Đại sư Rolpe Dorje sinh ngày 8 tháng 3 năm Kim Thìn (1340), tại
tỉnh Kongpo thuộc miền trung Tây Tạng. Trong khi mang thai ngài, người
mẹ thường xuyên nghe thấy âm thanh tụng đọc câu chân ngôn “Án ma ni bát
di hồng” vang lên từ trong bụng, và ngay khi vừa sinh ra ngài đã tụng
đọc được câu chân ngôn này. Khi vừa lên 3 tuổi, ngài đã tuyên bố rằng
mình là một vị Karmapa tái sinh.
Những năm tháng tuổi thơ của ngài là một chuỗi dài những điều kỳ diệu.
Ngay từ rất sớm, ngài đã chứng tỏ năng lực của một vị Karmapa tái sinh
qua việc thực hiện những việc phi thường mà không ai có thể ngờ được.
Chẳng hạn, ngài có thể cầm lên một quyển kinh sách bất kỳ rồi đọc qua và
giảng giải những ý nghĩa sâu xa trong đó; hoặc ngài thường xuyên tiếp
nhận những phần giáo lý cao siêu trong giấc mơ của mình.
Từ khi còn ở độ tuổi thiếu niên, ngài đã nhận được sự truyền thừa chính
thức của cả dòng Karma Kagyu và dòng Nyingma (Ninh-mã) từ bậc thầy
Gyalwa Yungtưnpa, vị đại đệ tử của đức Karmapa đời thứ ba.
Năm 14 tuổi, ngài thọ giới sa-di với Dondrup Pal Rinpoche và được ban
pháp danh là Dharmakirti. Đến năm 18 tuổi, ngài cũng thọ giới cụ túc với
vị này để chính thức trở thành một vị tỳ-kheo.
Năm ngài được 19 tuổi (1359), vua Thuận Đế nhà Nguyên gửi lời thỉnh cầu
ngài đến hoằng hóa tại Trung Hoa. Ngài chấp nhận lời thỉnh cầu đó và lên
đường sang Trung Hoa. Đây là một chuyến đi gian khổ và lâu dài, vì ngài
quyết định nhân dịp này cũng dừng lại ở rất nhiều nơi để truyền dạy
giáo pháp. Khi đến Trung Hoa, ngài ở lại hoằng hóa trong 3 năm và thành
lập tại đây rất nhiều chùa chiền, tu viện. Dân chúng nhận được sự giáo
hóa của ngài đã mang đến cúng dường rất nhiều tiền bạc và của cải. Ngài
sử dụng tất cả những thứ ấy để phân phát cho người nghèo cũng như dành
một phần cho việc xây dựng các tu viện.
Trên đường trở về Tây Tạng sau đó, ngài dừng chân ở vùng Tsongkha và làm
lễ quy y cho một cậu bé rất đặc biệt mà ngài đã nhìn thấy trước sau này
sẽ trở thành một nhân vật quan trọng trong Phật giáo Tây Tạng. Cậu bé
này chính là Kunga Nyingpo, sau này được biết đến với tên gọi
Tông-khách-ba (Tsongkhapa) người sáng lập phái Cách-lỗ (Gelugpa) hay
Hoàng phái của Tây Tạng. Đây chính là tông phái sản sinh ra các vị
Đạt-lai Lạt-ma nổi tiếng của Tây Tạng.
Thuận Đế là vị hoàng đế cuối cùng của triều Nguyên. Khi Chu Nguyên
Chương thành công trong việc xua đuổi người Mông Cổ ra khỏi đất Trung
Hoa và lập nên nhà Minh (1368), tức Minh Thái Tổ, ông này cũng có lời
thỉnh cầu ngài sang truyền pháp. Tuy nhiên, lần này ngài đã cử một vị
Lạt-ma sang Trung Hoa thay mình.
Đức Karmapa đời thứ tư là một nhà thơ và nhà soạn nhạc thiên tài. Trong
suốt cuộc đời mình, ngài sáng tác rất nhiều bài ca để ngợi ca và truyền
bá giáo pháp, được phổ biến rộng rãi. Ngài cũng để lại nhiều tập thơ mà
ngài ngẫu hứng viết ra trong nhiều dịp khác nhau, chẳng hạn như khi ngài
chứng ngộ được các phần giáo pháp khác nhau hoặc khi ngài viếng thăm và
lễ bái các thánh tích.
Ngài đặc biệt yêu thích thơ ca Ấn Độ. Tuy nhiên, sáng tạo nghệ thuật vĩ
đại nhất trong đời ngài là một bức tranh lụa khổng lồ (thangka) lấy cảm
hứng từ một giấc mơ được một đệ tử của ngài kể lại.
Trong giấc mơ, người đệ tử này nhìn thấy hình tượng đức Phật Thích-ca
với chiều cao hơn trăm mét. Sau khi được nghe mô tả lại, đức Karmapa đã
chọn một khu đất trống rộng lớn và cưỡi ngựa chạy trên đó, dùng những
dấu chân ngựa để vẽ thành bức tranh theo cảm hứng sáng tạo của ngài. Sau
đó, người ta dùng một tấm lụa khổng lồ để sao chép bức tranh này lên đó
bằng cách đo chính xác khoảng cách giữa những dấu chân ngựa.
Phải mất hơn một năm với sự làm việc cật lực của 500 người thợ để hoàn
thành bức tranh. Nó trở thành một tác phẩm nghệ thuật vĩ đại chưa từng
có, trên đó miêu tả đức Phật Thích-ca cùng với Bồ Tát Di-lặc và Bồ Tát
Văn-thù.
Ngài viên tịch vào tháng 7 năm Thủy Hợi (1383) tại miền đông Tây Tạng.
Tro cốt và xá-lợi của ngài sau lễ hỏa táng được đưa đến Tsurphu và được
thờ phụng tại đó.
Trong số rất nhiều đệ tử của ngài, nổi bật nhất là vị Shamar Rinpoche
tái sinh, Khachư Wangpo. Ngài đã truyền lại cương vị đứng đầu dòng Karma
Kagyu cho vị này trong thời gian chờ đợi sự tái sinh của ngài theo đại
nguyện.
Khachư Wangpo sinh ra ở Chema-lung thuộc Namshung, miền bắc Tây Tạng,
vào năm Kim Dần (1350). Ông được đức Karmapa đời thứ tư xác nhận chính
là hậu thân tái sinh của vị Shamar Rinpoche đời thứ nhất. Vị này sinh
năm 1283 và viên tịch năm 1349.
Từ thuở nhỏ, ông đã thường được thấy rất nhiều linh ảnh. Năm lên 7 tuổi,
ông được gặp đức Karmapa đời thứ tư là Rolpe Dorje và được truyền giới
ưu-bà-tắc cùng với Bồ Tát giới. Đức Karmapa cũng truyền dạy cho ông giáo
pháp Kim cương thừa và giáo pháp Đại thủ ấn, cùng với sáu pháp Du-già
của ngài Naropa và mật pháp của dòng Karma Kagyu.
Khachư Wangpo cũng nghiên cứu kinh điển và giáo pháp Tan-tra với rất
nhiều bậc thầy danh tiếng của dòng Karma Kagyu và dòng Nyingma
(Ninh-mã).
Đức Karmapa đời thứ tư là Rolpe Dorje đã xác nhận và tổ chức lễ thụ
phong cho ông là vị Shamar thứ hai. Khi đức Karmapa đời thứ tư viên
tịch, ông được giao trách nhiệm tiếp tục điều hành mọi hoạt động của
dòng Karma Kagyu. Ông cũng được dự kiến sẽ là vị thầy truyền pháp cho
đức Karmapa đời thứ năm.
Khachư Wangpo là một trong số những bậc thầy đầu tiên đã biên soạn và
ghi chép những giáo pháp căn bản để truyền cho đời sau. Ông để lại cả
thảy 8 bộ sách lớn.
Ông viên tịch vào năm Mộc Dậu (1405), khi được 55 tuổi. Người ta đã
chứng kiến rất nhiều hiện tượng mầu nhiệm xảy ra vào lúc ông viên tịch,
cho thấy rõ sự chứng ngộ của ông.
Khachư Wangpo có rất nhiều đệ tử. Nổi bật trong số đó là Sokwưn Rikpe
Raldri, người mà về sau trở thành vị thầy truyền pháp của đức Karmapa
đời thứ sáu là Thongwa Dhưnden. Bản thân ông là vị thầy truyền pháp cho
đức Karmapa đời thứ năm là Dezhin Shekpa.