Vào những năm đầu Tây lịch, Phật giáo từ miền Ðông bắc Ấn
Ðộ truyền vào Trung Quốc, từ đó Phật giáo lại truyền vào bán đảo Hàn Quốc và
Nhật Bổn. Ở những quốc gia này, Phật giáo đại thừa được quảng đại quần chúng
tin theo và thọ trì. Như các tông phái Tịnh độ khác, Chân tông Tịnh độ cũng
thuộc đại thừa Phật giáo. Giáo lý căn bản của Chân tông Tịnh độ cùng tương đồng
với các giáo phái đại thừa khác như Thiền tông, Mật tông Tây Tạng là những tông
phái được phổ biến thạnh hành ở Tây phương.
“Chân tông Tịnh độ” có nghĩa là “tinh túy của giáo lý Tịnh
độ”. Ðây vốn không phải là tên của một tông phái, vì nguyên ý của Ngài Shinran
(Thân Loan) không phải muốn sáng lập ra một tông phái mới. Mục đích của Ngài
chỉ là muốn chỉ bày cho chúng ta nội dung quan trọng chủ yếu của nền giáo lý
Tịnh độ do 7 vị cao tăng Ấn Ðộ, Trung Quốc và Nhật Bổn truyền bá và phát triển.
Bảy vị Cao Tăng là 7 vị Tổ của Tịnh độ tông Nhật Bổn: Tổ thứ nhất là Bồ tát
Long Thọ (-250), Tổ thứ hai là Bồ tát Thế Thân (-400), Tổ thứ ba là Ðại sư Ðàm
Loan (476-542), Tổ thứ tư là Ðại sư Ðạo Xước (562-645), Tổ thứ năm là Ðại sư
Thiện Ðạo (613-681), Tổ thứ sáu là Hòa thượng Nguyên Tín (942-1017), Tổ thứ bảy
là Thánh nhân Nguyên Không (Pháp Nhiên) (1133-1212)
Từ những kinh điển Tịnh độ và các luận trước của 7 vị cao tăng, Shinran hình
thành một hệ thống giáo lý có thể giải cứu chúng sanh, đây là khởi duyên của
Chân tông Tịnh độ. Tịnh độ tông sau khi được nhà học giả Thiền học nổi tiếng
D.T. Suzuki gọi Chân tông Tịnh độ là Chân tông (Shin) thì ở Tây phương thường
dùng tên gọi này để nhận thức Chân tông Tịnh độ. Mặc dù Suzuki là một nhà thiền
học nổi tiếng, nhưng ông đã phiên dịch 4 chương đầu tác phẩm căn bản của
Shinran “Giáo hành tín chứng” (Kyogyoshinsho) ra tiếng Anh, và viết bài liên
quan đến Chân tông giới thiệu đến các nhân sĩ Tây phương. Từ đây chúng ta sẽ sử
dụng danh từ tắt “Chân tông” này cho “Chân tông Tịnh độ”.
2
Giáo lý Phật giáo Tịnh độ thường lấy Ðức Phật A Di Ðà làm
trung tâm, Ðức Phật A Di Ðà thường trụ ở cõi Tịnh độ Tây phương Cực lạc (còn
gọi là “An Lạc Quốc”, “An Dưỡng Quốc”). A Di Ðà là âm dịch của Amita, Amita là
tiếng cổ Ấn Ðộ (Phạn văn). A Di Ðà cũng là cách viết tắt của Amitabha (Vô lượng
quang) và Amitayus (Vô lượng thọ). Vì thế nhân sĩ Tây phương rất quen thuộc với
2 danh từ tiếng Phạn Amitabha và Amitayus.
Ðức Phật A Di Ðà rất được tôn sùng tại Nhật Bổn. Người ta
tôn sùng Ngài thậm chí còn hơn cả Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni. Là một vị Phật siêu
việt thời gian không gian, Ðức Phật A Di Ðà cứu độ tất cả những ai có lòng tin
chân thành xưng niệm danh hiệu của Ngài. Ðức Phật A Di Ðà dùng vô lượng hào
quang nhiếp thọ và gia hộ những người có lòng tin chân thành đối với Ngài, và
tiếp dẫn họ sanh về cõi Tịnh độ Cực lạc của Ngài. Hạnh nguyện cứu độ chúng sanh
của Ngài được 2 vị thượng thủ Bồ tát là Quán Thế Âm và Ðại Thế Chí Bồ tát phò
trì. Tượng Ðức Phật A Di Ðà và 2 vị Bồ tát này (Tây phương Tam Thánh) vô cùng
phổ biến tại Nhật Bổn và các nước Á Châu thạnh hành tư tưởng Tịnh độ.
Những kinh điển liên quan đến lịch sử của Ðức Phật A Di
Ðà, công hạnh cứu độ chúng sanh và Tịnh độ gồm có 3 quyển (gọi tắt là Tịnh độ
tam kinh). Nội dung của các bộ kinh này giải thích quá trình, phương pháp vãng
sanh Tịnh độ và ở Tịnh độ tu hành chứng đắc Phật quả.
3
Trước khi giải thích nội dung của Tịnh độ tam kinh.
Đầu tiên chúng ta nên tìm hiểu một vài khái niệm và giáo
lý căn bản của Phật giáo, đó là nhân quả và nghiệp lực. Thuyết nhân quả thông
thường đều được Bà la môn giáo ở Ấn Ðộ chấp nhận, nhưng chỉ có kiến giải của
Ðức Phật mới là viên mãn. Theo lý nhân quả, tất cả sanh mệnh từ quá khứ vô thủy
đến nay đều do nhân quả và nghiệp lực sai sử, sự hiện hữu của sanh mệnh cũng sẽ
từ hiện tại tương tục cho đến vị lai. Do đó sanh mệnh không vì chết mà mất hẳn
hoặc đình chỉ, mà sẽ chuyển sang hình thức khác trong vòng luân hồi tương tục.
Sự xấu tốt của kiếp sống vị lai đều do nghiệp thiện ác ở quá khứ và hiện tại
quyết định. Nói cách khác, cuộc sống hiện tại của chúng ta là kết quả của
nghiệp quá khứ, những gì mà hiện nay chúng ta tạo tác sẽ ảnh hưởng đến tương
lai của chúng ta. Do đây mà thấy, Phật giáo không chấp nhận chủ trương có đấng
chủ tể và vạn năng sáng thế. Nhân quả của Phật giáo vì thế cũng không phải túc
mệnh luận (Túc mệnh luận như người ta thường nói “tất cả do trời định”, “thiên
mệnh”...). Tất cả những việc làm của chúng ta bao gồm ngôn ngữ và tư tưởng sẽ
là “chủ nhân ông” tạo nên tình huống hiện tại và vị lai của chúng ta.
Hai là luân hồi, tức sự kéo dài của sanh mệnh, là sự khổ
đau. Tuy chúng ta có thể chuyển sanh lên thiên giới (thiên đường và Tịnh độ là
2 khái niệm hoàn toàn khác nhau, không nên lẫn lộn 2 từ này), nhưng cảnh giới
này không phải là cảnh giới vĩnh hằng trường cửu. Một khi công đức thiện nghiệp
hết, chúng ta sẽ đọa vào trong các đường ác mà nhận lấy khổ đau. Phật giáo
chính là dạy chúng ta làm như thế nào để giải thoát luân hồi sanh tử. Cảnh giới
giải thoát này chính là thành Phật đạo, cũng tức là Niết bàn mà chúng ta thường
nhắc đến.
Ba, Phật giáo không chỉ dạy người làm việc thiện lành, mà
còn dạy chúng ta ý thức được sự tác tâm mới vô cùng quan trọng. Bất luận chúng
ta nỗ lực như thế nào đi nữa để làm việc thiện lành, nhưng nếu vì chấp trước
danh lợi, vì mong muốn được người ta khen thưởng mà làm viện thiện, thì lợi ích
đạt được vô cùng ít ỏi, không thể tích lũy công đức để giúp cho chúng ta chứng
thành Phật quả. Việc làm thiện chân chánh vì thế phải vượt ra ngoài sự chấp
trước tự ngã danh lợi, nhưng muốn hoàn toàn đạt được cảnh giới này, cần phải
tĩnh tọa tham thiền tinh tấn mới được.
Bốn, duyên khởi và lý “không” là khái niệm quan trọng của
Phật giáo đại thừa. Nói đơn giản, tất cả vạn vật có sanh mệnh (chúng sanh) đều
có mối liên hệ vô cùng mật thiết, không thể đơn độc tồn tại (nương nhân duyên
sở sanh). Do đó một cái “ngã” dù không bị thời gian không gian, điều kiện và
những chúng sanh khác ảnh hưởng đến thì không thể tồn tại được. Vì thế hiểu rõ
quan điểm ở trên, Bồ tát (là người tinh tấn cầu Phật đạo, phát tâm từ cứu độ
chúng sanh) làm tất cả việc lành mà không chấp trước vào một vật nào cả.
Cuối cùng là cần phải nhận thức công đức có được do các
thiện nghiệp phát xuất từ tâm đại từ bi có thể hiển hiện thành chư Phật và cõi
Phật Tịnh độ của các Ngài. Tất cả công đức này chư Phật đều ban phát cho chúng
sanh. Phàm là những người được công đức này đều có thể mau chóng đắc thành Phật
đạo.
4
Tất cả chúng sanh đều có thể thành Phật. Ðại thừa Phật
giáo tin tưởng chúng sanh đều có Phật tánh. Ai tin tưởng Phật tánh của chính
mình, và làm cho Phật tánh nảy nở phát triển, đó là một vị Bồ tát. Sự bắt đầu
của Bồ tát đạo là vị hành giả lập lời thệ nguyện, dõng mãnh mong cầu trí huệ vô
thượng (Bồ đề) và làm cho tất cả chúng sanh trong cảnh khổ đau đều được giải
thoát. Phật giáo đại thừa tin rằng trong vũ trụ này có vô số Bồ tát đang hành
hoặc đã chứng đắc Bồ tát đạo.
Căn cứ “Kinh Phật thuyết vô lượng thọ” (gọi tắt là Ðại
Kinh), một bộ kinh đồ sộ và vô cùng quan trọng trong Tịnh độ tam kinh, Ðức Phật
A Di Ðà vốn là một vị quốc vương. Sau khi gặp Ðức Phật, vua có ấn tượng vô cùng
sâu sắc và xuất gia hành Bồ tát đạo. Lúc đó pháp danh của Ngài là “Pháp Tạng”,
cũng có nghĩa là “Bảo tạng của Phật pháp”. Ngài dõng mãnh tìm cầu Phật đạo và
lập lời thệ nguyện cứu độ tất cả chúng sanh. Do Bảo Tạng yêu cầu, Ðức Phật Thế
Tự Tại Vương hiển thị và giải thích 210 ức cảnh giới Tịnh độ. Sau khi quan sát
các cõi Phật, bèn thiền định tư duy các đặc trưng kiến lập các cõi Tịnh độ này
trong thời gian 5 kiếp (kiếp là đơn vị hình dung thời gian dài không thể đo
lường được). Sau 5 kiếp, Ngài đã tìm ra cõi Tịnh độ mà mình muốn thành lập và
con đường giải thoát khổ đau cho chúng sanh, vì thế Ngài bèn phát 48 lời
nguyện.
“Ðại kinh” nói rằng Ngài Bảo Tạng đã dùng vô số sanh mạng
thực hành Bồ tát đạo trong vô lượng kiếp. Chúng ta nên biết chỉ phát nguyện
suông, không có nghĩa là nguyện vọng sẽ biến thành hiện thực. Ðể cho nguyện
vọng thành tựu, người phát nguyện cần phải làm các việc thiện lành và tu chứng
đắc trí huệ vô thượng. Khi trí huệ đạt đến đỉnh cao, công đức và lòng từ phát
triển đến mức hoàn thiện hoàn mỹ, Ngài Bảo Tạng thành Phật, hiệu là A Di Ðà.
Công đức vô thượng vô biên của Ngài là y theo lời nguyện trước đã phát thệ mà
hiển thị thành thân Phật quang minh vô lượng và cõi Tịnh độ trang nghiêm. Trong
48 lời nguyện, lời nguyện 18 đối với Phật giáo đồ Tịnh độ vô cùng quan trọng,
vì có thể khiến cho người có lòng tin chân thành xưng niệm danh hiệu Ðức Phật A
Di Ðà được giải thoát. Bổn nguyện này là chiếc cầu kiến lập giữa chúng sanh và
Ðức Phật A Di Ðà. Người có lòng tin xưng niệm danh hiệu Ðức Phật mà lãnh thọ
công đức của Ðức Phật, có được công đức này, người này có thể vãng sanh Tịnh
độ.
Chư Phật cùng với hạnh nguyện cảm hóa chúng sanh, không
phải quan niệm và tư duy của phàm phu chúng ta có thể đo lường được. Bộ kinh
thứ 2 trong Tịnh độ tam kinh là “Kinh Phật thuyết Quán vô lượng thọ” (gọi tắt
là Quán Kinh). Bộ kinh này giới thiệu phương pháp dùng pháp nhãn của tự thân
quán tưởng Ðức Phật A Di Ðà và cảnh giới Tịnh độ. Nói đơn giản, tất cả có 13
phép quán tưởng. Ðầu tiên, hành giả hướng về Tây, tập trung vào ánh mặt trời
sắp lặn và ghi nhớ hình tượng này vào trong ý thức, bất luận mở mắt hay nhắm
mắt không để cho hình tượng này tiêu mất. Sau khi cảnh giới này thành tựu, hành
giả quán tưởng đến nước, đầu tiên quán tưởng khắp cõi Tây phương tràn ngập
nước. Nước này đông lại và biến thành lưu ly. Do vì cảnh Tịnh độ do lưu ly tạo
thành nên sau khi quán thành cảnh giới lưu ly, thì có thể tiếp theo quán tưởng
các đặc trưng khác của Tịnh độ cùng với thân Phật A Di Ðà. “Quán Kinh” nói,
phàm những người thành công quán tưởng A Di Ðà và cõi Tịnh độ Cực lạc, ác
nghiệp sẽ được tiêu trừ và sau khi mạng chung nhất định sẽ được vãng sanh vào
cõi Cực lạc.
5
Trong lịch sử Phật giáo Tịnh độ ở Ấn Ðộ, Trung Quốc và
Nhật Bổn, niệm Phật là công hạnh quan trọng cầu vãng sanh Tịnh độ, chính là
miệng niệm “Nam mô A Di Ðà Phật”. Câu này có nghĩa là “quy mạng A Di Ðà Phật”
hoặc “kính lễ A Di Ðà Phật”. Quán kinh giới thiệu 13 phép quán tưởng xong bèn
chia sự tu trì, thiện hạnh, công đức và ác nghiệp đã tạo của người phát nguyện
cầu sanh Tịnh độ làm 9 phẩm. Ðối với những người hạ phẩm tạo các ác nghiệp, Ðức
Phật Thích Ca dạy họ miệng niệm danh hiệu Phật có thể tiêu trừ ác nghiệp của tự
thân. Theo lý nhân quả, những người này nhất định sẽ đọa vào địa ngục thọ khổ,
nhưng nương nhờ công đức niệm Phật, các tội của họ được tiêu trừ và khiến cho
họ được vãng sanh Tịnh độ.
Kinh ngắn nhất trong Tịnh độ tam kinh là “Phật thuyết A Di
Ðà kinh” (gọi tắt là “Tiểu kinh “ hoặc “A Di Ðà kinh”), cũng là bộ kinh chuyên
dạy chúng sanh niệm Phật. Tiểu kinh giải thích chỉ cần từ một đến 7 ngày nhất
tâm xưng niệm danh hiệu Phật, thì chúng sanh có thể vãng sanh Tịnh độ. Nhưng
điều quan trọng vẫn là lời nguyện thứ 18 của Ðức Phật, cũng chính là công hạnh
do lòng tin niệm Phật khiến cho chúng sanh được vãng sanh Tịnh độ, ly khổ đắc
lạc.
So sánh với pháp môn quán tưởng, pháp môn niệm Phật là phương pháp dễ hành trì
nhất, không bị bất cứ người nào, hoặc thời gian, địa điểm hạn chế. Phương pháp
niệm Phật tuy dễ hành, nhưng không có nghĩa là công đức và công hiệu niệm Phật
sẽ nhỏ đi. Tất cả Tổ sư Tịnh độ xưa kia, từ Bồ tát Long Thọ ở Ấn Ðộ là người
đầu tiên khởi xướng pháp môn niệm Phật, cho đến Ðại sư Thiện Ðạo ở Trung Quốc
và Thượng nhân Pháp Nhiên Nhật Bổn đều dị khẩu đồng thanh nhấn mạnh phương pháp
miệng niệm Phật này. Ngài Thiện Ðạo (613-681) đời Ðường - Trung Quốc là một
trong những người tiên phong chỉnh lý và phát dương giáo lý Tịnh độ. Sau khi
thành tựu pháp môn quán tưởng Ngài bèn trước tác bộ luận “Quán kinh tứ thiếp
sớ” giải thích “Quán kinh”, cùng với các trước tác giải thích phương pháp tu trì
và nguồn gốc của pháp môn quán tưởng. Tuy như thế, hệ thống tu trì của Ngài vẫn
lấy phương pháp niệm Phật làm công hạnh tu trì chủ yếu. Các công hạnh khác, bao
gồm phép quán tưởng Phật A Di Ðà, chỉ khởi tác dụng phụ giúp thêm. Sư phụ của
Ngài Thiện Ðạo là Ngài Ðạo Xước (562-645) mỗi ngày niệm danh hiệu Phật 70 ngàn
biến, Ngài Thiện Ðạo cũng tinh cần niệm danh hiệu Phật. Pháp môn niệm Phật của
Ngài truyền bá khắp mọi nơi và sau đó truyền đến Nhật Bổn. Thượng nhân Honen
(Pháp Nhiên 1133-1212) đã kế thừa pháp môn niệm Phật của Ngài Thiện Ðạo. Thượng
nhân Honen thành lập Tịnh độ tông Nhật Bổn trên nền tảng giáo lý chuyên tâm
xưng niệm danh hiệu Phật có thể vãng sanh Tịnh độ. Ðệ tử của Ngài ngoài những
lúc theo Ngài niệm Phật, còn viết những tác phẩm xiển minh và làm sáng tỏ lời
dạy của Ngài
Trước khi Ngài Honen thành lập Tịnh độ, pháp môn niệm Phật
đã phổ biến lưu hành trong giới dân gian và quý tộc, đây này là công của Ðại sư
Genshin (Nguyên Tín 942-1017) và các bậc Thánh khác của Tịnh độ tông như Thượng
Nhân Koya (Không Dã 903-972). Ngài Genshin nổi tiếng bởi tác phẩm “Vãng sanh
yếu tập” của Ngài. Trong tác phẩm này, Ngài diễn tả chi tiết cảnh giới khổ đau
trong cõi ác và sự an vui ở cõi Tịnh độ Cực lạc, để khích lệ đại chúng nguyện
sanh Tịnh độ. Ðồng thời Ngài còn thành lập Hội niệm Phật vào một ngày trong
tháng cùng nhau niệm Phật tu hành. Ðương thời có một quý tộc tên là Fujiwara
Michinaga (Ðằng Nguyên Ðạo Trưởng 966-1027), khi lâm chung tay ông nắm một sợi
dây ngũ sắc mà đầu kia cột vào tay của Ðức Phật A Di Ðà. Theo “Quán kinh” và
“Vãng sanh yếu tập”, phàm người lâm chung nếu có thể niệm Phật và tưởng nhớ Ðức
Phật A Di Ðà thì sẽ được Ðức Phật và chư Thánh tiếp dẫn lên cõi Tây phương Tịnh
độ. Sợi dây ngũ sắc được cho rằng có công năng được Ðức Phật thân lâm tiếp dẫn.
6
Khi chúng ta nhắc đến danh từ Phật giáo Tịnh độ, chúng ta
không những chỉ nhắc đến Tịnh độ tông ở Nhật Bổn, mà ở Trung Quốc, Ðài Loan,
Hàn Quốc, Việt Nam các nước Á Châu cùng với các khu Á kiều tụ tập ở Âu châu, Mỹ
châu đều tồn tại các loại hình tông phái Tịnh độ. Các đạo trường và tự viện của
các tông phái Tịnh độ này đều do Tăng sĩ hoặc Giảng sư ở địa phương đó trụ trì.
Ở Nhật Bổn, Tịnh độ tông và Chân tông Tịnh độ đã trở thành
tông phái Phật giáo được quần chúng hoan nghênh nhất. Theo con số điều tra của
chính phủ năm 1987, các tự viện của Phật giáo Tịnh độ tổng cộng có 30368 ngôi,
tín đồ của Tịnh độ có 20446912 người. Con số này khoảng 1 phần 4 tổng số Phật
giáo đồ Nhật Bổn. Thiền tông chỉ có 9481011 tín đồ. Chúng ta tuy không có cách
nào biết được con số thực tế tín đồ và tự viện của các tông phái trên, nhưng từ
những con số thống kê này chúng ta có thể biết được tư tưởng Tịnh độ ảnh hưởng
sâu xa đối với Nhật Bổn.
Nếu bạn có cơ hội đến Tokyo
(Ðông Kinh) - Nhật Bổn du lịch, trên con đường từ Tokyo
đến Kyoto (Kinh Ðô) không nên bỏ qua Kamakura (Liêm Thương). Kamakura nổi tiếng là
trung tâm chính trị hơn 140 năm của chính phủ Tướng quân xưa kia. Phong cảnh
nổi tiếng nhất của vùng này là tượng Ðức Phật A Di Ðà ngồi, cao 15 mét, hai tay
kiết ấn Di Ðà, được thành lập vào năm 1250, đôi mắt từ bi của Ngài đã nhìn suốt
sự thay đổi biến thiên của thế gian. Ðối với các du khách từ các miền trên thế
giới, Ngài dường như nói “Hoan nghênh đến Nhật Bổn là cõi Tịnh độ của Ðức Phật
A Di Ðà”.
Khi bạn xuống xe từ trạm Kyoto và đi lên phía bắc một đoạn đường, bạn
sẽ thấy một ngôi chùa Phật trang nghiêm. Ngôi chùa này là Tổ đình của phái Ðại
Cốc, một trong 2 tông phái lớn của Chân tông Tịnh độ, người ta thường gọi ngôi
chùa này là chùa Ðông Bổn Nguyện. Nếu bạn tiếp tục đi về phía tây khoảng 10
phút, bạn sẽ nhìn thấy một ngôi chùa lớn như chùa Ðông Bổn Nguyện, đây là chùa
Tây Bổn Nguyện, theo số thống kê được điều tra năm 1990, các tự viện thuộc chùa
Tây Bổn Nguyện gồm có 10369 ngôi, Tăng chúng giảng sư gồm có 27238 vị. Ngoài ra
các miền trên toàn quốc có 9 Trường đại học và đại học ngắn hạn, bao gồm đại
học Ryukoku, nơi tôi đang dạy học đều trực thuộc chùa Tây Bổn Nguyện. Các
trường cao đẳng và trung đẳng thuộc chùa Tây Bổn Nguyện gồm có 35 trường. Ngoài
ra chùa Tây Bổn Nguyện ở nước Mỹ có 97 ngôi chùa, Nam Mỹ có 59 ngôi và Gia Nã
Ðại có 18 ngôi chùa, ở Âu châu có 3 ngôi và 1 số đạo trường niệm Phật.
7
Tổ sư của Chân tông Tịnh độ là Ngài Shinran, sanh năm 1173
tại Kyoto - Nhật Bổn, vì cha mẹ mất sớm, nên 9 tuổi xuất gia. Vào thời đại của
Ngài xã hội động loạn không an, dân chúng không đường sinh sống. Lúc đó 2 bộ
tộc Minamoto and Taira vì tranh chấp quyền lợi mà gây ra nội chiến, cuối cùng
bộ tộc Taira thắng trận, và năm 1192 tại Kamakura, Minamoto Yoritomo xây dựng
chính phủ tướng quân
Shinran sau đó đến núi Hiei (Tỷ Duệ) Thiên Thai tông tu
học. Ngài ở nơi đây 20 năm chuyên cần tu học giáo lý Thiên Thai, nhưng cuối
cùng phát hiện mình vẫn không có cách nào khai ngộ và tiêu trừ phiền não trong
tâm. Vì thế Ngài bèn xuống núi đến Kyoto
đi tìm con đường giải thoát thích hợp cho mình. Lúc đó Thượng nhân Honen lớn
hơn Shinran 40 tuổi đang tuyên dương pháp môn niệm Phật cho các tầng lớp nam nữ
trong xã hội. Shinran bèn xin làm môn hạ của Ngài và phát hiện pháp môn niệm
Phật có thể khiến cho chúng sanh được giải thoát.
Môn phái cũ của Ngài vì lòng tật đố nên dâng sớ lên triều
đình yêu cầu cấm chỉ giáo pháp niệm Phật của Honen, Honen cùng với đại đệ tử bị
bức hại. Shinran năm 1207 cũng vì đó mà bị đày lên miền bắc Nhật Bổn, và sau đó
kết hôn lập gia đình tại đây. Sau khi được xá tội, Ngài đi đến tỉnh Hitachi ở
phía bắc Nhật Bổn, một mặt tuyên dương pháp môn niệm Phật cho dân chúng tại địa
phương này, một mặt viết bộ luận đồ sộ của Chân tông “Giáo hành tín chứng”. 60
tuổi Shinran trở lại Kyoto, cho đến năm 90 tuổi qua đời, trong thời gian này
tất cả tinh lực của Shinran đều dồn vào trong các trước tác của Chân tông.
Shinran sống cuộc đời như những người bình thường khác.
Ngài có vợ là Eshin Ni (Huệ Tín Ni, là một thiếu nữ thuộc dòng dõi quý tộc tại
Nhật Bổn) và sanh hạ 1 nam 5 nữ (1 thuyết khác 2 nam 5 nữ). Theo giới luật Phật
giáo, Tăng sĩ xuất gia không được kết hôn sanh con. Do đó việc tu học Phật đạo
và lập gia đình được xem như trái ngược nhau. Khi Shinran bị đày, tăng tịch của
Ngài đã bị hủy bỏ mà còn bị ghép vào tội đằng tỉnh thiện tín (Theo pháp luật
đương thời, tăng sĩ không bị pháp luật quản chế, vì thế nếu muốn cáo tội một
tăng sĩ thì đầu tiên phải hủy bỏ tăng tịch của người đó, và ghép vào 1 tội
danh.). Với tình thế như vậy, Ngài ý thức rằng mình không phải là tăng cũng
không phải là tục. Vì thế Ngài kết hôn với 1 cô gái thích hợp là một việc rất
tự nhiên. Với hành động kết hôn này, Shinran muốn chứng tỏ nam nữ bình thường
cũng là đối tượng cứu độ của Ðức Phật A Di Ðà.
8
Sau thời Honen, trong các tông phái Tịnh độ hưng khởi ở
Nhật Bổn, tông phái phát triển lớn mạnh nhất là Chân tông Tịnh độ, về mặt giáo
nghĩa, Chân tông không câu thúc vào hình thức khiến nó được đại chúng tiếp thu.
Shinran vốn không có ý định sáng lập tông phái mới, trong tác phẩm “Giáo hành
tín chứng” cùng với các tác phẩm khác của mình, Ngài thuyết minh rằng mình chỉ
muốn y theo lời dạy của Ðức Phật Thích Ca và 7 vị cao tăng, xiển dương phần
tinh tủy chân chánh quan trọng của các Ngài mà thôi. Kiến giải của Shinran đối
với giáo lý Tịnh độ dường như căn cứ theo phán đoán của Ngài mà hình thành.
Nhưng những kiến thức thâu lượm được từ kinh nghiệm cuộc sống và cảm xúc cá
nhân của Ngài, trên thực tế đã làm sáng tỏ nền giáo lý mà các bậc cao tăng Nhật
Bổn xưa kia đã truyền trao.
Trong việc phát triển bất cứ một nền tôn giáo hoặc triết
học nào, việc canh tân lại giáo lý là quá trình không thể thiếu được. Ðể cho
giáo lý và sự tu trì được bảo đảm tính chất sống, giáo lý và sự tu trì đó cần
phải do sự thể nghiệm của tự thân mà đưa ra quan điểm mới để nghiên cứu và xiển
dương lại. Việc nghiên cứu lại giáo lý như trên mặt đất khai thác một nguồn
năng lượng mới. “Pháp” do Ðức Phật tìm ra cách đây hơn 2500 năm về trước như
mặt đất. Ban đầu Ngài truyền trao cho chúng sanh phương pháp nguyên thủy trong
việc khai thác và chế luyện để lấy được năng lượng. Phạn ngữ “dharma”, tôi
phiên dịch là “pháp”, từ này ở Ấn Ðộ cổ xưa đã sử dụng rất phổ biến. Chân lý mà
Ðức Phật tìm ra cùng với phương pháp tu học để đạt được chân lý cũng sử dụng
chữ “pháp” này, nhưng Ngài sử dụng chữ “pháp” khác với Bà la môn giáo Ấn Ðộ.
Ngài đã sử dụng chữ pháp với hàm nghĩa và quan điểm mới, hàm nghĩa này vài thế
kỷ sau đó, sau khi đại thừa Phật giáo tại Ấn Ðộ hưng khởi mới hoàn toàn được
hiển lộ. Theo quan điểm của đại thừa, Phật pháp do lịch sử, địa lý và xã hội
thay đổi mà dùng trí huệ tham thấu và quan sát để đổi mới theo.
Ở đây tôi muốn nhấn mạnh, quá trình nghiên cứu và đưa ra
kiến giải mới, tĩnh tọa tham thiền là một yếu tố vô cùng quan trọng. Chỉ nương vào
lý luận trống rỗng của phàm phu có thể nói là hư huyễn không thật tế. Từ khi
lịch sử Phật giáo bắt đầu, tư tưởng siêu thế giới quan của Phật giáo… đều đạt
được từ trong thiền định, điều này Phật giáo Tịnh độ tương đồng với Phật giáo
đại thừa. Theo “Quán kinh”, nếu chúng ta có thể thành công y theo phương pháp
trong kinh để tu trì, chúng ta có thể quán tưởng A Di Ðà Phật và cõi Cực lạc
thế giới. Mỗi khi mê mờ phiền não, chúng ta có thể dùng phương pháp tĩnh tọa
tham thiền để đối trị. Nhưng trên thực tế tĩnh tọa tham thiền không phải mỗi
lần đều dễ dàng có hiệu quả. Hôm nay đã cách Phật quá xa, các đạo sư tu thiền
càng ngày càng ít. Dù cho bạn tìm được một vị thầy, muốn lâu dài kiên trì tu
tập theo pháp tu của vị này cũng rấtø khó khăn. Phương thức tĩnh tọa của pháp
môn quán tưởng Tịnh độ dễ dàng tu tập hơn so với phương pháp thiền định tu trì
của thiền tông. Ðó là vì hành giả có đối tượng chú tâm vào (Ðức Phật và Tịnh
độ) cùng với sự gia trì của thần lực Ðức Phật A Di Ðà.
Honen tu trì giáo pháp Thiên Thai tông nhiều năm ở núi
Hiei mà bản thân vẫn không chứng ngộ. Shinran cũng giống như thế, cũng ở núi
này tu tập 20 năm mà cuối cùng phát hiện mình không có cách nào thành tựu. Sau
khi Honen đọc bộ luận của Ngài Thiện Ðạo mà hoát nhiên đại ngộ, vì thế Ngài bỏ đi
các phương pháp tu trì khác, nhất tâm tín nguyện niệm Phật. Ðiều quan trọng của
việc Honen chuyển lòng tin niệm Phật là ở sự thực Ngài phát hiện tự thân không
thể làm cho mình giải thoát. Honen phát hiện ở sau danh hiệu Phật là thần lực
vô lượng của Ðức Phật A Di Ðà. Do phát hiện này, Honen đã đứng ở một góc độ mới
xiển dương giải thích Phật pháp và đặt pháp môn niệm Phật trên các pháp môn
khác.
9
Các nhà học giả phương Tây thường so sánh Shinran với
Martin Luther (Mã Ðinh Lộ Ðức 1483-1546), vì những sự đổi mới Phật giáo của
Shinran có nhiều điểm tương đồng với kháng nghị của Martin Luther đối với Thiên
chúa giáo. Nhưng Shinran không công khai kháng nghị với các vị lãnh đạo Phật
giáo và cũng không có ý định sáng lập tông phái mới. Ðiều mà Shinran quan tâm
cũng giống như Honen và 7 vị cao tăng là nương vào Tịnh độ để được giải thoát.
Ðiều này xem ra dường như có chút tư tưởng riêng tư yếm thế, nhưng tâm hướng về
Tịnh độ và bản thân của Ngài hoàn toàn không có riêng tư và cũng không bi quan
yếm thế. Vì sau khi Shinran lãnh thọ được sức từ bi của Ðức Phật A Di Ðà, Ngài
phát hiện bản thân và tất cả chúng sanh kỳ thực như nước hòa với sữa không thể
phân cách. Vì thế, sau khi Shinran siêu thế gian, tức vãng sanh Tây phương, sẽ
y theo bổn nguyện của mình trở về thế gian này cứu độ chúng sanh.
Shinran đã hiểu rõ sức cứu độ của Ðức Phật cùng với sự tư duy sâu sắc của mình
đã thay đổi tư tưởng Phật giáo và những lý giải thông thường. Trong bộ sách
quan trọng của Chân tông “Thán dị sao”, Shinran có câu danh ngôn như sau:
“Ngay cả người thiện cũng đều được vãng sanh Tịnh độ,
huống chi kẻ ác. Ðối với việc này, người đời thường nói: ngay cả kẻ ác còn được
vãng sanh Tịnh độ, huống chi người thiện. Câu này dường như có lý, nhưng trên
thực tế đã sai ngược với bổn nguyện giáo lý tha lực vãng sanh”. (Chương thứ 3)
Y theo lời dạy của Ðức Phật, nếu chúng ta có thể thông qua
tham thiền tu tập trí huệ và rộng tu các hạnh lành, thì đường tu tập của chúng
ta càng thăng hoa. Nếu chúng ta không có cách nào làm các việc lành, chúng ta
nhất định sẽ đọa vào trong các đường ác nhận chịu khổ đau để tiêu mòn ác nghiệp
đã làm. Tuy Shinran có năng lực làm việc thiện, nhưng khi Ngài dùng huệ nhãn
phát giác ác nghiệp lớn nhất trong nội tâm, và ý thức tất cả sở hành của mình
không thể tách rời ác nghiệp thao túng. Ðây có nghĩa là Shinran ý thức bản thân
mình không có mảy may thiện nghiệp và phước đức, càng không thể nói đến việc
khiến cho bản thân mình giải thoát.
Một câu danh ngôn khác của Shinran trong “Thán Dị sao”:
“Tôi đã không biết tu bất cứ công hạnh gì, và như thế
tương lai chắc chắn sẽ đọa địa ngục”.
Shinran không phải lâm vào cảnh sơn cùng thủy tận, cũng
không phải cảm thấy mình bị sức cứu độ của Ðức Phật gạt bỏ bên ngoài. Sự chứng
ngộ của Ngài đối với sự vô lực tự cứu của bản thân, chính là chứng minh bản
thân mình đã được Ðức Phật A Di Ðà nhiếp thọ và cứu độ. Vì thế thông qua lòng
tin chân thành đối với Ðức Phật, Shinran có thể lãnh thọ công đức, trí huệ và
sức mạnh vô lượng của Ðức Phật, và hoàn toàn đặt căn bản của phàm phu tự ngã
chấp trước vào trong lòng của Ðức Phật A Di Ðà.
Kiến giải đối với Phật giáo của Shinran phát xuất từ kinh
nghiệm tín thọ và lãnh thọ Phật lực (tha lực). Ngài chia Phật giáo thành hai hệ
thống, là tự lực giáo và tha lực giáo. Chân tông thì hoàn toàn là tha lực giáo,
các tông phái Phật giáo khác thuộc về tự lực giáo. Shinran thậm chí không
khuyến khích niệm Phật. Ðối với Thiện Ðạo và Honen, tín đồ Tịnh độ toàn tâm
toàn lực xưng niệm danh hiệu Phật, còn đối với Shinran, việc cần thiết là chỉ
chân thành lãnh thọ sức cứu độ vô điều kiện của Ðức Phật dành cho chúng sanh.
10
Chân tông từ xưa đến nay xuất hiện nhiều nhân vật được gọi
là “người Tuyệt vời”. Những người tuyệt vời này là những người nam nữ bình
thường, phần đông tuy không biết chữ nhiều nhưng sâu sắc hiểu rõ tha lực giáo.
Họ hoàn toàn không phải chỉ là những người niệm Phật đơn
giản kiền thành. Những người này đã phát hiện tha lực và bản thân mình cùng với
Ðức Phật hòa hợp thành một thể, hoàn toàn lãnh thọ lòng từ bi của Ðức Phật đối
với chúng sanh. Tuy những người tuyệt vời này hiểu rõ bản thân không thể do tự
lực giải thoát, nhưng họ lại thường ôm lòng tri ân vô hạn đối với ân đức sâu
dày của Ðức Phật, và cuộc sống hàng ngày của họ tràn ngập pháp hỷ mang tánh tự
phát và tình thương vô ngã đối với thế gian.
Asahara Saichi (Thiển Nguyên Tài Thị 1851 - 1933) khi còn
thiếu niên đã hướng về Phật giáo. Sau 5 hay 6 năm, ông ta đã nghe rất nhiều
buổi thuyết giảng về Phật pháp, nhưng sau khi suy nghĩ sâu sắc về khả năng giải
thoát của bản thân, ông quyết định từ bỏ Phật giáo. 10 năm sau, sự khát vọng
của ông đối với Phật giáo lại lần nữa xuất hiện, lúc đó ông đang làm thợ mộc
trong ngành đóng thuyền. Saichi sau những giờ làm việc rảnh rỗi, không bao giờ
bỏ qua bất cứ cơ hội nghe thuyết pháp. Ðể hoàn toàn hiểu rõ tha lực giáo, ông
đã nỗ lực tìm kiếm và đến năm 50 tuổi, lòng tin đã thức tỉnh trong ông. Ông đã
đổi nghề làm người thợ giày.
Sự hoan hỷ của Saichi đối với Ðức Phật lúc nào cũng từ
trong tâm tuôn chảy ra. Ông đã dùng thi ca để biểu đạt pháp hỷ của mình. Saichi
tuy không biết tiếng Hoa, nhưng ông dùng tiếng Nhật viết những bài thơ trên
những miếng gỗ bỏ và ban đêm viết vào vở. Trong rất nhiều bài thơ của ông, dưới
đây dẫn chứng vài bài để cho chúng ta hiểu rõ cảm xúc của ông đối với lòng tin.
Nam mô A Di Ðà Phật và Nam
mô A Di Ðà Phật,
Là một chứ không phải là hai.
Nam mô A Di Ðà Phật là chính ta,
Và A Di Ðà Phật là cha mẹ tôi.
Ðó chính là nhất thể hóa mà Ðức Phật A Di Ðà thể hiện,
Ðối với sự đãi ngộ này, tôi vô cùng hạnh phúc,
Nam mô A Di Ðà Phật.
A! Saichi, Tịnh độ Cực lạc của bạn ở đâu?
Tịnh độ của tôi chính là ở đây.
Thanh âm của bạn chính là Nam mô A Di Ðà Phật,
Tôi vô cùng cảm kích,
Tôi, Saichi đã được danh hiệu của Ngài cứu độ
Bạn và tôi là một thể với Nam mô A Di Ðà Phật
Danh hiệu Phật trong miệng tôi lúc nào cũng có thể tìm được,
Ðây quả thật là một vị Phật tuyệt vời
Ðây là cha mẹ tôi A Di Ðà kêu gọi tôi
Tôi, Saichi đã được trói buộc vào trong đó.
Lòng tin này thật là lòng tin kỳ diệu
Phật đã nghe được âm thanh của Phật
Ở đây không có chỗ cho Saichi tôi nhúng tay vào
Tôi vô vàn cảm kích ân huệ Ðức Phật đối với tôi
Nam mô A Di Ðà Phật, Nam
mô A Di Ðà Phật.
Ðối với Saichi và những người có lòng tin chân thành, niệm
Phật và lòng tin đã hòa nhập thành một thể. Niệm Phật không phải nỗ lực tu trì,
mà là pháp hỷ tự nhiên tuôn trào từ lòng tin chân thành. Vì thế, Nam mô A Di Ðà
Phật có nghĩa là cảnh giới Ðức Phật A Di Ðà và tín giả hòa nhập thành một thể,
vì “Nam mô” là lòng tin của tín đồ, mà “A Di Ðà Phật” là sức cứu độ tuyệt đối
vô ngại của Ðức Phật.
Ashikaga Genza (Nguyên Tả 1842-1930) là một vị tuyệt vời
khác. Lòng từ bi vô lượng của Ðức Phật cũng là từ trong tâm ông hiển thị tình
thương bao la không một chút riêng tư. Một ngày kia, ông ta nhìn thấy các cây
hồng trong vườn buộc đầy các cành gai. Ông hỏi:
- Ai làm gì đây?
Con ông trả lời:
- Con thấy mấy đứa con nít thường hái trộm hồng nên làm
như thế để ngăn chặn nó.
Genza nói:
- Nếu có người vì đó mà bị thương thì làm sao đây?
Ông bèn dẹp đi các nhánh cây gai, và để một cây thang gần
cây hồng. Con ông bèn hỏi:
- Làm như thế, không phải để cho người ta dễ trộm hồng của
mình sao?
Genza trả lời:
- Ðể cho họ lấy đi những trái hồng mà họ muốn ăn, dù sao
chúng ta cũng còn đủ hồng để ăn mà.
Một lần khác có một chàng thanh niên vào trong vườn của ông lấy một ít đậu cho
ngựa ăn. Genza thấy vậy bèn kêu rằng:
- Chàng thanh niên kia! Ðậu ở đó không ngon, hãy đi vào
trong sẽ tìm được đậu ngon cho ngựa!
Nghe lời này, cậu thanh niên lập tức trèo lên ngựa chạy mất.
Shoma (Trang Tùng 1799-1871) là một người dân nghèo không
biết chữ. Tuy kiếm sống bằng nghề đan dép, bện thừng, làm thuê làm mướn, nhưng
ông có kiến giải sâu sắc đối với lòng từ bi của Ðức Phật A Di Ðà. Có người hỏi
ông:
- Ðặt lòng tin tuyệt đối vào Ðức Phật, có ích lợi gì?
Nghe câu hỏi này Shoma bèn thảnh thơi nằm trước bàn Phật
thờ trong nhà.
Khi ông cùng với người bạn đi đến chùa, ông nằm nghiêng
trong chánh điện. Người bạn trách ông:
- Bạn quá vô lễ, trang nghiêm lên một chút!
Shoma trả lời:
- Ðây là nhà của cha mẹ tôi, không cần phải khách sáo,
chẳng lẽ bạn là chàng rể sao?
Lần khác ông cùng với bạn bè ngồi thuyền đi Kyoto lễ bái chùa Bổn
Nguyện. Trên đường trở về, thuyền gặp phải sóng to gió lớn. Lúc đó tất cả hành
khách đều sợ xanh mặt, chỉ có một mình Shoma vẫn nằm ngủ ngon lành như không có
chuyện gì xảy ra. Lúc bạn kêu dậy, ông hỏi:
- Chúng ta vẫn chưa đến Tịnh độ sao?
Người tuyệt vời như thế, đã cho thấy những tín đồ Chân
tông đạt được lòng tin chân thành tuyệt đối vào tha lực thì cũng không khác gì
những người tu thiền ngộ đạo. Tất cả các việc làm của họ không những không bị
bất cứ thứ gì ràng buộc, mà đồng thời còn sung mãn tình thương đối với chúng
sanh và sự giác ngộ triệt để đối với vạn sự vạn vật. Những người này thậm chí
sẽ siêu việt thiện và ác, thế gian và Tịnh độ. Người tuyệt vời đối với mọi
người chung quanh không cống cao cũng không ngạo mạn, ngược lại sẽ dùng tâm
thông cảm hoan hỷ để giúp đỡ mọi người cùng đi trên con đường Tịnh độ như mình.
11
Từ những ví dụ ở trên, Chân tông bao gồm nhiều tầng lớp
người thế gian và xuất thế gian. Tóm lại, trước bất cứ việc gì, tín đồ Chân
tông nương theo sức bổn nguyện của Ðức Phật mà được giải thoát. Từ “giải thoát”
theo Chân tông có 3 tầng bậc. Thứ nhất, những người phàm phu như chúng ta có
thể cùng với Ðức Phật A Di Ðà là bậc đã siêu vượt thế gian dung hợp thành một thể,
khiến cho tự thân thoát ly lục đạo luân hồi, vì chúng ta lãnh thọ lòng tin từ
nơi Ðức Phật, cho nên chúng ta luôn luôn tưởng niệm đến ân sâu vô lượng của Ðức
Phật đối với chúng ta. Thứ hai, sau khi chúng ta qua đời, nhất định sẽ vĩnh
viễn giải thoát cõi ta bà, lục đạo này, và vãng sanh cõi Tây phương Cực lạc.
Vãng sanh Tịnh độ, trên cơ bản không khác gì Niết bàn thành Phật đạo. Tịnh độ
là đại bảo tàng công đức vô lượng, vì thế người được sanh vào cõi Tịnh độ không
những thọ nhận pháp hỷ vô tận, mà còn có thể dùng thân Bồ tát rộng độ tất cả
chúng sanh, cuối cùng, chúng ta sẽ chứng đắc Phật đạo Vô thượng.
Ba tầng bậc này có thể phân chia theo thời gian từ quá khứ
đến vị lai. Nhưng quan trọng nhất là cần phải hiểu rõ việc thành Phật không
phải vị lai hoặc quá khứ, mà là chứng nghiệm chân lý ngay trong “hiện tại”.
Saichi trong một bài thơ viết rằng:
Ôi! Saichi, ai là Phật?
Ngài không phải là ai khác mà chính là tôi,
Ai là người sáng lập ra Chân tông Tịnh độ?
Ngài không phải là ai khác mà chính là tôi.
Gì là kinh điển và luận trước?
Ðó cũng không phải là ai khác mà chính là tôi.
Ðối với Shinran, lòng tin không những là “món quà miễn
phí” của Ðức Phật A Di Ðà ban cho mọi người, cũng chính là tự thân của Ðức Phật
A Di Ðà. Shinran trong một bài tán viết rằng:
Người hoan hỷ tín tâm vô ngại, là Phật pháp,
Phật pháp cũng là đức Như Lai,
Ðại tín tâm tức là Phật tánh,
Phật tánh tức là Như Lai. (Bài tán 94)
Ðây có nghĩa là lòng tin bao gồm tất cả. Sau khi chúng ta
lãnh thọ lòng tin, việc chúng ta thành Phật đã được khẳng định. Ðây không chỉ
là quan điểm mới của giáo lý Tịnh độ mà Shinran viết trên giấy tờ mà thôi,
thông qua lòng tin, Shinran và Ðức Phật A Di Ðà đã dung hợp thành một thể. Các
giáo đồ Chân tông khác cũng giống như Shinran vậy. Nên nói, lòng tin là tâm hoan
hỷ vui mừng, vì lòng tin chính là hoan hỷ tiếp nhận, lãnh thọ sức cứu độ của
Ðức Phật A Di Ðà. Ðức Phật A Di Ðà dùng hình thức “Nam mô A Di Ðà Phật” để gần gũi
thân cận chúng ta. Một khi chúng ta lãnh thọ 6 chữ danh hiệu này, 6 chữ sẽ biến
thành lòng tin. Nói cách khác, 6 chữ Thánh hiệu là tất cả công đức của Ðức Phật
A Di Ðà, lòng tin cũng chính là Ðức Phật A Di Ðà.
NGÀI THÂN LOAN VÀ CHÂN TÔNG TỊNH ÐỘ
(SHINRAN AND JODOSHINSHU)
Nguyên
tác tiếng Anh của Tiến sĩ Hisao Inagaki (Ðạo Viên Cửu Hùng),
phát biểu tại trường đại học Leiden
- Hà Lan, ngày 7.4.1992
Xuất bản: Học hội văn hóa Phật giáo quốc tế (International Association of
Buddhist culture).
Hoa dịch: Tan Peng Yau (Trần Bỉnh Nghiêu,
Singapore) Việt
dịch: Tuệ Liên
Quan âm
Tu viện, Đồng nai, HT Thích Giác Quang trích giảng