Vấn: Chúng con Liên hữu Liên tông Tịnh độ Non bồng, cư trú
vùng đồng bằng sông Cửu long, thường xuyên thọ Bát Quan Trai, nghe pháp, học
giáo lý, tu tập thiền tụng…Tuy nhiên từ trước đến nay khi tụng kinh ngang qua
bài “thần chú vãng sanh”, chúng con nhận thấy nhiều người phát tâm tụng công
cứ, tụng rất nhiều, cả nước tụng, nhưng chưa biết nguồn gốc “thần chú vãng
sanh”, sự ứng dụng của thần chú, ý nghĩa của thần chú, cách thức tụng thần chú,
công dụng của thần chú ra sao? Ngưỡng mong Sư từ bi hướng dẫn chúng con tu tập?
Tụng nhiều, thường tụng, nhưng ít nghe giảng về thần chú vãng sanh, chúng con
muốn học về thần chú vãng sanh?
Đáp: Năm tuổi, Sư đã thuộc và tụng thần chú vãng sanh, cả
nhà tụng chú, lớn tụng chú, nhỏ tụng chú, mỗi ngày tụng niệm từ mười chuổi
trường trở lên, tụng xong tinh thần nhẹ, sảng khoai…cầm chắc trong tay ngày hôm
nay không bị nghiệp chướng đè nặng thân tâm, không bị hôn mê, không bị đọa địa
ngục. Nếu có người cõi âm chưa siêu thóat, nghe thấy biết được chú lực nầy sẽ
được siêu thóat cực lạc tây phương.
Thần lực chú vãng sanh
Thần chú có lực rất mạnh, nên người Phật tử Việt nam hay
thế giới đều tụng niệm thần chú vãng sanh; là người con Phật đều có niệm “thần
chú vãng sanh”
Những năm còn ở tại gia đi học, vào buổi tối “đi khóa lễ
tụng kinh”, đến bài thần chú thì niệm 3 biến, có khi niệm đến 7 biến hay 21
biến, lúc bấy giờ niệm như vầy:
Vãng sanh quyết định chơn ngôn
Bạt nhứt thiết nghiệp chướng căn bổn đắc sanh tịnh độ Đà ra ni
Nam mô A Di Đa bà đạ
Đa tha dà đa dạ
Đa điệt dạ tha
A Di rị đô bà tỳ
A Di rị đa tất đam bà tỳ
A Di rịa đa tỳ ca lan đế
A Di rị đa tỳ ca lan đa
Dà di nị, dà dà na
Chỉ đa ca lệ ta bà ha
Câu cuối có niệm:
Nam mô A Di đà Phật
Tụng xong 21 biến, thân tâm nhẹ nhàng thư thái, không còn
lo sợ cõi âm quấy nhiễu, sợ ma, vì họ đã siêu thoát theo lời cầu nguyện trong
chú lực rồi.
Đến ngày 30 tháng 7 năm Canh tý (1960) về non núi ở tu
hành, thời công phu khuya, Đức Tôn sư không cho tụng chú Thủ lăng nghiêm, bảo
là các chú tiểu không đủ phước lực để tụng thần chú Thủ Lăng nghiêm, mà chỉ
tụng kinh Phổ môn, Thập chú…đến khi nào có thọ giới pháp, khôn lớn làm Thầy,
mang pháp y rồi mới tụng thần chú Thủ Lăng nghiêm. Nhưng ở non tu hành thì khổ
hạnh lắm, công quả nhiều, ăn uống đơn giản, ăn ít, ít thực phẩm, không ăn hàng
vặt. Mỗi ngày tụng kinh thật nhiều: - 6 giờ sáng có cả 600 Tăng Ni, Phật tử lạy
Phật 30 phút – 8 giờ khóa lễ Vu Lan – 12 giờ khóa lễ tụng kinh Địa Mẫu, 16 giờ
khóa lễ công phu chiều – 18 giờ có cả 600 Tăng Ni, Phật tử lạy Phật 30 phút –
19 giờ khóa lễ Tịnh độ tối – 24 giờ khóa lễ tụng kinh Địa Mẫu…
Mới 14 tuổi mà phải theo người lớn tụng niệm như thế, ai
tụng đúng đủ thì được khen, ai trốn tụng kinh lạy Phật thì bị phạt, Đức tôn sư
la rầy, đêm đến mà trốn tụng kinh thì vị trưởng chúng cho đốt đèn măng-xông đi
kiếm, cho nên nói việc tu ở núi là cầm chắc trong tay thuộc diện tu “thiệt
tình”, tu đúng, tu đủ, “không ăn gian” với đàn việt, đàn na tín thí. Ngòai các
giờ tụng niệm thì học Phật pháp, công quả vận thủy sài đầu, đi rừng hái măng,
cưa củi, cưa cây làm chùa.
Làm chú tiểu trên núi tại Non bồng là đúng nghĩa, làm Sơn
Tăng tại Tổ đình Linh Sơn Non bồng là có chất lượng; xuất thân từ “Đạo tràng
Tây phuơng Bồng đão là “ăn chắc mặt dày”; người làm nông gọi là “lúa chắc,
không lép”; người tu Phật ở Tổ đình Linh Sơn là “tu sĩ thật”, là “thiền gia
chân chánh”; “liên hữu chánh tông”.
Ngòai các việc trên, ai siêng thì tụng niệm chú Đại bi,
chú vãng sanh, đóng đại hồng chung niệm Phật; lại còn thêm phát nguyện:”nguyện
tu bất thối chuyển”, ở non núi “sống gởi nạc, thác gởi xương”, nguyện không rời
khỏi non núi.
Thuở thiếu niên Tăng, Sư được quý Thầy lớn dẫn tụng khóa
lễ Tịnh độ tối, lúc tụng đến Thần chú vãng sanh” thì tụng như sau:
Vãng sanh quyết định chơn ngôn
Bạt nhứt thiết nghiệp chướng căn bổn đắc sanh tịnh độ Đà ra ni
Nam mô A Di Đa bà đạ
Đa tha dà đa dạ
Đa điệt dạ tha
A Di rị đô bà tỳ
A Di rị đa tất đam bà tỳ
A Di rịa đa tỳ ca lan đế
A Di rị đa tỳ ca lan đa
Dà di nị, dà dà na
Chỉ đa ca lệ ta bà ha
Câu cuối có niệm:
Nam mô A Di đà Phật
Khi còn ở non tụng Thập chú đến bài chú vãng sanh tụng như
sau:
Vãng sanh Tịnh độ thần chú
Nam mô A Di Đa bà đạ
Đa tha dà đa dạ
Đa điệt dạ tha
A Di rị đô bà tỳ
A Di rị đa tất đam bà tỳ
A Di rịa đa tỳ ca lan đế
A Di rị đa tỳ ca lan đa
Dà di nị, dà dà na
Chỉ đa ca lệ ta bà ha
Khi xuống non tụng Thập chú đến bài chú vãng sanh tụng như sau:
Nam mô A Di Đa bà đạ
Đa tha dà đa dạ
Đa điệt dạ tha
A Di rị đô bà tỳ
A Di rị đa tất đam bà tỳ
A Di rịa đa tỳ ca lan đế
A Di rị đa tỳ ca lan đa
Dà di nị, dà dà na
Chỉ đa ca lệ ta bà ha
Lúc xuống non, đi học ở Saigon ở tại Việt Nam Quốc Tự,
chùa Trấn Quốc, chùa Thới Hòa, chùa Linh Sơn đi khóa lễ theo nhà thiền thì sau
khi tụng kinh Bổ khuyết Bát nhã thì tụng thần chú vãng sanh như sau:
Vãng sanh Tịnh độ thần chú
Nam mô A Di Đa bà đạ
Đa tha dà đa dạ
Đa điệt dạ tha
A Di rị đô bà tỳ
A Di rị đa tất đam bà tỳ
A Di rịa đa tỳ ca lan đế
A Di rị đa tỳ ca lan đa
Dà di nị, dà dà na
Chỉ đa ca lệ ta bà ha…
Tiếp:
Nam mô A di đa bà dạ…
Năm 1968 khi về Quan Âm Tu Viện, dù có nhập thất hay
không, thì ngày nào Sư cũng tụng 100 chuổi tràng hạt “thần chú vãng sanh”, tụng
công cứ cho đến ngày hòa bình.
Khuyến tấn:
Ngày nay lớn tuổi làm Hòa thượng, vẫn tụng “thần chú vãng
sanh” nhưng thường xuyên khuyến giáo chư Tăng Ni, Phật tử niệm công cứ chú vãng
sanh để hồi hướng cho cửu huyền thất tổ ông bà cha mẹ nhiều đời đã qua siêu
sanh lạc quốc, cầu cho âm siêu dương thạnh. Nhất là khuyến tấn những gia đình
trước có sử dụng bùa phép, Lục Xiêm, Lục Miên, Lục Lèo, bình sanh lúc chưa tu
Phật hay sên bùa ngãi ám hại người khác, cho phép người làm ăn, người làm nghề
lổ bang xây nhà cửa làm việc trấn ếm; hoặc sinh tiền hay làm việc trấn ếm các
việc khác…nay khi phát nguyện tu Phật thì tụng “thần chú vãng sanh” thật nhiều
để hồi hướng cho âm binh chướng khí nhà cửa sáng sủa trở lại, hoặc tụng thần
chú vãng sanh cầu cho nghiệp lực tiêu pha, nhẹ nhàng tâm thảm, làm cho thanh
tịnh pháp giới, chuyển hóa âm khí lạnh lùng đơn độc trở nên ấm áp nhà cửa ruộng
vườn, âm dương phân tiết điều hòa, tam nghiệp ba đời được thoát hóa luân hồi.
Thần chú vãng sanh xuất phát từ trào lưu hành pháp Mật
tông bên Thiên trước; đến cuối đời Lưu Tống niên hiệu Nguyên Gia, ngài Pháp sư
Cầu Na Bạt Đà La từ nước Thiên trước hành đạo đến Đông độ và dịch Thần chú ra
tiếng Trung hoa.
Thần chú Vãng sanh Tịnh độ là một bài chú được trích trong
kinh Bổn Mạt Nhất Thiết Nghiệp Chướng Căn Bổn Đắc Sanh Tịnh Độ Đà Ra Ni, nơi
hàm chữ CHƠN trong Mật Tạng.
Theo kinh Niệm Phật Ba La Mật, bản dịch Hòa Thượng Thích
Thiền Tâm, phẩm thứ 7, có bài Khuyến phát niệm Phật và đọc tụng chơn ngôn thần
chú:”Ngài Phổ Hiền Đại Bồ Tát vì thương tưởng chúng sanh thời mạt pháp, khi ấy
kiếp giảm, thọ mạng ngắn ngủi, phước đức kém thiếu, lọan trược tăng nhiều, kẻ
chân thật tu hành ít. nên ngài đã ban thêm cho người niệm Phật bài thần chú
vãng sanh, để thủ hộ thân tâm người niệm Phật, nhổ tận gốc rễ nghiệp chướng trừ
sạch phiền não, được mau chóng về cực lạc…”
Người Phật tử hay các liên hữu tu Tịnh độ, người phàm phu
muốn tiêu trừ nghiệp chướng thì trì thần chú vãng sanh; chú vãng sanh nói cho
đủ là Bạt Nhất Thiết Nghiệp Chướng Căn Bổn Đắc Sanh Tịnh Độ Đà Ra Ni, bài chú
tuy nằm trong sách Mật tạng. Tuy nhiên thần chú có duyên thật nhiều với người
tu Tịnh độ, với các Tự Viện Triều tiên, Nhật bản, Trung hoa, Việt nam xưa nay,
với các thời công phu tu tập trong chốn thiền lâm trên thế giới, nên các bậc
đại đạo sư có thích nghĩa để lưu lại như sau: Bạt Nhất Thiết Nghiệp Chướng Căn
Bổn Đắc Sanh Tịnh Độ Đà Ra Ni, nghĩa là: nhổ hết thảy các nghiệp chướng từ xưa
đã thành gốc rễ; Căn là rễ, Bổn là gốc. Có xua tan tận gốc, tận rễ các nghiệp
chướng trong ba đời rthì mới sanh về cõi Cực lạc Tịnh độ. Đà Ra Ni (đà la ni)
là thần chú, dịch là tổng trì, gọi tắt là “Thần chú Vãng sanh”.
Ý nghĩa chú vãng sanh
Nói cho đủ là:” Bạt Nhất Thiết Nghiệp Chướng Căn Bổn Đắc
Sanh Tịnh Độ Đà Ra Ni (14 chữ). Thần chú vãng sanh có năng lực:” nhổ hết thảy
nghiệp chướng tận gốc rễ để được vãng sanh cõi Tịnh độ”. Chúng ta cần nên biết
thật chắc, là Thần chú vãng sanh có 59 chữ (các bạn khi nào đếm thử thì thấy
đúng 59 chữ).
Quý Phật tử tụng chú vãng sanh, nhưng chưa bao giờ chú ý
đến ý nghĩa bài tựa của chú vãng sanh, nay Sư sẽ giúp các vị hiểu rõ về bài
thần chú mà Phật tử từng đọc hằng đêm. Đọc tụng mà hiểu thì mau siêu thóat, đọc
tụng mà không hiểu hoặc hiểu mù mờ thì thật là uổng công vô ích cho đời tu
niệm.
Chúng ta có thể hiểu rõ chữ Vãng là đi, đi về, đã
qua, cũng có thể gọi là chết.
Chữ Sanh là đến, sanh ra, sanh
Vãng sanh là chết cõi trần nầy để sanh qua một thế giới khác. Hiểu
một cách chính xác, vãng sanh là từ Phật học dùng cho nhà tu Phật pháp phái
Tịnh độ dùng để nói đến việc thóat hóa luân hồi, niệm Phật tụng kinh hiệu quả
được vãng sanh Tây phương Phật, Bỏ thế giới ác trược nầy mà qua cõi thế giới
thanh tịnh yên vui của Đức Phật A Di Đà, gọi là vãng. Khi qua đó rồi thì sanh
vào hoa sen, gọi là sanh.
Chẳng những chúng sanh ở cõi ta bà của Phật Thích ca vãng
sanh cõi Cực lạc của Phật A Di Đà, mà ở vô số cõi thế giới khác, những chúng sanh
nào quyết vãng sanh về đó, thì lâm chung được vãng sanh ngay.
Trong Quyển Quán Vô Lượng thọ kinh, bản dịch của Sư cụ
Hồng Tại Đoàn Trung Còn, thì những nhà tu hành khi được vãng sanh thi phân
nhau, tùy công đức mình, mà ở trong chín phẩm đài sen.
Thần là lực, là thiêng liêng huyền diệu, nhiệm mầu
Chú là câu chữ, là niệm lực đặc biệt thuộc mật ngữ, có tác dụng huyền diệu
về vô hình.
Vãng sanh thần chú là câu chú niệm bằng tiếng Phạn đặc biệt của Phật giáo để
cầu nguyện với Đức Phật A Di Đà cứu độ hương linh người chết được sanh về cõi
Cực lạc thế giới.
Theo sách Phật học từ điển của Cụ Hồng Tại Đòan Trung Còn
giải nghĩa bài Vãng Sanh Thần Chú bằng tiếng Phạn, gồm 59 chữ như sau:
Nam mô A Di Đa bà dạ: tiếng Phạn là
Namah Amitabhavyuha, nghĩa là: Con xin quy kính về với Đức Phật A Di Đà.
Đa tha dà đa dạ: tiếng Phạn là Tathagata, nghĩa là: Như
Lai (Như lai là một trong 10 hiệu của Phật)
Đa điệt dạ tha: dịch là tức thuyết chú viết, nghĩa là: liền đọc bài chú dưới
đây:
A Di rị đô bà tì, A di rị đa
Tất đam bà tì, A di rị đa
Tì ca lan đế, A di rị đa
Tì ca lan đa, Dà di nị
Dà dà na, Chỉ đa ca lệ
10 câu trên đều là mật ngữ, đại ý có nghĩa là: nhổ bỏ tận
gốc các nghiệp chướng trong ba đời.
Ta bà ha: tiếng Phạn là Swâha. Thường là các bài thần chú đều có ba chữ
chót là Ta bà ha, có nghĩa là: Thành tựu, kiết tường, viên mãn, tiêu tai tăng
phước, viên tịch, vô trụ, viên mãn bồ đề tâm, xin Phật chứng minh, kính Phật
chứng minh.
Hoặc bài:
Nam mô A Di Đa bà đạ
Đa tha già đa giạ
Đa điệt giạ tha
A Di rị đô bà tỳ
A Di rị đa tất đam bà tỳ
A Di rịa đa tỳ ca lan đế
A Di rị đa tỳ ca lan đa
Già di nị, già già na
Chỉ đa ca lệ ta bà ha
Vãng sanh thần chú còn được gọi là: Chú vãng sanh, Vãng
sanh chơn ngôn, Vãng sanh quyết định chơn ngôn.
Cách thức tụng niệm thần chú vãng sanh:
Tụng trì Chú vãng sanh có gì là khó, chỉ có đều hành giả
có quyết tâm hay không? Tâm kiên quyết với chú lực, hay chỉ tụng cầm chứng gọi
là có tụng, tụng công cứ thì hành giả cứ nghĩa là tụng nhiều, nhưng thật ra có
khi bị vướng vào bệnh hình thức!. Nhưng nếu như vậy thì hành giả nặng nề lắm
khó mà siêu thóat luân hồi. Đến chừng đó mình lo mình không xong làm gì lo cho
thiện hạ đầu trên xóm dưới, thượng cầm hay hạ thú, cửu huyền thất tổ bá gia bá
tánh!
Theo sách bất tư nghì thần lực:
Khi trì Chú Vãng Sanh nầy, thì người tu phải ăn chay, giữ
giới, nhẫn đến ăn chay trường, không sát sanh hại vật mà còn phải làm việc
phóng sanh; thường xuyên tắm rữa và súc miệng cho sạch sẽ trước khi đăng lâm
chính điện, hoặc đến với đạo tràng tại cư gia dâng hương, dâng lễ, gieo năm vóc
chắp tay thành tâm chậm rãi lễ lạy đối trước tượng Phật mà phát nguyện trì chú.
Riêng Sư thì những năm trước ngày hòa bình, sau những giờ
giấc làm việc Phật sự ban ngày, như: dạy học, làm việc văn phòng Giáo hội, đi
công tác Phật sự…khi về đêm vào lúc 21 giờ (thời gian trống) thì đến tại bàn
Phật, lễ Phật, phát nguyện trì chú, dùng chuổi tràng công cứ niệm chú vãng
sanh, mỗi lần niệm ít nhất 10 chuổi tràng hạt, tức là 1.080 nhiều nhất là 100
chuổi, tức là 10.800 biến, hoặc khi phát nguyện nhập thất thì tụng mổi ngày 4
thời, mỗi thời 1000 chuổi, tức là 108.000 biến thần chú vãng sanh. Việc tu
hành, các liên hữu có thực tập thì mới biết được tâm niệm của người tu lúc bấy
giờ. Đã phát nguyện lần tràng tụng chú vãng sanh, thì mỗi đêm phải đến bàn Phật
tụng chú, khi nào không làm thì cảm giác nặng nề đến với thân tâm, như thiếu
thốn như lỡ hẹn một điều gì mà chưa thực hiện, sự mất mát cứ canh cánh bên
lòng; chính vì vậy mà người phát nguyện công cứ tụng thần chú khi đến giờ có
người nhắc nhở, chư thiên cân nhắc nên phải tụng niệm chú thôi! Nhưng khi niệm
xong thân tâm hồn xác thật nhẹ nhàng thanh thản, tam nghiệp vong bặt, tâm không
chút bợn nhơ, thế giới cực lạc ảnh hiện trong tâm lòng các bạn!
Giới thiệu một số thần chú Vãng sanh:
Tụng theo chữ Hán Việt:
Khi đã phát nguyện tu hành thì phải siêng năng tụng đủ
chữ, đủ bài bản thì mới thanh tịnh tam nghiệp, không nên biếng nhác, tụng giảm
chữ hay bỏ bớt bài thần chú theo ý riêng của mình, đọc bài:
Vãng sanh quyết định chơn ngôn
Bạt nhứt thiết nghiệp chướng căn bổn đắc sanh tịnh độ Đà ra ni
Nam mô A Di Đa bà đạ
Đa tha dà đa dạ
Đa điệt dạ tha
A Di rị đô bà tỳ
A Di rị đa tất đam bà tỳ
A Di rịa đa tỳ ca lan đế
A Di rị đa tỳ ca lan đa
Dà di nị, dà dà na
Chỉ đa ca lệ, ta bà ha
Nam mô A Di đà Phật
Hoặc tụng bằng tiếng Phạm âm:
Có nhiều liên hữu, muốn đổi mới âm điệu tụng kinh, hoặc
dùng phương tiện đổi mới pháp tụng, ăn món ăn mới, tụng bài mới, âm điệu mới để
phá vỡ sự lười biếng giãi đãi…thì tụng thần chú bằng tiếng Phạm âm, khi tụng
không phải bị mắc lỗi lầm:
Nam mô A Mi Ta Phạ da
Ta tha ga ta da
Ta đi da tha
A mờ rật tô đờ pha vê
A mờ rật ta sam pha vê
A mờ rật ta vi kờ răm tê
A mờ rật ta vi kờ răm ta
Ga mi ni, Ga ga na
Kít ti ka tê, sờ va ha
Om A Mi Ta ba da, Hơ ri, Soa ha, Bơ rum.
Thần chú Vãng sanh âm điệu bằng tiếng Pali:
Namo amitãbhãya
Tathãgatãya
Tadyyathã
Amrtodbhave
Amrta siddhambhave
Amrta vikrãnte
Amrta vikrãnta
Gamĩne gagana
Kĩrta- kare Svãhã
Thường thì các liên hữu Tịnh độ chỉ tụng niệm những bài
kinh nào làm cho thân tâm thanh tịnh, các vị cũng không thích mấy việc cầu kỳ,
miễn làm sao cho câu nối câu, pháp nối pháp, tụng đúng tụng đủ, không cho sai
sót hoặc bỏ sót chữ kinh…đấy là phong độ của những người tu Phật có quyết tâm
phá bỏ nghiệp lực, có quyết tâm cầu siêu độ cho các âm hồn, cho mọi chúng sanh
đã đi qua, cho mọi sự việc nặng nề lui dần về quá khứ, không còn có những tiếng
nói vô hình than khóc khổ đau, tâm linh oằn oại trong đêm tối một đời, từ đời
nầy sanh đời khác, không nơi nương tựa, tất cả được thóat hóa luân hồi.
Hiệu quả
Thần chú vãng sanh thật đơn giản, nhưng chú lực có thể
giúp cho những người con Phật: có phương tiện chung tu, hoặc bất cứ ở nơi nào
cũng có thể tụng niệm, ở nơi buôn bán, tu cá nhân tại gia, hoặc làm việc trong
công sở.
Trong quá trình tu hành, các liên hữu không đợi phải đến
quý, mùa tu hành như phát nguyện tụng kinh Pháp hoa, hay các kinh lớn; mà có
thể phát nguyện tụng công cứ thần chú vào bất cứ thời gian nào rỗi rảnh, nhưng
khi phát nguyện rồi thì không bỏ cuộc, không làm xê dịch thời gian mà mình đã
phát nguyện; trường hợp lỡ quên, bỏ cuộc ngày hôm nay thì sau đó phải sám hối
trước Tam bảo, hoặc tự lòng cảnh tĩnh chính mình rồi tiếp tục thực tập thiền
tụng cho đủ số thần chú.
Tam nghiệp thanh tịnh, phiền não tiêu pha, hạnh lành sanh
khởi, hiện tướng đạo hạnh khả phong; pháp giới, đạo tràng nhà cửa trang nghiêm
thanh tịnh, những sự việc ồn ào trong nhà không còn, không còn thấy những âm
hồn âm binh lai vãng trong nhà, không còn thấy linh hồn ông bà, những người đã
qua than vãn thở than khóc lóc, than đói thiếu thốn đòi hỏi cúng kiến, giúp
thân tâm an lạc, tĩnh táo trong mọi việc làm ăn dẫn đến thành đạt.
Vấn: Xin Sư chỉ giáo thêm về hiệu quả lực tụng niệm thần
chú vãng sanh?
Đáp: Từ xưa đến nay, trong chốn tòng lâm tu Tịnh độ bên
Trung hoa hay Việt nam các vị Đại sư, trong giới Cư sĩ trì tụng thần chú Vãng
sanh không như tụng kinh Pháp Hoa, kinh Hoa Nghiêm, hay kinh Niết Bàn… nhất là
không tụng giống âm điệu tụng sám. Mà phải đọc tụng thuần thục, nhuần nhuyễn
như âm vang, tụng nhanh từng chữ như gió thổi cờ bay phần phật, âm điệu như làn
nước phun nhẹ tắm mát tinh thần, như mặt trời sưởi ấm giữa giá đông, như siêu
độ các âm hồn siêu thóat, tĩnh lặng như hóa giải các nghiệp chướng trần lao,
như cãm nhận sự linh nghiệm của thần chú. Có khi tụng vượt ra khỏi việc tính
đếm công cứ, tụng hòai tụng mãi không biết bao nhiêu lần, thường là những người
tu tụng thần chú thuần thục thì không còn tính theo công cứ đếm bao nhiêu biến
nữa, mà tính bằng giờ phút. Hành giả vừa tụng vừa cầu cho pháp giới thanh tịnh,
tâm thanh tịnh thì pháp giới thanh tịnh, pháp giới thanh tịnh tức là cõi Tịnh
độ của Phật A Di Đà xuât hiện.
Kinh Viên Giác, Phật dạy:”tùy kỳ tâm tịnh, tức Phật độ
tịnh”, tâm hành giả thanh tịnh, thì pháp giới xung quanh thanh tịnh. Thế nên
người tu dù tu lâu hay mới tu, mình cứ thực tập thiền tụng, thì pháp giới tu,
không mời gọi họ vẫn tìm đến học Phật pháp để tu; mời gọi họ tu sẽ đi ngược lại
lời giáo hóa của Phật:”đạo Phật là đạo giác ngộ, tự mình giác ngộ lý chơn mà tu
hành, Đạo Phật không phải là đạo thờ cúng, lạy bái theo hình thức rườm rà, hoặc
giới thiệu rủ rê mọi người đến chùa đi cúng Phật, thờ phượng cho lấy có, có
người hướng dẫn xin phép làm ăn, sử dụng bùa chú theo tà pháp, tác nghiệp lổ
bang nhởn nhơ trước cửa Phật, làm lủng đoạn suy hoại chánh pháp, mượn đạo tạo
đời…”, cũng không nên mượn Đức Phật để làm thần tượng thờ cúng bái lạy, trở
thành tập tục mê tín dị đoan, tin mà không thành tựu theo ước nguyện thì niềm
tin bị lung lay, bỏ đạo. Người tín đồ như thế gọi là không đủ phẩm chất, không
chất lượng.
Người phát nguyện trì tụng thần chú vãng sanh, vì là thần chú ngắn ít chỉ có 59
chữ, nên ngòai việc tụng niệm công cứ ở trong thời điểm tập tu, các liên hữu
tại gia nên tính đến thời gian, hoặc tính theo cây nhang đang đốt trên lư
hương, có thể tụng thần chú tàn cả cây nhang thì không phải bị chăm chú theo
dõi coi “chừng nào xong” đấy là một bệnh trầm kha của người tu.
Có thể khuyên trong giới cư sĩ mổi ngày tụng 1 lần, mỗi lần tụng 30 phút;
trường họp nhập thất bảy ngày thì phát nguyện tụng thần chú mỗi ngày 4 thời
khóa (sáng tối trưa chiều), mỗi thời khóa 1 tiếng đồng hồ; các liên hữu cao
tuổi nhưng có sức khỏe, không bận rộn việc nhà, việc gia đình ổn định có thể
nhập thất ba tuần lễ, nhập thất bảy tuần lễ, thọ trì đúng cách thì nghiệp
chướng sâu nặng bao nhiêu nhất định cũng tiêu trừ. Làm đệ tử Phật phát nguyện
tụng suốt đời thì rất quý báu.
Lực dụng
Người trì chú mà nhất tâm thì tự nhiên có sự linh ứng,
trường họp có những vị không thông suốt chữ nghĩa, có khi tụng sai sót đôi chút
không tổn hại, Phật vẫn chứng minh. Thần chú vãng sanh không làm trở ngại các
pháp môn tu chính của những người con Phật.
Thọ trì thần chú vãng sanh, không nên quan niệm chỉ riêng
cầu cho người qua đời, mà người hiện tiền không trì chú vãng sanh thì không dứt
nghiệp chướng, nghiệp lực tuy không hình bóng nhưng không nhẹ nhàng chút nào,
nhưng nếu phát tâm trì tụng thần chú vãng sanh thì nghiệp chướng tiêu trừ, thân
tâm thư thái, dũng mãnh siêng tu các pháp môn khác, điều ngự các nghiệp chướng
trong nhiều đời nảy sanh, chuyển hóa tâm hung ác thành thánh thiện, giúp người
tu có cơ sở giải thóat những nghiệp lực hiện tiền.
Thần chú vãng sanh là chú lực của hành giả Mật tông, nhưng
vẫn là pháp tu chánh của các liên hữu tu Tịnh độ, khi phát nguyện trì tụng
không cần phải lập đàn, kiết giới, kiết ấn. Một cách khác, có thể tùy nghi đọc
tụng mọi lúc mọi nơi, vừa hộ mình vừa hộ cho các âm hồn người đã khuất, xây
dựng niềm tin Phật pháp cho mọi người, làm nảy sanh sinh khí trong đời sống
thường nhựt.
Nghi thức chính
Trước ngày hòa bình chư Tăng Ni ở Tổ đình Linh Sơn, Tịnh
xá Thắng Liên Hoa, Quan Âm Tu Viện, Long Sơn cổ tự khi phát nguyện tụng niệm
thần chú thì thực hiện nghi thức như sau: - Dâng hương – Phát nguyện – Tán Phật
– Đảnh lễ Tam bảo – Tụng Dương chi, Đại bi, Khai kinh kệ - Tiếp đọc bài thi kệ
phát nguyện tụng chú Vãng sanh của Cửu Tổ Trí Húc Linh Phong. Đây là nghi thức
tụng chú dành cho đại chúng cùng chung tu; nhưng nếu trì niệm cá nhân thì chỉ
tụng bài kệ dưới đây rồi tiếp tụng thần chú vãng sanh:
Cúi lạy A Di Đà
Thần chú dứt gốc nghiệp
Cùng Quan Âm, Thế Chí
Hải chúng, Bồ tát Tăng
Con mê bổn trí quang
Vọng đọa luân hồi khổ
Nhiều kiếp không tạm ngừng
Không được cứu được nương
Nay được thân là người
Vẫn nhằm đời trược lọan
Dù lại dự Tăng luân
Mà chưa nhập Pháp lưu
Mục kích chánh pháp suy
Muốn chống sức chưa đủ
Chỉ vì từ đời trước
Chẳng tu thắng thiện căn
Nay tâm con quyết định
Cầu sanh Cực lạc quốc
Rồi ngồi thuyền bổn nguyện
Vớt hết kẽ trầm luân
Nếu con không vãng sanh
Thời khó toại bổn nguyện
Vì vậy với ta bà
Quyết định phải thoát lìa
Cũng như người bị trôi
Trước cầu mau đến bờ
Sau rồi tìm phương thế
Ra vớt người giữa dòng
Nay con chí thành tâm
Thâm tâm, hồi hướng tâm
Đốt cánh tay ba liều
Kết tịnh đàn một thất
Chuyên trì chú vãng sanh
Chỉ trừ giờ ăn ngủ
Đem công đức tu nầy
Cầu quyết sanh Cực lạc
Nếu con thối bổn nguyện
Quên tưởng về Tây phương
Thì liền đọa địa ngục
Để mau biết ăn năn
Thề chẳng luyến nhơn thiên
Cùng vô vi Niết bàn
Ngưỡng nguyện Phật oai thần
Lực vô úy bất cộng
Tam bảo đức vô biên
Gia bị cho đệ tử…
Chiết phục khiến bất thối
Nhiếp thọ cho tăng trưởng.
(trích Liên tông chư
Tổ trang 174,175,176 sách Đường về Cực lạc
của HT Thích Trí Tịnh biên sọan)
Tụng 108 biến, tụng 10.800 biến, tụng 108.000 biến đều
được.
Sau đó tụng Bát nhã, niệm Phật, Hồi hướng, Tự quy y.
Tuy có hướng dẫn tụng thần chú theo nghi thức trên, nhưng
thường thì các liên hữu, nhất là ở tại Quan Âm Tu Viện chỉ tụng bài “Phát
nguyện tụng chú vãng sanh” của Cửu Tổ rồi niệm thần chú vãng sanh mà thôi.
Sở dĩ có bài phát nguyện trên là do Tổ sư bị bệnh nặng,
khi ngọa bệnh, lìa bỏ xác thân cả tuần lễ, do có lực sẳn nhất tâm cầu vãng sanh
Tịnh độ nên khi hết bệnh, ngài phát nguyện kết đàn trì chú Vãng sanh, nên làm
bài kệ phát nguyện; bài kệ rất thông dụng trong giới tu Tịnh độ.
Hiệu quả hành trì:
Người xưa tu hành, nơi thâm sơn cùng cốc, non núi, trong
chốn thiền lâm hay sắp xếp chương trình tu “trú dạ lục thời”, tức là ngày đêm
hành pháp tụng niệm sáu thời.
Trong cách thức trì chú vãng sanh, có nhiều nơi hướng dẫn
cho cư sĩ ngày đêm tụng sáu thời, ngày ba thời: - 4 giờ – 8 giờ – 12 giờ; đêm
ba thời: – 16 giờ – 20 giờ - 24 giờ, mỗi thời tụng 21 biến thần chú vãng sanh.
Như vậy, diệt được các tội tứ trọng, giết cha, giết mẹ, giết A la hán, làm thân
Phật ra máu, thập ác, tội hủy báng chánh pháp (bài bác kinh đại thừa phương
quảng) và tránh được sự nhiễu hại của chúng ma quỷ, ác thần. Chư Tăng Ni trong
các Tự viện lớn thường lập đàn nhập thất trì chú, niệm công cứ lên đến hằng
trăm ngàn, hằng triệu thần chú.
Trong những năm 1970-1984, tại Quan âm Tu Viện Hòa thượng Tôn sư thường xuyên
nói pháp sách tấn Tăng Ni tu hành; qua đó Thượng tọa Trụ Trì Thích Thiện Chơn,
chư Tăng, chư Ni thường tìm những nơi tĩnh lặng, trong huê viên Tu viện để niệm
công cứ trì chú đại bi, chú vãng sanh. Thường là các vị niệm được một chuổi 108
thần chú thì dùng chưn hương bẻ một đọan làm công cứ, trong một ngày mỗi vị có
rất nhiều chưn hương để vào hộp công cứ; trình Thầy Tổ chứng minh, thời ấy các
vị hành pháp rất có hiệu quả.
Quan Âm Tu Viện là nơi được Hòa Thượng Thích Huệ Thành,
Phó Pháp Chủ Hội đồng Chứng minh GHPGVN, Hòa Thượng Thích Trí Tấn, thành viên
Hội đồng Chứng minh, Trưởng ban Trị Sự Tỉnh hội Phật giáo Sông bé, Hòa Thượng
Thích Huệ Hưng, Trưởng ban Tăng sự Trung ương GHPGVN, Hòa Thượng Thích Thiện
Hào, Phó Chủ tịch thường trực Hội Đồng Trị Sự Trung ương thân hành thăm viếng
Quan Âm Tu Viện tỏ lời khen ngợi một tập thể tinh tiến chung tu.
Chư liên hữu tinh chuyên tu niệm Phật, nhưng có gia hạnh
trì thần chú trọn đời hành pháp nhất tâm, ngày đêm tâm thanh tịnh thân trang
nghiêm đạo hạnh thì thường được thấy Phật A Di Đà, chư thiên, thiện thần lai hộ
trì, các cõi âm binh, thập lọai chúng cô hồn, ác thần không đến quấy nhiễu.
Hiện đời được phước lạc, đến khi lâm chung, được Phật A Di Đà, Quan Âm, Thế Chí
tiếp dẫn vãng sanh Cực lạc.
HT Thích
Giác Quang
15/03/2011