NGÀY THỨ HAI
MỞ ĐẦU
Tất cả ba điều hiện
hữu duyên sinh là vô thường như những đám mây của mùa thu;
Sinh và chết hiển hiện
di động như đang tiến hành một điệu múa;
Đời sống của chúng
sinh trôi qua một cách nhanh chóng như tia chớp trên bầu trời;
Và cuộc sống chuyển
dịch với tốc độ của một thác nước từ trên đỉnh núi.
Đoạn kệ này trích từ kinh Gyacher Rolpa diễn
tả tất cả những hiện tượng, kể cả chúng sinh và những nhân tố môi sinh chung
quanh, được kết hợp từ nhân duyên như thế nào. Do thế chúng thay đổi từ thời
khắc này sang thời khắc kia và có một tính tự nhiên có thể tàn lụi chuyển biến
mãi mãi từ trước đến giờ. Không có một hiện tượng nào sẽ duy trì bất
biến.
Chúng ta thấy rằng đời sống của chúng ta như những chúng sinh là
không bền vững một cách đặc biệt. Chắc chắn rằng sau khi sinh ra chúng ta phải
chết; tuy thế, tư tưởng này chẳng bao giờ sinh khởi trong tâm tư chúng ta rằng
cái chết sẽ đến với chúng ta khi những điều kiện nội tại và ngoại tại đặc thù
gặp gở với nhau, thường thì không cảnh báo trước. Cái chết xãy ra một cách bất
ngờ với chúng ta và chúng ta trôi qua một kiếp sống khác, rồi chỉ còn cái tên
của chúng ta tồn tại trong thế giới này. Thời điểm như thế sẽ đến. Thậm chí
trước khi lịch sử của thế giới này bắt đầu được ghi chép lại nhiều nghìn năm về
trước qua đi, thế mà chúng ta không thể chỉ ra một người đơn lẻ nào không chết.
Chẳng kể là giàu có, khả năng, can trường, hay thông minh thế nào chúng ta có
thể, không ai trong chúng ta có thể trành khỏi cái chết.
Tương tự như
thế, tất cả những bộ phận của thân thể là tạm thời và là đối tượng liên tục thay
đổi, bởi tính vô thường, không bền vững, và thoái hóa tự nhiên. Lúc ban đầu
trong đời sống, đôi mắt chúng ta sắc bén; sau này khi chúng trở nên mờ tối chúng
ta phải đeo kính, rồi thì dần dần ngay cả kính cũng không thể hổ trợ bởi vì sự
thoái hóa khả năng cảm giác của sự thấy. Giống như thế, ở thời điểm trẻ tuổi,
chúng ta có thể nghe rõ ràng những âm thinh với đôi tai của chúng ta, nhưng
những âm thinh này dần dần yếu ớt cho đến khi chúng ta điếc và không thể nghe
điều gì một cách chính xác.
Nếu ai đấy quyến rũ khi còn trẻ vì thế những
người khác thích nhìn ngắm người ấy; sự lôi cuốn ấy có thể trở nên là nguồn gốc
của tự hào trong thân thể. Nhưng dần dần, với tuổi tác, sự trẻ trung và hấp dẫn
của thân thể ấy trở nên ốm yếu và lưng còng. Thế thì ngay chính thân thể ấy và
ngay cả chủ nhân của nó cũng cảm thấy bị nó chống lại. Thực sự, người ta có thể
nói một cách ngạc nhiên rằng ai đấy quá già và khòm lưng mà vẫn còn sống, và
ngay cả con cháu của người ấy có thể là không thể đến gần mà không bịt mũi chúng
lại. Người ấy ưu phiền hay bị tra tấn bởi sự khổ não của tuổi già cùng tật
bệnh, và cảm thấy mệt nhọc tinh thần khi nghĩ về tự ngã. Một số người già cảm
thấy giống như chọn lựa cái chết tốt hơn là sự sống. Nhưng chỉ bằng nói rằng,
“tôi thích chết,” cái chết sẽ không đến.
Khi chúng ta trẻ và hấp dẫn cùng
sự giàu sang, quyền lực, sở hữu,và sức mạnh, chúng ta là đối tượng cho sự tôn
trọng của những người khác. Bất cứ chúng ta nói điều gì nó được xem như hệ
trọng giống như là lời nói của Phật. Nhưng một khi chúng ta gối mõi lưng cong
và không còn làm việc được nữa, không ai còn nghe những lời của chúng ta nữa.
Chúng ta trở thành đối tượng của những sự xúc phạm và làm bẻ mặt.
Cũng
thế, trong thời gian tuổi trẻ chúng ta nghĩ rằng chúng ta sẽ khuất phục kẻ thù
của chúng ta, hổ trợ thân quyến của chúng ta và làm điều này điều kia nhầm để
cải thiện sự bảo đảm tiêu chuẩn đời sống cũng như tiếng tăm của chúng ta. Bận
tâm với những tư tưởng như thế, chúng ta xử dụng đời sống của mình không đáp ứng
tất cả những dự tính của chính mình một cách thật sự . Và một cách không thể
tránh được, mọi việc không xãy ra một cách chính xác như chúng ta muốn và chúng
ta không thể hoàn toàn tất cả những gì chúng ta đã dự trù, điểu này sẽ là nguyên
nhân làm chúng ta hối hận và làm cho bè bạn chúng ta thất vọng. Trong cách này,
chúng ta đi đến đoạn kết cuộc đời của chúng ta và không còn thời gian nào nữa để
làm những kế hoạch mới hay cải thiện chính chúng ta.
Như một thí dụ,
chúng ta có thể theo đuổi chương trình của một người trong thế giới hiện đại.
Người ấy đến trường trong buổi thiếu thời của mình và, muốn gặt hái kiến thức,
người ấy tự hào với những bài kiểm thành công. Tâm thức tranh đua này tạo nên
một quyết định mạnh mẽ để cải thiện khả năng tinh thần và sự thông minh của
người ấy. Thân thể của người ấy là là đỉnh cao của tình trạng vật lý tại thời
điểm này và khả năng của người ấy là sắc sảo.
Sau một thời gian nào đấy
cậu bé này trở nên một người trưởng thành. Người ấy tìm một nghề nghiệp, yêu
đương và rồi thành gia thất theo phong tục tập quán thế gian. Đời sống của một
người thành niên bắt đầu, người ấy trở nên nặng gánh với những trách nhiệm và
thế là thời gian tự do, vui vẻ, thoải mái của tuổi trẻ của người ấy biến mất.
Ngay cả nếu người ấy hài lòng với đời sống của mình, người ấy lại lo lắng về
người phối ngẫu, và con cái cùng thân quyến của mình. Rồi người ấy rơi vào sự
ganh tị với bè bạn của mình những người thành công hơn người ấy; người ấy tranh
đua với những người bằng mình và kiêu ngạo với những người thấp hơn mình. Vì
thế, người ấy trãi qua đủ thứ nổi khổ về thân thể và tinh thần căn cứ trên công
việc, lương bổng và tiếng tăm của mình.
Lúc khởi đầu, khi người ấy có một
ít thực phẩm và áo quần, người ấy chỉ muốn một nghề nghiệp. Nhưng khi người ấy
có công ăn việc làm rồi, người ấy mong muốn một nghề nghiệp tốt hơn. Người ấy
trở nên không vui khi chỉ nhận một đồng lương thấp kém và không hài lòng với vị
trí của mình. Khi vị thế bằng cách nào đã cao hơn, người ấy bắt đầu mong đợi
người đồng hành thấp kém hơn mình, và dần dần người ấy trở nên khoa trương lòng
tự hào của mình, nghĩ rằng mình trội hơn những người khác. Trong hình thức này,
tháng năm trôi qua cho đến khi kiếp sống của người ấy đến chỗ kết
thúc.
Nghĩ lại về đời sống trong những tu viện ở Tây Tạng, có những tu
sinh ngay cả trong tuổi thiếu niên nhưng có khuynh hướng học hỏi kinh điển với
một tâm tư trực diện đến với sự thông hiểu tường tận những kinh luận và đạt đến
giải thoát, đấy là điều thật sự diệu kỳ. Nhưng có những người khác học hỏi chỉ
đơn thuần thu thập những kiến thức quảng bác hơn những pháp lữ của mình, do thế,
họ có thể tạo nên những sự khó khăn cho thiện hữu của họ trong thời gian tranh
luận.
Trong những lạt ma và geshe (tiến sĩ Phật học) kỳ cựu hơn, có những
người hoàn toàn để tâm tư của họ với Giáo Pháp và từ bỏ những hành vi thế gian
như chúng chỉ là những làn sóng trên đại dương. Nhưng một số tiến sĩ Phật học
của Hoàng Mạo phái (Gelugpa) có thể bị rơi vào cái bẩy của việc trở nên vướng
măc với cái danh tự khô khan “Geshe”, có thể thầm nghĩ, “Nguyện cho tôi trở
thành một Geshe Lharampa,” (theo thứ tự từ thấp lên cao của bằng geshe: Dorampa,
Lingtse, Tsorampa và Lharampa, Lharampa là cao nhất), và những tư tưởng khác
giống như vậy. Những ai tìm cầu một vị trí tốt, chẳng hạn như trụ trì một ‘học
đường tu viện’ đối với một geshe kỳ cựu hay trụ trì một tu viện địa phương đối
với một geshe mới tốt nghiệp, là điều cực kỳ khó khăn để họ hướng tâm tư vào
Giáo Pháp. Bởi vì họ đã dành thời gian đời sống của họ trong một đường hướng
lừa dối, hành động trong tác động của tám pháp thế gian (bát phong). Họ bắt đầu
với một số nguyên tắc và hình thành một kết hợp giao du (hay hiệp hội). Dần dần
họ thu được danh xưng của một vị trụ trì và nhiều người đến nhờ họ tiên đoán.
Người ta cũng cúng dường, cho đến khi của cải vật chất của họ sung túc dần lên
đến điểm hai tay họ không đủ để ôm giữ tất cả và họ bổ nhiệm một thủ khố. Với
một thủ khố, thế là có bốn tay để cất chứa tài sản, và khi bốn tay không giữ
hết, họ bổ nhiệm thêm một tri khố, thế là bây giờ có sáu tay. Họ cũng có thể bổ
nhiệm thêm một người khác nữa để có tám tay, và vì thể nó cứ tăng dần lên theo
cách này.
Nếu chúng ta không thể thuần hóa nội tâm của mình, rồi thì sẽ
vướng vào những lỗi lầm trong việc thực hành Giáo Pháp, là việc lừa đão và làm
thất vọng người khác, điều ấy là không thích đáng. Ngay cả nếu ai đấy cảm thấy
rằng mình đang thực hành Giáo Pháp và với một tâm thức buông xã không giao động,
nếu người ấy suy nghĩ một cách cẩn thận thì chỉ là đang góp phần cho tám pháp
thế gian (bát phong), và sẽ rất khó khăn để hiệp nhất việc luyện tập của mình
với sự thực hành Giáo Pháp thật sự.
Nếu đời sống người ấy trôi qua trong
cách này và rồi trở nên già nua và lưng còng, hoàn cảnh của người ấy giống như
được diễn tả bởi Je Gunghang Rinpoche: “Hai mươi năm bị tiêu phí mà không nhớ để
thực hành Thánh Pháp, hai mươi năm được dùng để nói rằng, “tôi sẽ tu tập,” và
hơn mười năm nói rằng, ‘điều ấy đã không xãy ra, nó đã không xãy ra.’ Đây là câu
chuyện của một người đã dùng cuộc đời của mình trong một lối rỗng tuếch như thế
nào.”
Chúng tôi có kinh nghiệm điều này một cách chính xác như được diễn
tả ở đây. Trước khi đến 20 tuổi, chúng tôi nhạy bén học hỏi kinh luận và có một
niềm tin mõng manh trong khái niệm về tính không và tâm giác ngộ (bodhicitta).
Khi tâm thức trưởng thành hơn, chúng tôi bị thúc đẩy để suy tư về những vấn đề
khác do bởi phải làm việc với vấn đề đối mặt với Trung Cộng. Học hỏi kinh luận
trong thời điểm khó khăn ấy, thời gian trôi qua và chúng tôi đến 25 tuổi. Rồi
thi khi người Tây Tạng chúng tôi mất nước và phải rải rác khắp nơi trên thế
giới. Sau đấy, chúng tôi học hỏi kinh luận một ít, suy tư, và thực hành ở một
vài cấp độ và như thế ấy tôi bước vào tuổi 35 hay 36.
Rồi thì chúng tôi
bắt đầu đặt nhiều năng lượng hơn đối với việc thực hành, suy nghĩ rằng nếu tâm
thức một người không hòa hiệp với sự thực hành Giáo Pháp thực sự, người ấy có
thể miệng tụng niệm hàng giờ mà rồi kết thúc không phải là biểu hiện Giáo Pháp
thực tế. Hiện tại chúng tôi đang nghĩ rằng nếu không thể thuần hóa tâm thức
mình, Giáo Pháp không thể hiển hiện. Ngay cả với thái độ nhấn mạnh trên tâm tư
và thực hiện năng nổ nhất để đặt mình trong một sự thực hành Giáo Pháp chân
thật, dường như nó vẫn giống thời gian đang tiếp cận khi chúng tôi dành 10 năm
để nói rằng, “Nó đã không xãy ra, nó đã không xãy ra.”
Do thế, cho dù
nhìn bề ngoài chúng ta có lịch sự, tử tế, hợp với khuôn phép hay không, nếu
chúng ta không thể nghiệm tâm thức của mình một cách hoàn toàn thích hợp mọi thứ
sẽ trở nên rất khó khăn. Chúng ta nên xét đoán chính mình theo hai tiêu chuẩn
chính của việc có nguyên nhân cho sự tự không thích mình hay sự ân hận hay
không. Nếu chúng ta để ngày tháng của mình trôi qua một cách cẩu thả và lãng
phí, chần chừ việc thực hành, đây là một sự mất mát lớn lao. Cuộc sống không
chờ đợi: cho dù chúng ta xử dụng đời sống của mình đầy đủ ý nghĩa hay không,
thời khắc vẫn bị tiêu mòn từng giây phút. Thế cho nên chúng ta phải thực hành
Giáo Pháp, vì nếu chúng ta để thời gian trôi qua, nói rằng , “tôi sẽ làm điều
này và điều này…” rồi thì, như được nói ở đây:
Trước khi ngày mai đến để
thực hành Giáo Pháp,
Có một hiểm họa của cái chết đang đến hôm
nay,
Vì thế đừng tự lừa dối tâm thức chính mình,
Nếu muốn thực
hành Giáo Pháp, hãy tiến hành ngay hôm nay.
Thí dụ, chúng tôi đang lừa
dối chính mình nếu nói rằng chúng tôi sẽ tận tâm cho việc thực hành Giáo Pháp
khi tôi đến 50 hay 60 tuổi. Hiện tại chúng tôi đang ở độ 30 và chúng tôi không
thể đặt nổ lực duy nhất vào trong Giáo Pháp. Chúng tôi cũng có những thứ khác
để suy nghĩ đến, đặc biệt trách nhiệm lớn lao khi mang lấy danh hiệu Đấng Thánh
Thiện Đạt Lai Lạt Ma (His Holiness the Dalai Lama). Nhưng nếu chúng tôi tiếp
tục đổ thừa như thế chúng tôi đang tự lừa dối mình. Ngay cả cho một ngày hay
một giờ, nếu chúng tôi không thể đặt mình vào trong sự thực hành mà không chần
chừ thế thì đấy là lỗi lầm của chính chúng tôi.
Dĩ nhiên, chúng ta không
thể thực hành 84 nghìn pháp môn ngay một lúc. Thầy trò của Long Thọ và Thánh
Thiên Mã Minh, anh em của Vô Trước và Thiên Thân, Đề Bà, 80 vị Đại Thành Tựu
(Mahasiddha), v.v… không thể thực hành Giáo Pháp một cách hoàn toàn từ ngày đầu
tiên. Khởi đầu các ngài phải gieo trồng hạt giống trong tâm thức của các ngài
rồi mới đến thực hành Giáo Pháp. Các ngài dần dần gia tăng sự thực hành và khi
thực hành như thế khả năng cho sự thực hành cũng tăng trưởng lên, do thế, cuối
cùng các ngài trở thành những học giả và hành giả không biết mõi mệt.
Các
ngài không phải sinh ra là liền tự do với những phiền não cấu uế, cũng không
phải được ban cho tất cả những phẩm chất không biết mệt nhọc là gì. Các ngài
giống như chúng ta, như được nói trong Hướng Dẫn Lối Sống của Bồ Tát
(Bodhicharyavatara), do vậy, chúng ta nên phát triển động lực để thực hành và
không cảm thấy yếu đuối. Ngay cả những con ruồi và ong mật cũng sở hữu Phật
tính, thế cho nên nếu chúng có thể phát sinh năng lực nhiệt tình kiên nhẫn chúng
cũng sẽ có thể đạt đến giác ngộ.
Do vậy, vì chúng tôi sinh ra là một con
người và nếu chúng tôi có thể phát sinh năng lực nhiệt tình kiên nhẫn thì điều
gì ở đó ngăn trở chúng tôi đạt đến tình trạng giác ngộ tối thượng? Chúng ta sẽ
đạt đến sự tin tưởng vững chắc nếu chúng ta thông hiểu Phật tính một cách chính
xác, như được giải thích trong ‘Ba la mật’. Có cơ hội đạt đến tình trạng tối
thượng của giác ngộ khi chúng ta có những nhân duyên đúng đắn. Điều ấy tùy
thuộc trên mỗi cá nhân của chúng ta có lựa chọn để xử dụng những nhân duyên ấy
một cách thông tuệ hay không; nếu chúng ta làm đúng như thế, chúng ta sẽ đạt đến
tình trạng giác ngộ tối thượng một cách chắc chắn. Đây là cách để phát sinh sự
tin tưởng vững vàng.
Nếu chúng ta có thể đem đến sự thay đổi trong tâm
thức chúng ta, chúng ta có thể chuyển đổi một khối lượng nào đấy của những hành
vi mà chúng ta đã từng sai phạm phải từ ba nghiệp thân, khẩu, ý thành những hành
động đạo đức. Bất cứ điều gì thông thường được xem như là không đạo đức hay bất
thiện trong quần chúng phổ thông có thể chuyển đổi thành những hành vi đạo hạnh,
và trở thành nguyên nhân tích lũy công đức rộng rãi, bằng năng lực của sức mạnh
nội tâm. Những hành vi trung tính biểu lộ bởi những người bình thường cũng có
thể được chuyển biến thành những hành vi đạo đức nếu được tiến hành bởi một
người có năng lực trung bình. Do thế, dần dần thay đổi và cải thiện tâm thức
của chúng ta và sự thực hành Giáo Pháp sẽ trỉu quả cùng là nguyên nhân của sự
tích tập công đức.
Nói một cách rộng rãi, Phật Pháp có hai cổ xe, được
biết là cỗ xe Tiểu Thừa và Đại Thừa. Cả hai Kinh Thừa Hiển Giáo và Mật Thừa
Tantra thuộc vào những đặc trưng của Đại Thừa và Giáo Pháp rộ nở ở Tây Tạng là
một sự phối hợp của kinh điển hiển giáo và mật điển tantra. Để thực hành loại
Giáo Pháp này chúng ta phải thông hiểu nó. Để thông hiểu nó chúng ta phải lắng
nghe. Do thế, hôm nay chúng tôi sẽ tiếp tục với sự truyền khẩu Ba Mươi Bảy Điều
Thực Hành của Bồ Tát, và quý vị nên lắng nghe giáo lý này của Bồ Tát Thogmed
Zangpo với thái độ của một người hướng dẫn tất cả chúng sinh đến trình độ giác
ngộ tối thượng mà đấy là tự do với khổ đau và nguyên nhân của chúng, hãy nghĩ:
“Không có cách nào khác để hổ trợ người khác bằng việc đạt đến trình độ giác ngộ
tối thượng. Nguyện cho con đạt đến trình độ giác ngộ tối thượng qua việc thực
hành con đường của những vị Bồ Tát, hoàn toàn tận diệt tất cả những ám chướng và
thích ứng với tất cả những phẩm chất thánh thiện.
Bây giờ chúng tôi tiếp
tục với sự giảng giải về việc làm thế nào nương tựa với đạo sư. Những vị thầy
một cách tổng quát nên có những phẩm chất này: các vị phải có phẩm hạnh và kiến
thức, bản chất từ bi với một năng khiếu to lớn cho việc dạy dỗ học trò, và sở
hữu một tâm tư thông cảm. Một vị thầy tâm linh ngưởi hướng dẫn chúng ta đến một
mục tiêu căn bản phải có những phẩm chất siêu việt với những điều này, như khả
năng ban cho người khác sự hướng dẫn đúng đắn và là một tầm gương sáng cho học
trò.
Như được nói trong kinh Alankara: “Vị thầy tâm linh nên có một tâm
thuần hóa, tĩnh lặng, và bình an, một kiến thức đặc biệt và nhiệt tình; vị ấy
nên phong phú trong việc truyền khẩu với một sự thông hiểu hoàn toàn như thật;
vị ấy nên có một năng khiếu giảng giải Giáo Pháp, tính từ bi tự nhiên và từ bỏ
danh lợi. Hãy tìm cầu (một vị thầy phẩm hạnh như thế).”
Chúng ta thỉnh
cầu một vị thầy tâm linh đạo hạnh thế này, phú cho mười phẩm chất, và chúng ta
nên nương tựa một vị thầy như thế qua chín thái độ tinh thần (3). Trên tất cả,
chúng ta nên tạo một sự bảo đảm với vị đạo sư của mình, hình thành nên sự thân
cận giữa tâm tư chúng ta và vị ấy. Chúng ta nên lắng nghe một cách tập trung
đến những gì vị ấy nói, và nếu đấy là một vị đạo sư phẩm-hạnh xứng đáng vị ấy sẽ
đưa chúng ta đến sự an lạc tạm thời và con đường sẽ lợi lạc cho chúng ta trong
tương lai. Vị ấy sẽ không đưa chúng ta trong một hướng đối nghịch, làm nguyên
nhân cho chúng ta sụp đổ hiện tại và tương lai. Giống như thế, chúng ta sẽ tiếp
nhận lợi lạc tùy theo sự liên hệ gần gũi tâm thức chúng ta với vị đạo sư của
mình như thế nào.
Như được nói rằng điều cực kỳ quan trọng cho đạo sư và
đệ tử phân tích lẫn nhau. Vị thầy nến trắc nghiệm đấy là một giáo lý thích đáng
đến người đệ tử hay không, đặc biệt là những pháp quán đảnh, và có thích hợp để
nói về mật điển tantra hay không. Như là đệ tử, chúng ta không nên phán đoán vị
đạo sư theo dư luận xã hội, chẳng hạn vị ấy có một vị trí cao hay một tên tuổi
nổi bật hay không, là một vị hóa thân hay một vị trụ trì. Đúng hơn, chúng ta
nên trắc nghiệm là vị ấy có phù hợp để là vị đạo sư của chúng ta không và niểm
tin của chúng ta có phát sinh trong vị ấy hay không.
Cho dù vị thầy có
một danh hiệu là lạt ma, geshe, khenpo hay một vị hóa thân tulku hay một chuỗi
dài của những hóa thân trước đây – hay ngay cả một vị với nhãn hiệu Đạt Lai Lạt
Ma – chúng ta không nên đặt niềm tin của mình trên vị ấy chỉ vì lý do này. Đấy
là nói về nội dung Giáo Pháp, không phải là dư luận xã hội trên vị thế cá
nhân.
Giáo Pháp có nghĩa là tìm cầu niết bàn, hoàn toàn tự tại, vì thế,
phương tiện để tiếp cận đến tình trạng tự do này phải được lựa chọn một cách tự
do. Không đúng đắn cho ai đấy đi theo con đường ấy dưới một sự cưỡng bức.
Trong con đường Tiệm tiến Lamrim Tổ Sư Tông Khách Ba nói rằng, “Hãy có một tâm
tư như một người con tốt,” có nghĩa là những người đệ tử nên đặt tâm thức của họ
nương tựa trên vị đạo sư. Một người con tốt không khăng khăng rằng ý kiến của
người ấy là đúng; người ấy sẽ làm bất cứ điều gì người cha yêu cầu người con
làm. Giống như thế, đệ tử nên hành động một cách vâng lời như được hướng dẫn
bởi vị đạo sư của mình.
Giáo Pháp được làm cho có giá trị bởi lý trí, do
thế, bất cứ điều gì chúng ta nói nên căn cứ trên lý trí mà không phải là trên sự
tin tưởng mù quáng và mệnh lệnh. Vì Giáo Pháp được gieo rắc bởi sự vụng về này,
có nghĩa bị thúc đẩy nhưng bị chỉ dẫn sai, giống như một mũi tên bắn trong đêm
tối, và sẽ không thể tồn tại trong thế giới hiện đại. Phật Pháp căn cứ trên lý
trí, và có một nền tảng vững vàng, điều ấy là tại sao tia sán rực rở này đã lan
rộng khắp thế giới và đã không bị làm lu mờ.
Do thế, tóm lại, trước khi
đặt niềm tin của chính mình đến vị đạo sư chúng ta nên phân tích một cách cẩn
thận; sau khi tìm được vị đạo sư rồi sự tin tưởng của chúng ta vào vị ấy nên
vững vàng. Đây là chúng ta nên tìm cầu một vị thầy tâm linh như thế
nào.
Bây giờ chúng ta tiếp tục
chủ đề nói về quy y.
ĐIỀU THỨ BẢY
Làm thế nào chư vị thiên
thần, chính họ bị giam hảm trong lao tù của luân hồi,
Có thể bảo vệ cho
bất cứ ai? Nhưng đấy là sự thực hành của
Những vị Bồ Tát nương tựa Ba
Ngôi Tôn Quý, là điều
Sẽ chẳng bao giờ lừa dối người quy y Tam
Bảo.
Dịch kệ:
7. Quy y
Chư thiên cõi này
chưa hết lo,
Vẫn phải luân hồi, một ngày kia.
Vướng bận như ta,
sao che chở?
Trong tù còn giải thoát ai khỏi?
Nhưng Phật, Pháp, và
bậc sống nương,
Tự tại cứu độ - chẳng phụ lòng.
Hãy đến quy y cùng
Tam Bảo -
Chư Bồ tát trọn hành cách đó.
Câu hỏi
được đưa ra là, chủ đề quy y nào là cần thiết? Chúng ta bị giam hảm trong lao
tù của sinh tử luân hồi và bị sự chế ngự của vọng tưởng nghiệp báo. Nếu chúng
ta nhìn vào những vị vua chúa trần gian, a tu la, thổ địa, hay những thần linh,
chúng ta sẽ tìm thấy nhiều câu chuyện về những khổ đau mà họ đã giáng xuống cho
con người. Nếu họ hành động một cách tích cực họ có thể làm lợi lạc cho chúng
ta một ít, nhưng không đáng chú ý. Nếu họ là những loại chúng sinh mà con người
cảm thấy cần phải tế lễ bằng sự giết súc vật nhầm để tránh gánh chịu sự phẩn nộ
của vị ấy, thế thì họ không phải là đối tượng xứng đáng để nương
tựa.
Thiên thần và ma quỷ tương tự như chúng ta trong điều là họ cũng bị
khống chế bởi nghiệp báo và những sự nhiễm ô khác. Họ thiếu thô tướng của một
thân thể nhưng giống với chúng ta trong sự quan tâm của người khác. Họ là những
kẻ tôi tớ của phiền não giống như chúng ta, được gọi là vướng mắc, thù hận, và
vô minh si ám. Do thế, thật vô nghĩa nếu chúng ta nương tựa vào thiên thần, a
tu la và những chúng sinh khác, những kẻ phải chịu những phiền não giống như
chúng ta.
Chúng ta quy y tìm kiếm cho một sự đầy đủ những điều mong đợi
của chúng ta. Những đối tượng nào của quy y sẽ không bao giờ làm chúng ta thất
vọng? Có ba điều: tôn quý và tối thượng Phật Bảo, Pháp Bảo, và Tăng Bảo. Để quy
y từ chiều sâu của trái tim chúng ta đến Tam Bảo, hiểu rõ giá trị Tam Bảo như
cội nguồn của quy y qua lý trí, được biết như là sự thực hành của những vị Bồ
Tát.
Điều được gọi là quy y là điều làm sự phân biệt giữa những người
Phật tử và không Phật tử. Chúng ta trở thảnh Phật tử khi chúng ta tin tưởng từ
trong chiều sâu của tâm hồn rằng Tam Bảo là nguồn gốc chân thật để nương tựa;
trái lại những người thiếu một sự tin tưởng trong Tam Bảo và không chấp nhận Tam
Bảo là cội nguồn thật sự của quy y thì không thật sự là những Phật tử, ngay cả
nếu họ biết nhiều điều về Phật Pháp.
Tính tự nhiên của Tam Bảo - Phật
Bảo, Pháp Bảo, và Tăng Bảo - là gì? Phật là những ai hoàn toàn tự do với tất cả
những sai lầm, đã diệt trừ chúng. Những sai lầm bị trừ khử không phải bên ngoài
nhưng là bên trong, và nói một cách rộng rãi, chúng ta có thể nói rằng chứa đựng
trong môi trường và chúng sinh khởi lên từ năng lực của nghiệp báo. Nghiệp báo
này đến từ tâm thức không thuần hóa và phiền não. Những phiền não này cấu thành
bất cứ loại tư tưởng nào, mà khi nó khởi lên quấy động tâm thức chúng ta và quấy
rầy sự an bình nội tại. Do thế, sở hữu phiền não là khổ đau. Những phiền não
mang lấy tên gọi như kết quả của những kiểu thức hành động của
chúng.
Phiền não cấu thành cả vướng mắc (ái luyến) và ác cảm (ghét bỏ),
và cội rể của tất cả chúng là vô minh si ám đồng mình với tâm thức đóng kín.
Qua năng lực của những nghiệp báo phiền não tích tập, và qua năng lực của nghiệp
quả chín muồi, khổ đau hiện hữu. Những phiền não chính cần được phá hủy là
vướng mắc, thù hận, và vô minh, cũng như những tư tưởng tiêu cực bất thiện, kể
cả những chướng ngại ngăn trở chúng ta nhận diện những hiện tượng vi tế của tự
nhiên. Tâm thức chúng ta trở nên toàn thiện toàn giác toàn trí do vượt thắng
tất cả những trở lực này. Một con người được phú bẩm những phẩm chất như thế
của tâm thức được biết như một Đức Phật Thế Tôn.
Ngay cả Đức Phật cũng
không thường còn, và cũng không tồn tại một cách cố hữu. Phật tử cũng không tin
rằng Đức Phật giác ngộ từ ban sơ, và rằng chúng ta, những chúng sinh phải duy
trì mãi mãi trong tình trạng hiện tại. Đức Phật người đã biểu hiện những hành
vi giác ngộ tại Đạo Tràng mang tên Giác Ngộ này là một người bình thường như
chúng ta lúc ban đầu. Ngài trở thành Phật do từ bỏ những sai lầm và phát sinh
những phẩm chất thánh thiện, từng bước một. Do thế, chúng ta cũng không phải ở
mãi trong thân phận chúng sinh mang kiếp luân hồi nếu chúng ta noi theo gương
của Ngài.
Có một sự tin tưởng thông thường trong thế gian và trong quan
niệm Tiểu Thừa răng Đức Phật là một vị Bồ Tát trong buổi ban đầu của cuộc đời
Ngài và đạt đến giác ngộ trong khi thiền tọa dưới gốc cây Tất Bát La ở Đạo Tràng
Giác Ngộ. Quan điểm của Đại Thừa là tất cả những Đức Phật không bao giờ lay
động từ Pháp thân và những sự thị hiện khác nhau của hóa thân là xuất hiện một
cách liên tục, một cách dần dần hay đột nhiên, trong các cõi tịnh độ và uế độ.
Trong những hóa thân này Đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni là thứ tư, đã thị hiện
trong thế giới chúng ta.
Ngài đã sinh ra như một vị hoàng tử trong một
hoàng gia, đã được chuẩn bị để cai trị vương quốc nhưng rồi thì đã quấn y và trở
thành một sa môn. Trong sáu năm ngài đã thực hành khổ hạnh. Sau đấy ngài vượt
thắng Ma vương và đạt đến giác ngộ. Đấy là ngài đã giác ngộ lần đầu tiên và đã
tiêu trừ một cách hoàn toàn tất cả những nhiễm ô của vọng tưởng nhị nguyên, đơn
thuần là một sự thị hiện.
Đức Phật có ba thân tự nhiên: Pháp thân là
tâm quan sát hai chân lý đông thời và cũng phú cho với hai sự thanh tịnh (4).
Thân thể được phú cho với Pháp thân là thân vi tế và chỉ xuất hiện với những
thành viên là thánh giả (Arya). Báo thân, được phú cho năm sự vững vàng (5),
duy trì cho đến khi vòng sinh tử luân hồi trống rỗng. Những hóa thân như Phật
Thích Ca và Phật Ca Diếp thị hiện từ báo thân.
Giáo Pháp thật sự có hai
khía cạnh: phẩm chất viễn ly, điều siêu việt và tôn quý trong Giáo Pháp bao gồm
mọi thứ từ sự nhỗ gốc bất cứ khía cạnh sai lầm nào của tâm thức đến chân lý của
sự chấm dứt (diệt đế) là điều trừ tiệt hoàn toàn tất cả hai chướng (6) trong
tâm một vị Phật. Rồi thì có phẩm chất của sự thực chứng, có nghĩa là sự thông
hiểu tính không một cách trực tiếp, sự thật của con đường (giác ngộ). Những ai
có thể phát sinh những phầm chất thực chứng và viễn ly trở nên tự tại với mỗi
nguồn gốc đơn lẻ của sợ hãi, và vì thế Giáo Pháp có thể được xem như một đấng hộ
vệ chân thật.
Tăng Bảo bao gồm những người được phú cho kiến thức về viễn
ly và thực chứng. Do thế, Phật Bảo, Pháp Bảo và Tăng Bảo tối tôn là chủ đề cho
sự nương tựa quy y của Phật tử. Như minh chứng là những bậc hộ vệ, Phật Bảo,
Pháp Bảo và Tăng Bảo hiện tại là riêng biệt với chúng ta và là những đối tượng
cho lòng tín cẩn của chúng ta. Giống như một tội phạm tin tưởng vào luật sư của
mình, tâm tư chúng ta nên tìm cầu sự bảo vệ nơi ba ngôi tôn quý này bằng việc
tiếp nhận sự quy y.
Điều gì được liên hệ đến trong tiến trình tìm cầu sự
bảo vệ từ Tam Bảo? Đấy là việc xua tan những sai lầm và phát triển những phẩm
chất tốt đẹp của chúng ta làm cho chúng ta có thể tự do với những khổ đau và
được phú cho an lạc hạnh phúc. Để đạt đến điều này, chúng ta phải chấm dứt việc
tích tập bất thiện nghiệp và chỉ tạo tác những thiện nghiệp mà thôi. Nhầm mục
tiêu cho việc này, chúng ta phải tiêu diệt tâm thức vọng tưởng không thuần hóa
là điều làm cản trở chúng ta với sự tích tập thiện nghiệp và việc chấm dứt sự
phát triển bất thiện nghiệp.
Căn bản cho việc xua tan tất cả những lỗi
lầm và phát sinh những phẩm chất tốt đẹp là tâm thức. Tâm thức có nhiều khía
cạnh bao gồm năm thức của mắt, tai, mũi, lưỡi,và thân để nắm bắt những đối tượng
của chính chúng là sắc, thinh, hương, vị và xúc. Trọng điểm mà sự nắm bắt những
đối tượng gặp nhau là tâm thức chính, được biết như là ý thức hay giác quan tinh
thần. Giác quan tinh thần ấy có những khía cạnh khác nhau, một trong những khía
cạnh ấy là chức năng trong khi chúng ta thức. Có một loại vi tế hơn đây là chức
năng trãi qua khi ngủ và khi chúng ta uể oải.
Tại thời điểm lâm chung,
giác quan tinh thần hay ý thức thô dần dần tan biến và chúng ta trãi qua một tâm
thức vi tế hơn, điều ấy do chính tính tự nhiên của nó chẳng bao giờ tiếp xúc với
bất cứ phiền não nào. Những phiền não chỉ tồn tại trong ý thức thô mà thôi, và
không hiện hữu trong tâm thức thật vi tế này. Do vậy, tính bản nhiên của tâm là
tự do với những phiền não. Đấy là khi tâm thức thô hay ý thức thô sinh khởi thì
vướng mắc, thù hận, và v.v… hiển hiện từ lúc này qua lúc khác. Nhưng những điều
này không ảnh hưởng đến tính bản nhiên của tâm.
Thí dụ, ngay cả một người
rất ít giận hờn thì tâm thức của người ấy sẽ không luôn luôn đầy ấp bởi giận
dữ. Nếu tính bản nhiên của tâm không tự do với giận dữ, người ấy sẽ trãi qua sự
giận dữ một cách liên tục cho đến khi nào mà tâm thức người ấy vẫn hiện hữu.
Cũng thế, nếu phiền não không thể tách rời tâm thức, thế thì tâm thức không thể
uốn nắn hay rèn luyện được. Chúng ta tìm cầu từ bỏ hay ngưng dứt phiền não của
tâm thức chứ không phải từ bỏ chính tâm thức.
Bản chất vướng mắc với một
đối tượng và hiện trạng đẩy lùi một đối tượng khác là hai trạng thái khác nhau
hoàn toàn của tâm thức và không thể tồn tại cùng một lúc. Những phiền não chẳng
hạn như vướng mắc và ác cảm sinh khởi qua vô minh si ám là điều thấy những hiện
tượng như tồn tại một cách thật sự. Cũng có những khía cạnh tích cực của tâm
thức, mà chúng vận hành như sự đối trị đến những biểu hiện này của vô minh trong
tâm thức.
Chẳng kể tâm thức phiền não mạnh mẽ hay kiên cố như thế nào,
nếu chúng ta truy tìm nó và phân tích nó một cách thiện nghệ chúng ta thấy rằng
bất cứ nó biểu hiện cho chúng ta được thấy trên một sự giả dối và giống như bong
bóng nước chợt bùng lên. Chúng ta tin rằng những hiện tượng hiện hữu một cách
chân thật, nhưng nếu chúng thật sự như thế, chúng ta có thể minh chứng sự hiện
hữu đúng đắn của chúng khi chúng ta khảo sát chúng. Thay vì thế, sự khảo sát
của chúng ta phơi bày rằng chúng không hiện hữu một cách thật sự trong thực
trạng của chính chúng. Một khi chúng ta khám phá ra điều này, thì không thể tin
tưởng những hiện tượng hiện hữu chân thật sinh khởi.
Theo lý do này,
những tâm thức sai lầm tạm thời không có cơ sở vững vàng bởi vì nó được tìm thấy
trong vô minh si ám, trái lại những phương diện tốt đẹp của tâm thức có một sự
hổ trợ trân trọng. Tâm thức sai lầm vọng tưởng tồn tại trong một trạng thái suy
thoái và nếu chúng ta làm chính chúng ta thân quen với những phương diện tích
cực của tâm thức là những điều có sự hổ trợ đáng giá, chắc chắn tâm thức vọng
tưởng đó sẽ trở nên càng ngày càng yếu kém hơn. Giống như nóng tăng thì lạnh
giảm, ngược lại lạnh tăng thì nóng giảm; hay tựa như ánh sáng xua tan bóng tối
ngày càng lan rộng cùng khắp khi năng lực của nó ngày càng được tăng
trưởng.
Do thế, khi những phẩm chất tích cực của tâm thức được phát
triển, những khía cạnh sai lầm sẽ mất đi năng lực và cuối cùng biến mất. Nhưng
nếu trong thời gian thực tập những khả năng của tâm thức tích cực bị suy giảm
những khía cạnh tiêu cực sẽ gia tăng một lần nữa, một số người rèn luyện trong
tâm giác ngộ (bodhicitta) liên tục vài tháng và thấy một số điều cải thiện nhưng
khi hờ hửng sự tư duy trên tâm giác ngộ (bodhicitta) một lúc, người ấy sẽ ngừng
thấy bất cứ sự cải thiện nào. Điều này là bởi vì người ấy không có sự hổ trợ
vững vàng và trân trọng của tuệ trí là điều thực chứng tính không.
Sự hổ
trợ càng trở nên vững vàng hơn nếu chúng ta thực hành trong sự phối hợp với
phương pháp và tuệ trí. Do bởi những phẩm chất này tùy thuộc trên tâm thức,
chúng tăng trưởng một cách vô hạn khi chúng ta thực hành và rèn luyện trong chủ
đề này một cách liên tục; trong cách này chúng ta chắc chắn tăng trưởng những
phẩm chất tốt đẹp và giảm thiểu những sai lầm của chúng ta. Sự thành tựu này về
những phẩm chất tốt đẹp và giảm thiểu trong những phẩm chất hư vọng của tâm thức
được biết như là Phật quả. Cuối cùng chúng ta phải phát sinh sự chân thật của
con đường (giác ngộ) trong sự tiệm tiến liên tục tinh thần của chúng ta. Đây là
Giáo Pháp siêu việt. Như một kết quả, chúng ta đạt đến những phẩm chất ngừng
dứt từng phiền não riêng lẻ của tâm thức. Rồi thì chúng ta sẽ được tự do với
khổ đau và sẽ thụ hưởng niềm hoan hỉ không thể phá hủy được.
Chúng ta nên
thực tập dần dần trong cách này. Nếu không, đơn giản nhận thức rằng như hiện
tại chúng ta là thực thể tách biệt với Tam Bảo không thể làm nguôi những khổ đau
của chúng ta. Trong thực trạng hiện tại thật khó khăn đạt đến phẩm chất của
Giáo Pháp tối thượng (7). Tuy nhiên, chúng ta nên cố gắng đạt đến trạng thái
này của phẩm chất Giáo Pháp siêu việt bằng việc quyết làm dần dần những sự thực
hành chuẩn bị mở đầu trước khi tiến vào con đường (tu tập).
Cánh cửa
chính trên con đường loại bỏ những lỗi lầm và thu thập những phẩm chất tốt đẹp
là sự thực tập từ bỏ mười bất thiện nghiệp. Trong những điều này, ba hành vi
bất thiện nghiệp hay ba việc không lành mạnh của thân thể là giết hại, trộm cắp,
và hành dâm bất chính.
Không giết
hại
Sự giết hại bất cứ sinh vật nào từ loài người đến những côn
trùng, nên được tránh. Nếu chúng ta giết hại, hành động này tổn hại đến thân
thể và đời sống của kẻ khác và vì thế là nguyên nhân để phải trãi qua sự hành hạ
của khổ đau. Đấy là tại sao nói rằng giết hại liên hệ chúng ta trong hành vi
bất thiện cực kỳ dữ dội. Một hành động như vậy hoặc là do động cơ giận dữ, như
trong việc giết hại kẻ thù, hay bởi sự vướng mắc trong việc giết hại thú vật để
ăn thịt của chúng.
Một số luận điển Đại Thừa Phật Giáo nói rằng ăn thịt
tốt thôi, trong khi một số khác thì cho rằng hoàn toàn không đúng. Trong Luật
tạng, hay những tài liệu về nguyên tắc, nói rằng những loại thịt nào đó thì bị
cấm đoán, nhưng tự chính việc ăn thịt thì không hoàn toàn không được phép.
Trong sự thực hành thông thường, điều xem như ổn thôi để ăn thịt mua từ chợ và
nó được xem như là thanh tịnh trong ba khía cạnh, hơn là ăn thịt mà chúng ta đặt
hàng một cách đặc biệt để con vật bị giết cho mục đích ăn thịt này. Chủ đề này
được được bao hàm trong “Bản Chất Trung Đạo”, cùng những luận bản
khác.
Thực tế rằng một số người thề chừa ăn thịt là tuyệt diệu. Tuy thế,
nếu chúng ta bỏ việc ăn thịt lại ảnh hưởng bất lợi đến sức khỏe và đe dọa cho
chính sự tồn tại của chúng ta trong khi thực hành Giáo Pháp, thế thì chúng ta
phải cân nhắc điều nào quan trọng hơn và phán đoán trong mỗi trường hợp riêng
lẽ. Sự giết hại thú vật đặc biệt vì thịt của chúng là một hành động bất thiện
và điều ấy làm chúng ta đau buồn. Điều gì nữa, có một tập tục kinh khủng về
việc sát sinh để cúng tế, mà động cơ từ sự vô minh si ám. Thật là kỳ diệu nếu
không có ai trong hội chúng ở đây thi hành việc sát sinh để cúng tế trong
truyền thống văn hóa của mình. Nhưng nếu có một số ở đây theo truyền thống này,
thế thì khi quý vị trở về nhà nên nói với những người của quý vị rằng Đức Đạt
Lai Lạt Ma cấm việc sát sinh cúng tế. Nếu bằng việc nói lên điều này quý vị có
thể kêu gọi việc dừng lại những thực hành như thế trong cộng đồng quý vị, thì
điều ấy rất tốt.
Nếu quý vị có một số vị thần linh cần thịt thú vật khi
cúng tế, hãy nói với họ rằng mặc dù quý vị có ý định thể hiện việc cúng tế này
đến họ, nhưng quý vị đã được Đức Đạt Lai Lạt Ma yêu cầu đừng làm thế và vì vậy
quý vị không tự lo liệu được. Trong cách này, quý vị có thể đổ trách nhiệm lên
chúng tôi. Mặc dù chúng tôi không có bất cứ năng lực nào của thực chứng, nhưng
chúng tôi đang nói điều này trong khi tìm cầu sự nương tựa quy y trong luận điển
của Đức Phật Thế Tôn, và vì thế đấy là điều hợp lý để tuyên bố như thế. Nếu một
số trong quý vị ở đây có tập tục sát sinh cúng tế như vậy, bây giờ quý vị đã
tiếp nhận lễ quán đảnh Thời luân (Kalacakra) quý vị phải chấm dứt việc thực hành
đó ngay lập tức. Điều này giống như một sự liên kết thiêng liêng hay chí
nguyện, căn cứ trên những thuyết giảng tâm linh này.
Những kẻ mà con
người cúng tế thịt thú vật giống như ma quỷ, là những kẻ cso một lòng tham muốn
máu và thịt. Những kẻ ấy không xứng đáng để cúng tế bởi vì họ không có năng lực
để lấy mạng sống những chúng sinh khác, do thế, họ đã tìm cơ hội để ăn những
thực phẩm như thế dựa trên con người.
Không trộm cắp
Hành động bất thiện tiếp
theo phải từ bỏ là trộm cắp, hay lấy những thứ mà không được cho phép, và điều
này bao gồm bất cứ điều gì từ những đồ trang súc quý gia cho đến những thứ linh
tinh nhỏ nhất. Trộm cắp xâm phạm quyền sở hữu của người khác. Mặc dù nó không
bị trừng phạt giống như sự tổn hại đến sinh mạng kẻ khác, tuy thế, nhưng người
tước đoạt sở hữu của người khác phải kinh nghiệm khổ đau.
Trôm cắp có
nhiều khía cạnh: thí dụ, chúng ta có thể thấy và rồi giữ một sở hữu mà người
náo đấy bị mất. Mặc dù chúng ta không trực tiếp đánh cắp, tuy vậy, người chủ
của nó đã không cho đi hay bỏ đi vật ấy trong tâm niệm. Do thế, có một sự khả
dĩ hay một cơ may rằng chúng ta sẽ tích lũy những việc tiêu cực giống như những
người đã mang lấy nghiệp quả do việc thực sự lấy cắp đồ vật như vậy. Theo quan
điểm của Giáo Pháp, nếu chúng ta thấy một đồ vật của người nào đấy chúng ta nên
tìm và đưa lại cho người chủ thực sự của nó.
Không tà dâm
Có nhiều loại tà dâm.
Trong hình thức những người cư sĩ hành dâm bất chính thông thường liên hệ đến sự
ăn nằm với những người khác không phải là người hôn phối của nhau. Đây là nguồn
gốc chính của những mối tranh cải và xung đột trong những con người từ những bậc
trí thức ở những xứ phát triển cho đến những người bán khai ở những vùng đất
chưa mở mang. Do thế, những sự xung đột như vậy sẽ không xãy ra nếu con người
từ bỏ loại tà dâm này.
Không nói những
ngôn ngữ không lành mạnh
Tiếp theo chúng ta đi đến những ngôn ngữ
không lành mạnh là điều liên hệ đến nói dối, nói lời hiểm độc, nói lời thô tục,
và nói lời vô ích.
--Nói dối có nghĩa là nói rằng chúng ta đã từng thấy
việc gì đấy mà chúng ta không thấy hay, ngược lại nói rằng chúng đã không thấy
điêu gì đấy mà thực tế chúng ta đã thấy. Điều này bị thúc đẩy do bởi mong muốn
thay đổi quan điểm của người khác và đấy là thái độ cực kỳ bất thiện, bời vì nó
lừa đảo và gian dối người khác. Điều quan trọng là luôn luôn nói sự
thật.
--Nói lời hiểm độc nghĩa là nói những điều làm tan vở mối quan hệ
hòa hiệp giữa những con người với nhau. Điều đó làm tổn hại đến toàn bộ xã hội
và đánh cắp niềm hạnh phúc cùng tâm hồn thoãi mái của cá nhân, do thế nó rất là
tệ hại. Những bậc đạo sư lớn của dòng Kadampa đã từng nói: “Hãy lưu tâm đến
lời của bạn nói, khi bạn ở trong đám đông và hãy chú ý đến tâm tư của bạn khi
bạn chỉ có một mình. Chỉ bằng việc mở miệng của bạn, bạn có thể bị vướng vào
những thế giới thấp hơn.” Đây là một sự thật. Bằng sự nói năng trong một cung
cách nào đấy, chúng ta có thể làm cho những người khác bị phê bình khiển trách
hay lãnh lấy trách nhiệm và vì thế có một hiểm họa tích tập những bất thiện
nghiệp trong cách đó, do vậy chúng ta luôn luôn chú tâm đến lời nói của chúng
ta.
--Nói lời thô tục liên hệ đến những ngôn ngữ lỗ mãng hay gay gắt.
Khi chúng tôi nói chuyện với người khác thỉnh thoảng dường như những ngôn ngữ
sắp vụt ra khỏi miệng chúng tôi, thế nên chúng tôi cũng cần cẩn thận với ngôn
ngữ của chúng tôi. Khi cơn giận nổi lên, chúng ta không nên dùng những ngôn ngữ
thô tục với người khác, bằng việc nói những lời như, “Ngươi chẳng làm nên trò
trống gì!” (You good-for-nothing) hay “Ngươi thật là ngốc” (You idiot!). Lời
nói thô tục làm ưu phiền tâm tư người khác và nên từ bỏ, như những tiếng lóng
hay tùy tiện, như, “Ê, tên kia!” (Hey, you!) và “Ê, ông kia!” (Hey, man!) khi
dùng để làm giảm giá trị của người khác. Thí dụ, Đức Đạt Lai Lạt Ma tiền nhiệm
luôn luôn gợi sự chú ý của người khác bằng cách kêu tên của họ lên.
--Nói
lời vô ích liên hệ đến sự nói năng không có bất cứ mục đích gì và sinh khởi từ
vọng tưởng. Những thí dụ bao gồm nói chuyện về những thứ nhơ bẩn vì những lợi
lạc ấy, hay thảo luận về chiến tranh và xung đột. Tóm lại, chúng ta nên chấm
dứt sự say sưa trong tán gẩu hay nói năng bắt nguồn từ vọng tưởng những thứ như
dính mắc và giận hờn đối với chính chúng ta và người khác. Hãy nói bất cứ điều
gì cấn thiết để nói và những lúc khác thì nên giữ im lặng. Điều này thật là
tuyệt hảo.
Bây giờ chúng ta có thể thảo luận về hoạt động không lành mạnh
của tâm thức, những điều ấy gồm ba loại, mang tên là sự tham lam, ý chí bệnh
hoạn và quan niệm sai lầm.
Sự tham lam (tham) liên hệ đến việc tập trung
trên những sở hữu vật chất của những người khác và hy vọng cùng cầu nguyện
chúng ta có thể thu được những thứ ấy.
Ý chí bệnh hoạn (sân) nghĩa là tập
trung vào những người khác với tâm tư tương phản và một xu hướng làm tổn hại
.
Quan niệm sai lầm (si) bao gồm tư tưởng không có đời sống sau khi chết,
không có nhân quả cũng không có Tam bảo, và được xem như đeo mang một điều trọng
yếu tiêu cực rất nặng nề.
Nhận thức mười điều không lành mạnh này và từ
bỏ chúng được gọi là sự thực hành của mười điều thiện (thập thiện
nghiệp).
Lối vào sự thực hành Giáo Pháp bắt đầu từ nơi này. Dần dần, có
tâm thức phát triển, chúng ta phát sinh nguyện ước giải thoát chúng ta khỏi vòng
sinh tử luân hồi cũng như phát khởi xu hướng vị tha để giúp đở những người
khác. Tương tự như thế, từng bước từng bước một chúng ta có thể đạt đến con
đường của chân lý trong chính chúng ta với tất cả những đặc trưng của chúng –
thấy tính tự nhiên của vô thường trong những đối tượng, tính tự nhiên của vô ngã
trong những hiện tượng và tính tự nhiên của khổ đau trong phiền não của chúng
sinh. Chúng ta tạo dựng an lạc hạnh phúc và giải thoát khỏi khổ đau bằng việc
nương trên con đường ngừng dứt (diệt đế) và của chân lý. Do thế, Giáo Pháp được
những người Phật tử biết như sự nương tựa quy y chân thật.
Tăng Bảo cũng
rất quan trọng như một gương mẫu để noi theo, và chúng tôi thấy điều này rất hữu
ích. Không kể những người hiện hữu trong ‘Kỷ nguyên Hoàn thành’ (8), chúng ta
cũng bắt gặp trong thời đại ngày nay những người ít quan tâm đến những vấn đề
thế tục và được chuẩn bị để hy hiến trong những công tác xã hội nhầm để thực
hành yêu thương, từ bi, tâm giác ngộ một cách chân thật, và những tầng bậc vững
vàng bao quát thẳng đến chính cốt tủy của con đường (giác ngộ). Khi chúng tôi
gặp gở những người như thế, chúng tôi tự nghĩ, “Tại sao chúng tôi đã không hoàn
tất điều họ đã làm? Điều gì đang ngăn cản chúng tôi để hoàn thành điều ấy?
Chúng tôi khẳng định sẽ hoàn tất điều ấy.” Những tư tưởng thế ấy phát khởi
trong tâm tư chúng tôi tùy thuộc lợi ích và sự ân cần của những người bạn tâm
linh, Tăng già. Do thế, những người như thế nên được xem như là những đối tượng
gương mẫu và những thiện hữu tri thức tâm linh, cho dù họ có là một thành phần
thật sự của Tăng Bảo hay không. Và chúng ta nên thực hành Giáo Pháp noi theo
những mẫu mực ấy.
Theo giáo huấn Đại Thừa, những thành viên nào thật sự
của Tăng già tôn quý đã trau dồi tâm giác ngộ (bodhicitta) trong sự tiệm tiến
liên tục của họ và được hổ trợ bởi tâm giác ngộ (bodhicitta) đã đạt đến sự hiệp
nhất của tịch tĩnh bất động và tuệ giác nội quán tam muội bằng sự thực chứng
tính không một cách trực tiếp. Đã đạt đến phầm chất của lĩnh vực thứ nhất (sơ
thiền) và trên nữa, họ can trường và có thể hoạt động vì những lợi ích của những
người khác một cách thành công. Họ có nội lực phi thường, được phú cho một kiến
thức tinh khiết và không thể đánh bại. Do vậy chúng ta có thể thấy rằng Phật
Bảo là Đấng thủ hộ và giống như là một vị y sư, Pháp Bảo là sự chân thật và
giống như là y dược, và Tăng Bảo tâm linh giống như là y tá, chăm sóc chúng ta
như những người bạn tốt.
Những vị Bồ Tát nào đang tìm cầu vị trí cao nhất
của giác ngộ nhầm để làm lợi ích cho những người khác dang thực hành để tìm cầu
sự quy y trong Tam Bảo. Tiếp nhận sự quy y là sự thực hành của những vị Bồ Tât,
và đoạn kệ thứ bảy được kết luận với lời tuyên bố này.
ĐIỀU THỨ TÁM
Như được nói bởi Đức Thế
Tôn rằng những khổ đau không thể chịu đựng nổi
Của những cõi thấp là kết
quả của nghiệp báo bất thiện,
Do vậy, điều những vị Bồ Tát thực hành là
chẳng bao giờ tạo nên
Nghiệp báo bất thiện, ngay cả bằng cái giá đời sống
của họ.
Dịch kệ:
8. Ngưng ác hành
Đức Phật dạy, khổ phải
đa mang
Của người kiếp sống lắm đau thương
Là quả bất hạnh do tai
ác
Hại
người trong nhiều đời kiếp trước.
Không muốn về sau khổ kinh hoàng,
Chớ nao núng dù phải
thiệt thân,
Ngưng dứt mọi ác hành nguy hại -
Chư Bồ tát trọn hành
cách ấy.
Sự khổ đau của những chúng sinh lưu chuyển trong những
cõi thấp là cực kỳ khó khăn để chịu đựng, chẳng hạn như chúng sinh ở địa ngục
khổ đau với nóng và lạnh cùng cực, bị đun sôi, thiêu đốt, và đóng băng. Rồi thì
có những khổ đau kéo dài trong những loại địa ngục khác, như địa ngục phụ và
những cõi gần địa ngục.
“Bất cứ điều gì ngươi đã thi hành, một sự đáp ứng
hay kết quả đi kèm sẽ tiếp theo sau.” Điều này dường như không thể hiểu được
đối với tâm nhận thức của chúng ta, tuy nhiên tự sự nhận biết là vô hạn và vì
thế chúng ta không thể nói rằng điều này là đáng ngờ; có rất nhiều thứ vượt
ngoải tâm thức của người thường. Có nhiều khổ não của những cõi thấp mà kết quả
từ những hành động nhiễm ô, Đức Phật đã nói: “Tất cả những điều này phát sinh
ra từ tâm vọng tưởng.” Đúng như lời Ngài nói vì thế dường như rằng những môi
trường khác biệt và những chúng sinh của những cõi thấp biểu lộ ra từ tâm vọng
tưởng.
Chúng tôi không biết có phải tất cả những điều hiện hữu này căn cứ
trên sự lượng định từ A Tỳ Đạt Ma Câu Xá luận hay không, hay từ Kho Tàng Kiến
Thức (Alaya), nhưng chắc chắn những thế giới địa ngục là thật sự hiện hữu.
Chúng ta chứng kiến toàn bộ sự đa dạng của chúng sinh ngay trong thế giới nhân
sinh của trần gian này, với những khía cạnh khác nhau của thân thể, cách sinh
nhai và lối sống, và những sự hiện hữu khác ngoài sự tưởng tượng của chúng ta.
Căn cứ trên điều này, chúng ta có thể liên hệ rằng những điều kiện hiện hữu như
thế cũng có trong hàng trăm thế giới khác của những cõi trần gian (tam
giới).
Hãy để chúng ta lưu tâm đến những quỷ đói (ngạ quỷ), thí dụ: họ
khổ sở chính yếu vì sự thiếu thực phẩm và thức uống. Vì những ma quỷ hung ác ấy
mà người ta sát sinh động vật để cúng tế ngay trong thế giới này. Họ sinh ra
kiếp quỷ đói vì họ đã tích tập những ác nghiệp. Trong số ấy một số có nhiều
năng lực hơn và họ đẩy những kẻ khác vào trong một vị thế thấp kém; những kẻ
khác hệ thống này là bất trị, hay nổi loạn.
Tiếp theo chúng ta hãy nhìn
vào sự đau khổ của loài vật trong thế giới chúng ta. Có những con vật như mèo,
chó, lừa, và ngựa là những thứ chúng ta chăm sóc, và những thứ khác như cừu và
dê là những thứ mà chúng ta nuôi để giết lấy thịt. Nếu chúng ta nghĩ về chúng
và nhận thấy rằng đời sống của chúng không thuộc về chúng. Chúng không có ý
định làm tổn hại chúng ta, chúng ăn cỏ, uống nước, và đần độn cùng ngu dại. Đó
là những điều kiện của đời sống của chúng. Do vậy, điều gì cho phép con người
cái quyền để ăn thân thể chúng?
Khi những thú vật đó được cho một ít thực
phẩm, chúng tranh giành và chiến đấu với nhau để có thức ăn, vì tham đắm và giận
dữ. Thêm nữa, chúng phải chịu đựng khổ đau vì bị đánh đập bằng roi vọt. Nhìn
cẩn thận những thứ này sẽ đưa chúng ta cảm thấy sự đau buồn về khả năng nhỏ nhoi
mà những thú vật đó có. Cuối cùng chẳng có ai để bảo vệ và hổ trợ chúng, và
chúng phải tự đi tìm thức ăn cho chúng.
Con người chúng ta đã xây dựng
trường học cho việc tìm kiếm kiến thức, nhà thương để cải thiện sức khỏe và vệ
sinh, cùng nhiểu nhà máy để sản xuất hàng hóa và để cho công nhân một kế sinh
nhai. Chúng ta cũng tạo dựng những nông trại để cung cấp lương thực cho cung
cách lưu chuyển của đời sống. Tuy thế, những bệnh viện thú y, có nghĩa là giành
cho thú vật, một cách chính yếu lại phục vụ cho mục tiêu của con người, những kẽ
đã xử dụng thú vật để cung ứng cho họ một kế sinh nhai. Những nơi như thế đã
không được xây dựng nên vì cảm xúc thương hại và từ bi cho chính thú
vật.
Con người chúng ta bàn thảo về những lo lắng và vấn nạn của chúng
ta, chẳng hạn như thiếu thốn một cơ hội cho học tập, hay không nhận được thuốc
men tốt lành hay cho vào một bệnh viện với điều kiện tốt đẹp. Nhưng nếu một khi
đã sinh ra trong hình thức thú vật, thì chúng sẽ phàn nàn với ai về những vấn đề
này? Thí dụ, nếu một con cừu, một con dê, hay một con gà mái bị bị xe đụng
phải, không ai mang chúng đến bệnh viện vì chúng đã bị gảy chân. Trong thực tế,
ai đấy có thể giết chúng. Do vậy, thú vật không có ai để bảo vệ và hổ trợ.
Chúng ta có thể chịu đựng điều ấy nếu chúng ta sinh ra như một con mèo, con chó
hay con heo, không có ai hổ trợ hay bảo vệ, không có thân quyến để chăm sóc
chúng ta hay không?
Những tình cảnh cực kỳ khốn đốn cho những chúng sinh
trong cõi địa ngục và quỷ đói, cũng như súc sinh. Hiện tại chúng ta đạt được
kiếp nhân sinh, nhưng chúng ta không có lựa chọn nào để kiếp sống tới chúng ta
có phải sẽ sinh ra trong cõi địa ngục, ngạ quỷ, hay súc sinh hay không. Chúng
ta sẽ đi bất cứ nơi nào mà nghiệp lực dẫn chúng ta đến.
Nếu chúng ta có
những hành vi đạo đức mạnh mẽ, được tích tập toàn hảo, thế thì chúng ta có thể
có sự vững tin biết rõ rằng chúng ta sẽ không sinh ra trong những thế giới thấp
(địa ngục, ngạ quỷ, hay súc sinh). Trái lại thật dễ dàng để rơi vào những cảnh
giới thấp kém, ngoại trừ chúng ta có cơ hội để sám hối cho sự tích tập những
hành động bất thiện, và thể hiện một chí nguyện vững vàng trong khuôn khổ của
bốn năng lực (9) để không liên lụy vào những việc làm tiêu cực như vậy một lần
nữa.
Thánh Thiên bình luận:
Đại đa số con người đi theo
Con đường của những kẽ
không thánh thiện, và vì thế
Hầu hết những chúng sinh phàm phu chắc chắn
Đọa vào
những cõi luân chuyển thấp hơn.
Do thế, điều sẽ đi theo là đại đa
số những người đến đây cho lễ truyền pháp Thời Luân (Kalachakra) sẽ đọa vào
những cảnh giới lưu chuyển thấp. Do vì thật khó khăn để đạt đến sự tái sinh tốt
đẹp, những ai không thực hành Giáo Pháp chắc chắn sẽ đi xuống thế giới thấp.
Nếu quý vị đọa lạc đến tình cảnh thấp ấy, quý vị có thể chịu đựng nổi khổ đau
không? Và bây giờ quý vị có tin tưởng rằng quý vị sẽ không tái sinh trong
những cảnh giới thấp hay không? Nếu không, quý vị phải cẩn trọng và thực hành
không chậm trể.
Hãy tìm cầu nương tựa quy y nơi Phật Bảo, Pháp Bảo, và
Tăng Bảo bằng sự thông hiểu những phẩm chất thật sự của Tam Bảo. Nhầm để trở
thành Phật Bảo, Pháp Bảo, và Tăng Bảo của chính mình, chúng ta phải từ bỏ mười
điều bất thiện, với một niềm tin mạnh mẽ đông thời trong luật nhân quả. Căn bản
trên điều này, trì niệm mật ngôn lục tự (Án Ma Ni Bát Di Hồng) thường xuyên nhất
mà chúng ta có thể, cùng đảnh lễ, và nhiễu Phật kinh hành. Tu niệm rèn luyện
chúng ta trong viễn ly, và tâm giác ngộ (bodhicitta) và dần dần cải thiện sự
tiệm tiến tinh thần chúng ta. Tối thiểu chúng ta nên rèn luyện chính mình từ bỏ
mười điều bất thiện, và thêm nữa chúng ta phải đảnh lễ phủ phục, và nhiễu Phật
kinh hành. Đức Phật luôn luôn nói điều chân thật, nói rằng kết quả của hành
động bất thiện là khổ đau vô cùng tận. Nếu chúng ta biết điều này bằng năng lực
lý trí của mình, chúng ta sẽ không tham dự vào những hành vi tiêu cực ngay cả
bằng giá mạng sống của mình. Đây là điều thực hành của một vị Bồ
Tát.
Thế là chúng ta đã thảo luận về phạm vi nhỏ hay mục tiêu bậc tiểu
của con người. Tiếp theo chúng ta sẽ lưu tâm đến con đường phổ biến và phạm vi
vừa hay mục tiêu bậc trung của con người.
ĐIỀU THỨ CHÍN
Hạnh phúc của ba cõi, như những giọt sương trên đầu
của một
Ngọn cỏ, có tính tự nhiên biến mất trong giây
phút
Do vậy, sự thực hành của những Bồ Tát là cố gắng
Vì
tình trạng tuyệt vời của sự giải thoát không thay đổi.
Dịch kệ:
9. Cầu giải thoát
Như sương mai đọng
trong phút giây
Trên đầu ngọn cỏ, sớm tan ngay,
Thú vui tìm thấy
trong đời tục
Chẳng lưu tồn, thoáng qua khoảnh khắc.
Trong khi thành Phật
được tự tại,
An lạc tuyệt vời chẳng đổi thay.
Tận lực đạt cứu cánh
siêu diệu -
Chư Bồ tát trọn hành cách
ấy.
Sự khoái lạc và những phẩm chất tốt đẹp của cõi luân
hồi này – điều được bao gồm trong ba cõi hiện hữu duyên sinh –có thể được so
sánh với những giọt sương trên đầu ngọn cỏ. Một khoảnh khắc có một giọt sương
lấp lánh, và thời khắc tiếp theo nó tan biến không còn dấu vết. Giống như vậy,
tất cả những vui thú khoái lạc và hạnh phúc của ba cõi hiện hữu duyên sinh không
có cơ sở vững chắc và được mô tả đặc điểm bằng sự không chắc chắn; tính tự nhiên
của nó là tàn lụi trong chốc lát. Niết bàn là tình trạng không biến đổi của an
lạc hạnh phúc vĩnh cửu, và tìm cầu niết bàn là sự thực hành của một vị Bồ
Tát.
Không phải chi ba cõi lưu chuyển (địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh) là
chứa đựng những khổ đau vô cùng. Nếu suy nghĩ một cách cẩn thận, chúng ta có
thể thấy rằng chẳng có một thứ hạnh phúc nào cả cho đến khi chúng ta hoàn toàn
giải thoát khỏi sinh tử luân hồi. Hiện thời chúng ta đạt được kiếp nhân sinh,
đấy là hình thức tuyệt vời nhất trong cõi luân hồi. Nhưng hãy đề chúng ta nhìn
lại điều kiện nhân duyên hiện tại. Không biết chắc chốn nào chúng ta sẽ tái
sinh, chúng ta trãi qua lo âu bức rức liên tục. Sự tự do hiện tại tạm thời của
chúng ta khỏi ba cảnh khổ (địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh) không có gì vững chắc,
và sẽ không có gì bảo đảm cho đến khi chúng ta có thể tin chắc ở sự hoàn toàn
thoát ly sinh tử luân hồi. Đây là con đường hay phương thức mà mọi thứ là (chân
thực như thế).
Qua khảo sát chúng ta có thể thấy rằng tính tự nhiên của
thân thể con người là khổ đau. Có thể nói rằng không có cảm giác mạnh mẽ nào
thú vị và khổ đau trong vài tuần đầu của đời sống, ngay lập tức sau khi nhập
thai. Nhưng rồi thì bào thai bắt đầu cảm thấy an lạc và khổ đau một cách sâu
sắc. Khi nó chuyển động trong tử cung, nó cũng không cảm thấy vui thích mà phát
ra một cảm giác của không thoải mái, bởi vì nó không thể duy trì sự yên tĩnh và
thư giản trong khi bị hạn chế trong dạ con. Và nó phải duy trì tình trạng đó
trong mười tháng ở bụng mẹ, không phải là vài ngày hay vài tuần. Sauk hi sinh
ra, đứa bé phải trãi qua một thời gian nếm mùi khổ đau giống như một con côn
trùng, vì mặc dù nó có một hình thức của con người, nhưng nó không thể hành động
một cách tự do. Trong cách này đời sống bắt đầu với sự khổ đau.
Trong
thời gian chuyển tiếp giữa lứa tuổi 15 hay 16 và 40 hay 50, nữ nhân được xem như
là quyến rũ và nam giới là hấp dẫn và mạnh mẽ. Trong cấp độ này của đời sống
chúng ta nghĩ rằng chúng ta có thể đảm đương bất cứ việc gì, không cần tin cậy
nương dựa hay tìm kiếm một sự hổ trợ từ bất cứ ai khác do vì chúng ta có thể
dùng đến sự thông minh của chính mình. Tuy nhiên, như chúng tôi đã lưu ý trước
đây, luôn luôn có một cảm giác nào đấy không hài lòng trong đời sống của chúng
ta.
Chúng ta có thể đi vào thương trường và thấy rằng nó chẳng tốt đẹp
cho lắm; hay chúng ta đến học đường nhưng không thể học tập hoàn toàn thích đáng
và nhận những điểm xấu trong thi cử; chúng ta có thể tìm kiếm một nghề nghiệp
nhưng nhận lương bổng thấp; một sự đau buồn đem đến khi không có con cái, thế là
người ta đi đến thỉnh ý những tu sĩ cầu đảo để được mang thai và sinh con. Hay
có những đôi vợ chồng có quá nhiều con cái, họ lo lắng không biết có nên kiểm
soát sinh sản hay không, và nếu họ thực sự kế hoạch hóa, chẳng biết nó có hợp
với luật nhân quả hay không. Nếu không kiểm soát sinh sản, làm thế nào họ có
thể nuôi nấng tất cả con cái của họ? Suy nghĩ theo những dòng này cũng là
nguyên nhân làm cho khổ đau.
Rồi thì nếu chúng ta không có tiền của,
chúng ta có thể làm gì? Nếu chúng ta ăn những thức ăn như - thế - như - thế năm
nay, năm tới chúng ta sẽ ăn thứ gì? Nếu chúng ta hài lòng và đấy đủ những thứ
cần thiết cho chính bản thân, chúng ta sẽ nghĩ đến việc chúng ta có thể giúp đở
gì cho thân quyến chúng ta. Chúng ta có thể nghĩ rằng chắc cho vay tiền là
tốt, nhưng nếu làm thế, chúng ta sẽ có lời lãi tốt hay không? Giữ tiền trong
ngân hàng không thu thập lời lãi nhiều, thế là chúng ta có thể quyết định cho
những người buôn bán vay tiền. Rồi chúng ta lo âu trong việc tìm kiếm một người
đáng tin cậy, thế là chúng ta đi bói toán và khẩn cầu cho việc ấy. Tất cả những
điều này có nghĩa rằng chúng ta trở thành một kẻ nô lệ cho đồng tiền của chúng
ta thay vì gặt hái những lợi lạc từ đấy.
Một người đàn ông không có vợ
thì đau khổ vì việc ấy. Nếu ông ta có vợ, ông lại âu sầu vì phu nhân mình không
xinh xắn và hợp thời trang. Nếu nội tướng ông xinh đẹp như một người mẫu, ông
lại lo âu về việc làm sao có thể cung cấp cho phu nhân một cách tương xứng.
Chúng ta đau khổ vì không có thân quyến hay bè bạn, nghĩ rằng không ai hướng dẫn
và chỉ lối đưa đường cho chúng ta; chúng ta cô đơn. Chúng ta lại cũng bị khổ sở
vì có bè bạn và thân quyến mà không thể sánh vai với họ.
Rồi thì vào cuối
của cuộc đời, như một kết quả chúng ta trở nên già cả và ốm yếu cùng kinh nghiệm
khổ đau. Và cuộc sống chấm dứt với cái chết, mà chính nó là tính tự nhiên của
khổ đau. Biết trước cái chết làm sinh khởi sự sợ hãi và băn khoăn, do thế hầu
hết người ta thỉnh mời tu sĩ cầu nguyện cho họ sống lâu và giải thoát họ khỏi
bệnh tật. Nhưng ngay cả nếu họ cố gắng để ngăn ngừa bệnh hoạn bằng việc ăn uống
một khối lượng thực phẩm vừa phải và giữ gìn vệ sinh rất tốt, sự khổ đau của cái
chết sẽ vẫn đến với họ mặc dù có những sự đề phòng này.
Sự khổ đau được
biết như cái chết xãy ra từ việc cạn kiệt thiện nghiệp hay phước đức của chúng
ta, hoặc tùy thuộc vào những điều kiện (nhân duyên) bất thiện. Ngày ấy đến, khi
chúng ta nằm trên giường, sống nhờ thân thể này lần cuối cùng. Mặc dù chúng ta
vốn có một thân thể khỏe mạnh nhờ luyện tập, nhưng ngày ấy chúng ta ngã đổ xuống
như một thân cây mục nát và không thể lăn trên giường nếu không có người phụ
giúp. Khi chúng ta nằm đấy với chính mình, chúng ta nếm mùi khổ não trong hình
thức đau đớn, và nếu chúng ta ở trong bệnh viện chúng ta phải nhờ y tá đở qua đở
về.
Nếu chúng ta cần giải phẩu ngắn ngủi trước khi chết, những phần thân
thể nào đấy sẽ bị mỗ xẽ và thậm chí chúng ta có thể có những bộ phận hay vật
chất mới lồng vào. Nếu điều ấy cần thiết cho sự sống còn của chúng ta để tiến
hành giải phẩu trên tay của chúng ta, điều ấy sẽ được hoàn tất; nếu cần cưa đi
chân điều ấy sẽ hoàn thành; và nếu cần thiết thay những bộ phận nội tạng họ sẽ
làm như thế.
Mọi người chung quanh chúng ta sẽ bận rộn hướng đến sự cần
thiết của chúng ta vào cuối cùng ấy trong khi chúng ta nằm đấy và suy nghĩ:
“Bây giờ tôi sắp chết,” và nếm mùi đau buồn thương tiếc. Cung cách mà chúng ta
đã tiêu phí cuộc đời trong năm, sáu mươi năm qua đến lúc này dường như giấc mơ
của đêm qua. Chúng ta đối diện sự chia ly vĩnh viễn trong cuộc đời này với
những thân quyến, thân hữu thân cận và thân ái. Chúng ta phải chết để đi qua
đời sống kế tiếp, trong khi họ phải ở lại trong thế giới nhân gian này. Thế là
vì sự kiện này chúng ta khóc lóc và tỏ ra một sự biểu lộ đau buồn vô hạn, và
thân quyến và thân hữu chúng ta cũng đầy nước mắt. Lẫm bẫm những lời đau khổ
đìu hiu, nhưng chúng ta phải đi theo những con đường ly biệt.
Mặc dù
những người Tây Tạng chúng tôi đã bị chia cách với nhau, nhưng ít nhất chúng tôi
có thể gặp lại nhau; trái lại sự chia ly bởi chết chóc không phải là kết quả của
nước này bóc lột nước kia mà là do sự chấm dứt nghiệp quả của chúng ta. Chúng
ta không thể trình diễn một sự mặc cả với bất cứ ai để chúng ta ở lại bằng việc
dùng bất cứ phương pháp nào chẳng hạn như cách hối lộ hay sự xảo quyệt bẩm
sinh.
Một số đệ tử của chúng tôi có thể chuẩn bị để hy sinh mạng sống của
họ vì chúng tôi do sự tin tưởng mạnh mẽ ở Giáo Pháp. Tuy nhiên, khi ngày chết
của chúng tôi đến, chúng tôi phải ra đi một mình. Chúng tôi không thể mang ai
theo với chúng tôi, bằng cách nói rằng, “Người ấy là bạn tôi,” hay , “Người ấy
là thị giả của tôi,” hay rằng đấy là người mà Đạt Lai Lạt Ma tin cậy. Những đệ
tử của chúng tôi phải ở lại phía sau, và tất cả quý vị cũng phải ở lại. Như đã
được nói rằng: “Quốc vương phải rời thế giới này, bỏ lại Vương quốc của mình;
kẻ hành khất phải rời thế giới này, bỏ lại cây gậy của ông ta.”
Chúng ta
bị dày dò bởi nổi khổ khốc liệt khi chúng ta nói ra lời cuối cùng trên giường
bệnh vào ngày quyết định, và nó đòi hỏi chúng ta một nổ lực để nói tất cả.
Chúng ta có thể có một sự khó khăn vô cùng trong việc làm chúng ta thấu hiểu do
bởi môi miệng chúng ta khô khốc, và nếu thế, thân bằng quyến thuộc chúng ta trở
nên tan nát cõi lòng, bất lực và phiền muộn.
Trước thời điểm này chúng ta
thường bày tỏ một cách tự do. Như một thí dụ nhỏ, chúng ta sẽ phàn nàn to tiếng
nếu thực phẩm chúng ta ăn không được nấu nướng một cách thích hợp. Chúng ta
chắc chắn sẽ vung lời nếu chúng quá nóng và làm bỏng miệng chúng ta. Chúng ta
sẽ gắt gỏng kẻ có trách nhiệm nếu chúng ta ở vị trí quyền thế, và sẽ nguyền rũa
sau lưng nếu chúng ta không thể thách thức trước mặt. Chúng ta đã thường dùng
cảm xúc trong sự kiềm chế hay điểu khiển kiểu này, nhưng tại thời điểm của cái
chết chúng ta thậm chí không thể ăn.
Đây là một thí dụ khác nữa: nhiều
người Tây Tạng đeo vật hộ thân hay bùa, là những thứ mà họ nói là chứa đựng xá
lợi như-thế-và-như-thế hay thịt như-thế-và-như-thế của những Đức Phật hay Bồ
Tát. Vì lý do này họ chống lại việc giao những thứ ấy cho những người khác mà
luôn đeo chúng trên cổ của họ. Vào ngày cuối cùng, những người khác sẽ mở gói
bùa ấy ra và hòa lẫn những thứ ấy với nước, và rồi những vật chất thiêng liêng
và tro tàn hay xá lợi ấy được đặt vào trong miệng của người sắp chết như bửa ăn
cuối cùng. Nhưng thường thì người ấy không đủ sức để nuốt, vì thế những thứ vật
chất vẫn còn bên trong miệng của người ấy ngay cả khi họ đã chết.
Tại
thời điểm lâm chung âm thinh hơi thở chúng ta thay đổi một cách chậm chạp, giống
như dây đờn vĩ cầm đứt, và những cảm giác thú vị mà chúng ta đã trãi qua trong
cuộc đời mình sẽ đi đến chấm dứt với lúc chết của chúng ta, một năng lực bất
thường, hơi thở ra, sau khi tất cả sự hô hấp ngừng dứt.
Tất cả những
phương pháp mà chúng ta có thể đã được dùng trong bệnh viện cố gắng để sống còn
sẽ không có lợi ích gì khi nghiệp quả chúng ta đã cạn dứt. Cũng không có giúp
đở gì thêm ngay cả nếu sự giải phẩu cho chúng ta một lá phổi hay trái tim mới,
hay nếu chúng ta được tiếp dưỡng khí để hổ trợ thêm cho hơi thở chúng ta. Chúng
ta hoàn toàn bất lực. Ở tại hoàn cảnh mà:
Bác sĩ bó tay với
chúng ta và nguyện cầu không qua được chướng ngại;
Thân quyến mất hy
vọng với sự sống còn của chúng ta.
Chúng ta cảm thấy
bất lực và không biết phải làm gì.
Đấy là thời gian cho
đạo sư tôn quý,
Thánh Quán Tự Tại, thủ hộ chúng ta và đưa chúng ta
khỏi cõi luân hồi
Như được nói ở đây trong “Sự Thủ Hộ Từ Bi”, tại
thời điểm lâm chung đấy là Bổn tôn là những đấng mà chúng ta giao phó sự hồi
hướng và năng lượng với điều mà chúng ta đã từng thực tập Giáo Pháp là điều sẽ
làm cho tâm thức chúng ta an lạc và nhẹ nhàng. Các Bổn tôn sẽ ban cho chúng ta
sự ổn định và an ủy. Không điều gì khác có thể giúp chúng ta bởi vì không có
đấng bảo vệ và hổ trợ nào khác.
Khái quát những gì chúng tôi vừa thuyết
giảng: chúng ta trãi qua khổ đau khi chúng ta trẻ trung và khỏe mạnh cũng như
khi chúng ta trở nên già yếu và tàn tật. Chúng ta khổ đau khi đời sống chúng ta
đầy đủ cũng như khi chúng ta đối diện với những hoàn cảnh thiếu thốn. Chúng ta
bị chế ngự bởi nhiều thứ khổ đau từ lúc bắt đầu của đời sống cho đến giây phút
lâm chung.
Thế thì mục tiêu của tái sinh là gì? Nếu chúng ta trở thành
một kẻ nô lệ cho sự giàu sang hay tài sản và chỉ đơn thuần là kẻ chăm sóc cho
ngôi nhà của mình, điều ấy thật là vô nghĩa. Ngôi nhà có nghĩa thật sự là để
cung cấp cho chúng ta nơi cư trú, vì thế nó là tốt đẹp nếu chúng ta cảm thấy ấm
cúng và thoãi mái trong ngôi nhà của mình. Nhưng nếu chúng ta quá bận rộn để lo
lắng cho nó, chúng ta trở thành kẻ tôi đòi hay kẻ quản gia. Tương tự như thế,
sự giàu sang và tài sản phải làm lợi ích cho con người, nhưng nếu chúng ta không
biết xử dụng chúng một cách thích đáng chúng ta trở thành kẻ nô lệ của
chúng.
Mặc dù dường như giống như thảo luận một đề tài nhơ bẩn, vì mục
tiêu chính của thực phẩm và áo quần dường như chính là sản xuất phẫn. Thực
phẩm là cội nguồn thực sự của phẫn, và phẫn thông thường được hình thành bởi
tiếp nhận một khối lượng vừa phải thực phẩm và ăn mặc áo quần thích
hợp.
Tuy thế, chọn lựa để trui rèn tâm thức chúng ta trong Giáo Pháp cho
chúng ta ý nghĩa để duy trì trong sự hiện hữu của con người bởi vì chúng ta trở
nên tĩnh lặng và nhẹ nhàng một cách tạm thời cũng tiếp nhận lợi ích về lâu về
dài. Chúng ta không nên nói rằng đời sống này không có thực chất gì cả. Nếu
chúng ta nói rằng cuộc đời này là vô nghĩa và chúng ta dự tính tự tử, chúng ta
phải tiếp nhận một kiếp sống khác, nhưng không hài lòng; bằng sự chấm dứt đời
sống này không có nghĩa là chúng ta sẽ chấm dứt sự sinh. Bản chất của sự sinh
không phải là vấn đề muốn hay không muốn – chúng ta phải tiếp tục chịu sinh cho
đến khi chúng ta có thể làm cạn dứt hành nghiệp và tư tưởng phiền não của chúng
ta. Do thế, ngoại trừ chúng ta có thể lìa bỏ gốc rể của tái sinh, bằng không
thì vô ích. Chúng ta sẽ không bao giờ tìm thấy an lạc hạnh phúc và thoãi mái
thường hằng cho đến khi nào chúng ta vẫn còn phải tiếp nhận sự sinh (ra), mà
thay vì thế phải dành thời gian chúng ta trong đau khổ.
Nguyên nhân nào
làm nên tất cả những khổ não này? Đấy là những chứa nhóm (hay năm uẩn) mà
chúng ta đã mang theo, đã tạo nên bởi những hành động và vọng tưởng. Tại sao
chúng ta tiếp nhận sự sinh (ra) này? Không chỉ bởi vì cha và mẹ của chúng ta,
mà bởi vì sự tích tập những hành động của chúng ta. Chúng ta có thể làm ngưng
vòng tái sinh này lại, bằng cách khám phá và nhổ gốc rể của sự tiếp diễn của
những hành động. Điều cần thiết để làm cạn dứt kho chứa những hành nghiệp nhầm
để ngưng dứt việc tiếp nhận sự sinh (ra), và làm cạn dứt những hành nghiệp tích
tập đấy là chúng ta phải làm cạn dứt vọng tưởng của chúng ta. Ngày mà chúng ta
chế ngự để cạn dứt những hành nghiệp và vọng tưởng của chúng ta chính là lúc
chúng ta đạt đến giải thoát.
Nói cách khác, một khi chúng ta đã làm cạn
dứt phiền não là điều tạo nên nghiệp báo và hoàn toàn hết sạch chính khuynh
hướng của chúng ta dính mắc với sự tồn tại thật (bị quan niệm một cách sai lầm),
và một khi chúng ta đạt đến sự ngừng dứt (diệt đế) của mỗi phiền não và hành
nghiệp, thế thì chúng ta đạt đến niết bàn. Vì thế, Pháp giới, là điều được đạt
đến như một kết quả của sự chấm dứt hành nghiệp và phiền não, được biết như sự
giải thoát cũng như sự ngừng dứt (diệt đế).
Sau khi đạt đến giải thoát,
cái “tôi” tục đế (quy ước) của một con người vẫn tồn tại. Nó không có nghĩa là
chúng ta bị biến mất một cách hoàn toàn, mặc dù đúng thật rằng chúng ta không bị
năng lực thúc đẩy để tái sinh nữa do bởi nghiệp báo và vọng tưởng của chúng ta.
Có những sự diễn dịch sai lầm trong nhiều sách vở Tây Phương về Phật Giáo, đấy
là khi họ viết rằng khi một người đạt đến niết bàn người ấy sẽ chấm dứt hiện hữu
và chúng ta không phải nương dựavào bất cứ ai, mặc dù điều này không liên hệ đến
sự những thứ ngoại tại (11). Chúng ta phải khám phá khả năng của chúng ta đạt
đến niết bàn qua thực hành nếu chúng ta muốn tiếp cận tình trạng của chúng sinh
như thế.
Giận dữ và dính mắc (chấp trước) sinh khởi trên căn cứ trên
chính khuynh hướng gốc rễ của chúng ta bám lấy sự tồn tại cố hữu. Trong Hướng
Dẫn Trung Đạo (Madhyamikavatara) nói rằng:
Trước nhất là sự bám víu tự
ngã như cái “tôi”, rồi đến sự bám víu vào những sở hữu như cái “của tôi”, những
chúng sinh lang thang trong cõi luân hồi bị vướng trong bẩy rập của cõi luân hồi
sinh tử, như guồng cối xay đi quay cuồng quẩn quanh mà không có tự do. Hãy quy
mạng từ bi.
Hành giả càm thấy qua tuệ trí của họ rằng tất cả những trở
ngại của phiền não sinh khởi từ nhận thức của tập hợp tạm thời của (năm) uẩn như
“tôi” và “của tôi”; họ thấy rằng tự họ chỉ là một tập hợp tạm thời của (năm)
uẩn, và vì thế phản bác sự tồn tại cụ thể của cái “tôi”.
Chúng ta bắt đầu
với khuynh hướng này để suy nghĩ về cái “tôi”, và từ đấy chúng ta kết luận rằng
cái “tôi” này là khác biệt với những thứ khác một cách hoàn toàn. Trên căn bản
này, ở đấy sinh khởi lên cảm giác về “thân quyến của tôi” và “tài sản của tôi”
và rồi thì giận dữ sinh khởi từ những tư tưởng chiếm hữu như thế. Chúng ta nên
khám phá gốc rễ của những quan niệm sai lầm, để thấy làm thế nào cái “tôi” xuất
hiện trong tâm thức chúng ta, làm thế nào tâm thức chúng ta cảm thấy cái “tôi”
và nó có thật sự hiện hữu như được cảm thấy hay không. Chúng ta phải khảo sát
sự liên hệ giữa những quan niệm này, bằng việc xử dụng lý trí của chúng ta như
được giải thích trong Trung Quán Luận:
Nó không sinh khởi
từ chính nó cũng không phải từ thứ khác;
Không phải từ hai
điều này, cũng không phải từ không nhân.
Bất cứ đối tượng là
gì
Nó
chẳng bao giờ sinh ra ở bất cứ nơi nào
(Chư pháp bất tự sinh,
Diệc bất tùng tha
sinh
Bất cộng bất vô nhân
Thị cố tri vô
sinh.)
Như được nói trong luận bản gốc, chúng ta phải khảo sát để
thấy có hay không một sự liên kết giữa việc chúng ta cảm nhận những hiện tượng
thế nào và chúng hiện hữu như thế nào và tâm thức chúng ta khao khát chúng thế
nào. Chúng ta sẽ có một cái nhìn rõ ràng về tính tự nhiên của thực tại nếu
chúng ta quả quyết sự thật ở một cấp độ nào đấy của sự khảo sát như thế, và từ
đấy chúng ta có thể thu được sự tin tưởng trong việc đạt đến giải thoát trong
tương lai.
Tuy nhiên, tầm quan trọng và quý giá ở một con người là người
ấy chi là một, một đơn độc; trái lại những chúng sinh khác là vô lượng và vô
biên, và cùng chia sẽ sự khao khát hạnh phúc an lạc và tránh xa khổ đau. Tất cả
chúng ta đều sẳn có và sở hữu cùng quyền lợi để loại trừ khổ đau khỏi đời sống
chúng ta và để tiếp nhận hạnh phúc, và chúng ta có cùng khả năng cho điều này.
Do thế, nếu chúng ta so sánh tầm quan trọng của chính mình và với những người
khác, chúng ta có thể thấy rằng người khác là cực kỳ quan trọng.
Chúng
tôi đã đạt đến thân người, và trong những con người, chúng tôi là một con người
tin tưởng nơi Giáo Pháp, chúng tôi là một người thực hành Giáo Pháp. Trong đặc
trưng ấy, chúng tôi là một người thực hành Giáo Pháp Đại Thừa. Vị trí của chúng
tôi là một tu sĩ cụ túc giới, là một người thọ Bồ Tát giới cũng như thệ nguyện
của mật thừa tantra. Vì thế, chúng tôi có thể nói rằng chúng tôi là một người
thủ hộ tuệ trí và ba thệ nguyện. Do vậy, chúng tôi đã đạt đến một vị thế tương
đối quý giá và quan trọng.
Tuy nhiên, nếu so sáng chính mình với những
chúng sinh khác, tầm quan trọng của chúng tôi vô cùng nhỏ nhoi trong sự so sánh
với họ. Chúng tôi chỉ là một người cảm thấy cả an lạc lẫn khổ đau và chúng tôi
sẽ vẫn là một con người nếu chúng tôi lang thang trong cõi luân hồi từ vô thủy
kiếp cho đến tương lai xa xôi. Do thế, điều gì quá đặc biệt về chúng tôi trong
việc đạt đến giải thoát ngay bây giờ? Nhưng nếu chúng tôi có thể làm lợi ích
cho những người khác và hiến tặng cho họ thậm chí một niềm vui thích nho nhỏ,
điều ấy sẽ có giá trị thế nào đấy. Sự lợi lạc lan rộng một cách thật sự đến vô
lượng chúng sinh.
Đúng ngay lúc chúng ta có thể hy sinh hạnh phúc tam
thời vì mục tiêu đạt đến niềm an lạc tối thượng của niết bàn, thế thì chúng ta
có thể thệ nguyện chọn lựa để tiến hành một sự hy hiến giá trị hạnh phúc chính
mình nhầm để làm lợi lạc cho những người khác. Điều được xem là thông thường để
khước từ những điều nhỏ bé của thế giới này nhầm để đạt đến điều gì ấy to lớn
hơn. Tương tự như thế, người thông tuệ hy sinh chính mình nhầm để làm lợi ích
cho người khác.
ĐIỀU THỨ
MƯỜI
Điều gì là việc xử dụng hạnh phúc của chính chúng ta khi tất
cả các bà mẹ là những người đã từng
Ân cần tử tế đến chúng ta từ vô thủy
kiếp (chịu) khổ đau?
Do thế, đấy là sự thực hành của những vị Bồ Tát để
phát sinh
Tâm giác ngộ (bodhicitta) nhầm để giải thoát tất cả chúng
sinh.
Dịch kệ:
10. Phát Bồ đề
tâm
Mỗi lần đầu thai, bao kiếp đời,
Lại được cưu mang
bởi mẫu từ.
Bấy nhiêu bà mẹ còn luân lạc,
Nhẫn tâm sao đành,
riêng ta thoát!
Muốn độ tha nhân, nhiều khôn lường,
Cứu các bà mẹ khổ
thân thương,
Phát Bồ đề tâm, nguyện thành Phật -
Chư Bồ tát trọn hành
chân thật
Chúng ta phải phát sinh nguyện vọng tìm cầu Phật Quả tối
thượng và hoàn toàn nhầm để giải thoát vô lượng chúng sinh khỏi khổ đau và
nguyên nhân của nó. Chúng ta nên phát sinh xu hướng này nếu nó chưa từng được
phát sinh, và tăng cường nó nếu nó đã phát sinh. Đây là sự thực hành của một vị
Bồ Tát.
Từ đây trở về sau của luận giải, sự thực hành của tâm giác ngộ
(bodhicitta) được chia sẽ. Để học hỏi lý do tại sao chúng ta phải hoán đổi
chính mình với những người khác, chúng ta nên đọc:
ĐIỀU THỨ MƯỜI MỘT
Như tất cả khổ đau sinh ra từ sự khát khao hạnh phúc
của con người,
Và những Đức Phật sinh ra từ tâm niệm làm lợi ích cho
những người khác,
Đấy là sự thực hành của những vị Bồ Tát để dấn thân
trong một sự
Hoán đổi thực sự hạnh phúc của họ vì khổ đau của
những ngưởi khác.
Dịch kệ:
11. Hoán vị ngã
tha
Mọi khổ ta mang, chẳng biệt trừ,
Đến từ ước vọng vui
riêng tư;
Còn khi hành, ý cho tha lợi
Sẽ sanh vào tối
thượng Phật vị.
Thế, nên hoán đổi tư dục tham
Chớ quên cảnh khổ
của chúng nhân,
Chuyển lòng ích kỷ thành quan thiết –
Chư Bồ tát trọn hành
không khác.
Trong Hướng Dẫn Phương Thức của Đời Sống Bồ Tát
(Bodhicharyavatara) viết rằng:
Tất cả khổ đau trong thế gian
Sinh
khởi ra từ sự mong muốn hạnh phúc cho tự ngã;
Tất cả hạnh phúc trong thế
gian
Sinh khởi ra từ mong muốn hạnh phúc cho người
khác.
Và:
Có điều gì khác được nói nữa? Quá nhiều
điều.
Người thông tục hành động vì hạnh phúc của chính họ,
Trong
khi Đại Mâu Ni hành hoạt vì kẻ khác
Hãy nhìn sự khác biệt giữa hai loại
này.
Gốc rễ của tất cả hạnh phúc là do nơi sự mong muốn hạnh phúc của
những người khác. Nguồn gốc của tất cả những chướng ngại là do nơi sự mong muốn
hạnh phúc cho riêng mình. Như cũng được tuyên bố trong ‘Gurupuja’:
Tất
cả những cánh cổng đến nhược điểm là thông qua việc tự yêu mến (tự
ái),
Tất cả những phẩm chất tích cực căn bản là
Thông qua việc yêu
mến những bà mẹ của chúng ta.
Hiện trạng của chúng ta trong hiện tại là
một kết quả của sự tự yêu mến chính mình một cách mãnh liệt và sự bỏ rơi những
người khác. Bây giờ chúng ta đang đi theo Đức Phật thứ tư, Thích Ca Mâu Ni Thế
Tôn, và chúng ta đã gặp giáo huấn Đại Thừa. Một cách đặc biệt nhất, chúng ta đã
được giới thiệu con đường hoán đổi chính mình vì người khác, được trao truyền
bởi Tôn Giả A Xà Lê Long Thọ, căn cứ trên sự hướng dẫn được Ngài Văn Thù Sư Lợi
chỉ dạy cũng như từ truyền thừa của Tôn Giả Tịch Thiên (Shantideva).
Vì
thế, ngay bây giờ, chúng ta nên nhìn lại những chướng ngại từ mỗi góc cạnh và từ
bỏ thái độ tự yêu mến của chúng ta. Chúng ta nên nhìn ở những phẩm chất yêu
mến người khác từ mỗi khía cạnh và thực tập nhiều như mình có thể để luyện tập
tâm thức chúng ta trong việc hoán đổi chính mình vì kẻ khác. Nhầm tăng trưởng
động lực của chúng ta để hoán đổi chính mình cho kẻ khác trong hình thức của
thực tập,
Hãy rèn luyện để cho và nhận luân phiên nhau;
Chuỗi nối
tiếp của sự nhận nên bắt đầu từ chính mình.
Hãy sắp đặt cả hai trong hơi
thở của mình
Điều liên hệ cho sự thực tập này là từ ‘Hướng Dẫn Lối Sống
của Bồ Tát trong Cuộc Đời’: Chúng ta nên thực tập điều bí mật thánh thiện ấy.”
Như được nói rằng chúng ta nên suy tư về nổi khổ đau không ai muốn ấy của chúng
sinh, và nên nguyện ước, bằng lời nói và cảm xúc, để mang lấy khổ đau của kẻ
khác qua lòng từ bi.
Chúng sinh thiếu hạnh phúc trong hiện tại, mặc dù họ
khao khát nó, do thế chúng ta nên rèn luyện tâm mình để dâng hiến thân thể, tài
sản, và tất cả những hành động lành mạnh của ba cánh cửa – đúng ra là, bất điều
gì chúng ta có – với lòng yêu thương đến những chúng sinh tàn tật và thiếu thốn
hạnh phúc. Đây là điều được biết như là sự thực hành tong-len. Trong
‘Gurupuja’, nói rằng:
Đạo sư từ bi, nguyện tất cả những khổ
đau,
Chướng ngại và hành vi tiêu cực của bà mẹ (của)
Chúng sinh
được chín muồi trong tôi một cách hoàn toàn.
Bằng sự ban cho hạnh phúc và
những hành động lành mạnh của tôi đến cho những kẻ khác,
Nguyện cho tất
cả chúng sinh được gia hộ trong an lạc.
Và như được nói trong ‘Tràng Hoa
Quý Báu’:
Nguyện cho tôi được chín muồi bằng sự khổ đau của
họ.
Nguyện cho những hành vi thánh thiện của tôi được chín muồi trên
họ.
Chúng ta phải rèn luyện trong cách này và vì thế nên học hỏi theo
những dòng này:
Điều thực hành của Bồ Tát là để dấn thân trong sự hoán
đổi thật sự an lạc của họ vì khổ đau của kẻ khác.
Chúng ta đạt được không
chỉ an lạc cơ bản mà cũng là hạnh phúc trong ngắn hạn qua rèn luyện trong tâm
giác ngộ (bodhicitta) và thực hành sự trao đổi chính mình cho kẻ khác. Trái lại
nếu chúng ta khăng khăng giữ lấy trong thái độ tự yêu mến và không thực hành sự
hoán đổi chính mình cho kẻ khác, chúng ta sẽ không đạt được bất cứ an lạc tạm
thời nào, không nói chi đến đắc nhập niết bàn và trạng thái toàn giác. Nhầm để
chứng minh chân lý này, điều đã được nói rằng:
Nếu một người không
hoán đổi an lạc của mình
Cho khổ đau của người khác, kẻ ấy sẽ
Không trở thành bậc
giác ngộ và sẽ không nếm được
An lạc ngay trong cõi luân hồi
này.
Chú thích:
(3)
Một người con thông tuệ, như kim cương, nền tảng như chỗ tựa của một quả núi
vững vàng, một người phụng sự, một cầu thang, một con chó giữ nhà, một cây chỗi,
một người bạn tốt.
(4) Tự tại với phiền não và sở tri chướng.
(5)
Năm điều vững chắc là năm đặc trưng xác định của Báo Thân Phật có tên
là:
1- Về vị trí: các ngài này luôn luôn ngự trong Phật giới trang
nghiêm rực rở được biết là ‘vô thượng giới’.
2- Về thân thể: các ngài
luôn luôn trang nghiêm với 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp.
3- Về thời gian:
các ngài sống cho đến khi nào cõi luân hồi vẫn còn có chúng sinh.
4- Về
giáo lý: các ngài luôn luôn giảng dạy Giáo Pháp Đại Thừa.
5- Về đệ tử:
các ngài giảng dạy không thay đổi trong một sự vây quanh của hàng Thánh đệ tử Bồ
Tát.
(6) Phiền não chướng và sở tri chướng.
(7) Những phẩm chất
không ô nhiễm của những bậc Thánh giả.
(8) Thời đại hiện hữu khi chúng
sinh sống đến 80.000 tuổi.
(9) 1- năng lực của hối quá; 2- năng lực của
sự tin tưởng Tam Bảo; 3- năng lực của sức mạnh đối lập (đến phiền não, chẳng hạn
như kinh hành nhiễu Phật, lạy phủ phục, và trì tụng chân ngôn); 4- năng lực của
hứa nguyện (promise) hay chí nguyện (commitment) - - - { thứ ba là thệ
nguyện(vow)}.
(10) tam giới
(11) Niết bàn hay trạng thái giải
thoát đem đến sự tự do nội tại, nhưng những cá nhân giác ngộ tiếp tục thực hiện
chức năng trong sự liên hệ với những hiện tượng bên ngoài, cả chúng sinh và
những đối tượng.