:
"Nếu chị không có
tâm nhiễm ô mà nhận vật từ đàn ông có tâm nhiễm ô,
theo tôi thì nào có lỗi gì", Tăng-già-phạt-thi-sa.
6. Bí-sô ni nào đi
một mình từ chùa ni đến ngủ đêm tại chỗ khác, Tăng-già-phạt-thi-sa.
7. Bí-sô ni nào ban ngày
một mình đi từ chùa ni đến nhà thế tục, Tăng-già-phạt-thi-sa.
8. Bí-sô ni nào đi đường
một mình, Tăng-già-phạt-thi-sa.
9. Bí-sô ni nào lội
qua sông một mình, Tăng-già-phạt-thi-sa.
10. Bí-sô ni nào biết
người phụ nữ kia làm việc phi pháp, mọi người đều chê
trách, bị chồng bỏ và đã báo cho vua biết, lại độ cho
người ấy xuất gia, Tăng-già-phạt-thi-sa.
11. Bí-sô ni nào căn
cứ vào khế ước cũ của người, đòi nợ của người
chết, cho mình, Tăng-già-phạt-thi-sa.
12. Bí-sô ni nào biết
Bí-sô kia bị chúng Bí-sô ni tác Yết-ma xả trí, lại tự
ý ra ngoài cương giới của Tăng để tác pháp giải Yết-ma
này, Tăng-già-phạt-thi-sa.
13. Bí-sô ni nào khi cùng
các Bí-sô ni đấu tranh cãi cọ, tự nói:
"Tôi từ bỏ
Phật, từ bỏ Pháp, từ bỏ Tăng. Không phải chỉ có Sa môn
Thích tử mới đầy đủ giới đức, có thắng thiện pháp,
Sa môn khác cũng có đủ giới đức, có thắng thiện pháp.
Tôi sẽ đến với các vị ấy để tu tập phạm
hạnh".
Khi ấy, các Bí-sô ni
khác nên nói với Bí-sô ni ấy:
"Chị nên từ bỏ
ác kiến ấy đi".
Khi can gián như vậy,
vị ấy từ bỏ thì tốt. Nếu không từ bỏ, phải ba lần
ân cần can gián nghiêm chỉnh, sửa trị vị ấy theo đúng
giáo pháp, làm cho từ bỏ ác kiến ấy. Vị ấy bỏ thì
tốt, nếu không từ bỏ, Tăng-già-phạt-thi-sa.
14. Bí-sô ni nào cùng các
Bí-sô ni cãi cọ tranh chấp, các Bí-sô ni nói với Bí-sô ni
ấy rằng:
"Này chị, đừng cãi
cọ tranh chấp nữa".
Bí-sô ni ấy lại nói:
"Các người có thiên
vị, giận hờn, sợ sệt, không sáng suốt. Ðối với
những người cãi cọ, có người bị can ngăn, có người không
bị".
Các Bí-sô ni bảo người
ấy:
"Ðại đức, khi
được người khác can gián, đừng nên nói: ‘Người có
thiên vị, giận hờn, sợ sệt, không sáng suốt. Ðối với
những người cãi cọ, có người bị can ngăn, có người
lại không bị’. Cô nên từ bỏ lời nói ấy".
Khi các Bí-sô ni can gián
như vậy, vị ấy từ bỏ thì tốt, nếu không từ bỏ thì
phải ba lần can gían nghiêm chỉnh, làm đúng giáo pháo để
sửa trị vị ấy từ bỏ ác kiến ấy đi. Vị ấy từ b?
thì tốt, nếu không từ bỏ, Tăng già-phạt-thi-sa.
15. Bí-sô ni nào sống
chung với các Bí-sô ni khác một cách tạp loạn, trạo cử,
đùa giỡn, các Bí-sô ni bảo với Bí-sô ni ấy:
"Này chị, đừng nên
sống tạp loạn, trạo cử, đùa giỡn. Khi chị sống tạp
loạn, làm cho các thiện pháp bị suy tổn, không được tăng
trưởng sự lợi ích. Chị nên sống riêng một mình yên
tịnh. Khi sống yên tịnh làm cho các thiện pháp tăng trưởng
lợi ích, không bị suy tổn".
Khi các Bí-sô ni can gián
như vậy, vị ấy từ bỏ thì tốt. Nếu không từ bỏ thì
phải ba lần ân cần can gián nghiêm chỉnh theo đúng giáo pháp
để sửa trị vị ấy từ bỏ việc này. Từ bỏ thì tốt,
nếu không từ bỏ, Tăng-già-phạt-thi-sa.
16. Bí-sô ni nào biết
Bí-sô ni khác ưa thích sống cô lập, các Bí-sô ni nói với
Bí-sô ni ấy:
"Ðại đức đừng
sống cô lập. Chị sống cô lập sẽ làm cho các thiện pháp
suy thoái không tăng trưởng. Này chị, nên sống chung với
nhau, làm cho thiện pháp tăng trưởng, không bị suy thoái".
Khi chúng Bí-sô ni
khuyến cáo vị ấy:
"Ðại đức, chớ
ưa thích sống cô lập, làm cho thiện pháp bị suy tổn. Ðại
đức nên từ bỏ ác kiến sống cô lộc".
Can gián như vậy, vị
ấy từ bỏ thì tốt. Nếu không từ bỏ thì phải ba lần
ân cần can gián nghiêm chỉnh theo đúng giáo pháp để sửa
trị, làm cho vị ấy từ bỏ hành động này. Vị ấy từ
bỏ thì tốt, nếu không từ bỏ, Tăng-già-phạt-thi-sa.
17. Bí-sô ni nào tạo
điều kiện để phá hòa hợp Tăng, đối với việc phá Tăng
này, vị ấy cương quyết không bỏ. Các Bí-sô ni phải nói
với Bí-sô ni ấy:
"Này chị, đừng nên
phá Tăng hòa hợp với cương quyết như vậy nữa. Này
chị, nên hòa hợp sống chung với chúng Tăng, hoan hỷ không
tranh cãi, một lòng một lời như nước hòa với sữa, làm
cho giáo pháp bậc Ðại sư được sáng chói, an lạc, trụ
thế lâu dài. Này cụ thọ, chị nên từ bỏ việc phá Tăng
đi".
Khi các Bí-sô ni can gián
như vậy, vị ấy từ bỏ thì tốt, nếu không từ bỏ thì
phải ba lần ân cần can gián nghiêm chỉnh, làm đúng theo giáo
pháp để sửa trị vị ấy từ bỏ hành động phá Tăng.
Vị ấy từ bỏ thì tốt, nếu không từ bỏ, Tăng-già-phạt-thi-sa.
18. Bí-sô ni nào cùng
một, hai, hay nhiều người kết bè đảng với nhau, làm
việc tà, nghịch việc chánh, tùy thuận với nhau, Bí-sô ni
này nói với chúng Bí-sô ni:
"Ðại đức, đừng
cùng nhau nói chuyện với Bí-sô ni kia, dù tốt hay xấu.
Tại sao? - Vì Bí-sô ni kia tùy thuận pháp luật, y pháp
luật, nói lời không hư vọng. Vị ấy ưa thích việc gì, tôi
cũng ưa thích việc ấy".
Các Bí-sô ni nên nói
với vị ấy rằng:
"Cụ thọ, đừng nói:
Bí-sô ni kia tùy thuận pháp luật, y pháp luật, lời nói không
hư vọng, vị ấy ưa thích gì tôi cũng ưa thích việc ấy.
Tại sao? - Vì Bí-sô ni kia không tùy thuận pháp luật, không
y cứ pháp luật, lời nói đều hư vọng. Chị đừng nên ưa
thích việc phá Tăng, phải ưa thích hòa hợp Tăng, phải cùng
Tăng hòa hợp, hoan hỷ không tranh cãi, một lòng một lời
như nước hòa với sữa, làm cho giáo pháp của bậc Ðại sư
được sáng chói, an lạc lâu dài ở thế gian. Này cụ
thọ, hãy nên từ bỏ ác kiến phá Tăng, thuận tà nghịch
chánh, sách động việc tranh chấp, cố chấp không
bỏ".
Khi các Bí-sô ni can gián
như vậy, vị ấy từ bỏ thì tốt, nếu không từ bỏ thì
phải ba lần ân cần can gián nghiêm chỉnh, làm đúng theo giáo
pháp để sửa trị vị ấy từ bỏ hành động phá Tăng.
Vị ấy từ bỏ thì tốt, nếu không từ bỏ, Tăng-già-phạt-thi-sa.
19. Nhiều Bí-sô ni ở
tại xóm làng, thành phố, gây tiếng xấu ở nhà người, hành
động xấu. Gây tiếng xấu ở nhà người, mọi người đều
thấy, nghe, hay biết. Hành động xấu mọi người đều
thấy, nghe, hay biết. Các Bí-sô ni phải bảo với các Bí-sô
ni kia rằng:
"Này cụ thọ, các
chị gây tiếng xấu ở nhà người và hành động xấu. Gây
tiếng xấu ở nhà người, mọi người đều thấy, nghe, hay
biết. Hành động xấu, mọi người đều thấy, nghe, hay
biết. Các chị nên đi nơi khác, không nên ở đây
nữa".
Bí-sô ni kia nói với
chúng Bí-sô ni:
"Ðại đức có thiên
vị, giận hờn, sợ hãi, bất minh. Ðồng phạm tội như
vậy, có Bí-sô ni bị đuổi, có Bí-sô ni không bị đuổi".
Khi ấy, các Bí-sô ni nên
nói với Bí-sô ni kia:
"Cụ thọ, đừng nói
các Ðại đức có thiên vị, giận hờn, sợ hãi, bất minh.
Phạm tội như vậy mà có Bí-sô ni bị đuổi, Bí-sô ni không
bị đuổi. Tại sao? - Các Bí-sô ni không có ý thiên vị,
giận hờn, sợ hãi, bất minh. Các chị gây tiếng xấu ở
nhà người và hành động xấu. Gây tiếng xấu ở nhà người,
mọi người đều thấy, nghe, hay biết. Hành động xấu
mọi người đều thấy, nghe, hay biết. Này cụ thọ, các
chị nên từ bỏ lời nói cho rằng thiên vị, giận hờn,
sợ hãi, bất minh".
Khi các Bí-sô ni can gián
như vậy, nếu Bí-sô kia từ bỏ thì tốt, nếu không từ
bỏ thì chúng Bí-sô ni phải ba lần ân cần can gián nghiêm
chỉnh, làm đúng theo giáo pháp, sửa trị vị ấy từ bỏ
việc này. Vị ấy từ bỏ thì tốt, nếu không từ bỏ, Tăng-già-phạt-thi-sa.
20. Bí-sô ni nào có tánh
xấu, không nghe lời khuyên can của vị khác. Như khi các Bí-sô
ni đối với những lời Phật dạy trong giới kinh, như pháp
như luật để khuyến hóa vị ấy. Vị ấy không nghe lời
khuyên bảo, nói với chúng Bí-sô ni:
"Các Ðại đức đừng
nói với tôi nữa, việc ấy tốt hay xấu tôi vẫn không
nghe. Tôi cũng không nói với các Ðại đức về việc tốt
hay xấu. Thôi đi các Ðại đức, đừng khuyên bảo tôi
nữa, đừng luận thuyết với tôi nữa".
Các Bí-sô ni nên nói
với Bí-sô ni kia:
"Cụ thọ, chị không
nên không nghe lời khuyên can. Khi các Bí-sô ni đã căn cứ
giới kinh như pháp như luật khuyến hóa, chị nên nghe lời
khuyên can. Cụ thọ! Chị như pháp để khuyên can các Bí-sô
ni, các Bí-sô ni cũng theo đúng pháp ấy để khuyên can
chị. Như vậy, chúng Thanh văn của đức Như Lai, Ứng cúng
Chánh đẳng giác sẽ được tăng trưởng vì cùng can gián sám
hối với nhau. Này cụ thọ, chị nên từ bỏ việc
ấy".
Khi các Bí-sô ni can gián
như vậy, vị ấy từ bỏ thì tốt, nếu không từ bỏ, các
Bí-sô ni phải ba lần ân cần can gián nghiêm chỉnh, làm
theo đúng giáo pháp để sửa trị, khuyên vị ấy từ bỏ
việc này. Vị ấy từ bỏ thì tốt, nếu không từ bỏ, Tăng-già-phạt-thi-sa.
Chư Ðại đức, tôi đã
thuyết xong hai mươi pháp Tăng-già-phạt-thi-sa. Mười hai pháp
đầu, làm thì phạm. Tám pháp sau phải ba lần can gián mới
phạm. Bí-sô ni nào phạm một trong hai mươi giới này mà
cố ý che dấu, hai bộ Tăng phải cho vị ấy hành Ma-na-tha
trong nửa tháng. Sau khi hành Ma-na-tha, còn phải xuất tội.
Nếu cả hai bộ Tăng già đồng ý, mỗi bộ Tăng già phải
đủ hai mươi vị. Ngay giữa chúng đủ bốn mươi người
mới trừ được tội của Bí-sô ni này. Nếu thiếu một
vị, không đủ túc số chúng bốn mươi vị thì tội của Bí-sô
ni này không trừ được. Hai bộ Tăng bị tội.
Ðây là pháp xuất
tội.
Nay tôi xin hỏi các Ðại
đức:
"Trong chúng này
thanh tịnh không?"
(Hỏi ba lần)
"Các Ðại đức,
trong chúng này thanh tịnh vì im lặng. Tôi xin ghi nhận như
vậy".
Ni không có pháp Bất định.
III.-
33 pháp Ni-tát-kỳ-ba-dật-để-ca: (Nissaggiya Pàcittita)
Các Ðại đức, đây là
ba mươi ba pháp Ni-tát-kỳ-ba-dật-để-ca, mỗi nửa tháng
được nói ra từ giới kinh.
Tụng tóm tắt một:
Giữ, lìa, chứa,
giặt y
Lấy y, xin, nhận nhiều
Ðồng giá và khác chủ
Sai người đưa tiền y.
1.- Bí-sô ni nào làm y
đã xong, thời gian y Yết-sĩ-na đã hết, nếu được thêm
y, không làm pháp phân biệt, chỉ được chứa trong phạm vi
mười ngày. Nếu chứa cất y dư quá thời hạn này, Ni-tát-kỳ-ba-dật-để-ca.
2.- Bí-sô ni nào làm y
đã xong, thời gian y Yết-sĩ-na đã hết, nếu lìa một trong
ba y, ra ngủ ngoài cương giới, dù chỉ một đêm, trừ khi
được Tăng Yết-ma cho phép, Ni-tát-kỳ-ba-dật-để-ca.
3.- Bí-sô ni nào làm y
đã xong, thời gian y Yết-sĩ-na đã hết, được cúng y phi
thời theo nhu cầu, cần thì nhận. Ðã nhận, phải may thành
y cho xong. Nếu hy vọng có chỗ cúng cho đủ số vải, nếu
không đủ vải thì được chứa trong thời gian một tháng
để chờ đủ số. Nếu quá thời gian này, Ni-tát-kỳ-ba-dật-để-ca.
4.- Bí-sô ni nào vì Bí-sô
không phải thân thuộc giặt y dơ, Ni-tát-kỳ-ba-dật-để-ca.
5.- Bí-sô ni nào xin y
từ Bí-sô không phải thân quyến, trừ trao đổi, Ni-tát-kỳ-ba-dật-để-ca.
6.- Bí-sô ni nào xin y
từ cư sĩ hay vợ cư sĩ không phải thân quyến, trừ trường
hợp đặc biệt, Ni-tát-kỳ-ba-dật-để-ca.
Trường hợp đặc
biệt là khi Bí-sô ni bị đoạt y, mất y, cháy y, gió bay y,
nước trôi y.
7.- Bí-sô nào bị đoạt
y, mất y, cháy y, gió bay y, nước trôi y, nên xin y từ cư sĩ
hay vợ cư sĩ không phải thân quyến. Họ cúng nhiều y,
nếu cần Bí-sô ni chỉ nên nhận hai y thượng và hạ. Nếu
nhận quá nhiều y, Ni-tát-kỳ-ba-dật-để-ca.
8.- Bí-sô ni nào có cư
sĩ hay vợ cư sĩ không phải thân quyến cùng góp tiền sắm
y, sẽ mua y thanh tịnh với giá trị đã góp để cúng cho Bí-sô
ni... sẽ sử dụng đúng lúc. Bí-sô ni này không được
thỉnh trước, lại được người khác mách cho biết về
việc này. Bí-sô ni này liền đến nhà sắm y nói:
"Lành thay! Nhân
giả vì tôi góp tiền sắm y! Quý vị nên sắm y thanh tịnh
như vậy... và cúng cho tôi đúng lúc".
Bí-sô ni này vì muốn
y tốt, khi được y, Ni-tát-kỳ-ba-dật-để-ca.
9.- Bí-sô ni nào, có
hai nhà cư sĩ hay vợ cư sĩ không thân quyến, mỗi nhà góp
tiền để sắm y, dự định sẽ mua y thanh tịnh với giá
trị như vậy để cúng cho Bí-sô ni... Bí-sô ni này không
được thỉnh trước, lại được người khác mách cho
biết về việc này, liền đến những nhà kia bảo với
họ:
"Lành thay nhân
giả! Quý vị cùng có ý định sắm y cho tôi, quý vị nên góp
chung giá trị lại để sắm y thanh tịnh như vậy và đúng
lúc cúng cho tôi".
Bí-sô ni ấy vì muốn
y tốt, nếu được y, Ni-tát-kỳ-ba-dật-để-ca.
10.- Bí-sô ni nào,
hoặc vua, đại thần, Bà la môn, hoặc cư sĩ.v.v... sai sứ
mang tiền đến cúng Bí-sô ni ấy để sắm y. Sứ giả mang
tiền đến Bí-sô ấy, bảo rằng:
"Ðại đức, vật
này là của vua..., đại thần..., Bà la môn... , cư sĩ... ,
sai tôi mang đến đây. Xin Ðại đức từ mẫn tiếp
nhận".
Bí-sô ni này nói với
sứ giả ấy:
"Này nhân giả,
số tiền sắm y này tôi không được nhận. Tôi chỉ được
nhận tịnh y đúng lúc".
Sứ giả thưa rằng:
"Ðại đức, ngài
có người chấp sự không?"
Bí-sô ni cần y nói có.
Hoặc là tịnh nhân của Tăng-già-lam, hoặc là nữ Phật
tử. Ðấy là người chấp sự của Bí-sô ni. Sứ giả đến
chỗ người chấp sự, đưa tiền và nói rằng:
"Người hãy dùng
số tiền này đúng lúc sắm y thanh tịnh cho Bí-sô... và
đưa cho vị ấy sử dụng".
Sứ giả khéo léo dặn
bảo người chấp sự xong, trở lại gặp Bí-sô ni ấy và
thưa rằng:
"Ðại đức, người
chấp sự mà ngài chỉ, tôi đã đưa tiền sắm y cho họ.
Khi được y thanh tịnh, ngài nên lấy sử dụng".
Vị Bí-sô ni được
nhận y, khi cần y nên đến chỗ người chấp sự, hoặc nói
hai hay ba lần cho vị ấy nhớ lại, bảo rằng:
"Tôi cần y"
Ðược y thì tốt.
Nếu không được, thì vị ấy phải bốn, năm, sáu lần đến
chỗ ấy, đứng im lặng. Ðến bốn, năm, sáu lần để đòi
mà đuợc y thì tốt. Nếu không được y, mà đòi quá số
lần quy định này để được y, Ni-tát-kỳ-ba-dật-để-ca.
Nếu cuối cùng không
được y, Bí-sô ni này nên đến chỗ cúng tiền sắm y,
hoặc tự mình, hoặc nhờ người đáng tin cậy đến bảo
với người cúng y:
"Nhân giả, ngài vì
Bí-sô ni... gửi tiền cúng y đến. Cuối cùng Bí-sô ni... không
được y. Nhân giả nên biết, đừng để bị mất".
Như vậy là đúng pháp.
Tụng tóm lược hai:
Tróc kim ngân xuất
nạp
Mại mãi bát khất tuyến
Chức sư tự đoạt y
Hồi tha bệnh trưởng bát.
11.- Bí-sô ni nào tự
tay cầm vàng, bạc, tiền,.v.v... hay bảo người cầm, Ni-tát-kỳ-ba-dật-để-ca.
12.- Bí-sô ni nào đổi
chác các thứ để cầu lợi, Ni-tát-kỳ-ba-dật để-ca.
13.- Bí-sô ni nào buôn
bán các thứ, Ni-tát-kỳ-ba-dật-để-ca.
14.- Bí-sô ni nào có bát
lủng dưới năm chỗ, còn có thể dùng được, vì muốn
tốt nên cầu bát khác; được bát, Ni-tát-kỳ-ba-dật-để-ca.
Bí-sô ni này phải đem
bát này ra xả giữa chúng Tăng, nhận lấy bát của vị
tối hậu đưa cho Bí-sô ni ấy, nói rằng:
"Bát này trả lại
cho cô, không nên tác pháp thọ, không nên tác pháp phân
biệt, cũng không nên cho người khác. Nên cẩn thận giữ gìn
chu đáo thọ dụng. Giữ cho đến khi nào vỡ mới thôi".
Ðây chính là đúng pháp.
15.- Bí-sô ni nào tự mình
xin chỉ sợi, bảo thợ dệt không phải thân quyến dệt y.
Nếu nhận được y dệt xong, Ni-tát-kỳ-ba-dật-để-ca.
16.- Bí-sô ni nào có cư
sĩ, vợ cư sĩ không phải thân quyến vì Bí-sô ni ấy, bảo
thợ dệt không phải thân quyến dệt y. Bí-sô ni ấy không
được thọ thỉnh trước, sinh ý niệm khác, đến chỗ
thợ dệt khác, nói rằng:
"Ông biết không? Y
này dệt cho tôi. Lành thay thợ dệt! Cần phải dệt cho đẹp,
cho dày, chải cho thật sạch, khéo lựa chon tơ, dệt thật sít
chặt. Tôi sẽ lấy một ít thức ăn trong bát hoặc như
thức ăn trong bát, hoặc giá trị bằng cả bữa ăn để tra
công".
Nếu Bí-sô ni ấy lấy
vật như vậy trao cho thợ dệt để mong cầu và được y
theo ý mình, Ni-tát-kỳ-ba-dật-để-ca.
17.- Bí-sô ni nào trước
đó đã đem y cho Bí-sô ni khác, sau đó vị ấy vì phiền não
sân hận, chửi mắng, có tâm hiềm khích với vị kia. Nếu
Bí-sô ni ấy tự đoạt lại y hay bảo người khác đoạt,
bảo rằng:
"Hãy trả y lại
cho tôi, không cho ngươi nữa".
Nếu lấy y ra khỏi thân
vị kia và đem xử dụng, Ni-tát-kỳ-ba-dật-để-ca.
18.- Bí-sô ni nào biết
người khác cúng lợi vật cho Tăng, tự ý xoay vật ấy về
cho mình, Ni-tát-kỳ-ba-dật-để-ca.
19.- Bí-sô ni nào, như
Thế tôn dạy, cho phép các loại thuốc Bí-sô ni bị bệnh,
đối với các loại thuốc tùy ý xử dụng. Các loại
thuốc ấy là: bơ, dầu, đường, mật, trong phạm vi bảy ngày
được phép thủ trì cất giữ luôn đêm để xử dụng. Bí-sô
ni nào cất những vật ấy quá bảy ngày để xử dụng,
Ni-tát-kỳ-ba-dật-để-ca.
20.- Bí-sô ni được phép
chứa bát dư qua một đêm, ai chứa quá thời gian này, Ni-tát-kỳ-ba-dật-để-ca.
Tụng thứ ba:
Bất khán xả bất
xả
Khất kim ngân nhiễm y
Ðắc lợi hữu ngũ thù
Mãi được y nhị giá.
21.- Bí-sô ni nào trong
nửa tháng, không xem xét đến năm loại y đã thọ trì, Ni-tát-kỳ-ba-dật-để-ca.
22.- Bí-sô ni nào xả y
Yết-sĩ-na phi thời, Ni-tát-kỳ-ba-dật-để-ca.
23.- Bí-sô ni nào đúng
thời không xả y Yết-sĩ-na, Ni-tát-kỳ-ba-dật-để-ca.
24.- Bí-sô ni nào cầu
xin vàng bạc, Ni-tát-kỳ-ba-dật-để-ca.
25.- Bí-sô ni nào lấy
chi phí để nhuộm y, đổi lấy thức ăn, Ni-tát-kỳ-ba-dật-để-ca.
26.- Bí-sô ni nào dùng
những chi phí khác để dùng về y, đổi lấy thức ăn, Ni-tát-kỳ-ba-dật-để-ca.
27.- Bí-sô ni nào lấy
chi phí làm ngọa cụ đổi lấy thức ăn, Ni-tát-kỳ-ba-dật-để-ca.
28.- Bí-sô ni nào lấy
phần lợi về an cư đổi lấy thức ăn, Ni-tát-kỳ-ba-dật-để-ca.
29.- Bí-sô ni nào lấy
phần lợi của nhiều người đem xoay về cho mình, Ni-tát-kỳ-ba-dật-để-ca.
30.- Bí-sô ni nào đem
phần lợi của Tăng xoay về cho mình, Ni-tát-kỳ-ba-dật-để-ca.
31.- Bí-sô ni nào đến
hiệu mua thuốc, gói lại mở ra, mở ra gói lại, cố kéo dài
thời gian tại chỗ, Ni-tát-kỳ-ba-dật-để-ca.
32.- Bí-sô ni nào dùng
y dày, quý giá, Ni-tát-kỳ-ba-dật-để-ca.
33.- Bí-sô ni nào dùng
y mỏng, quý giá, Ni-tát-kỳ-ba-dật-để-ca.
Các Ðại đức, tôi đã
thuyết xong ba mươi ba pháp Ni-tát-kỳ-ba-dật-để-ca. Nay tôi
xin hỏi các Ðại đức:
"Trong chúng này
thanh tịnh không?" (Hỏi ba lần)
"Các Ðại đức,
trong chúng này thanh tịnh vì im lặng. Tôi xin ghi nhận như
vậy".
IV.-
180 pháp Ba-dật-để-ca: (Pàcittiya)
Các Ðại đức, đây là
một trăm tám mươi pháp Ba-dật-để-ca, nửa tháng được nói
ra từ giới kinh.
Tụng thứ nhất:
Vọng hủy cập ly gián
Phát cử thuyết đồng thanh
Thuyết tội đắc thượng nhân
Tùy thân triếp khinh hủy.
1- Bí-sô ni nào cố ý
nói dối, Ba-dật-để-ca.
2- Bí-sô ni nào nói
lời hủy báng, bôi bác, Ba-dật-để-ca.
3- Bí-sô ni nào nói
lời ly gián, Ba-dật-để-ca.
4- Bí-sô ni nào biết rõ
Tăng đã hòa hợp như pháp dập tắt tránh sự rồi. Sau khi
Tăng đã dập tắt tránh sự rồi, vị ấy lại cố ý khơi
lại việc Tăng Yết-ma này, Ba-dật-để-ca.
5- Bí-sô ni nào nói pháp
cho người nam quá năm sáu câu, trừ khi có mặt người đàn
bà có trí, Ba-dật-để-ca.
6- Bí-sô ni nào cùng người
chưa thọ cận viên cùng nhau đọc tụng, dạy bảo giáo pháp,
Ba-dật-để-ca.
7- Bí-sô ni nào biết Bí-sô
ni khác phạm tội thô ác, đem nói với người chưa thọ
cận viên, trừ Tăng đã Yết-ma cho phép, Ba-dật-để-ca.
8- Bí-sô ni nào thật
chứng pháp thượng nhân, đem việc này nói với người chưa
thọ cận viên, Ba-dật-để-ca.
9- Bí-sô ni nào trước
đã đồng ý với Tăng, sau lại nói:
"Các cụ thọ tùy
theo chỗ thân tình, lấy vật của Tăng xoay cho người khác"
, Ba-dật-để-ca.
10- Bí-sô ni nào khi
mỗi nửa tháng thuyết giới, tự nói rằng:
" Các cụ thọ,
cần gì phải thuyết minh các học giới nhỏ nhặt này làm
gì? Khi thuyết các giới nhỏ này, làm cho các Bí-sô ni sinh
tâm chán ghét, bực bội, lo buồn".
Ai phát biểu lời khinh
chê giới như vậy, Ba-dật-để-ca.
Tụng thứ hai:
Chủng tử khinh não
giáo
An sàng thảo diệp phu
Cưởng trú thoát sàng trùng
Quá tam ngoại đạo xứ.
11- Bí-sô ni nào tự phá
hoại hạt giống, cây sống, chỗ ở của hữu tình, hay
bảo người khác phá hoại, Ba-dật-để-ca.
12- Bí-sô ni nào chửi
rủa, khinh khi Bí-sô ni khác, Ba-dật-để-ca.
13- Bí-sô ni nào chống
cự và gây phiền phức cho người khuyên bảo, Ba-dật-để-ca.
14- Bí-sô ni nào bố trí
phu cụ và sàng tọa của Tăng ra ngoài trời, khi đi không
xếp cất, không bảo người xếp cất, gặp Bí-sô ni khác
lại không dặn bảo nhờ thu xếp, trừ có duyên sự,
Ba-dật-để-ca.
15- Bí-sô ni nào tự mình
hay bảo người bố trí cỏ, lá trong phòng của Tăng. Khi đi
không thu dọn, không bảo người thu dọn, gặp Bí-sô ni khác
cũng không nhờ thu dọn, trừ có duyên sự khác, Ba-dật-để-ca.
16- Bí-sô ni nàongay
tại trú xứ của Tăng biết rõ các Bí-sô ni đã ở chỗ
ấy trước, tuy đến sau nhưng cố ý gây phiền phức cho các
vị đến trước. Ngay tại chỗ nằm của các vị trước,
cố ý nằm ngồi lên, tự nghĩ: "Nếu họ sinh tâm khó
chịu sẽ bỏ đi chỗ khác, nhường chỗ này cho ta" ,
Ba-dật-để-ca.
17- Bí-sô ni nào ngay
tại trú xứ của Tăng biết rõ là giường hư chân trên
lầu, trên gác và các vật để ngồi khác bị hư, cố ý
nằm ngồi trên ấy, Ba-dật-để-ca.
18- Bí-sô ni nào biết
trong nước có trùng, tự rưới nước ấy trên cỏ, trên đất,
hay trộn với phân trâu bò, hoặc bảo người khác làm,
Ba-dật-để-ca.
19- Bí-sô ni nào làm nhà
lớn, ngay trên khung bệ cửa nên đặt cây ngang và các khung
cửa sổ nên bố trí máng nước. Khi trát tường bằng đất
bùn ướt chỉ nên dày hai ba lớp, vừa bằng chỗ cây ngang.
Nếu quá mức này, Ba-dật-để-ca.
20- Bí-sô ni nào, tại
trú xứ của ngoại đạo được phép ở một đêm, chỉ
được ăn một bữa, trừ trường hợp vì bệnh. Nếu vượt
quá quy định này, Ba-dật-để-ca.
Bài tụng thứ ba:
Quá tam bất dư thực
Khuyến túc tịnh biệt chúng
Phi thời xúc bất thọ
Trùng ngoại đạo quán trang.
21- Nhiều Bí-sô ni đến
nhà thế tục có Bà la môn, cư sĩ tịnh tín, ân cần mời bánh
bún, thứa ăn, Bí-sô ni nào cần, có thể thọ lãnh hai đến
ba bát. Nếu nhận quá số lượng này, Ba-dật-để-ca.
Ðã nhận xong, phải
trở về trú xứ của mình.Nếu có Bí-sô ni khác phải cùng
chia nhau số thức ăn này. Ðó là đúng pháp.
22- Bí-sô ni nào đã ăn
xong không làm pháp dư thực, lại ăn thêm nữa, Ba-dật-để-ca.
23- Bí-sô ni nào biết
Bí-sô ni kia đã ăn xong, không làm pháp dư thực, lại khuyên
vị ấy ăn nữa, bảo:"Này cụ thọ, nên ăn thức ăn này"
, chỉ vì lý do là muốn cho vị kia phạm giới để sinh ra
buồn khổ, Ba-dật-để-ca.
24- Bí-sô ni nào ăn chúng
riêng, trừ thời khác, Ba-dật-để-ca.
Thời khác là: khi
bệnh, khi làm y, khi đi đường, khi đi thuyền, khi đại chúng
ăn, khi Sa môn thí thực.
25- Bí-sô ni nào ăn phi
thời, Ba-dật-để-ca.
26- Bí-sô ni nào ăn
thức ăn đã bị xúc chạm đến, Ba-dật-để-ca.
27- Bí-sô ni nào thức
ăn không được mời, tự ý cầm đưa lên miệng nhai,
nuốt, trừ nước và tăm xỉa răng, Ba-dật-để-ca.
28- Bí-sô ni nào biết
trong nước có trùng, vẫn lấy dùng, Ba-dật-để-ca.
29- Bí-sô ni nào tự
tay đem thức ăn cho ngoại đạo lõa hình và nam nữ ngoại
đạo khác, Ba-dật-để-ca.
30- Bí-sô ni nào tự ý
đến xem quân đội tập họp chuẩn bị xuất chinh, Ba-dật-để-ca.
Tụng thứ tư:
Quán quân nhị đã
nghĩ
Phú tội nghệ tục gia
Nhiên hỏa dữ dục quá
Thuyết dục phi chướng pháp.
31- Bí-sô ni nào có duyên
sự đến trại lính, chỉ được ở lại hai đêm, nếu ở
quá hạn, Ba-dật-để-ca.
32- Bí-sô ni nào ở
trong trại quân đội trong thời gian hai đêm, nếu xem quân
đội diễn binh, bố trận, tan trận để chuẩn bị xuất
chinh, Ba-dật-để-ca.
33- Bí-sô ni nào vì sân
hận, không hoan hỷ, đánh Bí-sô ni khác, Ba-dật-để-ca.
34- Bí-sô ni nào vì sân
hận, không hoan hỷ, đưa tay dọa đánh Bí-sô khác, Ba-dật-để-ca.
35- Bí-sô ni nào biết
Bí-sô ni khác phạm tội thô ác mà cố ý che dấu, Ba-dật-để-ca.
36- Bí-sô ni nào nói
với Bí-sô ni khác với lời thế này:
"Cụ thọ, cô đi cùng
tôi đến nhà cư sĩ, sẽ cho cô thức ăn non đẻ được ăn
no"
Sau khi đến nhà cư sĩ,
Bí-sô ni này lại không cho thức ăn đến Bí-sô ni kia, còn
nói:
"Cụ thọ, cô đi
chỗ kác đi. Tôi không thích ngồi nói chuyện với cô. Tôi
thích ngồi một mình, nói chuyện một mình".
Khi Bí-sô ni này nói
lời ấy vì muốn Bí-sô ni kia buồn bực (để bỏ đi) ,
Ba-dật-để-ca.
37- Bí-sô ni nào không
vì bệnh, tự đốt lửa hoặc bảo người khác đốt,
Ba-dật-để-ca.
38- Bí-sô ni nào đã
gửi dục cho người khác rồi, sau hối hận nói lên: "Tôi
lấy dục lại, không gửi dục cho cô nữa" , Ba-dật-để-ca.
39- Bí-sô ni nào cùng
người chưa thọ cận viên ngủ cùng phòng hơn hai đêm,
Ba-dật-để-ca.
40- Bí-sô ni nào nói:
"Theo tôi biết pháp
Phật đã dạy: dục là pháp chướng ngại, khi hành động
theo thói quen không phải là pháp chướng ngại". Các Bí-sô
ni nên nói với Bí-sô ni ấy: "Thầy đừng nói lời:
theo tôi biết pháp Phật đã dạy: dục là pháp chướng
ngại, khi hành động theo thói quen không phải là pháp chướng
ngại. Cô đừng vu báng Thế tôn. Vu báng Thế tôn không
tốt. Thế tôn không nói lời ấy. Thế tôn dùng vô lượng
pháp môn nói: các pháp, dục là chướng ngại. Cô nên từ
bỏ các ác kiến như vậy".
Khi các Bí-sô ni can gián
như vậy, vị ấy từ bỏ thì tốt. Nếu không từ bỏ,
phải ba lần ân cần can gián nghiêm chỉnh, làm đúng theo giáo
pháp sửa trị vị ấy từ bỏ ác kiến này. Vị ấy từ
bỏ thì tốt, nếu không từ bỏ, Ba-dật-để-ca.
Tụng thứ năm:
Dữ ác kiến đồng túc
Cầu tịch hoại sắc y
Tróc bảo tẩy bàng
sinh
Não chỉ thủy đồng túc.
41- Bí-sô ni nào biết
vị Bí-sô ni đã nói lời như trên, lại không nghe lời can
gián từ bỏ ác kiến, lại cùng sống chung, cùng thọ
dụng, ở cùng phòng, cùng ngủ chung, Ba-dật-để-ca.
42- Bí-sô ni nào thấy
vị cầu tịch nữ nói:
"Theo tôi hiểu
lời Phật dạy, dục là pháp chướng ngại, khi làm theo thói
quen không phải là pháp chướng ngại"
Các Bí-sô ni phải nói
với cầu tịch nữ ấy:
"Người đừng nói:
theo tôi hiểu lời Phật dạy, dục là pháp chướng ngại,
nhưng khi làm theo thói quen, không phải là pháp chướng
ngại. Người đừng vu báng Thế tôn. Vu báng Thế tôn không
tốt, Thế tôn không nói lời này. Thế tôn dùng vô lượng
pháp môn nói các dục là chướng ngại. Người phải từ
bỏ các ác kiến như vậy".
Khi các Bí-sô ni nói như
vậy với vị cầu tịch nữ ấy, vị ấy từ bỏ thì tốt,
nếu không từ bỏ, phải khuyên bảo nghiêm chỉnh đến hai
ba lần, giáo dục vị ấy từ bỏ ác kiến ấy. Cầu tịch
nữ này từ bỏ thì tốt, nếu không từ bỏ thì bảo với
cầu tịch nữ ấy:
"Từ đây về sau,
ngươi không được nói: đức Như Lai Ứng cúng Chánh đẳng
giác là thầy tôi và không được phép đồng hành với các
vị tôn túc và các vị đồng phạm hạnh. Các cầu tịch
nữ khác được phép ngủ chung phòng với các Bí-sô khác
hai đêm, từ nay ngươi không được dự việc này. Ngươi là
kẻ ngu si, hãy mau đi đi! Hãy mau đi luôn đi!".
Bí-sô ni nào biết rõ
vị kia là cầu tịch nữ bị diệt tẫn, lại nhận đem về
nuôi dưỡng, cho ngủ cùng phòng, Ba-dật-để-ca.
43- Bí-sô ni nào được
y mới, phải nhuộm hoại sắc bằng ba cách: xanh, bùn, đỏ,
tùy theo mỗi loại làm cho hoại sắc. Nếu không làm cho y
bị hoại sắc bằng ba cách trên mà đem xử dụng, Ba-dật-để-ca.
44- Bí-sô nào đối
với các bảo vật hay vật quý như bảo vật, tự tay cầm
hay bảo người cầm, trừ trong chùa hay trong nhà bạch y,
Ba-dật-để-ca.
Nếu trong chùa hay trong
nhà bạch y, thấy các bảo vật hay như bảo vật, trước
khi lấy nên suy nghĩ: "Khi có người đến nhận, ta sẽ
đưa cho họ".
45- Bí-sô ni nên nửa
tháng tắm một lần, nếu cố ý tắm thêm, trừ trường
hợp khác, Ba-dật-để-ca.
Trường hợp khác: khi
nóng nực, khi bệnh, khi làm việc, khi đi đường, khi gió,
khi mưa, khi gió mưa.
46- Bí-sô ni nào cố ý
giết hại sinh mạng loài vật, Ba-dật-để-ca.
47- Bí-sô ni nào cố ý
gây phiền phức cho Bí-sô khác, dù cho vì lý do ấy làm Bí-sô
ni kia không vui trong chốc lát, Ba-dật-để-ca.
48- Bí-sô ni nào dùng
tay cù-léc Bí-sô ni khác, Ba-dật-để-ca.
49- Bí-sô nào đùa
giỡn trong nước, Ba-dật-để-ca.
50- Bí-sô ni nào ngủ cùng
phòng với đàn ông, Ba-dật-để-ca.
Tụng thứ sáu:
Bố tàng sân nhị đạo
Quật địa tứ nguyệt thỉnh
Cự giáo thiết thính ngôn
Mặc nhiên tùng tọa khởi.
51- Bí-sô ni nào tự mình
hay bảo người khủng bố Bí-sô ni khác, dù cho để đùa
giỡn, Ba-dật-để-ca.
52- Bí-sô ni nào tự mình
hay bảo người cất giấu y bát, hoặc tư cụ của Bí-sô ni
khác, Bí-sô ni, chánh học, cầu tịch, cầu tịch nữ, trừ
duyên sự khác, Ba-dật-để-ca.
53- Bí-sô ni nào do sân
nhuế, biết Bí-sô ni kia thanh tịnh không phạm giới, lại
vu báng vị ấy phạm Tăng-già-phạt-thi-sa không căn cứ,
Ba-dật-để-ca.
54- Bí-sô ni nào cùng
đi chung đường với người nam, không có người nữ, cho đến
khoảng cách trong một thôn, Ba-dật-để-ca.
55- Bí-sô ni nào đi
chung đường với giặc, đoàn buôn lậu cho đến khoảng cách
trong một thôn, Ba-dật-để-ca.
56- Bí-sô ni nào tự mình
hay bảo người đào đất, Ba-dật-để-ca.
57- Bí-sô ni nào được
thọ thỉnh sử dụng những thứ cần dùng trong bốn tháng.
Nếu quá hạn này mà vẫn thọ nhận những thứ ấy, trừ
thời khác, Ba-dật-để-ca.
Thời khác là: biệt
thỉnh, cách thỉnh, ân cần thỉnh, thường thỉnh.
58- Bí-sô ni nào nghe các
Bí-sô khác nói:
"Cụ thọ, cô nên
học tập các học xứ như vậy".
Vị ấy nghe nói, lại đáp:
"Tôi không thể vì
nghe lời nói ngu si không phân minh, không hiểu biết của cô
mà thọ hành học xứ đâu. Tôi sẽ tìm những vị giỏi tam
tạng và nghe theo lời dạy của các vị ấy để học học
xứ" , Ba-dật-để-ca.
Bí-sô nào thật lòng
muốn hiểu biết, được phép hỏi tam tạng giáo điển.
59- Bí-sô ni nào biết
các Bí-sô khác có sự tranh chấp, đang tìm vạch chỗ sai
lầm để gây gỗ nhau, nên lén đến nghe những lời họ nói,
nghĩ rằng: "Ta cần nghe để làm cho họ tranh chấp
nhau", chỉ vì mục đích ấy chứ không gì khác,
Ba-dật-để-ca.
60- Bí-sô ni nào trong lúc
biết rõ đại chúng đang bàn luận Tăng sự như pháp mà
tự mình im lặng bỏ đi nơi khác, không thưa với Bí-sô ni
khác, ngoại trừ có duyên sự, Ba-dật-để-ca.
Tụng thứ bảy:
Bất cung kính ẩm
tửu
Nhập tụ vãng dư gia
Minh tướng nhiếp nhĩ đồng
Sàng túc miên phu cụ.
61- Bí-sô ni nào không
cung kính đối với thầy bạn, Ba-dật-để-ca.
62- Bí-sô ni nào uống
các loại rượu, Ba-dật-để-ca.
63- Bí-sô ni nào phi
thời đi vào xóm làng, không báo lại cho các Bí-sô ni khác
biết, trừ duyên sự khác, Ba-dật-để-ca.
64- Bí-sô ni nào nhận
lời mời bữa ăn tại nhà người, trước hay sau bữa ăn
lại bỏ đi sang nhà người khác, không báo lại, Ba-dật-để-ca.
65- Bí-sô ni nào minh tướng
chưa xuất hiện, vua quán đảnh sát đế lợi chưa thu cất
các bảo vật và các loại như bảo vật, bước vào trong
cửa cung riêng của vua, trừ có duyên sự khác, Ba-dật-để-ca.
66- Bí-sô ni nào khi
nửa tháng thuyết giới, nói:
"Cụ thọ, đến
nay tôi mới biết những pháp này từ giới kinh nói ra".
Các Bí-sô ni đều
biết rõ Bí-sô ni này đã hai ba lần cùng dự trưởng
tịnh, nào phải chỉ mới lần này, nên nói với vị ấy:
"Này cụ thọ,
chẳng phải không biết là được miễn tội đâu. Những
tội cô đã phạm phải như pháp phát lộ sám hối"
Và phải khuyên vị
ấy:
"Này cụ thọ, pháp
này hy hữu khó được gặp, vậy mà khi thuyết giới cô không
cung kính, không trú tâm, không tôn trọng, không chú ý, không
nhất tưởng, không lắng nghe, không chánh niệm để nghe pháp"
, Ba-dật-để-ca.
67- Bí-sô ni nào dùng xương,
ngà, sừng làm thành ống đựng kim, phải đập vụn bỏ đi,
Ba-dật-để-ca.
68- Bí-sô ni nào làm giường
lớn hay nhỏ, chân giường phải cao vừa bằng tám ngón tay
Như Lai, trừ khoảng tra mộng diềm giường. Nếu làm quá
phải cắt bỏ bớt, Ba-dật-để-ca.
69- Bí-sô ni nào dùng bông
gòn,.v.v... độn lót nệm giường tòa, phải lấy ra,
Ba-dật-để-ca.
70- Bí-sô ni nào làm
ny-sư-đản-na phải làm đúng lượng. Lượng đúng là: dài
hai gang tay Phật, rộng một gang tay rưỡi Phật, mỗi bên có
thể dài hơn một gang. Nếu làm quá lượng này, phải cắt
bỏ bớt, Ba-dật-để-ca.
Tụng thứ tám:
Phú san Phật y lượng
Toán thế tẩy thủ bá
Tự chử thực thủy sái
Sanh thảo khí tường ngoại.
71- Bí-sô ni nào làm y
che ghẻ phải đúng kích thước. Kích thước đúng là: dài
bốn gang tay Phật, rộng bằng hai gang tay Phật. Nếu quá kích
thước này phải cắt bớt, Ba-dật-để-ca.
72- Bí-sô ni nào làm y
bằng hay lớn hơn y của Phật, Ba-dật-để-ca.
Kích thước y của
Phật: dài mười gang tay Phật, rộng sáu gang tay Phật. Ðây
là kích thước y của Phật.
73- Bí-sô ni nào ăn
tỏi, Ba-dật-để-ca.
74- Bí-sô ni nào cạo lông
chỗ kín, Ba dật để ca.
75- Bí-sô ni nào khi
tẩy tịnh, chỉ được vừa hai lóng tay. Nếu quá, Ba-dật-để-ca.
76- Bí-sô ni nào lấy
tay vỗ chỗ kín, Ba-dật-để-ca.
77- Bí-sô ni nào tự
tay nấu thức ăn sống, Ba-dật-để-ca.
78- Bí-sô ni nào lấy nước
tạt lên vị lớn hơn, Ba-dật-để-ca.
79- Bí-sô ni nào đại
tiểu tiện, khạc nhổ trên cỏ, Ba-dật-để-ca.
80- Bồ tát ni nào không
xem xét kỹ, vứt vật bất tịnh ra ngoài tường, Ba-dật-để-ca.
Tụngthứ chín:
Vị độc hữu ngũ
chủng
Do nhĩ ngữ hữu tứ
Nhược hoài sân nhuế tâm
Thôi ức giai bất hợp.
81- Bí-sô ni nào đứng
một mình với đàn ông tại chỗ vắng, Ba-dật-để-ca.
82- Bí-sô ni nào đứng
một mình với Bí-sô tại chỗ vắng, Ba-dật-để-ca.
83- Bí-sô ni nào đứng
một mình với đàn ông tại chỗ trống, Ba-dật-để-ca.
84- Bí-sô ni nào đứng
một mình với Bí-sô tại chỗ trống, Ba-dật-để-ca.
85- Bí-sô ni nào sống
riêng một phòng, Ba-dật-để-ca.
86- Bí-sô ni nào kề
miệng vào tai nói nhỏ với đàn ông, Ba-dật-để-ca.
87- Bí-sô ni nào nghe đàn
ông kề tai nói nhỏ, Ba-dật-để-ca.
88- Bí-sô ni nào kề
miệng vào tai nói nhỏ với Bí-sô, Ba-dật-để-ca.
89- Bí-sô ni nào nghe Bí-sô
kề tai nói nhỏ, Ba-dật-để-ca.
90- Bí-sô ni nào vì sân
hận, tự đấm ngực làm cho đau đớn thống khổ, Ba-dật-để-ca.
Tụng thứ mười:
Chú thệ bất quán
sự
Tọa sàng dĩ thọ giao
Tại tứ bạch y gia
Khán bệnh bất đồng ngọa.
91- Bí-sô ni nào lấy
phạm hạnh của mình ra thề thốt, Ba-dật-để-ca.
92- Bí-sô ni nào không
xem xét rõ sự việc. lại sửa trị người khác, Ba-dật-để-ca.
93- Bí-sô ni nào tại nơi
khuất tối, không xem xét giường tòa mà nằm ngồi lên,
Ba-dật-để-ca.
94- Bí-sô ni nào dùng
nhựa cây làm sanh chi, Ba-dật-để-ca.
95- Bí-sô ni nào
thuyết pháp tại nhà bạch y, xong tự bỏ đi không bảo
chủ nhà thu dọn ngọa cụ, Ba-dật-để-ca.
96- Bí-sô ni nào tại
nhà cư sĩ, chủ nhà chưa cho phép, tự ý ngồi trên giường
tòa,.v.v... Ba-dật-để-ca.
97- Bí-sô ni nào tại
nhà cư sĩ, chưa hỏi chủ nhà, tự tiện ngồi, Ba-dật-để-ca.
98- Bí-sô ni nào biết
Bí-sô ni kia đã ở trước trong nhà bạch y, mình đến sau
lại bảo vị kia đi chỗ khác, Ba-dật-để-ca.
99- Bí-sô ni nào đối
với thân đệ tử hay đệ tử y chỉ, thấy họ bị bệnh
hoạn nhưng không trông nom săn sóc, Ba-dật-để-ca.
100- Bí-sô ni nào cùng
nằm một giường với Bí-sô ni khác, Ba-dật-để-ca.
Tụng thứ mười một:
Nhị an cư nhị bố
Thiên từ mãn vị niên
Súc chúng nhị giá nhân
Tăng vị dữ vô hạn.
101- Bí-sô ni nào chưa
mãn an cư mùa hạ, tự đi du hành nhân gian theo ý mình,
Ba-dật-để-ca.
102- Bí-sô ni nào an cư
mùa hạ đã mãn, không chịu rời chỗ ở cũ để đi du hành
trong nhân gian, Ba-dật-để-ca.
103- Bí-sô ni nào biết
nơi có giặc đáng sợ trong vương quốc mà du hành đến đó,
Ba-dật-để-ca.
104- Bí-sô ni nào biết
nơi có sự sợ hãi về cọp, sói, sư tử mà du hành đến
đó, Ba-dật-để-ca.
105- Bí-sô ni nào vào
trong miếu thờ trời để luận nghị, Ba-dật-để-ca.
106- Bí-sô ni nào chưa
đủ mười hai tuổi hạ, cho người khác xuất gia, thọ
cận viên, Ba-dật-để-ca.
107- Bí-sô ni nào Tăng
già chưa tác pháp cho phép nuôi chúng, tự tiện nuôi đệ
tử, Ba-dật-để-ca.
108- Bí-sô ni nào biết
rõ người đàn bà từng có chồng nhưng chưa đủ mười hai
tuổi, lại cho họ xuất gia, Ba-dật-để-ca.
109- Bí-sô ni nào biết
rõ người đàn bà từng có chồng nhưng chưa đủ mười hai
tuổi, chưa cho thọ pháp chánh học, lại cho thọ cận viên,
Ba-dật-để-ca.
110- Bí-sô ni nào Tăng
già chưa tác pháp cho phép súc chúng không hạn chế, tự ý
nuôi nhiều đệ tử, Ba-dật-để-ca.
Tụng thứ mười hai:
Ðộ thần bất giáo
giới
Bất độ bất tùy thân
Nhị đồng nữ ác nhân
Ða ưu nhị lục pháp.
111- Bí-sô ni nào độ
phụ nữ đang có chửa xuất gia, Ba-dật-để-ca.
112- Bí-sô ni nào cho người
khác xuất gia và cho thọ cận viên nhưng không dạy bảo
họ, Ba-dật-để-ca.
113- Bí-sô ni nào cho người
khác xuất gia và cho thọ cận viên nhưng không nuôi dưỡng,
giám hộ họ, Ba-dật-để-ca.
114- Bí-sô ni nào cho người
khác xuất gia nhưng khi đi đến nơi khác không cho họ đi
theo, Ba-dật-để-ca.
115- Bí-sô ni nào biết
đồng nữ tuổi chưa đủ hai mươi, cho họ thọ cận viên,
Ba-dật-để-ca.
116- Bí-sô ni nào biết
đồng nữ tuổi đủ hai mươi, không cho họ học sáu pháp và
sáu tùy pháp trong hai năm mà cho họ thọ cận viên, Ba-dật-để-ca.
117- Bí-sô ni nào biết
người nữ có tánh xấu ưa tranh cãi, lại cho họ xuất gia,
Ba-dật-để-ca.
118- Bí-sô ni nào biết
người nữ có nhiều buồn phiền áo não, lại cho họ xuất
gia, Ba-dật-để-ca.
119- Bí-sô ni nào biết
phụ nữ chưa học đủ sáu pháp và sáu tùy pháp trong hai năm
xong, lại cho họ thọ cận viên, Ba-dật-để-ca.
120- Bí-sô ni nào biết
người nữ đã học đủ sáu pháp và sáu tùy pháp trong hai
năm xong, nhưng không cho họ thọ cận viên, Ba-dật-để-ca.
Tụng thứ mười ba:
Vị phóng dữ ngã y
Thu liễm niên niên thọ
Dục bán nguyệt vô tăng
An cư tùy ý trách.
121- Bí-sô ni nào biết
phụ nữ đang có chồng hay chủ, chưa cho họ tự do, lại độ
cho họ xuất gia, Ba-dật-để-ca.
122- Bí-sô ni nào biết
người nữ kia đang muốn thọ cận viên, nên bảo họ:
"Hãy cho ta y, ta sẽ cho thọ cận viên" , Ba-dật-để-ca.
123- Bí-sô ni nào bảo
với người nữ thế tục:
"Người nên thu
xếp việc nhà, ta sẽ cho người xuất gia".
Người kia nghe lời, làm
xong lại không độ cho họ xuất gia. Ba-dật-để-ca.
124- Bí-sô ni nào hằng
năm cho người khác xuất gia và thọ cận viên, Ba-dật-để-ca.
125- Bí-sô ni nào gửi
dục cách đêm, Ba-dật-để-ca.
126- Bí-sô ni vào nửa
tháng phải cầu giáo thọ, nếu không cầu, Ba-dật-để-ca.
127- Bí-sô ni nào cử hành
trưởng tịnh nơi vùng không có Bí-sô, Ba-dật-để-ca.
128- Bí-sô ni nào an cư
nơi cùng không có Bí-sô, Ba-dật-để-ca.
129- Bí-sô ni nào an cư
xong không đối trướchai bộ Tăng cầu xin tùy ý ba việc:
thấy - nghe - nghi, Ba-dật-để-ca.
130- Bí-sô ni nào chê
trách chúng Tăng, Ba-dật-để-ca.
Tụng thứ mười bốn:
Mạ chúng ngũ chủng
san
Tán gia tự thực pháp
Cách thực cấp tôn tử
Tẩy quần linh hoán y.
131- Bí-sô ni nào chửi
mắng chúng Tăng, Ba-dật-để-ca.
132- Bí-sô ni nào thấy
người khác được tán thán, sinh tâm đố kỵ, Ba-dật-để-ca.
133- Bí-sô ni nào có lòng
bỏn sẻn muốn giữ riêng cho mình từng nhà thí chủ,
Ba-dật-để-ca.
134- Bí-sô ni nào đối
với chùa có lòng bỏn sẻn, muốn giữ riêng cho mình,
Ba-dật-để-ca.
135- Bí-sô ni nào có lòng
bỏn sẻn đối với lợi dưỡng ăn uống, Ba-dật-để-ca.
136- Bí-sô ni nào có lòng
bỏn sẻn đối với pháp, Ba-dật-để-ca.
137- Bí-sô ni nào đã
ăn xong, lại ăn nữa, Ba-dật-để-ca.
138- Bí-sô ni nào cấp
dưỡng cho cháu nhỏ người khác, Ba-dật-để-ca.
139- Bí-sô ni nào không
sắm quần để tắm, Ba-dật-để-ca.
140- Bí-sô ni nào bảo
thợ giặt giặt y phục cho mình, Ba-dật-để-ca.
Tụng thứ mười lăm:
Thượng chúng Sa môn y
Nhị bệnh y tùng khất
Bất cộng xuất bất phân
Ðấu bất chúc học chú.
141- Bí-sô ni nào đổi
các loại y đang mặc cho chúng Bí-sô Tăng, Ba-dật-để-ca.
142- Bí-sô ni nào đem
pháp y cho người thế tục, Ba-dật-để-ca.
143- Bí-sô ni nào không
sắm bệnh y, Ba-dật-để-ca.
144- Bí-sô ni nào lấy
bệnh y của đại chúng dùng riêng cho mình, Ba-dật-để-ca.
145- Bí-sô ni nào biết
họ nghèo, lại theo xin y Yết-sĩ-na, Ba-dật-để-ca.
146- Bí-sô ni nào không
cùng chúng Tăng xuất y Yết-sĩ-na, Ba-dật-để-ca.
147- Bí-sô ni nào không
cùng người khác phân chia y, Ba-dật-để-ca.
148- Bí-sô ni nào biết
mình có năng lực, thấy các ni khác đấu tranh, không khuyên
họ ngừng lại, Ba-dật-để-ca.
149- Bí-sô ni nào rời
khỏi trú xứ không báo cho vị khác biết, Ba-dật-để-ca.
150- Bí-sô ni nào học
chú pháp với người thế tục, Ba-dật-để-ca.
Tụng thứ mười sáu:
Giáo chú pháp mại
miến
Doanh lý sử tha ni
Niễn lũ chức cái hành
Cách san độ dâm nữ.
151- Bí-sô ni nào dạy
chú pháp cho người thế tục, Ba-dật-để-ca.
152- Bí-sô ni nào buôn
bán mì ăn, Ba-dật-để-ca.
153- Bí-sô ni nào quản
lý gia sự của người thế tục, Ba-dật-để-ca.
154- Bí-sô ni nào sai
khiến các ni khác di chuyển sàn tòa, giường ghế đến
nổi mệt nhọc, Ba-dật-để-ca.
155- Bí-sô ni nào tự
tay lựa chọn vuốt tơ, Ba-dật-để-ca.
156- Bí-sô ni nào tự kéo
sợi, Ba-dật-để-ca.
157- Bí-sô ni nào đi
đường che dù lọng, Ba-dật-để-ca.
158- Bí-sô ni nào mang
giày da màu sắc lòe loẹt, Ba-dật-để-ca.
159- Bí-sô ni nào trên
tay có mụt ghẻ, bảo người khác mở ra buộc lại nhiều
lần, Ba-dật-để-ca.
160- Bí-sô ni nào độ
người đang làm dâm nữ xuất gia, Ba-dật-để-ca.
Tụng thứ mười bảy:
Ni bất hứa khai thân
Ước nhân hữu ngũ biệt
Hương cập hồ ma thủy
Triếp vấn tục trang nghiêm.
161- Bí-sô ni nào bảo
Bí-sô ni khác lau thân thể cho mình, Ba-dật-để-ca.
162- Bí-sô ni nào bảo
Thức-xoa-ma-na lau thân thể cho mình, Ba-dật-để-ca.
163- Bí-sô ni nào bảo
cầu tịch nữ lau thân thể cho mình, Ba-dật-để-ca.
164- Bí-sô ni nào bảo
người nữ thế tục lau thân thể cho mình, Ba-dật-để-ca.
165- Bí-sô ni nào bảo
người nữ ngoại đạo lau thân thể cho mình, Ba-dật-để-ca.
166- Bí-sô ni nào dùng
hương thơm thoa trên thân, Ba-dật-để-ca.
167- Bí-sô ni nào dùng
dầu mè thoa trên thân, Ba-dật-để-ca.
168- Bí-sô ni nào bảo
người khác dùng nước lau thân cho mình, Ba-dật-để-ca.
169- Bí-sô ni nào không
xin phép trước, lại tự tiện vấn nạn, Ba-dật-để-ca.
170- Bí-sô ni nào mang
những vật dụng trang sức đẹp của người thế tục,
Ba-dật-để-ca.
Tụng thứ mười tám:
Tương khiên vũ ca
nhạc
Ðộc xuất đại tiểu hành
Loát bì sơ tam giả
Ðọa tội bách bát thập.
171- Bí-sô ni nào dùng
tay lôi kéo nhau khi tắm rửa dưới sông, Ba-dật-để-ca.
172- Bí-sô ni nào tự múa
nhảy và bảo người múa nhảy, Ba-dật-để-ca.
173- Bí-sô ni nào ca hát,
Ba-dật-để-ca.
174- Bí-sô ni nào đánh
nhạc, Ba-dật-để-ca.
175- Bí-sô ni nào đi
một mình ra khỏi chùa, đến nơi đồng trống để đại
tiểu tiện, Ba-dật-để-ca.
176- Bí-sô ni nào cất
chứa bàn chải bằng cây gỗ thơm, Ba-dật-để-ca.
177- Bí-sô ni nào cất
chứa lược dày, Ba-dật-để-ca.
178- Bí-sô ni nào cất
chứa lược thưa, Ba-dật-để-ca.
179- Bí-sô ni nào xử
dụng bàn chải thơm, lược dày, lược thưa, Ba-dật-để-ca.
180- Bí-sô ni nào chứa
đầu tóc giả và dụng cụ trang sức kèm theo, Ba-dật-để-ca.
Các Ðại đức, tôi đã
thuyết xong một trăm tám mươi pháp Ba-dật-để-ca. Nay xin
hỏi các Ðại đức:
"Trong chúng này
thanh tịnh không?". (Hỏi ba lần)
"Các Ðại đức,
trong chúng này thanh tịnh vì im lặng. Tôi xin ghi nhận như
vậy".
V.- 11 pháp
Ba-la-để-đề-xá-ni: (Patidesaniya)
Các Ðại đức, đây là
mười một pháp đối thuyết Ba-la-để-đề-xá-ni, mỗi
nửa tháng được nói ra từ giới kinh.
Tụng tóm lược:
Nhũ lạc cập sanh tô
Thục tô dầu đường mật
Ngư nhục tinh càn phô
Ðắc pháp học nhân gia.
1- Bí-sô ni nào không
bệnh, chỉ vì mình, đến nhà bạch y xin sữa, hoặc bảo người
xin để mình xử dụng ăn uống. Bí-sô ni ấy phải trở
về trú xứ ngoài thôn xóm, đến gặp các Bí-sô ni, nói
với từng vị:
"Ðại đức, tôi
đã phạm ác pháp đối thuyết. Ðây là việc không được
làm. Nay tôi đối trước Ðại đức để sám hối".
Ðây gọi là pháp đối
thuyết.
Từ 2 đến 10... như trên:
xin bơ, sanh tô, thục tô, dầu, đường, mật, cá, thịt,
thịt khô, chín loại thực phẩm.
11- Bí-sô ni nào biết
đó là nhà học gia, Tăng già đã tác pháp Yết-ma học gia.
Bí-sô ni này không được thọ thỉnh trước, tự tiện đến
nhà ấy, tự tay nhận thức ăn để ăn. Bí-sô này phải
trở về trú xứ ngoài làng xóm, đến gặp các Bí-sô ni, nói
với từng vị:
"Ðại đức, tôi
đã phạm ác pháp đối thuyết. Ðây là điều không được
vi phạm. Nay tôi đối thuyết để sám hối".
Ðây là pháp đối
thuyết.
Chư Ðại đức, tôi đã
thuyết xong mười một pháp Ba-la-để-đề-xá-ni. Nay xin
hỏi các Ðại đức:
"Trong chúng này
thanh tịnh không?" (Hỏi ba lần)
"Chư Ðại đức,
trong chúng này thanh tịnh vì im lặng. Tôi xin ghi nhận như
vậy".
VI.- Pháp chúng học:
(Sekkhiyavatta)
Các Ðại đức, đây là
pháp chúng học, mỗi nửa tháng được nói ra từ giới
kinh.
Tụng tóm lược:
Y thực hình tề
chỉnh
Tục xá thiện dung nghi
Hộ bát trừ bệnh nhân
Thế thóa quá nhân thọ.
1- Mặc quần tề
chỉnh, cần phải học.
2- Mặc quần không quá
cao, không quá thấp, không cuốn hình vòi voi, không cuốn hình
đầu rắn, không xếp hình lá đa-la, không xếp hình miếng
đậu - cần phải học.
3- Mặc năm y tề chỉnh - cần phải học.
4- Mặc năm y không quá
cao, không quá thấp, mặc ngay ngắn, kín đáo, không nói
nhiều, không nhìn lên cao khi vào nhà bạch y - cần phải
học.
5- Sắp đến nguyệt
kỳ, không được đến nhà bạch y - cần phải học.
6- Không che đầu, không
lật một bên y, không lật hai bên y, không chống nạnh, không
vung tay khi vào nhà bạch y - cần phải học.
7- Không nhún nhảy, không
nhón chân, không nhảy cò cò, không đi nghiêng người, không
đi hấp tấp khi đi vào nhà bạch y, - cần phải học.
8- Không uốn éo, không
vẫy tay, không lắc đầu, không vung tay, không đánh đồng
xa khi đi vào nhà bạch y, - cần phải học.
9- Trong nhà bạch y, chưa
được mời không được tự tiện ngồi - cần phải học.
10- Trong nhà bạch y, chưa
xem xét kỹ, không được ngồi - cần phải học.
11- Trong nhà bạch y, không
được ngồi bừa bãi - cần phải học.
12- Trong nhà bạch y, không
ngồi gác chân, tréo chân, bó gối, duỗi hết hai chân, hay bày
lộ thân thể - cần phải học.
13- Cung kính nhận thức ăn - cần phải học.
14- Không được nhận
cơm đầy bát, lại nhận canh, rau làm thức ăn tràn ra ngoài,
cẩn thận dùng ngón tay giữ bát để ăn - cần phải học.
15- Thức ăn chưa đem
đến, không được hứng bát ra chờ - c?n phải học.
16- Không đặt bát trên
thức ăn - cần phải học.
17- Cung kính ăn thức ăn - cần phải học.
18- Không nắn vắt cơm
quá lớn, quá nhỏ, chỉ vừa tròn để ăn - cần phải
học.
19- Thức ăn chưa đến miệng, không há miệng
chờ - cần phải học.
20- Không ngậm thức ăn
nói chuyện - cần phải học.
21- Không lấy cơm lấp
trên canh, lấy canh lấp trên cơm để mong được thêm nữa
- cần phải học.
22- Không liếm thức ăn,
không nhai cơm có tiếng, không hà hơi trên thức ăn, không
thổi thức ăn, không bươi thức ăn, không chê thức ăn, không
giữ thức ăn hai bên má, không cắn nửa miếng ăn, không lè
lưỡi ăn, không nên làm thức ăn như hình tháp - cần phải
học.
23- Không liếm tay, không
liếm bát, không chấn tay, không chấn bát, thường nhìn vào
bát để ăn - cần phải học.
24- Không có tâm khinh
mạn, cố nhìn vào bát vị đang ăn gần bên - cần phải
học.
25- Không được dùng
tay bẩn cầm bình nước sạch - cần phải học.
26- Trong nhà bạch y, không
được đổ nước rửa bát, trừ khi hỏi chủ nhà - cần
phải học.
27- Không được lấy
thức ăn thừa bỏ vào bát đựng nước - cần phải học.
28- Trên đất không có
vật kê lót, không được để bát - cần phải học.
29- Không đứng rửa bát - cần phải học.
30- Không được đặt
bát chỗ dễ rơi vỡ, không dùng bát múc nước ngược dòng
- cần phải học.
31- Người ngồi ta đứng,
không đuợc nói pháp, trừ bệnh - cần phải học.
32- Người nằm ta ngồi, không được nói pháp,
trừ bệnh - cần phải học.
33- Người ngồi tòa
cao, ta ngồi tòa thấp, không được nói pháp, trừ bệnh -
cần phải học.
34- Người đi trước,
ta đi sau, không được nói pháp, trừ bệnh - cần phải
học.
35- Người đi giữa
đường, ta đi bên lề, không được nói pháp, trừ bệnh -
cần phải học.
36- Không thuyết pháp
cho người che đầu, người lật y một bên, người lật y
hai bên, người chống nạnh, người vẫy tay, trừ bệnh -
cần phải học.
37- Không thuyết pháp
cho người đang cỡi voi, cỡi ngựa, ngồi kiệu, đi xe, trừ
bệnh - cần phải học.
38- Không thuyết pháp
cho người đang mang guốc, giày, dép - cần phải học.
39- Không thuyết pháp
cho người đang đội mũ, nón, mão như nhục đảnh Phật, người
quấn đầu, đội vòng hoa, trừ bệnh - cần phải học.
40- Không được
thuyết pháp cho người đang che dù - cần phải học.
41- Không được đứng đại tiểu tiện, trừ
bệnh - cần phải học.
42- Không được đại tiểu tiện, khạc nhổ
trong nước sạch, trừ bệnh - cần phải học.
43- Không được đại
tiểu tiện hay khạc nhổ trên cỏ xanh - trừ bệnh - cần
phải học.
44- Không được leo cây
cao hơn đầu người, trừ nạn duyên - cần phải học.
Các Ðại đức, tôi đã
thuyết xong các pháp chúng học, xin hỏi các Ðại đức:
"Trong chúng này
thanh tịnh không?" (Hỏi ba lần)
"Các Ðại đức,
trong chúng này thanh tịnh vì im lặng. Tôi xin ghi nhận như
vậy".
VII.- Bảy pháp diệt tránh:
(Adhikarana samatha)
Các Ðại đức, đây là
bảy pháp diệt tránh, mỗi nửa tháng được nói ra từ
giới kinh.
Tụng tóm lược:
Hiện tiền tinh ức
niệm
Bất si dữ cầu tội
Ða nhân ngữ, tự ngôn
Thảo yểm trừ chúng tránh.
1- Cần giải quyết
bằng Hiện tiền Tỳ-nại-da, nên giải quyết bằng Hiện
tiền Tỳ-nại-da.
2- Cần giải quyết
bằng Ức niệm Tỳ-nại-da, nên giải quyết bằng Ức niệm
Tỳ-mại-da.
3- Cần giải quyết
bằng Bất si Tỳ-nại-da, nên giải quyết bằng Bất si Tỳ-
nại-da.
4- Cần giải quyết
bằng Cầu tội tự tánh Tỳ-nại-da, nên giải quyết bằng
Cầu tội tự tánh Tỳ- nại-da.
5- Cần giải quyết
bằng Ða nhân ngữ Tỳ-nại-da, nên giải quyết bằng Ða nhân
ngữ Tỳ- nại-da.
6- Cần giải quyết
bằng Tự ngôn trị Tỳ-nại-da, nên giải quyết bằng Tự
ngôn trị Tỳ- nại-da.
7- Cần giải quyết
bằng Thảo yểm Tỳ-nại-da, nên giải quyết bằng Thảo
yểm Tỳ- nại-da.
Nếu có tránh sự phát
sinh, phải dùng bảy pháp này, thuận theo lời dạy của Ðấng
Ðạo sư, như pháp, như luật để diệt trừ tránh sự ấy.
Các Ðại đức, tôi đã
thuyết xong bảy pháp diệt tránh, xin hỏi các Ðại đức:
"Trong chúng này
thanh tịnh không?" (Hỏi ba lần)
"Các Ðại đức,
trong chúng này thanh tịnh vì im lặng. Tôi xin ghi nhận như
vậy".
PHẦN KẾT:
Các Ðại đức, tôi đã
thuyết xong bài tựa giới kinh, tám pháp Ba-la-thị-ca, hai mươi
pháp Tăng-già-phạt-thi-sa, ba mươi pháp Ny-tát-kỳ-ba-dật-để-ca,
một trăm tám mươi pháp Ba-dật-để-ca, mười một pháp
Ba-la-để-đề-xá-ni, các pháp chúng học, bảy pháp diệt tránh.
Các pháp này đều được
giữ gìn trong giới kinh của đức Như Lai, Ứng cúng, Chánh
đẳng giác. Nếu có những tùy pháp khác tương ứng với
những pháp này, đều phải tu học.
Các Ðại đức cùng
nhau hội họp với tinh thần hoan hỷ không tranh cãi, một lòng
một lời như nước hòa với sữa, siêng năng phát huy rực
rỡ Thánh giáo của bậc Ðại sư, làm cho đời sống an
lạc, không sống phóng dật, cần phải tu học như vậy.
1- Nhẫn tinh cần
bậc nhất
Ðưa đến chứng Niết-bàn
Xuất gia não hại người
Không phải là Sa môn.
Ðây là giới kinh của
Tỳ-Bát-Thi Như Lai Ðẳng chánh giác giảng dạy.
2- Mắt sáng tránh
đường hiểm
Ðến được chỗ an ổn
Bậc trí sống trong đời
Tránh xa các xấu ác.
Ðây là giới kinh của
đức Thi Khí Như Lai Chánh đẳng giác giảng dạy.
3- Không hủy báng, não
hại
Khéo hộ trì giới kinh
Ăn uống biết vừa đủ
Dùng ngọa cụ tầm thường
Siêng tu tăng thượng định
Là lời chư Phật dạy.
Ðây là giới kinh của
đức Tỳ Xá Phù Như Lai Chánh đẳng giác giảng dạy.
4- Như ong đến tìm
hoa
Không hoại sắc và hương
Chỉ hút mật rồi đi
Bí-sô ni cũng vậy.
Không chống phá người khác
Người làm hay không làm
Tự xét hành động mình
Làm đúng hay không đúng.
Ðây là giới kinh của
đức Câu Lưu Tôn Như Lai Chánh đẳng giác giảng dạy.
5- Chớ đắm say vị
định
Siêng tu nơi tịch tĩnh
Ðạt vậy, dứt ưu sầu
Thường giữ gìn chánh niệm.
Người nào thường bố thí
Thêm phước, oán không còn
Tu thiện, trừ các ác
Hết hoặc, chứng Niết-bàn.
Ðây là giới kinh của
đức Yết-Nặc-Ca Mâu-Ni Như Lai Ðẳng chánh giác giảng
dạy.
6- Không làm các
việc ác
Thực hành các hạnh lành
Ðiều phục ngay tự tâm
Là lời chư Phật dạy.
Ðây là giới kinh của
đức Ca Nhiếp Ba Như Lai Chánh đẳng giác giảng dạy.
7- Lành thay hộ trì
thân
Lành thay hộ trì lời
Lành thay hộ trì ý
Lành thay phòng hộ hết.
Bí-sô ni hộ hết
Trừ diệt tất cả khổ
Khéo hộ trì miệng, lời
Khéo hộ trì ý tưởng
Thân không làm việc ác
Thường thanh tịnh ba nghiệp
Thế nên phải tùy thuận
Giáo pháp bậc Ðại tiên.
Ðây là giới kinh của
đức Thích Ca Như Lai Ðẳng chánh giác giảng dạy.
Tỳ-Bát-Thi, Thi Khí
Tỳ Xá, Câu Lưu Tôn
Yết Nặc Ca Mâu Ni
Ca Nhiếp, Thích Ca tôn
Bậc trời giữa các trời
BậcVô thượng Ðiều ngự
Bảy Phật đều hùng dũng
Thường cứu hộ thế gian
Ðầy đủ tiếng khen lớn
Ðều thuyết giới pháp này
Chư Phật cùng đệ tử
Ðều kính tôn trọng giới
Nhờ cung kính giới kinh
Chứng đắc quả Vô thượng
Người hãy cầu giải thoát
Siêng tu lời Phật dạy
Hàng phục quân sinh tử
Như voi xô nhà cỏ
Ngay trong pháp luật này
Thường sống không phóng dật
Tát cạn biển phiền não
Vượt qua khỏi bờ khổ
Mỗi khi thuyết giới kinh
Hòa hợp làm trưởng tịnh
Phải cùng tôn kính giới
Như trâu mao giữ đuôi
Tôi đã thuyết giới kinh
Chúng Tăng trưởng tịnh xong
Phước lợi các hữu tình
Ðều cùng thành Phật đạo.
CĂN BẢN THUYẾT
NHẤT THẾ HỮU BỘ
TỲ NẠI DA
BÍ-SÔ-NI GIỚI KINH
- Hết-